Lời mở đầu
Hệ thống ngân hàng ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội nói riêng là ngân hàng có truyền thống chuyên doanh đối ngoại,được đánh giá là ngân hàng có uy tín nhất trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính ngân hàng khác. Tuy nhiên, đối tượng khách hàng chính hiện nay của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức tới khu vực kinh t
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà Nội (108tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế ngoài quốc doanh, so với khu vực kinh tế nhà nước thì quy mô tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài doanh tại ngân hàng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, trong khi đó khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây với nhu cầu về vốn là rất lớn và cần sự đáp ứng nhu cầu đó từ phía các tổ chức tín dụng đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Một trong những lý do mà các ngân hàng thương mại còn e ngại khi tiếp cận với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là chất lượng tín dụng còn rất thấp so với khu vực kinh tế quốc doanh. Vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội". Làm nội dung nghiên cứu chuyên đề và phát triển thành luận văn tốt nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu của đề này chính là hoạt động tín dụng của ngân hàng còn phạm vi nghiên cứu là chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp so sánh, đối chiếu, tư duy logic…
Ngoài các phần mở đầu, mục lục, bảng biểu.. Kết luận của luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về chất lượng tín dụng và sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam
Chương 2. Thực trạng về hoạt động tín dụng đối vứoi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội.
Chương 3. Những giải pháp cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội.
Lời cảm ơn
Em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, các thầy cô giáo trong khoa ngân hàng - Tài chính trường đại học kinh tế quốc dân và các anh chị cán bộ của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ để em có thể hoàn thành được đề tài luận văn tốt nghiệp này.
Chương 1
Những vấn đề lý luận chung về chất lượng tín dụng
và sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
ở Việt Nam
1.1. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế.
1.1.1. Tổng quan về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Đổi mới và cải tổ là xu thế chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với nhịp độ tăng trưởng từ 2 đến 3% năm, kinh tế thế giới đi vào thời kỳ trì trệ. Để tìm ra lối thoát cho nền kinh tế, mỗi quốc gia có những chiến lược và sách lược riêng, nhưng nhìn chung đều sửu dụng 3 phương pháp vĩ mô chủ yếu, đó là:
1. Đổi mới cơ cấu kinh tế
2. Vận dụng tiến bộ của khoa học công nghệ.
3. Tham gia vào phân công lao động quốc tế.
ở Việt Nam , ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng định đường lối chính cho phát triển kinh tế - đổi mới cơ cấu kinh tế, cụ thể là:" phát triển nền kinh tế hàng nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Đường lối này tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm ở các Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII và IX. Cho đến nay, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam bao gồm các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nước ngoài. Các thành phần kinh tế này được chia thành 2 khu vực lớn: khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước (ngoài quốc doanh, tư nhân). Khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế do nhà nước trực tiếp quản lý từ trung ương tới địa phương. Đây được coi là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) bao gồm các thành phần kinh tế còn lại, hoạt động bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng giao lưu hàng hoá khai thác được tiềm năng sẵn có của các vùng trong cả nước, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
1.1.1.1. Đặc điểm hình thức tổ chức
Khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam bao gồm nông dân, doanh nghiệp hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ (SMES) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn, tổ chức theo các loại hình: doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Năm 2000, cả nước có 9793878 hộ kinh doanh cá thể. Trong đó, hộ kinh doanh phi nông nghiệp chiếm 21,83%, kinh doanh nông nghiệp chiếm 78,17%. Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh, đặc biệt là từ khi thực hiện luật Doanh nghiệp. Tính đến 31/12/2001, trên địa bàn cả nước có 66.780 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Trong đó, doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần chiếm 2,55%, công ty hợp danh chiếm 0,01% (Theo Bộ Kế hoạch và đầu tư).
Như vậy các chủ thể kinh tế thuộc khu vực NQD được tổ chức và hoạt động theo sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp năm 1999, luật hợp tác xã và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật khuyến khích đầu tư trong nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh
Khu vực kinh tế tư nhân - NQD hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân từ một số lĩnh vực độc quyền nhà nước: an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước. Ngoài ra theo nguồn số liệu niên giám thống kê 2001 thì chưa có chủ thể kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào lĩnh vực khoa học công nghệ, một số ít tham gia vào hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Phần lớn các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế NQD hoạt động ở các ngành thuộc khu vực I (nông - lâm - thuỷ sản) và khu vực III (kinh doanh dịch vụ) là những ngành nghề có tốc độ quay vòng vốn tương đối nhanh và để sinh lời. Qua thực tế thốngkê 33720 doanh nghiệp năm 2000, số doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ chiếm tỷ lệ lớn nhất 51,9%, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm 20,8%, xây dựng chiếm 8,35%, giao thông vận tải chiếm 2,5%, các hoạt động phi nông nghiệp khác chiếm 4,1%, lâm ngư nghiệp chiếm 12,4% trong tổng số doanh nghiệp.
Hiện nay khu vực kinh tế tư nhân tạo ra gần một nửa GDP (Gross domestic products) trong các ngành chế tạo, song tỷ trọng này đang ngày càng gia tăng và khu vực tư nhân trong nước đang chiếm tỷ trọng chi phối. Các doanh nghiệp gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMES) chiếm 28% GDP của các ngành chế tạo (nguồn: Ngân hàng Thế giới).
Một đặc điểm nổi bật của khu vực kinh tế NQD là các SMES và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong ngành chế tạo, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, hoạt động theo định hướng xuất khẩu cao. Theo kết quả điều tra 457 doanh nghiệp tư nhân với hơn 100 công nhân làm việc chính thức, hoạt động trong các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động như may mặc, giầy dép, nhựa, chế biến thuỷ hải sản được thực hiện bởi Chương trình phát triển khu vực Mêkông MPDF (Mekong programme development fund) -1999 thì các doanh nghiệp này xuất khẩu khoảng 3/4 sản lượng.
Bảng 1-1: Các doanh nghiệp chế tạo tư nhân có đăng ký và định hướng xuất khẩu
STT
Ngành
Số lượng doanh nghiệp
Xuất khẩu/sản lượng (%)
1
Dệt may
159
80,5
2
Sản phẩm da
34
85,5
3
Sản phẩm cao su và nhựa
22
75,0
4
Thực phẩm và đồ uống (bao gồm cả hải sản)
71
63,2
5
Các sản phẩm gỗ
65
75,1
6
Các sản phẩm phi kim loại khác
39
73,2
7
Kim loại cơ bản
9
Không có
8
Hoá chất
9
20,0
9
Các sản phẩm khác
49
74,4
10
Tổng
457
75,3
Nguồn: Số liệu của MDPF (1999) và ước tính của WB
Còn về các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu khoảng 1/2 tổng sản phẩm của mình. Có thể nói, khu vực tư nhân hoạt động có định hướng xuất khẩu cao hơn khu vực nhà nước.
1.1.1.3. Đặc điểm tài chính
Trong khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nguồn tài chính ban đầu chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình, bạn bè. Trong quá trình hoạt động, nhu cầu vốn được huy động phần lớn từ các nguồn: lợi nhuận gửi lại, vay của người thân, vay của khu vực thị trường tín dụng không chính thức, chỉ một phần nhỏ được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười đã có lần đề cập vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt trong phát triển kinh tế bằng 3 chữ: “Vốn, vốn và vốn". Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam cũng có chung quan điểm, họ cho rằng trở ngại lớn nhất đó là vấn đề: "Tín dụng, tín dụng và tín dụng". Việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng là rất khó khăn đối với khu vực kinh tế NQD, đặc biệt là nguồn tín dụng trung dài hạn. Nguyên nhân chính là do các thể chế chính sách liên quan đến vấn đề vốn như: chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản để vay vốn chưa được hoàn chỉnh. Có thể nói vốn đang là vấn đề khó khăn nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD trong việc phát triển hơn nữa.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD
1.1.2.1. Phát triển khu vực kinh tế NQD giúp khai thác tối đa nguồn lực đang có của đất nước cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và tạo thêm việc làm cho người dân.
Sự phát triển của khu vực kinh tế NQD trong thời gian vừa qua là kết quả thực hiện đưòng lối Đổi mới của Đảng và Nhà nước, qua đó khơi dậy và khai thác tiềm năng to lớn về tiền vốn, sức lao động, tài nguyên và các nguồn lực khác vào phát triển kinh tế đất nước. Các nguồn lực bên trong đóng vai trò chủ yếu nhưng có môt phần nguồn lực được thu hút từ bên ngoài (vốn, thị trường,...). Trong nhưng năm qua, khu vực này đã đóng góp vào tổng số vốn đầu tư toàn xã hội với một tỷ lệ tương đối lớn (năm 1998: 46%, năm 1999: 38,4%, năm 2000: 38,1% - Niên giám thống kê 2001). Vốn sử dụng, vốn đầu tư phát triểnvà vốn đăng ký kinh doanh (đối với các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh) đều tăng.
Đóng góp nổi trội của kinh tế NQD trong thời gian qua là tạo thêm việc làm, góp phần quan trọng thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chế, giải thể. Với đặc thù phần lớn là đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động, khả năng thu hút lao động, tạo việc làm của khu vực này là rất lớn. Tính theo tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư thì kinh tế cá thể thu hút 165 lao động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp tư nhân thu hút 20 lao động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 1,7 lao động/tỷ đồng vốn, trong khi đó DNNN chỉ thu hút khoảng 11,5 lao động/tỷ đồng vốn. Thực tế năm 2000, lao động của khu vực kinh tế NQD chiếm 56,3 % lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước. Trong đó, lao động của hộ kinh doanh cá thể (chủ yếu là hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã) chiếm số lượng lớn, lao động trong doanh nghiệp (đặc biệt là phi nông nghiệp) có số lượng nhỏ nhưng tăng nhanh (năm 2000 tăng 20,12% so với năm 1996, bình quân tăng 4,75%/năm). Tính riêng các ngành phi nông nghiệp, kinh tế tư nhân đã thu hút số lao động gấp 6,6 lần so với khu vực nhà nước (từ năm 1997 đến năm 2000).
Khai thác nguồn lực của đất nước, tạo việc làm cho người lao động và hơn thế nữa, đóng góp của khu vực NQD vào ngân sách nhà nước và GDP là một minh chứng cụ thể cho vai trò của khu vực này với sự phát triển kinh tế. Năm 2000, kinh tế tư nhân nộp ngân sách được 11,003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu Ngân sách, năm 2001 là 11,075 tỷ đồng (tăng 0,65%, chiếm 14,8% tổng thu Ngân sách). Bên cạnh đó, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực này ngày càng cao.
Bảng .1.2: Cơ cấu GDP theo giá hiện hành phân
theo thành phần kinh tế (%)
STT
Năm
1998
1999
2000
II.
Kinh tế nhà nước
40
38,74
38,98
III.
Kinh tế NQD
60
61,26
61,02
11.
Kinh tế tập thể
8,9
8,84
8,53
22.
Kinh tế tư nhân
3,41
3,37
3,3
33.
Kinh tế hộ gia đình
33,83
32,93
32,03
44.
Kinh tế hỗn hợp
3,83
3,89
3,9
55.
Kinh tế có vốn đầu tư NN
10,03
12,24
13,25
Nguồn niên giám thống kê 2001
1.1.2.2. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong nền kinh tế nỗ lực bỏ sức, bỏ vốn, nhạy bén, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu của mình và đóng góp cho xã hội.
Tác động tích cực này không chỉ đối với những người lao động trong khu vực NQD mà còn có tác động tới các chủ thể kinh tế nhà nước. Trước đây, trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp nhà nước độc quyền cung cấp mọi hàng hoá dịch vụ, được nhà nước bao cấp toàn bộ nên hoạt động trì trệ, bảo thủ. Ngày nay, gặp phải sự cạnh tranh to lớn của khu vực kinh tế NQD, căn bệnh ỷ lại của các DNNN đã giảm đi rõ rệt và làm ăn có hiệu quả hơn.
1.1.2.3. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ góp phần nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong xã hội.
Những cơ sở kinh doanh của khu vực kinh tế NQD thực tế đã đào tạo một đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp năng động, nhạy bén, dám nghĩ dám làm, sẵn sàng chịu mọi thử thách của thị trường. Hơn nữa, thu hút nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã giúp người lao động Việt Nam tiếp cận và học tập được phương thức làm và quản lý hiện đại của các quốc gia tiên tiến.
1.1.2.4. Phát triển kinh tế NQD tạo động lực hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống pháp luật.
Sự phát triển ngày càng cao của khu vực kinh tế NQD đã cho thấy sự thiếu đồng bộ, không hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật và những bất cập về quản lý nhà nước về kinh tế, đòi hỏi phải được hoàn chỉnh, chuyển đổi và thích nghi. Và thực tế trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế đã dần được hoàn chỉnh phù hợp với cơ chế thị trường và đảm bảo định hướng XHCN. Cơ chế quản lý từng bước được đổi mới, mà cụ thể là thông qua cải cách hành chính thì cơ chế "Một cửa, một dấu" đã được thực hiện tạo điều kiện cho khu vực kinh tế NQD.
Trên đây là những vai trò cơ bản của khu vực kinh tế NQD đối với nền kinh tế và toàn xã hội. Trong tương lai, với đường lối chính sách tiếp tục được hoàn thiện, khu vực này sẽ còn phát huy hơn nữa vai trò của nó trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
1.1.3. Những trở lực trong hoạt động của khu vực kinh tế NQD hiện nay
Đánh giá một cách khách quan thì kinh tế NQD ở Việt Nam chưa phát huy hết tiềm lực của nó. Nguyên nhân của tình trạng trên là do vẫn tồn tại một số trở lực trong hoạt động của các doanh nghiệp này.
1.1.3.1. Về thái độ của xã hội
Trong một thời gian dài, chúng ta chỉ coi trọng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, chưa chú trọng và thậm chí có những thành kiến với kinh tế tư nhân, dẫn đến đánh giá thấp những người tham gia vào khu vực này. Từ thái độ tiêu cực trong nhận thức dẫn đến thái độ đối xử không đúng với thành phần kinh tế tư nhân. Từ thái độ kỳ thị xã hội dẫn đến thành kiến của bộ máy hành chính. Do đó, nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của mỗi cá nhân đối với việc tham gia vào khu vực kinh tế này và cản trở những ai đã tham gia trong việc phát huy hết mọi khả năng của họ.
1.1.3.2. Về mặt luật pháp
Nhiều vấn đề bất cập trong lĩnh vực này làm ảnh hưởng đến sự phát triển, tính năng động của kinh tế tư nhân. Đó là:
Những quy định thường chung chung, thiếu cụ thể và luôn thay đổi khiến các doanh nghiệp rất khó thực hiện và là chỗ dựa để các cơ quan chức năng gây khó dễ cho các doanh nghiệp.
Những thủ tục hành chính phức tạp và quá nhiều quy định (Vài năm trước đây, một doanh nghiệp muốn thành lập được phải trải qua quá nhiều khâu, nhiều bước). Hơn nữa những quy định này nhiều khi không nhất quán với luật. Điều này gây phiền phức và thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Có đến 05 bộ luật khác nhau áp dụng cho từng loại doanh nghiệp: Luật DNNN áp dụng cho các DNNN, Luật Doanh nghiệp áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình, Luật HTX áp dụng cho loại hình kinh tế tập thể, Luật Đầu tư nước ngoài áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng cho các nhà đầu tư trong nước. Đây cũng là biểu hiện cho một sân chơi chưa bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng trong bộ máy quản lý cũng là cản trở lớn đối với các thành phần kinh tế thuộc kinh tế NQD.
1.1.3.3. Về quản trị doanh nghiệp
Tình trạng tổ chức thiếu rõ ràng khiến không có sự rạch ròi giữa chủ sở hữu và người quản lý, chưa có hệ thống tài khoản kế toán thích hợp là phổ biến ở khu vực kinh tế NQD. Ngoài ra, đội ngũ quản trị doanh nghiệp ở khu vực này cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Điều này cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế NQD.
1.1.3.4.Về vấn đề vốn
Đây là trở lực lớn nhất trên con đường phát triển của khu vực kinh tế NQD, thậm chí nó trở hành đặc thù của khu vực (ở phần 2 đã đề cập). Theo điều tra của Chương trình phát triển khu vực Mêkông (MPDF) của Ngân hàng Thế giới (WB) thì chỉ có 15% tổng số doanh nghiệp cần vốn bổ sung có vay được ngân hàng. Quy mô khoản vay dao động từ 5 triệu đồng đến 14 tỷ đồng (mức trung bình là 837 triệu đồng). 59% số doanh nghiệp cho rằng khó khăn là do không có tài sản thế chấp (TSTC). Các doanh nghiệp cho rằng nguyên nhân của việc khó tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng là: Ngân hàng đòi hỏi nhiều giấy tờ làm cho quá trình thẩm định kéo dài. Dẫn đến chi phí giao dịch, chi phí cơ hội tăng. Kết quả là lãi suất ngân hàng lớn hơn lãi suất thị trường tự do.
Tài sản thường bị ngân hàng định giá thấp.
Ngân hàng từ chối bảo lãnh đấu thầu cho hợp đồng lớn.
ít vốn trung và dài hạn.
Rõ ràng đây cũng là vấn đề đòi hỏi các ngân hàng thương mại quan tâm và tìm ra giải pháp.
Trên đây là những trở ngại lớn cho các thành phần kinh tế thuộc khu vực NQD phát triển hơn nữa. Nếu những khó khăn này được giải quyết triệt để thì khu vực kinh tế NQD sẽ phát huy vai trò rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
1.1.4. Định hướng phát triển khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam
Đổi mới cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vấn đề có tính quy luật đòi hỏi phải tôn trọng trong thời kỳ quá độ. Tiếc rằng trước đây trong quá trình cải tạo, do tư tưởng nôn nóng đi lên CNXH và quan trọng hơn là chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta đã hành động phi quy luật, vận dụng dập khuôn máy móc mô hình của người khác. Chính vì thế trong một thời gian dài, kinh tế NQD bị coi là phi XHCN, bị ép buộc cải tạo, kết quả là, kinh tế quốc doanh phát triển tràn lan kém hiệu quả, kinh tế NQD bị kìm hãm. Nền kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng song lại dựa trên bội chi ngân sách, vay nợ và lạm phát. Lực lượng sản xuất xã hội không được giải phóng, nền kinh tế đi vào khủng hoảng, tụt hậu. Chỉ đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), với sự đổi mới tư duy, từ tổng kết thực tiễn đổi mới đó, tháng 8 năm 1986 Bộ Chính trị khẳng định: "Thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định trong một thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất". Và cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, quan điểm này đã được khẳng định một cách rõ ràng và toàn diện, đó là: “...Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế Quốc dân...”, kinh tế cá thể tiểu chủ “...được Nhà nước tạo diều kiện và giúp đỡ phát triển...”, kinh tế tư bản tư nhân “...được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm...”, “...tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển”. Đây chính là cở sở và định hướng vững chắc và lâu dài cho khu vực kinh tế NQD tiếp tục phát triển.
Thực tế, trong những năm qua, khu vực này đã phát triển rộng khắp cả về số lượng và qui mô vốn. Năm 2000, vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1996, vốn đầu tư của hộ kinh doanh và doanh nghiệp tăng 13% so với năm 1999. Về các dự án đầu tư của nước ngoài, tính đến 26/12/2000, trên cả nước có 460 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký đạt 2,436 tỷ USD, tăng 22,6% về vốn và 26% về số dự án so với năm 2000.
Mặt khác, trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam không thể thiếu các cơ sở kinh doanh ngoài quốc doanh. Các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động chính là lợi thế so sánh của Việt Nam. Với lợi thế này, rất nhiều nước Đông á đã thu được thành tựu rực rỡ và tạo nên cái gọi là "Điều kỳ diệu Đông á". Để nối tiếp thành công của các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải đi theo hướng mở hay chiến lược CNH định hướng xuất khẩu. Và như vậy, khu vực kinh tế NQD với phần lớn là các SMEs hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao động và các công ty liên doanh tận dụng được khoa học công nghệ tiên tiến đóng vai trò to lớn.
Như vậy, trong tương lai, sự phát triển của khu vực NQD là rất lớn. Điều này có được là do những định hướng mang tính chiến lựơc của Đảng và Nhà nước ta cũng như yêu cầu thực tế khách quan của nền kinh tế về sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
1.2. Tín dụng ngân hàng - yếu tố quan trọng trong phát triển khu vực kinh tế NQD.
1.2.1. Tổng quan về tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một phạm rù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc.
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản…
- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua cácquan hệ sau: quan hệ tín dụng ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa ngân hàng với khu vực kinh tế tư nhân, Ngân hàng và cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và các nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, còn tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ - chủ yếu là bút tệ.
1.2.1.2. Phân loại tín dụng
1.2.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng đầu tư mua sắm tài sản cố định (TSCĐ), cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng. Tín dụng dài hạn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.2.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm.
1.2.1.2.3. Căn cứ vào sự bảo đảm trong cho vay
- Tín dụng không bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ 3 mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng khi cho vay đòi hỏi người vay vốn phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ 3.
1.2.1.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng
- Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng được cấp bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản: là loại tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng được biểu hiện bằng tài sản đối với NHTM, hình thức tín dụng này chủ yếu dưới dạng tín dụng thuê mua (Leasing).
1.2.1.2.5. Căn cứ vào phương pháp cho vay
- Tín dụng trực tiếp: là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: là loại tín dụng mà quan hệ tín dụng có thông qua người thứ ba.
1.2.1.2.6. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
- Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng được thanh toán 1 lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà người vay có thể hoàn trả bất kỳ lúc nào khi có thu nhập.
Trong nền kinh tế hiện nay, phân loại tín dụng theo những tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Thực tế, các loại hình tín dụng này không tách bạch mà chúng đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên việc phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.
1.2.1.3. Bản chất, chức năng của tín dụng
Bản chất của tín dụng được thể hiện một cách đầy đủ thông qua các chức năng của nó. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thực hiện hai chức năng sau:
1.2.1.3.1. Tập trung và phân phối lại vốn nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả
Các chủ thể trong nền kinh tế hàng hoá luôn luôn ở trong hai trạng thái: tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Hai thái cực này là mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế hàng hoá. Nó được giải quyết bằng hoạt động của các loại hình tín dụng trong nền kinh tế thị trường, với đại bộ phần các nhu cầu tạm thời thừa và thiếu vốn được giải quyết thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Các trung gian môi giới tài chính với mạng lưới trải rộng của nó trong nền kinh tế, đó là các NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng đã tập trung một số lớn nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để hình thành quỹ cho vay hay nguồn vốn tín dụng. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nhàn rỗi có kỳ hạn hay lâu được tập trung vào ngân hàng bằng cơ chế lãi suất khác nhau. Trên cơ sở quỹ cho vay đó, các trung gian môi giới tài chính tiến hành phân phối nguồn vốn này cho các đối tượng có nhu cầu bổ sung vốn. Đây là quá trình phân phối lại vốn tiền tệ theo các nguyên tắc tín dụng và các quy định của pháp luật về tín dụng hiện hành.
Sự hoàn trả tín dụng là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn tín dụng, vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay. Đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác.
1.2.1.3.2. Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ
Phân phối và giám đốc, đó là 2 chức năng vốn có của tài chính tín dụng. Dù là phân phối lần đầu hoặc phân phối lại, phân phối theo hình thức cấp phát gián tiếp hay trực tiếp thì giám đốc, kiểm soát đều rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì vốn của các tổ chức tín dụng cho các đơn vị vay là vốn của nền kinh tế cho nên phải kiểm soát để đảm bảo khoản cho vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Đây là điều kiện tiên quyết để các tổ chức tín dụng tồn tại và phát triển.
Quá trình kiểm tra được các tổ chức tín dụng tiến hành một cách liên tục bằng các nghiệp vụ: thẩm định trước khi cho vay, giám sát trong và sau khi cho vay nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng của các khoản tiền vay và cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng là thu hồi được nợ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn.
Như vậy kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua tiền tệ là chức năng quan trọng của tín dụng. Thực hiện đầy đủ chức năng này không những mang lại lợi ích trực tiếp cho các tổ chức tín dụng, các đơn vị vay vốn mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.1.4 Lãi suất tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các hàng hoá, dịch vụ đều có giá của nó. Việc vay mượn tiền hay thuê quyền sử dụng vốn tín dụng cũng là một loại hình dịch vụ, đặc biệt nó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cũng có giá và giá của tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền cho vay phát ra trong một thời kỳ nhất định. Tỷ số này còn được gọi là lãi suất lợi tức tín dụng. Công thức:
Lãi suất tín dụng trong kỳ = x 100%
Về bản chất của lãi suất: Mác và các nhà kinh tế học thị trường tuy có sự khác nhau về quan niệm xã hội và giai cấp trong việc tạo ra giá trị thặng dư do việc mua bán hàng hoá sức lao động, nhưng đều giống nhau về bản chất kinh tế: là nguồn gốc của lợi tức là một phần lợi nhuận mà người sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay trả cho người cho vay.
Như vậy, chức năng của vốn tín dụng là tạo ra lãi. Do đó, phải có cách thức, phương pháp sử dụng vốn tín dụng một cách hiệu quả để tích luỹ và thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Lãi suất là giá cả của tiền vay, là giá cả của một loại hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, lãi suất cũng phải tuân theo các quy luật của thị trường đó là quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Theo đó, lãi suất phụ thuộc vào cung cầu vốn trên thị trường. Nếu cung lớn hơn cầu, lãi suất giảm và ngược lại. Đồng thời, theo quy luật cạnh tranh, lãi suất phải phù hợp với tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Mặt khác, lãi suất tín dụng còn th._.ể hiện mối quan hệ kinh tế xã giữa người đi vay, người cho vay và người lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá. Cho nên chính sách tín dụng và lãi suất tín dụng phải giải quyết hài hoà ba lợi ích: lợi ích của ngưòi cho vay, lợi ích của người đi vay và lợi ích của người lao động.
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế, nó có tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng nói riêng vè đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung.
1.2.1.5. Quan hệ tín dụng
Tín dụng là một quan hệ kinh tế và nó chỉ được hình thành khi hai chủ thể tham gia cùng chấp thuận. Do đó việc hình thành quan hệ tín dụng dựa trên các điều kiện sau:
- Đối với người cho vay: quan tâm tới hai điều kiện: khả năng thu hồi vốn và lãi đầy đủ đúng thời hạn, lãi suất hợp lý.
- Đối với ngưòi đi vay: quan tâm tới hai điều kiện: món vay phải đuợc đáp ứng theo đúng thoả thuận, lãi suất hợp lý.
Có thể nói, quan hệ tín dụng dựa trên các điều kiện: lòng tin, thời hạn, tính hoàn trả và có lãi ngân hàng tất yếu phải nghiên cứu các điều kiện tín dụng để chủ động tạo nên quan hệ tín dụng với người cho vay và với người đi vay đặc biệt là điều kiện về lãi suất (lãi suất đi vay thấp, lãi suất cho vay cao) thì ngân hàng mới tồn tại và phát triển được và như vậy mới thực sự là kinh doanh tín dụng. Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng có thể, có khi là người cho vay, có khi là người đi vay. Với phạm vi bài viết này chỉ đề cập quan hệ tín dụng mà trong đó ngân hàng là người cho vay.
1.2.2. Các hình thức tín dụng
1.2.2.1. Hình thức tín dụng thương mại
Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau, không qua trung gian môi giới tài chính. Công cụ của hình thức tín dụng này là các kỳ phiếu thương mại (gồm lệnh phiếu và hối phiếu). Hình thức tín dụng thương mại dựa trên cơ sở mua bán chịu hành hoá giữa các doanh nhân với nhau. Do đó chủ thể tham gia là các nhà sản xuất kinh doanh và đối tượng cho vay là hàng hoá. Tín dụng thương mại phát triển góp phần hỗ trợ sản xuất và lưu thông hành hoá. Tuy nhiên, quy mô của hình thức này bị giới hạn bởi quy mô vốn của những nhà sản xuất kinh doanh.
1.2.2.2. Hình thức tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế xã hội khác, được thực hiện bằng cách phát hành công trái hay tín phiếu kho bạc nhà nước.
Mục đích của tín dụng nhà nước là để tài trợ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, quy mô lớn, có tầm quan trọng trong nền kinh tế hoặc để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Đặc điểm nổi bật của hình thức này là độ rủi ro tín dụng bằng không. Tín dụng nhà nước phát triển, tín phiếu và công trái trở thành đối tượng giao dịch, góp phần cung cấp hàng hoá cho thị trường tài chính.
1.2.2.3. Hình thức tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, còn bên kia là chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong nền kinh tế. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu.
Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn cho vay trung dài hạn để mua máy móc, thiết bị, xây dựng công trình, kết cấu hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật công nghệ. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, các NHTM thực sự là các tổ chức kinh doanh tín dụng. Vì vậy, khi nghiên cứu loại hình tín dụng ngân hàng không thể không nghiên cứu về điều kiện tín dụng và giá cả tín dụng.
1.2.2.3.1 Điều kiện tín dụng
Khác với các thành phần kinh tế khác, khi vay vốn họ phải trực tiếp tới người cho vay để xin vay và thường chấp nhận mức lãi suất mà người cho vay đưa ra. Đối với NHTM, khi đi vay vốn - huy động vốn, ngân hàng đặt ra lãi suất trước tương ứng với kỳ hạn và loại tiền (ngoại tệ và nội tệ), nhận tiền vay thụ động, tức là thu tiền gửi mà người cho vay mang tới. Nếu khâu huy động vốn không thuận tiện cho người gửi thì khả năng huy động vốn của ngân hàng kém đi. Vì vây, để giữ uy tín và mở rộng huy động vốn, ngân hàng thường đưa ra các hình thức huy động linh hoạt, phù hợp và thanh toán tiền vay cho ngưòi gửi đầy đủ, kịp thời, chính xác.
Khi cho vay, như mọi chủ thể cho vay khác, ngân hàng quan tâm tới khả năng thu hồi vốn và lãi tiền vay. Để đảm bảo khả năng thu hồi vốn, ngân hàng thường quy định hệ thống các nguyên tắc, điều kiện cho vay để có căn cứ vào đó xem xét quyết định cho vay. Hình thức tín dụng ngân hàng có đối tượng cho vay rộng, thành phần tham gia vay nhiều và đông đảo về số lượng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khi quan hệ hàng - tiền đã phát triển phong phú, đa dạng, có sự đan xen lẫn nhau thì hệ thống các nguyên tắc, điều kiện cho vay phải được nghiên cứu một cách khoa học nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro không thu hồi được vốn đầy đủ, đúng kỳ hạn. Tuy nhiên, ở một trình độ phát triển kinh tế nhất định, môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh nhất định thì phải có những hệ thống nguyên tắc, điều kiện cho vay phù hợp với nó thì tín dụng ngân hàng mới mở rộng kinh doanh được. Nếu khả năng thu hồi nợ chỉ thiên về xem xét tài sản thế chấp (TSTC) thì tín dụng sẽ bị hạn chế. Ngược lại, nếu không chú ý đầy đủ đến yếu tố TSTC sẽ dẫn đến khả năng mất vốn. Vì vậy, trong nền kinh tế hiện đại, cần vận dụng nhiều biện pháp khác nữa như đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo hiểm sản xuất, bảo hiểm tài sản để xem xét cho vay.
Như vậy, khả năng thu hồi vốn và lãi vẫn là nguyên tắc cơ bản trong tín dụng ngân hàng. Khi xem xét cho vay, các ngân hàng phải tìm mọi biện pháp phòng ngừa rủi ro, theo hướng đa dạng hoá các biện pháp nghiệp vụ, phù hợp với sự phát triển đa dạng của các mối quan hệ trong nền kinh tế.
1.2.2.3.2 Lãi suất
Lãi suất là yếu tố quan trọng trong loại hình tín dụng ngân hàng. Ngân hàng hoạt động với mục đích kinh doanh tiền tệ (chủ yếu là kinh doanh tín dụng) do đó phải quan tâm tới cả lãi suất huy động (đầu vào) và lãi suất cho vay (đầu ra).
Theo nguyên lý chung thì lãi suất tín dụng tuân theo các quy luật của thị trường. Ngoài ra, mức lãi suất cụ thể trong từng thời kỳ còn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố lạm phát. Do vậy lãi suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng được biểu diễn như sau:
Tỷ lệ lạm phát < lãi suất huy động < lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Xu hướng lãi suất đầu vào càng tăng, lãi suất đầu ra càng giảm thì khối lượng tín dụng càng được mở rộng. Nhưng nó kéo theo một kết quả đối nghịch là khi đó lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống. Vì vậy, việc đưa ra một chính sách lãi suất phù hợp để điều hoà mâu thuẫn trên là một vấn đề nan giải đối với các NHTM.
Trên đây là 4 hình thức tín dụng cơ bản tồn tại trong nền kinh tế hiện nay. Trong đó, hình thức tín dụng ngân hàng là phổ biến nhất. Trong phạm vi đề tài này chỉ đề cập hình thức tín dụng ngân hàng. Do đó, từ nay trở về sau khi nói đến tín dụng chỉ có nghĩa là tín dụng ngân hàng.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển khu vực kinh tế NQD
Với tư cách là trung gian tài chính, các NHTM thông qua hoạt động tín dụng đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của khu vực kinh tế NQD nói riêng.
1.2.3.1. Tín dung ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD
Mặc dù nguồn vốn ban đầu của các cơ sở kinh tế NQD là chủ yếu dựa vào tích luỹ cá nhân, gia đình. Song vốn tín dụng cũng đóng góp một phần không nhỏ, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân được thành lập dựa trên cả 2 nguồn: tích luỹ và tín dụng. Trong năm 2000, trên 13 triệu hộ gia đình nông thôn trở thành hộ sản xuất kinh doanh được ngân hàng cho vay vốn. Đặc biệt, tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần một bộ phận lớn trong khu vực kinh tế NQD. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanhcủa công ty cổ phần luôn xảy ra hiện tượng tạm thời thiếu hoặc thừa vốn. Tình trạng này được giải quyết thông qua quan hệ tín dụng. Việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu cùng được thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường tiền tệ là các mặt hoạt động có liên quan đến tín dụng ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế NQD.
1.2.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp NQD
Thị trường đang trở nên cạnh tranh khốc liệt từng ngày. Để đứng vững trong thương trường, chiến thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp luôn chú trọng vào bốn lĩnh vực. Đó là: giá cả và chất lượng; sự kịp thời và bí quyết; cổ phần và chi phối; đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam thì lĩnh vực được quan nhất đó là giá cả và chất lượng. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý thì phải đầu tư áp dụng khoa học công nghệ mới. ở đây khó khăn lại là vấn đề vốn. Tín dụng ngân hàng là yếu tố hợp lý nhất để tháo gỡ vấn đề này (hợp lý cả về số lượng, giá cả, lãi suất và thời hạn). Như vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế NQD.
1.2.3.3. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh doanh và đầu tư có hiệu quả
Tín dụng ngân hàng không phải rải đều bất kỳ cho khách hàng nào có nhu cầu mà chọn lọc khách hàng làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, để tiếp cận tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng trước hết các doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu quả.
Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng cho một dự án đầu tư, thì trước đó quá trình thẩm định khắt khe của ngân hàng phải thấy được tính khả thi, hiệu quả của nó. Trong quá trình cho vay, ngân hàng luôn giám sát việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Do đó, chính tín dụng đã có khả năng loại trừ các dự án không khả thi. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3.4. Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD Việt Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế
Ngày nay trong quan hệ kinh tế quốc tế, sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong đó đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng nhất. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng thực tế hầu hết các chủ thể của khu vực kinh tế NQD không đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trở thủ đắc lực cho các doanh nghiệp NQD đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đó là những vai trò tích cực của tín dụng ngân hàng trong phát triển khu vực kinh tế NQD. Và ngược lại, kinh tế NQD phát triển cũng sẽ mở rộng thị trường tín dụng cho các NHTM.
1.3. Các phương pháp đánh giá Quy mô và chất lượng tín dụng
1.3.1. Khái niệm
1.3.1.1. Quy mô tín dụng
Quy mô tín dụng của một ngân hàng là một chỉ tiêu được thể hiện bằng doanh số cho vay và dư nợ tín dụng của ngân hàng đó trong một thời kỳ nhất định.
1.3.1.2. Chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
- Đối với NHTM: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
1.3.2. Những chỉ tiêu phản ánh quy mô và chất lượng tín dụng
1.3.2.1. Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng
=
Dư nợ tín dụng = + -
1.3.2.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
1.3.2.2.1. Tỷ lệ nợ quá hạn (NQH)
Trong quan hệ tín dụng, tính an toàn hay khả năng trả nợ của người vay là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấuthành nên chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng và bị chuyển thành nợ quá hạn với lãi xuất cao hơn lãi xuất bình thường. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do dó tất yếu có nợ quá hạn. Song nếu một NHTM có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh vì có nguy cơ mất vốn, mà đây là điều tệ hại, đễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập.
Các tỷ lệ: Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Nợ quá hạn/Tổng tài sản
Tuy nhiên hiện nay tỷ lệ Nợ quá hạn/Tổng dư nợ được sử dụng nhiều hơn.
Tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao.
1.3.2.2.2. Tỷ lệ thanh toán do bán tài sản cuả người vay
Trong quan hệ tín dụng, nguồn trả nợ cho NH được lấy từ phần thu nhập do hoạt đông sản xuất kinh doanh của khách hàng, nó bao gồm các chi phí lao động vật hoá (chi phí nguyên, nhiên, vật liệu, khấu hao tài sản cố định) và phần giá trị mới sáng tạo ra. Tuyvậy, có nhiều trường hợp sử dụng vốn kém hiệu quả, sản xuất kinh doanh thua lỗ, phá sản... nên người vay phải bán tài sản (tự nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ ngân hàng. Số tiền do bán tài sản có thể đủ để trả hết món nợ vay, nhưng cũng có thể chỉ trả được một phần món vay, song trong trường hợp nào đi chăng nữa thì vẫn có thể đánh giá là chất lượng tín dụng thấp. Công thức tính tỷ lệ này có thể được xác định như sau:
Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay = (Số tiền thu nợ do khách bán tài sản/Tổng doanh số thu nợ) x 100%.
Tỷ lệ này được tính theo định kỳ (tháng, quý, năm).
ở Việt Nam, từ khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường thì hoạt động tín dụng của các NHTM đã đựơc đổi mới một bước, các khoản tín đụng` cấp ra hầu hết đều có tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, nội dung này vẫn là vấn đề nan giải đối với các NHTM. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì trong số hơn 10 tỷ đồng giá trị tài sản bắt nợ, xiết nợ mà các NHTM đang quản lý thì có tới hơn một nửa là loại tài sản khó bán.
1.3.2.2.3 Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu này được tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc thoả mãn nhu cầu khách hàng, giải quyết hợp lý giữa 3 lợi ích: nhà nước, khách hàng và ngân hàng.
Công thức tính:
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ / Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín đụng (thường là một năm). Hệ số này càng cao phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
Trên đây là một số chỉ tiêu phổ biến trong đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu và phương pháp đánh giá khác như: Cơ cấu vốn đầu tư, phương pháp phân loại tài sản có.... Tuy nhiên, trong các phương pháp trên, phương pháp tính tỷ lệ NQH là phương pháp phổ biến nhất và đơn giản nhất.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng tín dụng
Quy mô và chất lượng tín dụng là hai chỉ tiêu luôn đi liền nhau. Bởi lẽ, nếu mở rộng quy mô mà không tính đén chất lượng thì sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn. Nếu chỉ tăng chất lượng mà không quan tâm đến quy mô tín dụng thì không đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Do mối quan hệ mật thiết giữa hai chỉ tiêu này mà hầu hết những nhân tố tác động lên chỉ tiêu này thì cũng có tác động lên chỉ tiêu khác và ngược lại.
1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
1.3.3.1.1. Kinh tế
Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp NQD nói riêng sẽ phát triển lành mạnh. Và như thế, quy mô và chất lượng tín dụng đều được nâng cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của khu vực kinh tế NQD - khu vực không có sự hỗ trợ đặc biệt của nhà nước thì quy mô và chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng mà trước hết là nợ quá hạn tăng sau đó là quy mô tín dụng giảm dần.
1.3.3.1.2. Nhóm xã hội
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng nào có uy tín cao thì sẽ thu hút khách hàng lớn. Khách hàng nào làm ăn hiệu quả, được tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của ngân hàng. Niềm tin lẫn nhau là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và đảm bảo cho chất lượng tín dụng.
1.3.3.1.3. Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật. Đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận tiện và đạt hiệu quả cao là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp. Vì vậy nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả 2 phía, chất lượng tín dụng được đảm bảo và quy mô tín dụng có môi trường mở rộng.
1.3.3.2. Nhân tố chủ quan
1.3.3.2.1. Về phía khách hàng
Nếu các chủ thể kinh tế NQD làm ăn có hiệu quả, uy tín thì chắc chắn nhu cầu tín dụng của họ sẽ được ngân hàng đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu làm ăn thua lỗ, cạnh tranh không lành mạnh thì các ngân hàng không thể cho họ vay được. Kết quả là quy mô tín dụng không được mở rộng và chất lượng tín dụng không có cơ sở đảm bảo. Do đó, để tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng, các chủ thể kinh tế NQD cần nỗ lực hoạt động kinh doanh, tạo uy tín đối với các NHTM.
1.3.3.2.2. Về phía các NHTM
1.3.3.2.2.1. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước. Điều này có nghĩa là quy mô và chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.
1.3.3.2.2.2. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm các quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng đảm bảo vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Ngoài ra, việc linh hoạt trong quy trình tín dụng cũng sẽ gây cảm tình cho khách hàng và từ đó quy mô tín dụng có cơ sở được mở rộng.
1.3.3.2.2.3. Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải... Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng. Và đây chính là yếu tố mở rộng quy mô tín dụng.
1.3.3.2.2.4. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc "Đi vay để cho vay", đóng vai trò là trung gian tài chính. Vì vậy, muốn mở rộng cho vay thì trước hết phải huy động được nguồn. Nguồn vốn càng huy động được nhiều, đa dạng thì quy mô cho vay càng lớn. Và chất lượng của nguồn huy động cũng gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
1.3.3.2.2.5. Công tác tổ chức của ngân hàng
Tổ chức của ngân hàng được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong ngân hàng sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý sát sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh.
1.3.3.2.2.6. Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất
Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, marketing của người cán bộ ngân hàng. Cơ sở vật chất là máy móc, phương tiện làm việc. Đây là hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự thu hút khách hàng của ngân hàng. Đặc biệt đối với đối tượng khách hàng là khu vực kinh tế NQD, khả năng tiếp xúc khách hàng của cán bộ công nhân viên là yếu tố quyết định đến mở rộng quy mô tín dụng. Ngoài ra, trình độ nghiệp vụ của cán bộ cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của khoản cho vay.
Tóm lại: Qua nghiên cứu nội dung nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng tín dụng ta thấy: tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội, sự hoàn thiện cơ sở pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật của từng NHTM mà các nhân tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau. Vấn đề cơ bản đặt ra là chúng ta phải năm chắc nhóm các nhân tố này, biết vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể, từ đó tìm ra biện pháp quản lý
1.4. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ hiện nay là yêu cầu cấp thiết đối với cả ngân hàng, các chủ thể kinh tế NQD cũng như đối với nền kinh tế. Đối với các NHTM, việc mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cho khu vực kinh tế NQD nói riêng là sự cần thiết vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của chính các ngân hàng. Hơn nữa, thị trường tín dụng cho khu vực NQD đang tỏ ra có nhiều tiềm năng phát triển vì sự phát triển ngày càng lớn của các thành phần kinh tế NQD. Đối với khu vực kinh tế NQD, trong khi vốn đang là vấn đề bức xúc trong khi chưa tạo được lòng tin đối với các NHTM thì nỗ lực để chứng tỏ hiệu quả tín dụng và mở rộng quy mô vay là hiển nhiên. Tín dụng cho khu vực kinh tế NQD được mở rộng về quy mô và nâng cao về chất lượng là cơ sở vững chắc cho sự phát triển của ngành ngân hàng và đăc biệt là sự phát triển của khu vực kinh tế NQD, góp phần đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam.
Chương 2
Thực trạng về hoạt động tín dụng đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương hà nội
2.1. - giới thiệu về chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập ngày 1/4/1963. Được Chính phủ xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên của hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và Hiệp hội Ngân hàng Châu á, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam liên tục giữ vai trò chủ lực trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được đánh giá là Ngân hàng có uy tín nhất trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính Ngân hàng khác. Tính đến hết ngày 31/12/2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phát triển được một hệ thống gồm 24 Chi nhánh cấp I, 6 Chi nhánh cấp II, 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài, 1 công ty chứng khoán; góp vốn cổ phần vào 5 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản) và 7 Ngân hàng; tham gia liên doanh với 3 Ngân hàng nước ngoài. Đồng thời Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện đang có quan hệ đại lý với hơn 1000 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội là một trong những Chi nhánh cấp I quan trọng nhất của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chi nhánh được xếp hạng là doanh nghiệp hạng I. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội được thành lập theo quyết định số 177/NH.QĐ ngày 22/12/1984 của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/3/1985 đến nay.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có các chức năng và nhiệm vụ:
* Giúp Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nghiên cứu tổng hợp những vấn đề kinh tế đối ngoại, ngoại thương và ngoại hối tại thành phố Hà Nội và phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội nghiên cứu, tổng hợp và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước về chủ trương, Chính sách, kế hoạch và biện pháp phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại thương và ngoại hối của Hà Nội. Trên cơ sở đó, tăng cường các hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng phục vụ sản suất, đẩy mạnh xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ đối ngoại, tăng thu ngoại tệ, góp phần phát triển kinh tế chung của địa phương.
* Tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý Nhà nước của Ngân hàng trong lĩnh vực ngoại hối tại địa phương; xem xét và xử lý các vụ việc vi phạm điều lệ quản lý ngoại hối phát sinh tại Hà Nội, trong phạm vi quyền hạn trách nhiệm được giao và thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ở địa phương và các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cở sở của thành phố Hà Nội.
* Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu, đổi ngoại tệ phục vụ khách hàng nước ngoài ra vào thành phố Hà Nội theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Thực hiện quan hệ giao dịch và mở tài khoản “không cư trú” cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài thường trú tại Hà Nội thuộc đối tượng “người không cư trú”, theo sự phân công của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Thực hiện thanh toán quốc tế trong quan hệ giao dịch trực tiếp với các Ngân hàng đại lý nước ngoài, khi có điều kiện, theo sự uỷ nhiệm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về các mặt nghiệp vụ:
+ Thanh toán về xuất nhập khẩu hàng hoá thuộc kim ngạch mậu dịch của trung ương hoặc địa phương.
+ Thực hiện các nghiệp vụ cấp bảo lãnh tín dụng thương mại đối với các đơn vị kinh tế thuộc địa phương, theo quy chế về bảo lãnh tín dụng do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam công bố.
+ Thanh toán về kiều hối và về xuất khẩu “lao động, chuyên gia kĩ thuật” của ta đi nước ngoài.
+ Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác về phi mậu dịch phục vụ việc chi tiêu của các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài và các đoàn Việt Nam đi nước ngoài.
+Thực hiện các quan hệ tài khoản với một số Ngân hàng nước ngoài trong việc điều hành và quản lý vốn ngoại tệ.
* Theo sự phân công của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, thực hiện phục vụ và quản lý các tổ chức, các đơn vị sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đối ngoại hoạt đông trên dịa bàn Hà Nội trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán đối ngoại; thực hiện công việc phân tích cấp quyền sử dụng ngoại tệ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc các ngành kinh tế trung ương và địa phương, quản lý tài khoản ngoại tệ của các đơn vị này theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
* Theo dõi tổng hợp và kiểm tra việc thanh toán kiều hối tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cơ sở thuộc thành phố Hà Nội theo quy định của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và điều hành tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
Theo quyết định số 177/NH-QĐ ngày 22/12/1984 về quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội kể từ ngày 1/3/1985 cơ cấu tổ chức của chi nhánh như sau:
Lãnh đạo điều hành chi nhánh gồm có một giám đốc và 3 phó giám đốc, các bộ phận chức năng được tổ chức thành 9 phòng ban:
- Phòng tín dung - tổng hợp
- Phòng thanh toán quốc tế
- Phòng kế toán tài chính
- Phòng ngân quỹ
- Phòng dịch vụ ngân hàng
- Phòng tin học
- Phòng hành chính nhân sự
- Tổ kiểm tra nội bộ
- Tổ quan hệ khách hàng
Trực thuộc ngân hàng có 2 chi nhánh cấp II: chi nhánh thành công và chi nhánh cầu giầy; 3 phòng giao dịch; PGD số 1 ( 2 Hàng Bài); PGS số 2 (14 Trần Bình Trọng); PGD số 3 (1 Hàng Bông).
Sơ đồ cơ cấu bộ máy quản lý của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
Giám đốc
Phó giám đốc 1
Phó giám đốc 3
Phó giám đốc 2
Trụ sở chính
Phòng tín dụng tổng hợp
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng kế toán tài chính
Phòng ngân quỹ
Phòng dịch vụ ngân hàng
Phòng tin học
Phòng hành chính nhân sự
Tổ quan hệ khách hàng
Tổ kiểm tra nội bộ
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội
Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu có nhiều diễn biến và sự kiện không thuận chiều. Các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản suy giảm mạnh kéo theo sự giảm sút ở hầu hết các nền kinh tế đang phát triển. Việt Nam, dẫu vậy vẫn đạt được mức tăng trưởng đáng khích lệ: năm 2001, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng xấp xỉ 7% (mức tăng cao nhất trong vòng 4 năm qua), kim ngạch xuất khẩu tăng 4,5%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,2%..., các mặt đời sống kinh tế xã hội cũng có những chuyển biến tích cực. Việt Nam trở thành điểm đến tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngành ngân hàng cũng đã có những bước phát triển vượt bậc. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành nhiều cơ chế chính sách mới tạo hành lang pháp lý phù hợp hơn và an toàn hơn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại diễn ra gay gắt ngày càng sâu sắc, không chỉ trên lĩnh vực tín dụng truyền thống mà còn trên các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Thực tế đó đã đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. Song với sự đoàn kết nhất trí cao của Đảng uỷ, Ban Giám đốc và tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội, dưới sự chỉ đạo sát sao của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như sự giúp đỡ, ủng hộ của các cơ quan trong và ngoài ngành từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là sự tín nhiệm và hợp tác của các doanh nghiệp, với phương châm kinh doanh: phát triển - an toàn - hi._. Ngoại thương Hà nội. Các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả khi nó được thực hiện một cách đồng bộ, với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể cán bộ nhân dân của Chi nhánh. Song nỗ lực của riêng Chi nhánh chưa đủ, cần phải có sự trợ giúp , quan tâm chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam và của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, trong một môi trường kinh tế, pháp luật ổn định, hoàn chỉnh, cùng với nỗ lực và sự hợp tác của phía các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh thì mục đích ấy mới được thực hiện một cách tối ưu .
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1.Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
3.4.1.1. Kiến nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
Như đã đề cập, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Việt Nam trong những năm gần đây tuy có sự tăng trưởng và phát triển vượt bậc, song chưa phát huy được hết tiềm lực. Vấn đề bức xúc của khu vực này là vốn. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng của khu vực này còn gặp nhiều trở lực. Do đó có một sô kiến nghị về các biện pháp thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của khu vực này, nhằm giảm bớt một số trở lực khi tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng của khu vực này.
- Đảng và Nhà nước cần thống nhất hơn nữa các quan điểm chỉ đạo phát triển khu vực kinh tế NQD. Mặc dù từ Đại hội VI đến nay, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước luôn khẳng định khu vực kinh tế NQD là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Song cần khẳng định hơn nữa về vấn đề phát triển khu vực nay là một chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Có như vậy mới tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, để họ tích cực đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.
- Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Nhà nước cần sửa đổi bổ sung Lụât Doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hànhvề những vấn đề liên quan đến kinh tế NQD theo hướng xoá bỏ sự phân biệt đối sử giữa các thành phần kinh tế nhằm đảm bảo thể hiện đồng bộ nhất quán các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu vực này; đảm bảo tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc về thủ tục hành chính. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của khu vực kinh tế NQD; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi vừa chặt chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó cần quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực khu vực tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, khi thay đổi các quy định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh.
Đảng và Nhà nước cần sửa đổi bổ sung một số cơ chế chính sách. Trong đó nổi bật là chính sách đất đai và chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ, chính sách hỗ trợ về thông tin và xúc tiến thương mại. Cụ thể là:
Nhà nước cần sửa đổi bổ sung Luật Đất đai theo hướng: Đối với đất của tư nhân được cấp quyền sử dụng, dất dang được tư nhân dùng vào sản xuất do chuyển nhượng lại một cách hợp pháp thì được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuế đất cho Nhà nước khi tiếp tục sản xuất kinh doanh. Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết, có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp, trong đó có kinh tế tư nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trống, đồi núi trọc.
Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên đoanh với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho nhân dân.
Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan, thí điểm thực hiện các chủ trương trên.
Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học công nghệ: Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh đoanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp.
Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động .
Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh đoanh và doanh nghiệp. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ; thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; khen thưởng các cá nhân và doanh ngiệp áp dụng có hiệu quả ccông nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại: Nhà nước cần có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân nhận được những thông tin cần thiết về luật pháp, chánh sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của các ngành, các vùng... Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân và các hiệp hội đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước.
- Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả mà không thuộc các lĩnh vực quan trọng như một số công ty thuộc ngành chế biến thực phẩm, may mặc da giầy... tạo sự đột phá, tăng tốc độ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ kiên quyết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA... về cải tổ doanh nghiệp nhà nước, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy phát triển khu vực ngoài quốc doanh.
- Xây dựng dự án, đàm phán thu hút tài trợ nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: Đào tạo và nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam, xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập doanh nghiệp .
- Cho phép người Việt Nam ở nước ngoài, Việt kiều, người nước ngoài làm việc ở Việt Nam tự do mua bán đất đai, nhà ở, bất động sản,... khi không sử dụng thì được phép bán lại , thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển.
- Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho khu vực ngoài quốc doanh.
- Cho phép kinh tế tư nhân tham gia hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay, thuộc độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Sớm cho ra đời Luật Cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
- Các cơ quan chức năng của nhà nước (cơ quan thuế, kiểm toán ...) định kỳ kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên cơ sở đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thông kê, yêu cầu các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng hoặc 10 tỷ đồng trở lên phải thực hiện kiểm toán. Kiên quyết tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều gây khó khăn cho doanh nghiệp.
- Chính phủ nên nghiên cứu, xem xét tách các doanh nghiệp của Bộ Công an, Quân đội, cơ quan Đảng ra khỏi các tổ chức đó, hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo đúng luật doanh nghiệp.
3.4.1.2. Kiến nghị về việc tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển quan hệ tín dụng an toàn, hiệu quả.
3.4.1.2.1.Về giao dịch bảo đảm.
Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và thông tư 06/2000/TT- NHNN1 hướng dẫn thực hiện giao dịch bảo đảm, Thông tư số 10, 11/2000/TT- NHNN1 tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện nghị định 178, Quyết định 284/2000/QĐ- NHNN1 về quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng... đã cởi trói cơ chế tín dụng cho các ngân hàng thương mại hơn nữa. Việc nới lỏng cơ chế tín dụng đã giúp khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận vốn ngân hàng ngày càng tăng. Tuy nhiên, các quy định ban hành vẫn còn nhiều chỗ bất cập, hạn chế quan hệ tín dụng giữa khu vực kinh tế tư nhân và các ngân hàng thương mại. Điển hình là:
- Trong điều 20, nghị định 178/NĐ-CP và mục1, chương IV của Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 hướng dẫn quy định khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản phải có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, khả năng hoàn trả nợ, hoặc có dự án của NHNN quy định... Bên cạnh đó, tại điều 7 của quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 quy định điều kiện vay vốn, thì một trong những điều kiện đó là “có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sông khả thi theo phương án trả nợ khả thi”. Như vậy thực tế, điều kiện để khách hàng vay vốn không có tài sản bảo đảm là rất chung chung. Chính phủ và các cơ quan chức năng cần có những văn bản hướng dẫn rõ những tiêu chí chủ yếu để các tổ chức tín dụng làm cơ sở cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và phân biệt các điều kiện vay thông thường.
- Tại khoản 2 điều 20 Nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định đối với khách hàng vay không có tài sản thế chấp là doanh nghiệp còn có thêm điều kiện là kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề với thời điểm xem xét. Điểm quy định nàylà rất khó khăn đối với các doanh nghiệp NQD bởi sự biến động của thị trường, giá cả, mức độ cạnh tranh có thể tạo cho doanh nghiệp lỗ tạm thời. Chẳng hạn, với những doanh nghiệp kinh doanh lương thực, cà phê năm 2000 sẽ gặp khó khăn bởi giá giảm liên tục và lượng xuất khẩu không đạt được như kế hoạch. Kết quả là hầu như những doanh nghiệp kinh doanh mặth hàng này đều bị lỗ năm 2000. Trường hợp những doanh nghiệp mới thành lập, mặc dù có phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư có hiệu quả thì cũng không thể vay vốn bằng hình thức không có tài sản đảm bảo. Một nảy sinh khác là các doanh nghiệp có hai năm trước thời điểm vay vốn kinh doanh có lãi nhưng chưa cân đối được số lỗ của các năm trước nên kết quả kinh doanh thể hiện trên sổ sách quyết toán là còn lỗ. Trên nguyên tắc thì trường hợp này không được vay vốn không có tài sản bảo đảm. Như vậy, chính phủ cần nới lỏng quy định này hay có thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong việc xem xét hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay không có tài sản bảo đảm chứ không nhất thiết phải theo nguyên tắc có lãi hai năm liền.
- Chính phủ cần nhanh chóng đưa quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động, giúp các doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp được vay vốn ngân hàng.
- Chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp NQD vay vốn ngân hàng thông qua việc cho phép các doanh nghiệp này nếu hoạt động có hiệu quả được vay vôn ngân hàng tới mức 100 triệu đồng hoặc 200 triệu đồng không phải thế chấp bằng tài sản miễn là đảm bảo được ba điều kiện: Dự án có hiệu quả, ba năm liền kề hoạt động kinh doanh có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn ngân hàng.
- Trên thực tế, hiện nay khu vưc kinh tế NQD vay vốn ngân hàng đều phải có tài sản thế chấp, và chủ yếu là nhà đất. Tuy nhiên hiện nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng nhà đất còn nhiều thủ tục rườm rà gây mất thời gian. Như vậy, trong khi Nhà nước chưa thể cấp ngay được giấy chứng nhận chính thức thì cần có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể và thống nhất trong từng địa phương về việc sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng đảm bảo đúng luật.
3.4.1.2.2.Về cơ chế chính sách xử lý rủi ro và tài sản đảm bảo
Hiện nay, chỉ có tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước khi xảy ra rủi ro thì ngân hàng thương mại mới được nhà nước khoanh nợ. Thực tế này làm cho các ngân hàng thương mại có tâm lý ngại cho vay khu vực NQD. Vì vậy Chính phủ nên có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn khu vực kinh tế NQD bình đẳng như đối với khu vực nhà nước như: khoanh nợ, giảm nợ, ưu đãi lãi suất, xoá nợ...
Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ tín dụng giữa các NHTM với khu vực kinh tế NQD khi xảy ra tranh chấp, doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng.
Về xử lý tài sản thế chấp: Điều 359 của Bộ Luật Dân sự và Điều 54 của Luật các Tổ chức tín dụng quy định ngân hàng thương mại được quyền bán tài sản cầm cố hợp pháp để thu hồi nợ, bán tài sản thế chấp để thu hồi vốn nếu đến thời hạn trả nợ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Thực tế không ít những tài sản thế chấp không được xử lý ngay mà phải chờ phán quyết của toà án và thời gian có thể kéo dài từ 3 tháng đến vài năm. Điều này gây tổn thất cho ngân hàng trong việc thu hồi vốn đưa vào hoạt động, chưa kể đến những biến động của giá cả, tác động của hao mòn tài sản... Vì vậy Chính phủ cần có những quy định về phát mại tài sản thế chấp, cầm cố nhằm tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Ngoài ra, trong những năm qua thực tế có rất nhiều doanh nghiệp NQD có đăng ký kinh doanh, vay vốn ngân hàng rồi tự nhiên “mất tích”, xù nợ của ngân hàng. Do đó cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký kinh doanh cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát và chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không đúng ngành nghề như trong giấy phép đăng ký thì phải kịp thời xủ lý. Có như vậy mới hạn chế rủi ro đạo đức do khách hàng gây nên.
3.4.1.2.3. Chính sánh tài chính tín dụng
Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế NQD bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước; đảm bảo kinh tế NQD tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư theo mục tiêu được nhà nước khuyến khích.
Sớm ban hành quy định về cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp NQD. Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thuế phù hợp với đặc điểm của các chủ thể NQD, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh, vừa chống thất thu thuế. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của khu vực NQD trong kinh tế thị trường; Khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ của các doanh nghiệp. Ban hành quy định về đăng ký về sở hữu tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh.
Sửa đổi bổ sung chế độ kế toán phù hợp với trình độ của các doanh nghiệp NQD; tạo điều kiện cho doanh nghiệp NQD sử dụng dịch vụ kiểm toán; thực hiện công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm.
3.4.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện nhanh, có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành ngân hàng Việt Nam tạo uy tín cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Thu hút các dự án chương trình quốc tế, hỗ trợ ngành ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn trình độ quốc tê; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại.
Sửa đổi cơ chế chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao trình độ tự chủ tự chịu trách nhiệm cho các NHTM, tăng thu nhập cho cán bộ ngân hàng.
Hỗ trợ việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý cho các NHTM quốc doanh. Có thể nói toàn bộ hệ thống thông tin quản lý hiện tại của các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về cung cấp thông tin kế toán, tài chính của Ban quản lý điều hành của NHTM và Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc nâng cấp hệ thống thông tin quản lý đòi hỏi chi phí rất lớn và vượt quá khả năng tài chính của các NHTM quốc doanh. Bởi vậy Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho các NHTM quốc doanh để đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo cán bộ khai thác và xử lý theo yêu cầu quản lý.
Tổ chức tốt việc cung cấp thông tin cho các NHTM, mà trước hết là đưa ra một số thông số tài chính của các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình hình thực tế của ngành ngân hàng nói chung. Điều này không chỉ giúp các NHTM tự nhìn nhận, đánh giá bản thân mình so với hệ thống ngân hàng cũng như so với các đối thủ cạnh tranh, mà còn giúp cho Ngân hàng Nhà nước kiểm soát từng hoạt động của các ngân hàng, nhằm phục vụ tốt cho công tác dự báo, xu hướng phát triển của các NHTM, điều chỉnh kịp thời các quy định và biện pháp giám sát, đặc biệt là công tác hoạch định chiến lược phát triển toàn ngành trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Thực hiện đúng lộ trình mở của hoạt động ngân hàng với nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, theo cam kết tại hiệp định thương mại Việt Mỹ, AFTA, cho phép thêm một số ngân hàng của Nhật, Mỹ, EU mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh thương phiếu thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển.
Kiến nghị với Ngân hàng Ngoại thương Việt nam
Bám sát nội dung đề án cơ cấu lại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt và đề án cụ thể xử lý nợ tồn đọng, đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ, lành mạnh hoá tài chính của hệ thống.
Đẩy nhanh tiến độ chương trình hiện đại hoá ngân hàng, làm cơ sở triển khai và đưa ra thị trường các dịch vụ sản phẩm mới.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, ngăn ngừa và xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động kinh doanh.
Có chiến lược kinh doanh tổng thể làm cơ sở cho các chi nhánh đề ra chiến lược cụ thể thích hợp.
Kịp thời có những văn bản hướng dẫn thực hiện các nghị định, quyết định của Chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt Nam về tín dụng, đảm bảo rõ ràng chi tiết và không chồng chéo với các văn bản khác.
Phối hợp với các cơ quan, ban ngành khác, thu thập thông tin tín dụng đầy đủ, kịp thời cung cấp và hỗ trợ cho các ngân hàng chi nhánh thuộc hệ thống NHNT.
Kết luận
Xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam, cùng với xu hướng chung đó, đã và đang tham gia tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Tiến trình này đã đặt ra những vận hội và cả những thách thức to lớn đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Các ngân hàng thương mại Việt Nam không chỉ hướng các hoạt động của mình ra thị trường bên ngoài mà còn phải tự cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam. Mặc dù các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn đang chiếm lĩnh thị trường tài chính, nhưng các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đang gia tăng thị phần của mình. Trong những năm tới, ưu đãi cho hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ giảm khi Việt Nam tham gia vào các hiệp định trong khu vực về ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa là sự cạnh tranh sẽ trở nên khốc liệt hơn. Do đó, mở rộng đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tìm kiếm thị trường tiềm năng mới là vấn đề bức thiết đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh trong đó có Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. Song mở rộng đầu tư tín dụng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng. Có như thế các ngân hàng thương mại mới thực sự nâng cao vị thế và đứng vững trong cạnh tranh.
Hơn 15 năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế NQD đã phát triển rộng khắp và có những đóng góp quan trọng vào nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này còn nhiều hạn chế: phần lớn quy mô nhỏ, ít vốn, công nghệ sản xuất lạc hậu, sức cạnh tranh kém; và còn có nhiều khó khăn vướng mắc, đặc biệt là vấn đề vốn. Đây được coi là thị trường tín dụng đầy tiềm năng đối với các ngân hàng thương mại.
Thấy rõ được những thực tế trên, với phương châm "Phát triển - An toàn - Hiệu quả" Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đã chủ trương mở rộng cho vay mọi đối tượng khách hàng thuộc tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt quốc doanh ngoài NQD. Trong những năm vừa qua, hoạt động cho vay khu vực ngoài quốc doanh của Chi nhánh đã đạt được những kết quả to lớn, là đơn vị có qui mô vốn cho khu vực ngoài quốc doanh và loại tương đối lớn trong các ngân hàng thương mại quốc doanh, chất lượng tín dụng của khu vực này ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, hoạt động cho vay này còn tồn tại một số hạn chế như: qui mô tín dụng chưa tương xứng với khả năng cho vay của ngân hàng cũng như nhu cầu của khách hàng, nợ quá hạn vẫn chiếm một tỷ lệ lớn.
Từ những tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng cũng như thuận lợi và khó khăn trong hoạt động cho vay khu vực kinh tế NQD tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội em đã đề xuất một số ý kiến nhằm đóng góp vào việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của khu vực này, góp phần vào sự phát triển chung của hệ thống NHNT, thực hiện mục tiêu chiến lược "Xây dựng NHNT Việt Nam thành một ngân hàng thương mại chủ lực, hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm lĩnh thị phần lớn ở Việt Nam" (Báo cáo thường niên 2002 - NHNT Việt Nam).
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Frederic Mishkin. Tiền tệ - Ngân hàng và thị trường tài chính.
NXB Khoa học và Kỹ thuật - Hà Nội 1999
2. Edward W. Reed và Edward K. Gill - Ngân hàng Thương mại
NXB thành phố Hồ Chí Minh - 1993
3. Peter Rose - Quản trị Ngân hàng thương mại NXB thống kê - 2001
4. TS. Phạm Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo. Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ.
NXB thống kê - 2002
5. Nguyễn Hải Sản - Quản trị tài chính doanh nghiệp
NXB thống kê
6. TS. Vũ Quy Hào, Đàm Văn Huệ, Phạm Long - Quản trị tài chính doanh nghiệp
NXB thống kê - 2000
7. TS. Lưu Thị Hương (chủ biên) - tài chính doanh nghiệp
NXB giáo dục - 2002
8. Văn kiện Đại hội Đảng khoá VI, VII, VIII, IX.
9. Luật doanh nghiệp
10. Luật các tổ chức tín dụng.
11. Quy chế cho vay của NHNTVN
12. Tạp chí ngân hàng.
13. Tạp chí thị trường tại chính tiền tệ.
14. Thời báo kinh tế Việt Nam
15. Báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo tín dụng của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội.
16. Báo cáo chương trình dự án phát triển khu vực Mê Kông MPDF (WB)
Mục lục
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng tín dụng và sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam 1
1.1. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế 1
1.1.1. Tổng quan về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1
1.1.1.1. Đặc điểm hình thức tổ chức 2
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh 2
1.1.1.3. Đặc điểm tài chín 4
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD 4
1.1.2.1. Phát triển khu vực kinh tế NQD giúp khai thác tối đa nguồn lực đang có của đất nước cho sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và tạo thêm việc làm cho người dân 4
1.1.2.2. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong nền kinh tế nỗ lực bỏ sức, bỏ vốn, nhạy bén, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu của mình và đóng góp cho xã hội 6
1.1.2.3. Phát triển khu vực kinh tế NQD sẽ góp phần nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong xã hội 6
1.1.2.4. Phát triển kinh tế NQD tạo động lực hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước ta và hệ thống pháp luật 7
1.1.3. Những trở lực trong hoạt động của khu vực kinh tế NQD hiện nay 7
1.1.3.1. Về thái đội của xã hội 7
1.1.3.2. Về mặt luật pháp 7
1.1.3.3. Về quản trị doanh nghiệp 8
1.1.3.4. Về vấn đề vốn 8
1.1.4. Định hướng phát triển khu vực kinh tế NQD ở Việt Nam 9
1.2. Tín dụng ngân hàng - yếu tố quan trọng trong phát triển khu vực kinh tế NQD 11
1.2.1. Tổng quan về tín dụng 11
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng 11
1.2.1.2. Phân loại tín dụng 12
1.2.1.3. Bản chất, chức năng của tín dụng 13
1.2.2. Các hình thức tín dụng 16
1.2.2.1. Hình thức tín dụng thương mại 16
1.2.2.2. Hình thức tín dụng nhà nước 17
1.2.2.3. Hình thức tín dụng ngân hàng 17
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển khu vực kinh tế NQD 19
1.2.3.1. Tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD 19
1.2.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp NQD 20
1.2.3.3. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh doanh và đầu tư có hiệu quả 20
1.2.3.4. Tín dụng ngân hàng là cầu nối cho các thành phần kinh tế NQD Việt Nam thiết lập quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế 21
1.3. Các phương pháp đánh giá quy mô và chất lượng tín dụng 21
1.3.1. Khái niệm 21
1.3.1.1. Quy mô tín dụng 21
1.3.1.2. Chất lượng tín dụng 21
1.3.2. Những chỉ tiêu phản ánh quy mô và chất lượng tín dụng 22
1.3.2.1. Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng 22
1.3.2.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng 22
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng tín dụng 24
1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan 24
1.4. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD 27
Chương 2. Thực trạng về hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 28
2.1. Giới thiệu về chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 28
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 28
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 29
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và điều hành tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 30
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 32
2.1.4.1. Huy động vốn 33
2.1.4.2. Đầu tư tín dụng 36
2.1.4.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại 38
2.1.4.4. Công tác kế toán - thông tin điện toán 40
2.1.4.5. Công tác kho quỹ 40
2.1.4.6. Công tác kiểm tra kiểm soát 41
2.1.5. Kết quả kinh doanh 41
2.2. Tình hình hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 43
2.2.1. Quy mô tín dụng 43
2.2.1.1. Doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngaòi quốc doanh 43
2.2.1.2. Dư nợ đối với khu vực ngoài quốc doanh 45
2.2.1.3. Cơ cấu tín dụng ngoài quốc doanh 47
1.3.2. Cơ cấu tiền tệ 49
2.3. Đánh g i á chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 50
2.3.1. Những kết quả đạt được 53
2.3.1.1. Kết quả 53
2.3.1.2. Nguyên nhân 54
2.3.2. Những hạn chế cần khắc phục 55
2.3.2.1. Hạn chế 55
2.3.2.2. Nguyên nhân 56
Chương 3. Những giải pháp cơ bản nhằm cơ bản và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 66
3.1. Quan điểm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng cảu chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 66
3.2. Định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội 67
3.3. Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoạ thương Hà Nội 68
3.3.1. Xây dựng chiến lược sản phẩm đúng đắn, hấp dẫn khách hàng 68
3.3.1.1. Chính sách lãi suất 69
3.3.1.2. Kỳ hạn tín dụng 69
3.3.1.3. Phương thức cho vay 70
3.3.1.4. Quy trình và điều kiện cung cấp tín dụng 71
3.3.1.5. Tăng tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của sản phẩm tín dụng thông qua các dịch vụ có liên quan 71
3.3.2. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đánh gái khách hàng để có biện pháp đầu tư thích hợp 72
3.3.3. Thực hiện nghiêm túc quy trình thẩm định 74
3.3.4. Tăng cường gáim sát, quản lý món vay 76
3.3.4.1. Giám sát, cập nhật thông tin về khách hàng 76
3.3.4.2. Phân loại các khoản tín dụng, có biện pháp xử lý kịp thời những món vay có vấn đề 77
3.3.5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ 79
3.3.6. Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ 79
3.3.7. Tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống thông tin ngân hàng 81
3.3.8. Củng cố mô hình mạng lưới tiếp cận khách hàng công tác tiếp thị 82
3.4. Một số kiến nghị 83
3.4.1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước 83
3.4.1.1. Kiến nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh 83
3.4.1.2. Kiến nghị vè việc tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển quan hệ tín dụng an toàn, hiệu quả 87
3.4.2. Kiến nghị đối với ngân hang nhà nước 90
3.4.3. Kiến nghị với ngân hàng ngoại thương Việt Nam 92
Các ký hiệu được viết tắt trong luận văn
- DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
- QD : Quốc doanh
- NQD : Ngoài quốc doanh.
- NHNT : Ngân hàng ngoại thương.
- NHTM : Ngân hàng thương mại.
- VCBTW : Ngân hàng ngoại thương trung ương
- TW : Trung ương
- USD : Đồng đô la Mỹ.
- VND : Đồng Việt Nam
- L/C : Thư tín dụng.
- NHNN : Ngân hàng Nhà nước
- CP : Chính phủ.
- NQH : Nợ quá hạn
Danh mục các bảng biểu, biểu đồ
1. Bảng 1.1. Các doanh nghiệp chế tạo tư nhân có đăng ký và định hướng xuất khẩu
2. Bảng 1.2: Cơ cấu GDP theo giá hiệu hành phân theo thành phần kinh tế
3. Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn qua các thời kỳ
4. Bảng 2.2: Hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội
5. Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh
6. Bảng 2.4: Cơ cấu cho vay chia theo thành phần kinh tế
7. Bảng 2.5: Tình hình thu nợ qua các năm
8. Bảng 2.6: Dư nợ phân theo thành phần kinh tế
9. Bảng 2.7: Cơ cấu cho vay và dư nợ đối với khu vực kinh tế NQD
10. Bảng 2.8: Tình hình nợ quá hạn của khu vực kinh tế NQD
11. Bảng 2.9: Cơ cấu dư nợ quá hạn của khu vực kinh tế NQD phân theo thời gian.
12. Bảng 2.10: Dư nợ quá hạn phân theo nguyên nhân
13. Biểu đồ 2.1: So sánh nguồn và dư nợ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội
14. Biểu đồ 2.2: So sánh dư nợ phân theo khu vực kinh tế.
15. Biểu đồ 2.3: So sánh cơ cấu doanh số cho vay theo kỳ hạn đối với khu vực kinh tế NQD
16. Biểu đồ 2.4: So sánh tỷ lệ nợ quá hạn phân theo khu vực kinh tế .
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH372.doc