Trang 1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH, CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH,
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 Khái niệm về cạnh tranh, các chiến lược cạnh tranh của Michale porter 1
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 1
1.1.2 Các chiến lược về lợi thế cạnh tranh của Michael Porter 1
1.2 Tổng quan về NHTM, tầm quan trọng của việc mở rộng tín dụng 3
& phát triển dịch vụ của ngân hàng
1.2.1 Định nghĩa NHTM 3
1.2.2 Chức năng của NHTM
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Tp. Cần thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4
1.2.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM 5
1.2.4 Tín dụng ngân hàng, nghiệp vụ quan trọng của NHTM 11
1.2.5 Tầm quan trọng của việc mở rộng tín dụng ngân hàng 13
1.2.6 Một số kinh nghiệm mở rộng tín dụng ở các quốc gia trong khu vực 15
1.2.7 Dịch vụ ngân hàng, tầm quan trọng của việc phát triển dịch vụ 16
ngân hàng trong thời đại công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế
Kết luận chương i 18
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG & DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TP CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2002-2004
2.1 Hệ thống ngân hàng Việt Nam: Khả năng cạnh tranh, cơ hội và 19
thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế – xu thế không thể đảo ngược 19
2.1.2 Hệ thống Ngân hàng Việt Nam và khả năng cạnh tranh 21
2.1.3 Cơ hội và thách thức đối với các Ngân hàng Việt Nam trong 28
hội nhập kinh tế quốc tế
2.2 Tình hình kinh tế xã hội TP Cần Thơ giai đoạn 2001-2005 33
2.2.1 Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội 33
của TP Cần Thơ
2.2.2 Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của TP Cần Thơ 34
thời kỳ 5 năm 2001-2005
2.2.3 Phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP.Cần Thơ đến năm 2020 35
Trang 2
2.3 Thực trạng hoạt động tín dụng & dịch vụ của các NHTM 36
trên địa bàn TP Cần Thơ
2.3.1 Về hoạt động tín dụng 37
2.3.1.1 Dư nợ phân theo thời hạn cho vay 37
2.3.1.2 Dư nợ cho vay phân loại theo thành phần kinh tế 40
2.3.1.3 Chất lượng của hoạt động tín dụng 42
2.3.1.4 Những khó khăn tồn tại trong hoạt động tín dụng ngân hàng 45
2.3.2 Về hoạt động dịch vụ 48
2.3.2.1 Các loại hình dịch vụ chủ yếu hiện nay của các NHTM 48
trên địa bàn TP. Cần Thơ
2.3.2.2 Thực trạng về hoạt động dịch vụ của các NHTM TP Cần Thơ 49
giai đoạn 2002-2004
2.3.2.3 Những hạn chế của các dịch vụ Ngân hàng hiện nay 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG II 55
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG & DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG TRÊN ĐỊA BÀN TP CẦN THƠ
3.1 Chủ trương định hướng mở rộng hoạt động tín dụng và 56
dịch vụ ngân hàng trên địa bàn thành phố Cần Thơ
3.2 Các giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng 57
3.2.1 Giải pháp tăng trưởng nguồn vốn huy động để mở rộng tín dụng 57
3.2.2 Mở rộng tín dụng trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp và nuôi 60
trồng thủy hải sản
3.2.3 Mở rộng tín dụng tiêu dùng và cho vay các cơ quan hành 62
chánh sự nghiệp có thu
3.2.4 Mở rộng nghiệp vụ tín dụng cho vay thế chấp 63
3.3 Các giải pháp mở rộng dịch vụ 64
3.3.1 Giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt 64
3.3.2 Giải pháp về nâng cấp hệ thống ATM và mở rộng 65
khách hàng sử dụng ATM trên địa bàn
3.3.3 Đa dạng thêm các loại hình dịch vụ như: thanh toán 65
hộ tiêu dùng, dịch vụ phát hành thẻ bảo chi nội - ngoại tệ
cho các Ngân hàng thương mại
3.3.4 Nhanh chóng trang bị các dịch vụ Ngân hàng điện tử hiện đại 66
cho các NHTM như: Internet banking, Mobi banking, Home banking
3.4 Các kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực 67
mở rộng tín dụng và dịch vụ ngân hàng
3.4.1 Kiến nghị đối với Chính phủ 67
Trang 3
3.4.2 Kiến nghị đối với hệ thống NHNN Việt Nam 68
3.4.3 Kiến nghị đối với UBND thành phố 70
3.4.4 Những biện pháp thuộc bản thân các NHTM để mở rộng 71
tín dụng và dịch vụ ngân hàng
KẾT LUẬN CHƯƠNG III 73
PHẦN KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang 4
PHẦN MỞ ĐẦU
[ \
1/ Tính thiết thực của đề tài:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của thế kỷ 21. Việt Nam cũng
như các nước đang phát triển khác trên thế giới đang nỗ lực hoà mình vào dòng hội
nhập. Chủ trương hội nhập, tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu,
đặc biệt gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong thời gian tới đã được Bộ
Chính trị khẳng định tại Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong qúa trình hội nhập, Ngân hàng được xác định là một trong những
ngành dịch vụ quan trọng và nhạy cảm.
Mục tiêu của luận văn nhằm giới thiệu bức tranh tổng thể về hệ thống Ngân
hàng Việt Nam, khả năng cạnh tranh, những điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và
thách thức của Ngành Ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đồng thời phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và dịch vụ của các Ngân hàng
thương mại trên địa bàn TP.Cần Thơ, nêu lên những mặt còn tồn tại và hạn chế về
mở rộng tín dụng – dịch vụ của các Ngân hàng trên địa bàn. Trên cơ sở đó, để tiếp tục
tồn tại và phát triển, đủ sức cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài việc tìm ra các
giải pháp để mở rộng tín dụng và dịch vụ cho các Ngân hàng thương mại TP.Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết và mang tính thực tiễn cao.
2/ Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tập trung vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu một cách có khoa học những lý luận cơ bản về cạnh tranh, chiến
lược cạnh tranh, NHTM, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng trong cơ chế thị trường, tầm
quan trọng và sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
- Phân tích thực trạng của hệ thống NHTM Việt Nam, khả năng cạnh tranh
của các NHTM Việt Nam so với các Ngân hàng nước ngoài, đồng thời phản ánh thực
trạng hoạt động tín dụng – dịch vụ của các NHTM trên địa bàn TP.Cần Thơ giai đoạn
2002-2004, xác định được những khó khăn, hạn chế trong việc mở rộng tín dụng và
dịch vụ của các Ngân hàng trên địa bàn.
- Tìm ra những biện pháp nhằm mở rộng tín dụng và dịch vụ Ngân hàng phù
hợp với định hướng phát triển của thành phố, và đề xuất những kiến nghị trong hoạt
động mở rộng tín dụng – dịch vụ Ngân hàng.
3/ Phương pháp nghiên cứu:
Trang 5
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu có sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, kết hợp với phương pháp thống kê và phương pháp so sánh để phân tích và làm
rõ những vấn đề cơ bản của luận văn.
4/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực trạng hệ thống NHTM Việt Nam,
nền kinh tế xã hội TP.Cần Thơ, thực trạng hoạt động tín dụng và dịch vụ của các
NHTM trên địa bàn TP.Cần Thơ và tìm ra các giải pháp để mở rộng tín dụng và dịch
vụ Ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm đánh giá thực trạng khả năng cạnh
tranh của hệ thống NHTM Việt Nam so với các Ngân hàng nước ngoài, tình hình kinh
tế xã hội TP.Cần Thơ, hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn qua các năm
2002-2004.
5/ Những đóng góp cơ bản của luận văn:
Thực trạng khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam và hoạt động
tín dụng –dịch vụ của các NHTM trên địa bàn TP.Cần Thơ đã được luận văn phân
tích và nhận xét rõ nét, những khó khăn và hạn chế trong việc mở rộng tín dụng và
dịch vụ ngân hàng. Luận văn đã nêu lên được vai trò và tầm quan trọng của việc mở
rộng tín dụng và dịch vụ ngân hàng với những giải pháp và kiến nghị cụ thể phù hợp
với tình hình thực tế nên có thể xem xét để áp dụng vào thực tiễn.
Trang 6
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH, CHIẾN LƯỢC CẠNH
TRANH, TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (
NHTM )TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1/ Khái niệm về cạnh tranh, các chiến lược cạnh tranh của Michale Porter:
1.1.1/ Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế là một cuộc chạy đua về giá, cuộc chiến về
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng. Cuộc tranh đua
xảy ra do một hoặc nhiều đối thủ hoặc cảm thấy bị chèn ép hoặc thấy cơ hội để cải
thiện vị trí. Khi một công ty có một bước đi mới thì có những hiệu ứng rõ ràng đối với
những đối thủ của nó và như thế có thể kích thích sự trả đũa hoặc những cố gắng
chống trả lại, nói một cách khác là giữa các đối thủ luôn có sự phụ thuộc lẫn nhau
không thể tránh khỏi. Ngoài áp lực từ các đối thủ hiện tại, doanh nghiệp còn phải chịu
4 áp lực khác đó là nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ mới, mối đe dọa của các sản
phẩm thay thế, quyền lực của người mua, quyền lực của người cung ứng. Như thế để
đạt được thắng lợi trong cạnh tranh, các công ty cần phải đánh giá, chọn đúng chiến
lược để tạo lợi thế, khẳng định vị trí của mình.
1.1.2/ Các chiến lược về lợi thế cạnh tranh của Michael Porter:
Theo Michael Porter :“Lợi thế cạnh tranh về cơ bản xuất phát từ giá trị mà
một xí nghiệp có thể tạo ra cho người mua và giá trị đó vượt quá phí tổn của xí
nghiệp”. Ông đưa ra 3 loại chiến lược chung về cạnh tranh gồm : Chiến lược chi phí
thấp nhất, chiến lược khác biệt hoá, và chiến lược trọng tâm hoá. Mỗi chiến lược này
có thể được lựa chọn theo điều kiện kinh doanh riêng của từng doanh nghiệp. Trong
lĩnh vực hoạt động kinh doanh Ngân hàng, về cơ bản các chiến lược chung nói trên
thường được hiểu như sau:
- Chiến lược chi phí thấp nhất: Đây là chiến lược hướng tới sự đạt được vị trí hơn
hẳn về chi phí thông qua một loạt các chính sách hoạt động hướng vào thực hiện mục
tiêu. Đôi khi chiến lược này cũng được hiểu là chiến lược cạnh tranh về giá khi cung
cấp dịch vụ sản phẩm trên thị trường. Chi phí thấp mang lại cho các NHTM tỷ lệ lợi
nhuận cao hơn mức bình quân trong ngành, bất chấp sự cạnh tranh mạnh mẽ của các
đối thủ khác. Đặc điểm của chiến lược cạnh tranh này là việc chú trọng đến kiểm soát
chặt chẽ chi phí hoạt động của các NHTM, sử dụng chặt chẽ ngân sách hoạt động, tạo
ra ít sự khác biệt về sản phẩm – dịch vụ, hạn chế đoạn thị trường một cách quá chi
tiết.
- Chiến lược khác biệt hoá các sản phẩm và dịch vụ: Chiến lược mà các NHTM
nhắm tới việc tạo ra điểm độc đáo riêng được thừa nhận trong toàn ngành. Trong
chiến lược này, khách hàng sẽ nhận ra sự khác biệt của sản phẩm dịch vụ, đánh giá
Trang 7
cao về sản phẩm dịch vụ và sẵn sàng trả giá thêm cho sự khác biệt đó. Chiến lược
khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ, nếu đạt được sẽ tạo một vị trí chắc chắn cho các
NHTM đối phó với những đối thủ cạnh tranh vì có niềm tin của khách hàng vào uy tín
và chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình.
- Chiến lược trọng tâm hoá: Nhằm tập trung vào một nhóm khách hàng cụ thể,
một bộ phận trong các loại sản phẩm, dịch vụ hay mảng thị trường nào đó. Nếu như
chiến lược chi phí thấp và khác biệt hoá hướng vào thực hiện các mục tiêu với phạm vi
hoạt động toàn ngành, thì chiến lược trọng tâm hoá được xây dựng xoay quanh việc
phục vụ thật tốt một thị trường mục tiêu đích và mỗi chính sách kèm theo đều được
phát triển theo những “ngách” đó của thị trường.
1.2/ Tổng quan về NHTM, tầm quan trọng của việc mở rộng tín dụng & phát triển
dịch vụ của Ngân hàng:
1.2.1/ Định nghĩa NHTM :
Trong lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng, NHTM (Commercial Bank)
đã hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự phát
triển của NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến qúa trình phát triển của
kinh tế hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
nhất của nó là kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính trung gian không thể thiếu được trong hệ thống kinh
tế toàn xã hội .
Các nhà kinh tế học, các nhà quản lý kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm về
NHTM, cụ thể như sau :
- Theo Smishkin : Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền.
- Theo luật ngân hàng của Thổ Nhĩ Kỳ: “NHTM là Hội trách nhiệm hữu hạn
thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác”.
- Theo luật ngân hàng của Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ
sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký
thác hoặc dưới dạng hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ vào nghiệp
vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính” . Như vậy, có thể nói rằng NHTM là định chế
tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ
thống định chế tài chính này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo
lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế .
- Theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của Việt
Nam được công bố ngày 24/05/1990: “Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gởi của khách hàng với trách nhiệm
Trang 8
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.
- Theo luật các tổ chức tín dụng công bố ngày 12/12/1997, tại điều 20 khoản 2:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động
, các loại hình ngân hàng gồm có ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng
khác”.
Mặc dù các định nghĩa trên có khác nhau về cách thể hiện nhưng giữa chúng
không có sự mâu thuẩn, có thể rút ra định nghĩa chung về NHTM như sau“Ngân hàng
thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhận
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
1.2.2/ Chức năng của NHTM :
Thông qua qúa trình hoạt động, NHTM thực hiện các chức năng sau:
1.2.2.1/ Chức năng trung gian tín dụng:
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng và có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển . Thực hiện chức
năng này, một mặt NHTM huy động vốn tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế trong các tổ chức kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tiền tiết kiệm
của dân cư ...để hình thành nguồn vốn cho vay, mặt khác trên cơ sở nguồn vốn đã huy
động được, ngân hàng sử dụng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
1.2.2.2/ Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán:
Trong chức năng này, xuất phát từ việc ngân hàng là người thủ qũy của các
doanh nghiệp, khiến cho ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự ủy
nhiệm của khách hàng. Trong qúa trình thanh toán ngân hàng đã sử dụng giấy bạc
ngân hàng thay cho vàng trong lưu thông, và sau đó là sử dụng những công cụ lưu
thông tín dụng thay cho giấy bạc ngân hàng.
1.2.2.3/ Chức năng cung cấp dịch vụ tài chính -ngân hàng :
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân qũy, ngân hàng có những
điều kiện thuận lợi về kho qũy, thông tin quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Qua
đó, ngân hàng có thể làm tư vấn tài chính, đầu tư, giữ hộ giấy tờ, chứng khoán, làm
đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp để nhận tiền hoa hồng, sẽ
vừa tiết kiệm chi phí vừa đạt hiệu qủa cao. Còn trong qúa trình tham gia thị trường
tiền tệ dưới hình thức mua bán các chứng khoán, phát hành và bán các cổ phiếu, mua
bán số dư trên tài khoản tại ngân hàng Nhà nước ... thì ngân hàng thương mại đơn
thuần là doanh nghiệp kinh doanh để thu lợi nhuận.
Trang 9
1.2.3/ Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM :
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng, nghiệp vụ của nó có thể chia thành những nhóm sau: Nghiệp vụ tạo vốn-nghiệp
vụ nợ; Nghiệp vụ sử dụng vốn - nghiệp vụ có; Nghiệp vụ trung gian- nghiệp vụ kinh
doanh dịch vụ ngân hàng .
1.2.3.1/ Nghiệp vụ tạo vốn - Nghiệp vụ nợ:
Là nghiệp vụ hình thành nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, được gọi là
nghiệp vụ cơ bản vì các nguồn vốn này nằm bên tài sản nợ trên bảng tổng kết tài sản
của ngân hàng thương mại gồm có :
a. Vốn tự có và quỹ ngân hàng trong đó: Vốn điều lệ là số vốn ban đầu phải lớn
hơn mức tối thiểu do Nhà nước qui định mà ngân hàng phải có để được phép hoạt
động . Các quỹ ngân hàng bao gồm : quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát
triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng,
phúc lợi .
Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, nhưng nó đóng vai trò quan trọng vì đó là cơ sở để tiến hành kinh
doanh , thu hút những nguồn vốn khác .
b. Vốn tiền gửi của khách hàng gồm có :
- Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà chủ của nó chỉ được rút ra khi tới hạn hoặc
muốn rút ra phải báo trước.
- Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gởi của các tổ chức và cá nhân gởi vào
ngân hàng không nhằm mục đích sinh lợi mà nhằm đảm bảo an toàn và thực hiện các
khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là loại tiền gửi
mà người sở hữu nó có thể rút ra để sử dụng bất kỳ lúc nào.
c. Nguồn vốn đi vay bao gồm:
- Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu chứng chỉ tiền
gửi của ngân hàng.
- Vốn vay của Ngân hàng Nhà nước: Khi Ngân hàng Nhà nước nhận cho vay,
chiết khấu, tái chiến khấu các giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại .
- Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị
trường tiền tệ ngắn hạn .
- Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài .
d. Nguồn vốn tiếp nhận:
Trang 10
Đây là nguồn vốn mà các NHTM nhận ủy thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài
nước từ ngân sách Nhà nước để cho vay theo kế hoạch tập trung theo chỉ định của
Nhà nước.
e. Các nguồn vốn khác:
Như vốn phát sinh trong qúa trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý,
dịch vụ thanh toán, bán chứng phiếu có giá, làm trung gian thanh toán.
1.2.3.2/ Nghiệp vụ sử dụng vốn - nghiệp vụ có:
a. Thiết lập dự trữ và các qũy dự trữ:
Dự trữ nhằm duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của khách hàng và
bản thân ngân hàng bao gồm : Tiền mặt tại quỹ và tiền gửi bắt buộc tại ngân hàng
Nhà nước, tiền gửi tại các NHTM và tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh
toán, tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá để sinh lợi; Quỹ dự trữ trích theo tỷ lệ
phần trăm theo qui định trên số lợi nhuận ròng của ngân hàng bao gồm : Trích 5% lợi
nhuận ròng hàng năm để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự phòng rủi ro.
b. Nghiệp vụ tín dụng:
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ chính của NHTM. Cơ cấu thu nhập
trong nghiệp vụ này mang lại luôn chiếm tỷ lệ lớn . Khi nền kinh tế càng phát triển,
nhu cầu vốn kinh doanh trong xã hội càng nhiều, vai trò của nguồn vốn tín dụng càng
quan trọng. NHTM đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín
dụng sau :
* Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá :
Là việc ngân hàng mua lại thương phiếu của khách hàng, đây là những thương
phiếu còn trong thời hạn hiệu lực. Người sở hữu thương phiếu khi bán cho ngân hàng
sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân
hàng qui định.
* Nghiệp vụ tín dụng thế chấp :
Tín dụng thế chấp là một hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp
của khách hàng, tài sản này phải là tài sản hợp pháp thuộc quyền sở hữu của người
vay, có thể bán được nhanh chóng . Khi cho vay, ngân hàng cho vay theo một tỉ lệ
trên trị giá thực tế của tài sản thế chấp và ngân hàng chỉ giữ giấy chủ quyền về tài
sản và văn thư thế chấp có xác nhận của công chứng. Khi hết hạn vay người vay phải
hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng để nhận lại các giấy tờ trên, nếu không trả được nợ
và lãi ngân hàng được quyền yêu cầu tòa án cho lệnh phát mãi tài sản để thu nợ .
* Nghiệp vụ tín dụng ứng trước vào tài khoản:
Trang 11
Đây là thể thức cấp tín dụng mà trong đó ngân hàng đồng ý cho khách hàng sử
dụng một mức tín dụng nhất định trong thời gian nhất định, đồng thời hai bên ký kết
với nhau một hợp đồng tín dụng. Mức cho vay có thể thực hiện theo 2 cách : Chuyển
tất cả khoản tiền vay vào tài khoản tiền gửi, hoặc cho phép khách hàng sử dụng dần
số tiền vay bằng cách phát hành séc hoặc các công cụ thanh toán khác ngay trên tài
khoản vãng lai .
* Nghiệp vụ tín dụng thuê mua và tín dụng đầu tư :
- Tín dụng thuê mua : Là việc ngân hàng đứng ra mua tài sản của người cung
cấp để cho thuê đối với người có nhu cầu sử dụng . Khi hợp đồng cho thuê hết hạn,
người đi thuê có thể trả lại tài sản đó cho ngân hàng, xin gia hạn thêm hợp đồng hoặc
mua lại tài sản đó theo giá cả thoả thuận với ngân hàng .
- Tín dụng đầu tư : Thực chất là khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng
để tài trợ cho các doanh nghiệp trong các dự án đầu tư như các công trình xây dựng,
cải tạo mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh ...
* Nghiệp vụ bảo lãnh :
- Xét theo khía cạnh học thuật, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức “Tín dụng
chữ ký - Signature Credit”, là hoạt động không dùng đến vốn của ngân hàng .
- Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định bảo lãnh ngân hàng là một
hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ
chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết .
- Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một loại hình
tài trợ ngoại thương, nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo lãnh do
sự vi phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan .
* Nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng:
Đây là loại tín dụng cho vay tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng
bao gồm cá nhân và hộ gia đình để trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ,
giáo dục, y tế ...
c. Nghiệp vụ đầu tư :
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh
nghiệp khác như :
+ Đầu tư chứng khoán bằng cách cho các công ty cổ phần đã hoạt động, các xí
nghiệp vay bằng cách mua trái khoán xí nghiệp, cho Ngân sách vay bằng cách mua
công trái, đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ phiếu công ty .
+ Hùn vốn, liên doanh ...là các biện pháp trực tiếp góp vốn đối với các doanh
nghiệp để thành lập các công ty, xí nghiệp mới .
Trang 12
Theo luật Ngân hàng qui định, NHTM chỉ được phép dùng nguồn vốn tự có để
thực hiện nghiệp vụ đầu tư .
1.2.3.3/ Nghiệp vụ trung gian - Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Đây là những nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự ủy nhiệm
của khách hàng để hưởng tiền hoa hồng như :
+ Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu
cầu hoặc trả cho một người nào đó .
+ Thu hộ: Ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu các khoản kỳ phiếu
đến hạn, chứng khoán, hàng hóa đã bán để thu cổ tức .. .
+ Ủy thác là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như
quản lý tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản tài sản có giá .. .
+ Mua bán hộ: Theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành
cổ phiếu hoặc trái khoán Nhà nước, hoặc mua bán ngoại tệ, kim khí quý , đá quý cho
khách hàng .
+ Làm tư vấn về tài chính, tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính
sách tài chính tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư ... cho
khách hàng .
Như vậy, nền kinh tế thị trường thông qua những qui luật của nó đã tạo ra
những động lực rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế, song cũng sẽ sẵn sàng đào thải
những cá nhân hoặc tổ chức kinh tế không thích ứng. Chính những đòi hỏi này, hoạt
động kinh doanh của các NHTM trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong
phú, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu ngày càng cao của các cá nhân và tổ chức kinh tế .
Trong tương lai, NHTM phải không ngừng tìm tòi, phát triển và mở rộng những hình
thức cấp tín dụng, tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ tiện ích cho khách hàng để
hoạt động kinh doanh của các NHTM ngày càng phát triển .
1.2.4/ Tín dụng ngân hàng , nghiệp vụ quan trọng của NHTM:
1.2.4.1/ Khái niệm tín dụng ngân hàng :
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân, được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng
ra huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối với các đối tượng nói trên .
Tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế, tùy theo mục đích sử dụng tín dụng ngân hàng được chia ra
nhiều loại khác nhau . Nếu căn cứ vào mục đích thì tín dụng được phân ra cho vay
theo lãnh vực bất động sản, công nghiệp, thương mại, nông nghiệp và dịch vụ ... cho
vay các định chế tài chính, cho vay cá nhân và cho thuê . Nếu căn cứ vào thời hạn cho
vay thì có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm có
Trang 13
cho vay không có bảo đảm và cho vay có bảo đảm, ngoài ra còn có thể căn cứ vào
xuất xứ tín dụng, phương pháp hoàn trả ...
1.2.4.2/ Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
- Đối tượng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ, nghĩa là ngân hàng huy động
vốn và cho vay bằng tiền .
- Trong tín dụng ngân hàng, các chủ thể của nó được xác định một cách rõ
ràng, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân là
người đi vay .
- Tín dụng ngân hàng vừa là tín dụng mang tính chất sản xuất kinh doanh gắn
với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa là tín dụng tiêu dùng,
không gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, qúa trình
vận động và phát triển của tín dụng Ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với qúa
trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
1.2.4.3/ Tín dụng ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng của NHTM :
Ngân hàng với chức năng huy động vốn của xã hội để cho vay, ngân hàng vừa
là người đi vay vừa là người cho vay. Một mặt ngân hàng vừa phải trả lãi tiền gởi cho
khách hàng một mặt vừa phải tìm được đầu ra để cho vay, nếu không tìm được đầu ra
ngân hàng sẽ hoạt động không có hiệu qủa nên nghiệp vụ tín dụng ngân hàng rất
quan trọng đối với NHTM .
Hơn nữa, do đặc thù của nền kinh tế, nhất là ở các quốc gia đang phát triển,
nhu cầu vốn đầu tư cho toàn xã hội là rất lớn, ngoài các kênh huy động vốn để đáp
ứng nhu như thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư, công ty tài chính, các quỹ hỗ
trợ... thì nguồn vốn tín dụng của NHTM được xem là nguồn vốn chủ lực không thể
thiếu được đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực tế ở các NHTM nghiệp
vụ tín dụng ngân hàng sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt động của ngân hàng để cho
vay, cơ cấu nguồn thu do nghiệp vụ này mang lại luôn chiếm một tỷ lệ cao, tỷ lệ này ở
các nước đang phát triển là khoảng 80%, riêng ở TP.Cần Thơ là 93% trong tổng
nguồn thu hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vì vậy với vị thế quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, nâng
cao mức sống xã hội và là nghiệp vụ chính tạo ra nguồn thu lớn cho ngân hàng nên có
thể xác định rằng: Nghiệp vụ tín dụng ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng nhất trong
hoạt động kinh doanh của các NHTM .
1.2.5/ Tầm quan trọng của việc mở rộng tín dụng ngân hàng:
1.2.5.1/ Đối với các NHTM :
- Mở rộng tín dụng ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện sử dụng tốt
nguồn vốn đã huy động từ xã hội, làm tăng hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng .
Trang 14
- Mở rộng tín dụng ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện tối đa hóa lợi
nhuận và phân tán được rủi ro cho ngân hàng .
- Mở rộng tín dụng ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện phát triển,
mở rộng hoạt động kinh doanh, làm tăng tổng tài sản, ngân hàng có thể phát triển
thành những tập đoàn tài chính có nhiều công ty con và chi nhánh trực thuộc.
1.2.5.2/ Đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế :
- Tín dụng ngân hàng có thể mở rộng cho mọi đối tượng trong xã hội, nó có thể
xâm nhập vào mọi ngành, với nhiều loại hình và qui mô hoạt động khác nhau, đáp ứng
nhu cầu về vốn cho các cá nhân cho các tổ chức kinh tế để duy trì và mở rộng hoạt
động kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
- Tín dụng ngân hàng không bị giới hạn về qui mô, có thể cung ứng vốn cho nền
kinh tế với số lượng rất lớn, với nhiều thời hạn khác nhau, nhờ đó giúp các doanh
nghiệp không những có vốn để kinh doanh mà còn có vốn để mở rộng đầu tư, đổi mới
thiết bị, nhằm nâng cao nâng lực sản xuất, như vậy tín dụng ngân hàng có tác dụng
đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế .
- Hoạt động của tín dụng ngân hàng còn có tác động và ảnh hưởng lớn đối với
tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Nhờ hoạt động của tín dụng ngân hàng mà
vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế,
nó vừa có tác dụng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, vừa làm cho các chu chuyển
tiền tệ được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng. Đó là những điều kiện quan
trọng để ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả thị trường.....
1.2.6/ Một số kinh nghiệm mở rộng tín dụng ở các quốc gia trong khu vực:
Trong qúa trình phát triển, NHTM ở các quốc gia trong khu vực cũng rất chú
trọng đến công tác mở rộng tín dụng, có những quốc gia khi mở rộng tín dụng đã thu
được những thành công như thúc đẩy được nền kinh tế phát triển, ngân hàng ngày
càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, ngược lại có những quốc gia khi mở rộng
tín dụng đã gặp phải những trở ngại gây ra những cuộc khủng hoảng tài chính rất
nghiêm trọng .
* Trung Quốc: Khi thực hiện nền kinh tế mở nhiều thành phần, các NHTM
Trung Quốc rất chú trọng đầu tư vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các
công ty vừa và nhỏ, tỷ lệ dư nợ ở lãnh vực này thường rất cao chiếm trên 65% tổng dư
nợ ở các NHTM, tuy lúc đầu cũng có rủi ro nhưng khi ổn định kinh tế ngoài quốc
doanh đã trở thành nền tảng để nền kinh tế Trung Quốc phát triển . Đây là xu hướng
mở rộng tín dụng đúng đắn đã được kiểm định qua thực tế các NHTM Việt Nam có
thể ứng dụng để mở rộng và tăng trưởng tín dụng .
Trang 15
* Hàn Quốc: Là một quốc gia phát triển, tiềm năng dự trữ ngoại tệ rất lớn.
Ngoài các hình thức mở rộng tín dụng thông thường, nét nổi bật của Hàn Quốc trong
việc mở rộng tín dụng là tài trợ xuất khẩu:
- Tín dụng xuất khẩu, tài trợ trực tiếp cho các giao dịch xuất khẩu loại hàng tư
liệu sản xuất do Hàn Quốc chế tạo bao gồm nhà máy, tàu biển, máy bay, máy móc,
thiết bị điện tử, xe vận tải, sắt thép các loại ... mọi nhà xuất hoặc nhập khẩu Hàn
Quốc đều được ._.tham gia .
- Tín dụng tài trợ gián tiếp qua người mua, các NHTM Hàn Quốc cho người
mua nước ngoài vay vốn trung và dài hạn để mua hàng tư liệu sản xuất do Hàn Quốc
sản xuất, điều này đã cho phép các nhà xuất khẩu Hàn Quốc được thanh toán ngay
khi thực hiện giao hàng .
- Tín dụng dịch vụ kỹ thuật : Tín dụng dịch vụ kỹ thuật là cấp tài trợ cho các
doanh nghiệp Hàn Quốc nhằm thúc đẩy việc bán ra nước ngoài các dịch vụ kỹ thuật
bao gồm: bí quyết kỹ thuật, nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, các công trình xây
dựng ở nước ngoài ...
Đây là các hình thức mở rộng tín dụng hiện đại khi nền kinh tế trong nước đã
rất phát triển, tiềm lực tài chính của các NHTM là rất lớn .
+ Thái Lan: Đây là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu
vực Đông Nam Á, mở rộng tín dụng ở Thái lan có các điểm chung là tập trung vốn
đầu tư vào ngành nghề có tỷ suất sinh lợi cao, chạy theo thị hiếu của thị trường, đầu tư
vào lãnh vực bất động sản và kinh doanh xây dựng với tỷ trọng rất lớn . Đây là một
nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997 ở Thái Lan vì khi thị
trường bất động sản bị biến động, đóng băng, ít người mua, chủ đầu tư sẽ không có
tiền thanh toán nợ, ngân hàng có khả năng bị vỡ nợ .
1.2.7/ Dịch vụ ngân hàng, tầm quan trọng của việc phát triển dịch vụ ngân
hàng trong thời đại công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế:
Dịch vụ ngân hàng có thể được hiểu là gồm tất cả các hình thức kinh doanh của
ngân hàng mà không phải đầu tư, cho vay vốn. Hay nói cách khác, dịch vụ ngân hàng
là loại hình kinh doanh không dùng đến nguồn vốn (từ tài sản nợ) mà chỉ dựa trên khả
năng, trình độ chuyên môn, công nghệ và các phương tiện kỹ thuật.
Trong nền kinh tế hội nhập, dịch vụ ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng
trong giao thương quốc nội và quốc tế, nó gắn kết tất cả các đối tác làm ăn kinh tế lại
với nhau một cách nhanh nhất và đảm bảo an toàn nhất. Đây cũng là “ưu thế và lợi
thế tự nhiên” của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, dịch vụ nói chung, dịch vụ
ngân hàng nói riêng thuộc phạm trù kinh tế – khoa học – công nghệ – kỹ thuật có
hàm lượng chất xám cao, gắn kết con người với các phương tiện máy móc hiện đại. Có
thể nói các loại dịch vụ ngân hàng là: Các phương tiện, công cụ vô hình dùng để
Trang 16
chuyển tải các loại hình hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng các phương tiện công
cụ hữu hình (các loại máy móc, thiết bị, công nghệ). Dịch vụ ngân hàng càng phong
phú, đa dạng về hình thức: đa phương, đa chiều về không gian giao dịch và đối tác giao
dịch thì yêu cầu càng cao về tính tiên tiến, hiện đại của máy móc, thiết bị, công nghệ.
Những phương tiện, công cụ hữu hình này là nền tảng, là cơ sở hạ tầng cho việc phát
triển và mở rộng các loại dịch vụ ngân hàng. Và chính nhờ vào các phương tiện, công
cụ vô hình và hữu hình này mà quá trình lưu thông, chu chuyển tiền tệ, nguồn vốn xã
hội, hàng hoá đã diễn ra một cách thuận lợi, suôn sẻ, nhanh chóng, kịp thời. Đặc biệt
thông qua dịch vụ ngân hàng, vòng quay tiền tệ càng nhanh, kéo theo số sinh lời càng
lớn. Như vậy, có thể khẳng định: Không có dịch vụ ngân hàng thì nền kinh tế không
thể vận động được thuận lợi và dịch vụ ngân hàng chậm phát triển thì sẽ gây ách tắc
rất lớn cho nền kinh tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I: Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là định chế tài
chính trung gian quan trọng, thông qua các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM nguồn vốn
nhàn rỗi của xã hội được huy động, tạo lập ra nguồn vốn tín dụng để cho vay và phát
triển kinh tế. Đồng thời, dưới tác động của các dịch vụ ngân hàng quá trình lưu thông,
chu chuyển tiền tệ, nguồn vốn xã hội và hàng hoá đã diễn ra một cách thuận lợi,
nhanh chóng. Do đó, việc mở rộng tín dụng & dịch vụ ngân hàng là rất cần thiết, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, đồng thời đem lại lợi nhuận cho
chính bản thân ngân hàng.
Thông qua hoạt động phân tích thực trạng của hệ thống NHTMVN và tình hình
hoạt động tín dụng - dịch vụ của các NHTM trên địa bàn TP Cần Thơ sẽ cho chúng ta
một nhận xét toàn diện và sâu sắc hơn về năng lực cạnh tranh của các NHTMVN so
với ngân hàng nước ngoài, đồng thời nêu ra những mặt hạn chế, tồn tại trong hoạt
động tín dụng-dịch vụ của các NHTM TP Cần Thơ, để từ đó tìm ra những giải pháp
mở rộng tín dụng & dịch vụ cho các NHTM TP Cần Thơ, góp phần nâng cao sức cạnh
tranh cho các NHTM trên địa bàn trong tiến trình hội nhập.
Trang 17
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG &
DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA
BÀN TP CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2002-2004.
2.1/ Hệ thống Ngân hàng Việt Nam: Khả năng cạnh tranh, cơ hội và thách thức trong
hội nhập kinh tế quốc tế:
2.1.1/ Hội nhập kinh tế quốc tế – xu thế không thể đảo ngược:
2.1.1.1/ Bối cảnh quốc tế:
Toàn cầu hoá là xu thế lớn của thế kỷ 21, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nền
kinh tế trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế – thương mại. Tất cả các nước
đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung vì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Các
nước lớn, nhỏ, các nước có nền kinh tế “khép kín” đều tiến hành điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, thức hiện chính sách mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới.
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cách mạng tin học
và sinh học, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã được đẩy nhanh. Các mối quan hệ kinh
tế giữa các nước ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, không chỉ trong
thương mại xuất nhập khẩu, đầu tư mà mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như tài
chính – Ngân hàng, chuyển giao công nghệ, lao động. Nhiều nước ngoài việc tham gia
các khu vực mậu dịch tự do song phương như Singapore ký với Nhật và Mỹ, Thái Lan
ký với Nhật cam kết về tự do thương mại ở mức cao hơn so với khuôn khổ AFTA.
Trung Quốc đã ký với các nước ASEAN hiệp định mậu dịch tự do được coi là bước
khởi đầu cho việc hình thành một khu vực mậu dịch tự do vào năm 2010 lớn nhất thế
giới với gần 2 tỷ người tiêu dùng, GDP của khối vào khoảng 2100 tỷ USD.
2.1.1.2/ Chủ trương của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Chủ trương phát triển một nền kinh tế mở đã được Đảng và Chính phủ ta xác
định ngay khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vào năm 1945 và trong các
văn kiện Đại hội Đảng. Đại hội Đảng IX đã nêu rõ chủ trương và phương châm của
Việt Nam là “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc…”. Chủ trương hội nhập, tham gia các
tổ chức kinh tế trong khu vực và toàn cầu, đặc biệt gia nhập WTO đã được Bộ Chính
Trị khẳng định một lần nữa trong Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập
kinh tế quốc tế. Theo đó, mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến
thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
Trang 18
nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước
mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005”.
Ngày 13/1/2003, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 42/2003/QĐ-NHNN về
Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, trong
đó nêu rõ 7 nhiệm vụ chính của ngành ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế gồm:
Công tác thông tin tuyên truyền, xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật; Hoàn thiện
chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế; Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính
tiền tệ, nâng cao khả năng cạnh tranh; Đàm phán gia nhập WTO; Đào tạo nguồn
nhân lực, mở rộng thị trường, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và
các tổ chức quốc tế.
Tại hội thảo về việc Việt Nam gia nhập WTO đầu tháng 8/2003, Chủ tịch Uỷ
ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Phó Thủ Tướng Vũ Khoan có nhận định kinh
tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu. Bằng chứng hùng hồn là kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam chiếm trên một nửa giá trị GDP, nguồn vốn FDI và ODA chiếm xấp xỉ 40%
trong nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Việt Nam đang tích cực thực hiện cam kết
theo AFTA, ASEAN, APEC và hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, đang cùng
ASEAN tiến hành đàm phán về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc…và
đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
2.1.2/ Hệ thống Ngân hàng Việt Nam và khả năng cạnh tranh:
2.1.2.1/ Hiện trạng hệ thống Ngân hàng Việt Nam:
Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm các ngân hàng thương mại và
tổ chức tín dụng phi ngân hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính…). Phân
theo cơ cấu sở hữu, hệ thống NHTM có bốn loại hình: Ngân hàng thương mại Nhà
nước, Ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng
liên doanh với nước ngoài. Hệ thống ngân hàng có mạng lưới rộng lớn đáp ứng nhu
cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế bao gồm 5 NHTM Nhà nước, 01 ngân hàng
Chính sách, 34 NHTM cổ phần (22 NHTM cổ phần đô thị và 12 NHTM cổ phần nông
thôn), ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng gồm có: 5 công ty tài chính, 8 công ty cho thuê tài chính và mạng
lưới quỹ tín dụng nhân dân.
Các NHTM Nhà nước hiện đóng vai trò chủ lực trong hoạt động ngân hàng,
chiếm khoảng hơn 70% thị phần trong phạm vi cả nước về cung ứng vốn và các dịch
vụ ngân hàng. Các NHTM cổ phần với nguồn vốn huy động chủ yếu là tiền gửi của
dân cư để cho vay, nhìn chung quy mô còn nhỏ, nhất là các ngân hàng cổ phần nông
thôn. Các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam và liên doanh với ngân
hàng Việt Nam đều là những ngân hàng lớn có uy tín trong khu vực và trên thế giới
Trang 19
nên độ an toàn khá cao và có sức cạnh tranh lớn. Tuy vậy, thị phần hoạt động của
nhóm này chỉ chiếm khoảng trên 10%.
Tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam bao gồm 26 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài ( kể cả chi nhánh của ngân hàng liên doanh Lào-Việt ), 6 chi nhánh phụ
thuộc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 3 công ty cho thuê
tài chính liên doanh và 100% vốn nước ngoài, và 41 văn phòng đại diện tổ chức tín
dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Phân theo khu vực, có 14 chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài thuộc Châu Á, 9 chi nhánh ngân hàng nước ngoài thuộc Châu Aâu, 2
chi nhánh ngân hàng nước ngoài thuộc Châu Mỹ và 1 chi nhánh ngân hàng nước ngoài
thuộc Châu Úc.
2.1.2.2/ Khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Việt Nam:
Mặc dầu công cuộc cải cách ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều
tiến bộ được quốc tế thừa nhận, song vị trí xếp hạng của Việt Nam về năng lực cạnh
tranh quốc gia ít được cải thiện. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
trên cơ sở 8 nhóm tiêu chí với hơn 155 chỉ tiêu, trong năm 2002 xếp hạng năng lực
cạnh tranh quốc gia của Việt Nam xếp thứ 65 trên tổng số 80 nước trong khi vị trí của
Trung Quốc đã có cải thiện rõ rệt từ xếp hạng thứ 47/75 năm 2001 lên thứ 33/80 trong
năm 2002.
Trong bối cảnh này, năng lực cạnh tranh ngành ngân hàng có thể thấy là còn
yếu ở một số khía cạnh như: Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ chưa được đổi
mới kịp thời, các công cụ gián tiếp trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ sơ
khai. Hệ thống thanh toán giữa ngân hàng và khách hàng và thanh toán liên hàng
chậm đổi mới, tình trạng thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn khá phổ biến, gây ảnh
hưởng tới việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống. Cơ cấu tổ
chức của Ngân hàng Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của
một hệ thống được quản lý tập trung, thống nhất. Năng lực tài chính của nhiều NHTM
còn yếu, vốn tự có nhỏ, chất lượng tín dụng thấp. Các NHTM còn nặng nề về các
nghiệp vụ truyền thống, các nghiệp vụ mới chậm được áp dụng nên hiệu quả kinh
doanh thấp cả về tín dụng và dịch vụ. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh
lời của phần lớn các NHTM đều thua kém các ngân hàng trong khu vực. Hơn nữa, huy
động vốn trung và dài hạn còn bị hạn chế, một phần là do niềm tin trong dân vào sự
ổn định của đồng tiền chưa cao.
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã có hiệu lực từ 10/12/2001. Trong
đó, ngành ngân hàng Việt Nam đưa ra các cam kết liên quan đến các loại hình dịch vụ
như nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, thanh toán…
Trang 20
Một số điểm mạnh và điểm yếu của các NHTM Nhà nước trong một số loại
dịch vụ nêu trên trên cơ sở so sánh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt
động tại Việt Nam:
a/ Xét về dịch vụ nhận tiền gửi:
* Đối với các tổ chức tín dụng(TCTD) trong nước:
Các TCTD trong nước hiện có ưu thế trong việc nắm giữ thị phần tiền gửi.
Tiền gửi của bốn NHTM Nhà nước chiếm khoảng 76% tổng nguồn vốn huy động. Đặc
biệt, các NHTM Nhà nước nắm giữ tới trên 90% lượng tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm
của dân cư, tạo nguồn vốn tương đối ổn định cho hoạt động tín dụng. Khoảng gần 80%
tiền gửi của khách hàng là các tổ chức kinh tế và cá nhân nằm trong tay các NHTM
Nhà nước, tạo thành nguồn vốn rẻ, có khả năng cạnh tranh về lãi suất. Hơn nữa, các
NHTM Nhà nước có mạng lưới rộng khắp đất nước (chẳng hạn: NHNN & PTNT Việt
Nam có 1611 chi nhánh trên toàn quốc và trên 450 ngân hàng đại lý; NH Ngoại thương
phát triển với 25 chi nhánh cấp I, 23 chi nhánh cấp II, có quan hệ đại lý với trên 1200
ngân hàng tại 85 nước; NH Công thương có 106 chi nhánh cấp I, II, 160 phòng giao
dịch, 358 quỹ tiết kiệm, quan hệ đại lý với 430 ngân hàng, NHĐT & PT Việt Nam tính
đến cuối năm 2003 đã có 108 chi nhánh và quan hệ với 565 ngân hàng), tạo thành hệ
thống huy động vốn thuận tiện. Các NHTM trong nước không bị giới hạn bởi giấy
phép về các loại tiền gửi, hình thức huy động và số lượng tiền gửi được nhận.
Mặc dù có lợi thế về nguồn vốn, song các TCTD trong nước lại dễ gặp phải
những rủi ro hệ thống ở mức cao hơn nhiều so với nhóm nước ngoài, đặc biệt trong
trường hợp dân cư rút tiền ồ ạt. Khi các ngân hàng nước ngoài được phép nới rộng tỷ
lệ huy động tiền đồng sẽ tạo sự dịch chuyển tiền gửi từ các NHTM trong nước sang
nhóm các ngân hàng nước ngoài và những khách hàng truyền thống của các NHTM
Nhà nước có thể chuyển thành khách hàng của các ngân hàng nước ngoài, điều này
gây bất lợi nhiều cho các NHTM Nhà nước.
* Đối với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài:
Thế mạnh duy nhất của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hiện nay là được
nhận tiền gửi của khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra,
họ có khả năng tăng mạnh về tiền gửi ngoại tệ khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép mở rộng phạm vi huy động tiền gửi. Tuy nhiên, thị phần tiền gửi của nhóm này
là rất nhỏ do các hạn chế về loại tiền gửi, tỷ lệ nhận tiền gửi, địa bàn huy động tiền
gửi. Do vậy, khả năng mở rộng quan hệ khách hàng với các khách hàng Việt Nam là
Trang 21
các doanh nghiệp Nhà nước lớn, về trước mắt là khó khăn. Tuy nhiên, nếu các hạn
chế về nhận tiền gửi VNĐ được dỡ bỏ thì tình thế sẽ khác hẳn.
b/ Xét về dịch vụ cho vay:
* Đối với các TCTD trong nước:
Các TCTD trong nước hiện có lợi thế trong thị phần tín dụng (trên 80%), trong
đó các NHTM Nhà nước chiếm khoảng 73,5% tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống
do họ có chi nhánh rộng, khách hàng có quan hệ truyền thống, cạnh tranh được về lãi
suất và không bị hạn chế trong giấy phép hoạt động. Các NHTM trong nước có khả
năng mở rộng thị trường tới mọi miền của đất nước và có khả năng chi phối cả dịch vụ
bán lẻ lẫn dịch vụ bán buôn khi vốn được tăng lên.
Các NHTM trong nước có vốn tự có nhỏ nên chưa đáp ứng được nhu cầu vay
vốn của các doanh nghiệp lớn và các dự án lớn. Vốn tự có nhỏ nhưng lại mở rộng tín
dụng quá lớn nên các NHTM có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp. Sau hai đợt cấp vốn
bổ sung, tổng vốn tự có của 4 NHTM Nhà nước mới đạt hơn 12.000 tỷ đồng (tương
đương 800 triệu USD), đạt tỷ lệ an toàn vốn bình quân là 5% (theo thông lệ quốc tế thì
tỷ lệ này tối thiểu là 8%). Các NHTM cổ phần bình quân vốn điều lệ đạt 100 tỷ đồng 1
ngân hàng và tỷ lệ an toàn vốn còn thấp hơn.
Các NHTMVN cho vay dựa trên đơn xin vay, phương án sản xuất kinh doanh
và tài sản thế chấp, cầm cố do các ngân hàng trong nước có khả năng rất hạn chế
trong việc thu thập, khai thác, xử lý thông tin về khách hàng.
Ngoài ra, các NHTM trong nước có nguy cơ chịu rủi ro cao do khả năng thẩm
định dự án và quản lý nợ yếu.
* Đối với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài:
Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có ưu thế về lượng ngoại tệ để cho vay
do được ngân hàng mẹ đảm bảo và có thế mạnh hơn trong khả năng thẩm định dự án
quản lý nợ, do vậy tình trạng nợ xấu thấp và rủi ro được xử lý kịp thời. Ngoài ra,
nhóm này sẽ có khả năng mở rộng phạm vi khách hàng của mình tới các doanh nghiệp
Nhà nước lớn khi được phép nới rộng tỷ lệ huy động tiền đồng. Trong tương lai, nếu
cho phép nhóm này được hưởng đối xử quốc gia như những gì các NHTM trong nước
được phép trong huy động vốn thì nhóm này có thể tăng cho vay lên nhiều lần.
Tuy nhiên, do hạn chế về huy động nội tệ, nhìn chung thị phần tín dụng của
nhóm này chỉ chiếm khoảng 12% toàn hệ thống và không tăng hơn thị phần trong
nhiều năm gần đây, thậm chí giảm xuống còn 8,9% tính đến cuối năm 2003. Ngoài ra,
các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không thông thạo thị trường bằng các ngân hàng
Việt Nam, đặc biệt trong thị trường bán lẻ, và còn bị hạn chế trong cho vay bằng
ngoại tệ đối với cá nhân là người Việt Nam và pháp nhân là tổ chức Việt Nam. Các chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài không tiếp cận được nguồn vốn rẻ, trong khi đó phải
Trang 22
chịu chi phí cao, kể cả tiền lãi trả cho ngân hàng mẹ về vốn được cấp nên ít có khả
năng cạnh tranh về lãi suất.
c/ Xét về dịch vụ thanh toán:
* Đối với các TCTD trong nước:
Các NHTM trong nước hiện có lợi thế lớn về tiền gửi thanh toán do nắm giữ
phần lớn quan hệ tín dụng và chi phối cả quan hệ thanh toán với doanh nghiệp mở tài
khoản. Đây là nguồn vốn rẻ và cũng tạo nguồn thu lớn về phí dịch vụ. Hơn nữa, các
NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần đang tiến hành hiện đại hoá hệ thống
thanh toán và mở rộng ứng dụng tin học. Các NHTM Nhà nước đã thực hiện thanh
toán đối ngoại và có quan hệ thanh toán rộng rãi, kể cả các đại lý thanh toán và phát
hành thẻ.
Mặc dù có những tiến bộ trong hoạt động thanh toán, song việc phát hành và
thanh toán theo hình thức thẻ ra quốc tế của các NHTM trong nước còn hạn chế. Chỉ
một số ít các NHTM áp dụng thanh toán thẻ nội địa và mới chỉ đưa vào sử dụng trong
hạn hẹp. Các NHTM đang trong giai đoạn thí điểm vận hành máy rút tiền tự động,
dịch vụ ngân hàng qua Internet. Ngoài ra, do hạn chế về nguồn vốn và trình độ công
nghệ nên việc phát triển ngân hàng điện tử của các ngân hàng trong nước là rất khó
khăn.
* Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
Các ngân hàng nước ngoài có điều kiện phát triển dịch vụ thanh toán hơn nữa
ở Việt Nam nhờ có khả năng về công nghệ tin học, kinh nghiệm và năng lực tài chính.
Bởi lẽ hầu hết các ngân hàng nước ngoài có mặt tại Việt Nam đều từ những quốc gia
có nền kinh tế phát triển lâu đời, khoa học công nghệ đã và đang tiến đến đỉnh cao.
Các ngân hàng nước ngoài cũng có lợi thế là phát triển dịch vụ thanh toán
quốc tế cho các doanh nghiệp mà trước hết là cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, dịch vụ ngân hàng điện tử cho người nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (ngoài chi nhánh ngân hàng
của Mỹ) hiện đang bị hạn chế về địa điểm đặt máy rút tiền tự động, về nhận tiền gửi
của dân cư trong nước, do vậy khó có thể mở rộng dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, các
ngân hàng nước ngoài không có mạng lưới và địa bàn rộng như các NHTM trong nước
nên gặp khó khăn trong thanh toán nội địa.
2.1.3/ Cơ hội và thách thức đối với các Ngân hàng Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế:
2.1.3.1/ Cơ hội:
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế
và cho bản thân hệ thống ngân hàng. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được
hiểu là việc thực hiện chính sách kinh tế mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng. Trong nền
Trang 23
kinh tế mở, cạnh tranh giữa các ngân hàng là quy luật tất yếu và là động lực của sự
phát triển. Mở cửa dịch vụ ngân hàng sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện các
loại hình dịch vụ ngân hàng và ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Cạnh tranh có
thể nâng cao năng lực quản lý, trình độ cán bộ và năng lực nghề nghiệp.
Mở cửa dịch vụ ngân hàng sẽ làm lợi cho những người sử dụng: giảm chi phí
dịch vụ cho những người gửi tiền và người đi vay có nhiều cơ hội được tiếp cận với các
loại hình dịch vụ ngân hàng hiệu quả. Người gửi tiền có nhiều lựa chọn hơn về các
công cụ tiết kiệm và dễ tiếp cận hơn tới các sản phẩm tài chính. Người đi vay có thể
tiết kiệm thời gian chờ đợi và có nhiều khả năng tiếp cận hơn tới các nguồn vốn thông
qua các công cụ vay nợ mới với thời hạn vay được đa dạng hơn. Người đi vay có nhiều
cơ hội vay vốn nước ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong dịch vụ ngân hàng sẽ giúp các ngân hàng trong
nước học hỏi được nhiều kinh nghiệm và nâng cao trình độ, công nghệ. NHTM Việt
Nam sẽ có cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài trong việc áp
dụng quy trình, phương pháp phân tích và thẩm định dự án đối với các loại khách
hàng, cũng như phương thức quản trị hiện đại, tiếp thị và phục vụ khách hàng. Các
ngân hàng trong nước sẽ phải ngày một kiện toàn công tác quản lý ngân hàng nhằm
đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí ở mức có thể và tăng
cường độ tin cậy đối với khách hàng. Hơn thế nữa, đội ngũ cán bộ ngân hàng trong
nước có thể được học hỏi kinh nghiệm và được đào tạo bởi chính các nhà quản lý nước
ngoài tham gia liên doanh hoặc nắm 100% cổ phần trong các TCTD nước ngoài. Một
lần nữa, quá trình cạnh tranh sẽ đào thải những cán bộ thiếu kinh nghiệm nghề
nghiệp và buộc các cán bộ hiện tại phải tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình.
Mở cửa dịch vụ ngân hàng có thể đã, đang và sẽ làm thay đổi cách thức áp
dụng một số công cụ chính sách truyền thống như cho vay chỉ định, trợ cấp dưới hình
thức lãi suất ưu đãi. Nhận thức được rằng các ngân hàng vừa thực hiện cho vay chính
sách vừa hoạt động cho vay thương mại sẽ không có lợi thế cạnh tranh so với các ngân
hàng khác, thậm chí sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc cân đối tình hình lỗ lãi của
mình. Ngân hàng Chính sách xã hội đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép chính
thức hoạt động từ đầu năm 2003 nhằm tách bạch hoạt động cho vay chính sách và
hoạt động cho vay thương mại của NHTM Nhà nước. Hơn nữa, hội nhập kinh tế tạo
điều kiện thiết lập một chính sách tiền tệ có hiệu quả và phù hợp với những điều kiện
trong một nền kinh tế mở, qua đó thực hiện phân phối các luồng vốn một cách tối ưu
hơn trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy quá trình cải cách ngân hàng Việt
Nam, kiện toàn hệ thống văn bản pháp luật nói chung và ngành ngân hàng nói riêng.
Qua đo,ù môi trường đầu tư từng bước được cải thiện khuyến khích thu hút tối đa luồng
Trang 24
vốn vào. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế trong cả nước cùng sự gia tăng về quy mô
hoạt động của các ngân hàng nước ngoài khi họ được phép sẽ làm cho thị trường hấp
dẫn hơn, tiếp tục thu hút đầu tư của nước ngoài và lôi cuốn các ngân hàng nước ngoài
khác vào Việt Nam hoạt động. Nhờ đó, thị trường tài chính Việt Nam sẽ phát triển
nhanh hơn.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế tạo điều kiện để Ngân hàng Việt Nam từng bước mở
rộng hoạt động quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các nhà hoạch định
chính sách cấp cao của Ngân hàng Việt Nam được gặp gỡ và trao đổi với các đối tác
quốc tế về các vấn đề tài chính tiền tệ, diễn biến kinh tế, các chiến lược hợp tác vĩ
mô, qua đó nâng cao vị thế quốc tế của Ngân hàng Việt Nam trong các giao dịch tài
chính quốc tế.
2.1.3.2/ Thách thức:
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế nói
chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng, song hội nhập cũng có những mặt trái
của nó. Điều quan trọng là Ngân hàng Việt Nam phải biết phát huy những cơ hội có
được và khắc phục những yếu kém của chính mình, đó cũng là những thách thức đặt
ra trên con đường hội nhập.
Mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng sẽ làm cho các TCTD
trong nước phải đối mặt với sức ép cạnh tranh lớn hơn, nguồn thu sẽ giảm và những
rủi ro của thị trường mới ngày càng nhiều hơn. Các NHTM trong nước sẽ phải cạnh
tranh bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài trong bối cảnh họ có nhiều lợi thế hơn
về mặt tài chính, kinh nghiệm quản lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các
NHTM trong nước sẽ phải chấp nhận cuộc cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát
triển. Quá trình cạnh tranh có thể bộc lộ những vần đề đáng lo ngại như: Hạ lãi suất
cho vay theo kiểu “phá giá” nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, nới lỏng các điều
kiện vay vốn trong quá trình thẩm định cho vay, bảo đảm tiền vay có thể dẫn đến hậu
quả là doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn nhưng vẫn được ngân hàng cho vay vì
sợ mất khách hàng. Các doanh nghiệp vay một lúc nhiều NHTM, nếu các ngân hàng
này không có mối quan hệ trao đổi thông tin lẫn nhau sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
Mở cửa và hội nhập hoạt động ngân hàng là chấp nhận tham gia vào luật chơi
chung bình đẳng áp dụng cho tất cả các nước. Nếu Việt Nam có thể gia nhập WTO
vào năm 2005 và thời gian chuyển đổi được phép từ 3 - 5 năm, thì đến khoảng năm
2010 sẽ không có sự phân biệt giữa các TCTD trong nước với các TCTD nước ngoài
trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Do vậy, khi những hạn chế này được nới lỏng, sẽ
dễ xảy ra tình trạng dịch chuyển thị phần huy động vốn và cho vay từ các NHTM
trong nước sang các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, các ngân hàng nước ngoài có thể
Trang 25
sẽ thu hút, giành được các khách hàng truyền thống, có độ tín nhiệm cao từ tay các
NHTM trong nước và để lại cho các NHTM những khách hàng nhiều rủi ro.
Hội nhập quốc tế còn đặt ra cho ngành ngân hàng những thách thức về công
nghệ, nguồn nhân lực, công tác tổ chức và quản lý… Con người là yếu tố quyết định
thành công cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng
của yếu tố con người, Bộ Chính trị, Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã xác định việc
“Đào tạo nguồn nhân lực” là một trong những nhiệm vụ cần thực hiện trong quá
trình hội nhập. Hiện nay, nguồn nhân lực của ta còn có nhiều điểm hạn chế. Đội ngũ
cán bộ trước hết là những cán bộ tham gia hoạch định chính sách, làm công tác hội
nhập cần được nâng cao năng lực không những về trình độ chuyên môn mà còn am
hiểu pháp luật trong nước và quốc tế, thành thạo ngoại ngữ, có được trang bị như vậy
cán bộ ngân hàng mới có thể đưa ra những đề xuất xác đáng, tham mưu cho Ban lãnh
đạo ngân hàng, đáp ứng các yêu cầu của công việc.
Ngoài ra, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam so với các ngân hàng trong khu vực còn khá chênh lệch. Nhiều dịch vụ ngân
hàng hiện đại đã trở nên quen thuộc và phổ biến tại các nước này thì ở Việt Nam vẫn
chưa có hoặc chỉ mới bắt đầu được đưa vào áp dụng thí điểm trong phạm vi hẹp các
đối tượng khách hàng sử dụng (ATM, Internet banking, Home banking…).
2.2/ Tình hình kinh tế xã hội TP Cần Thơ giai đoạn 2001-2005:
2.2.1/ Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của TP Cần
Thơ.
Thành phố Cần Thơ được thành lập ngày 01/01/2004 trên cơ sở tách từ tỉnh Cần
Thơ theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội (khoá XI) và
Nghị định số 05/2004/NĐ-CP ngày 02/01/2004 của Chính Phủ, là thành phố trực thuộc
Trung ương duy nhất của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), một trong 5 thành phố
trực thuộc Trung ương của cả nước.
Thành phố Cần Thơ với ưu thế về hệ thống sông, kênh rạch, mạng lưới giao
thông thủy bộ phát triển khá đều khắp, lại không xa các cửa biển sẽ có tác động thúc
đẩy sự giao lưu hàng hóa của Cần Thơ với các tỉnh trong vùng và cả nước .
TP Cần Thơ nằm giữa một vùng nguyên liệu nông - thủy hải sản lớn của đất
nước, với điều kiện tự nhiên sinh thái thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện,
cơ cấu cây trồng vật nuôi phong phú, đa dạng và có điều kiện sinh trưởng nhanh, tạo
nguồn nông sản dồi dào cho phát triển công nghiệp chế biến nông hải sản.
Trang 26
TP Cần Thơ có trình độ phát triển kinh tế khá cao, có tiềm năng, thế mạnh công
nghiệp, thương mại – dịch vụ, giáo dục – đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, nơi quy tụ
dân cư đông nhất so với các đô thị lớn vùng ĐBSCL, giữ vai trò động lực tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội, gắn đô thị hoá với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ĐBSCL.
Tuy nhiên Cần Thơ không có thế mạnh về tài nguyên khoáng sản, cơ sở hạ tầng
tuy được quan tâm đầu tư cải thiện nhưng vẫn còn đang ở tình trạng yếu kém, thiếu
đồng bộ, chưa đủ sức đáp ứng cho một nền sản xuất hàng hóa phát triển trong điều
kiện cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường và vẫn còn kém sức hấp dẫn với các
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nền kinh tế của thành phố tuy có bước phát triển về nhiều mặt nhưng nhìn
chung Cần Thơ có điểm xuất phát thấp, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế chưa nhiều, vốn
đầu tư nội tại chỉ đáp ứng 40% nhu cầu phát triển, cơ cấu kinh tế nặng về nông
nghiệp giá cả nông sản không ổn định, công nghiệp chưa phát triển mạnh, công nghệ
còn lạc hậu, thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển chưa tương xứng với vị trí, tiềm
năng và thế mạnh của một thành phố là trung tâm của khu vực .
2.2.2/ Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của TP Cần Thơ thời kỳ 5 năm
2001-2005:
Trên cơ sở tình hình kinh tế – xã hội 4 năm 2001-2004 và kế hoạch 2005, tì._.u kiện bảo hiểm vốn tiền gửi rất hữu hiệu.
Do đó, cần thiết sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa đẩy mạnh thu
hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị tổ chức
kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Để cho công cụ lãi suất
phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị trường, chính sách lãi suất
cần thiết tiếp tục xử lý theo hướng sau:
- Hoạch định chính sách lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường dựa trên
mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào
lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn bao gồm cả hệ số trượt giá,
đảm bảo ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi.
- Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến,
nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp
thời và linh hoạt.
Trang 42
- Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để khuyến
khích tiết kiệm, tránh tích lũy vàng và ngoại tệ.
* Giải pháp về cung ứng nhiều dịch vụ, địa điểm giao dịch thuận tiện:
Để khuyến khích người dân gửi tiền, các Ngân hàng phải đưa ra các dịch vụ
tốt, thuận lợi, đa dạng, từ vấn đề nhỏ nhất như: Chỗ để xe thuận lợi, bố trí quầy giao
dịch, nước uống…đến những vấn đề thiết yếu hơn như: Hệ thống chi trả tự động, các
dịch vụ thông tin, chuyển tiền theo yêu cầu sao cho nhanh nhất, chính xác, những lời
tư vấn có hiệu quả, thời gian làm việc cả ngày và đêm, thực hiện chính sách chăm sóc
khách hàng vào những ngày kỷ niệm đặc biệt như: lễ, tết, ngày sinh nhật đối với
những khách hàng giao dịch thường xuyên. Các Ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt thực
chất cũng làm giảm các chi phí khác cho người gửi tiền. Nó có tác động trực tiếp đến
lợi ích nên có tác dụng khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Bên cạnh cung ứng nhiều dịch vụ tiện ích, các Ngân hàng cần có địa điểm giao
dịch ở những nơi thuận lợi, đông dân cư, vùng dân cư có thu nhập cao để người gửi
tiền đỡ tốn kém cả bằng tiền và thời gian cho việc đi lại giao dịch. Địa điểm giao dịch
có thể là trụ sở, chi nhánh, phòng giao dịch hoặc bàn tiết kiệm đặt ở các tụ điểm dân
cư, khu tập thể quy mô lớn, hay các nhà máy có đông công nhân…
3.2.2/ Mở rộng tín dụng trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải
sản:
TP.Cần Thơ với hơn 70% dân số sống dựa vào nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản, các hoạt động đầu tư để sản xuất và tiêu thụ : lúa, bông vải, mía nguyên liệu, sữa
bò tươi, thủy hải sản .... sẽ là đối tượng cho vay chủ yếu của các NHTM, khách hàng
vay truyền thống với số lượng lớn vẫn là người nông dân và các doanh nghiệp thu mua
nông sản. Tuy nhiên trong thời gian qua người nông dân phải tự lo nguyên liệu đầu
vào và đầu ra, người dân chỉ biết sản xuất những hàng hóa mà mình có chưa biết làm
ra những sản phẩm mà thị trường cần nên dẫn đến tình trạng khi trúng mùa thì giá
nông sản hàng hóa rớt giá, nếu thiên tai xảy ra coi như mất trắng, Ngân hàng phải
giãn nợ vay, doanh nghiệp không có hàng hóa thu mua để thực hiện chức năng sản
xuất kinh doanh chế biến và xuất khẩu, từ đó làm cho nền sản xuất hàng hóa chậm
phát triển . Có thể nói, việc sản xuất hàng hóa nông sản phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện tự nhiên sẽ làm cho ngân hàng, doanh nghiệp và nông dân gặp rất nhiều rủi ro.
Để khắc phục ngày 24/06/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
80/2002/QĐ-TTg “Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua
hợp đồng”, người dân đã có thể dùng hợp đồng bao tiêu sản phẩm để vay vốn ngân
hàng qua sự bảo lãnh của doanh nghiệp theo sơ đồ sau :
Trang 43
2
1
4 3
(1) Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận cho vay.
(2) Ngân hàng cấp tín dụng
Ng©n hμng
Tỉ chøc bao
Tiªu
Kh¸ch hμng
(3) Khách hàng giao sản phẩm cho tổ chức bao tiêu
(4) Tổ chức bao tiêu trả nợ ngân hàng .
Nhưng trên thực tế việc thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm vẫn còn một số
khó khăn như :
- Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm chưa có đầu ra ổn định, công nghệ bảo quản
sau thu hoạch chưa thực sự đa dạng, việc thu mua nông sản hàng hóa còn chậm và
chưa đồng bộ, người dân chậm nhận được tiền từ việc bán sản phẩm để trả nợ cho
ngân hàng .
- Việc thu nợ của các NHTM phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức bao tiêu, khách
hàng vay vốn ngân hàng phải trả nợ qua tổ chức bao tiêu nên làm chậm thời gian thu
hồi nợ của Ngân hàng .
Vì vậy, để giúp cho người nông dân và doanh nghiệp thu mua nông, thủy sản
tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng một cách dễ dàng, Ngân hàng có điều kiện
tham gia vào quá trình sản xuất -lưu thông- phân phối hàng hóa và mở rộng dư nợ tín
dụng, các NHTM nên kiến nghị với Chính phủ cho nông dân được trả nợ ngân hàng
bằng nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng với doanh nghiệp đã bao tiêu sản phẩm.
Khi đó người nông dân chỉ cần xuất trình phiếu mua hàng hoặc phiếu nhập kho của
doanh nghiệp (Ngân hàng sẽ giám sát hoạt động này tại doanh nghiệp), ngân hàng sẽ
ghi giảm nợ cho nông dân đồng thời ghi tăng nợ vay cho doanh nghiệp. Nếu làm được
điều này NHTM sẽ có lợi là ngân hàng sẽ thu được nợ dễ dàng và đúng hạn, doanh
nghiệp có nông sản hàng hóa để sản xuất kinh doanh, chế biến xuất khẩu, nông dân
không phải ôm tiền đến ngân hàng để xếp hàng trả nợ vay, doanh nghiệp không phải
ra ngân hàng để vay tiền và ôm tiền mặt đi mua hàng, dư nợ vay tín dụng tại các
NHTM trong lãnh vực cho vay nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản sẽ tăng lên.
3.2.3/ Mở rộng tín dụng tiêu dùng và cho vay các cơ quan hành chánh sự nghiệp
có thu :
Cho vay tiêu dùng là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người
tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình . Đây là một thị trường rộng lớn để mở rộng tín dụng
Trang 44
tuy khối lượng công việc nhiều và chi phí cao nhưng tín dụng tiêu dùng cũng đem lại
những lợi ích quan trọng cho ngân hàng như :
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các
loại tiền gởi cho ngân hàng .
- Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập
và phân tán rủi ro cho ngân hàng .
Hiện nay nghiệp vụ này mới chỉ được các NHTM cổ phần chú ý qua hình thức
cho vay tiêu dùng gián tiếp, trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những
công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng. Các NHTM quốc
doanh chỉ mới bắt đầu thực hiện nghiệp vụ này qua việc cho vay tập thể, thế chấp
bằng qũy lương thông qua người đại diện và người vay phải là cán bộ công nhân viên
cơ quan nhà nước, nên dư nợ trong lãnh vực này chưa phát triển. Vì vậy, để mở rộng
tín dụng trong nghiệp vụ này các NHTM nên áp dụng hình thức cho vay trực tiếp , tức
là ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
người này .
Hơn nữa, các cơ quan hành chánh sự nghiệp có thu trên địa bàn thành phố Cần
Thơ là rất nhiều nhưng chưa được ngân hàng tiếp cận để cho vay. Ngân hàng có thể
căn cứ vào kế hoạch thu hàng năm của các cơ quan đã được cấp chủ quản phê duyệt
để cho vay trước 1 phần bằng hình thức tín chấp, khi có nguồn thu sẽ hoàn trả cho
ngân hàng . Đây là một thị trường tiềm năng để các NHTM mở rộng tín dụng an toàn
đem lại hiệu qủa cao .
3.2.4/ Mở rộng nghiệp vụ tín dụng cho vay thế chấp :
Trong quan hệ tín dụng, các biện pháp thế chấp cầm cố và bảo lãnh hiện vẫn
còn sử dụng khá phổ biến ở TP.Cần Thơ, các doanh nghiệp hoạt động trong một môi
trường kinh doanh năng động, cạnh tranh rất khốc liệt, việc thế chấp, cầm cố, bảo
lãnh vẫn còn được xem là một biện pháp tốt để đảm bảo lòng tin và khả năng thu hồi
nợ của Ngân hàng.
Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP và nghị định sửa đổi số 85/2001/NĐ-CP của
Chính phủ về thế chấp tài sản đảm bảo nợ vay. Ngân hàng và doanh nghiệp có thể tự
lựa chọn hình thức đảm bảo nợ vay như thế chấp, cầm cố hoặc tín chấp ...khi tham gia
vay vốn tại ngân hàng và việc định giá tài sản đảm bảo là do sự thỏa thuận giữa người
vay với ngân hàng. Tuy nhiên hình thức tín chấp thường chỉ được áp dụng cho các
doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì mức độ rủi ro cao nên
đa số các NHTM trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều buộc phải có tài sản thế chấp,
vô hình chung tài sản thế chấp trở thành vật cản rất lớn đối với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh khi muốn quan hệ tín dụng với ngân hàng .
Trang 45
Hiện nay biện pháp đảm bảo nợ vay chủ yếu của các NHTM chỉ là cầm cố và
thế chấp tài sản . Vì vậy để mở rộng tín dụng nhưng vẫn bảo đảm được mức độ an
toàn thu hồi nợ, ngoài hình thức cầm cố và thế chấp tài sản các NHTM nên áp dụng
thêm hình thức đảm bảo nợ vay bằng cầm cố hàng hóa, cầm cố chứng khoán, bảo đảm
bằng tiền gởi, bảo đảm bằng vàng, bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu và bảo đảm
bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nếu áp dụng thêm được các hình thức đảm bảo
này thì không những tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với
ngân hàng mà ngân hàng cũng có cơ hội để mở rộng tín dụng.
3.3/ Các giải pháp mở rộng dịch vụ:
3.3.1/ Giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt :
- Cần kiên trì, tập trung, phổ biến, hướng dẫn các đơn vị mở tài khoản sử dụng
các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Có chính sách
khuyến khích, tặng thưởng cho các đơn vị có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt
cao.
- Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước về các nguồn thu, nguồn chi như
cơ quan thuế, thuế thu nhập, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế
trước bạ và các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ như:
điện, nước, bưu điện, viễn thông….Có những giải pháp cụ thể trong việc khuyến khích
thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt của các đơn vị, cá
nhân có quan hệ và có tài khoản tại Ngân hàng.
3.3.2/ Giải pháp về nâng cấp hệ thống ATM và mở rộng khách hàng sử dụng
ATM trên địa bàn:
- Các NHTM chưa được trang bị ATM cần sớm trang bị hệ thống này để đưa
vào sử dụng, nhanh chóng hoà mạng với 2 hệ thống BankNet và hệ thống liên minh
thẻ của Ngân hàng Ngoại Thương tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể sử
dụng thẻ tại bất cứ thành viên nào thuộc hệ thống của mình trên toàn địa bàn.
- Các NHTM cần tiếp tục đa dạng hoá các chức năng khai thác thông qua hệ
thống máy ATM như chi trả tiền điện, điện thoại, nước và mua bảo hiểm, đồng thời đa
dạng các loại tiền tệ, tạo nhiều tiện ích cho khách hàng.
- Nhanh chóng tiếp cận, phối hợp cùng các cơ quan cung cấp điện, nước, gas,
viễn thông…có chính sách khuyến khích khách hàng thanh toán chi trả các loại tiền
dịch vụ này bằng chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện cho các khách
hàng cá nhân sử dụng thẻ ATM.
- Các NHTM sớm liên kết với các trường đại học, trung học chuyên nghiệp có
chính sách hỗ trợ, tuyên truyền cho sinh viên mở tài khoản tại các Ngân hàng và sử
dụng thẻ vừa đảm bảo an toàn vừa tiết kiệm chi phí phục vụ sinh hoạt cho sinh viên
Trang 46
các trường, khuyến khích sinh viên tiếp cận dịch vụ ngân hàng cũng như làm chủ tài
khoản của mình ngay từ khi vào trường đại học.
3.3.3/ Đa dạng thêm các loại hình dịch vụ như: thanh toán hộ tiêu dùng, dịch vụ
phát hành thẻ bảo chi nội - ngoại tệ cho các Ngân hàng thương mại:
Thanh toán hộ tiêu dùng là dịch vụ mà Ngân hàng đứng ra thay mặt cho chủ tài
khoản thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu của chủ tài khoản khi có giấy báo Nợ
gửi đến ngân hàng (có chữ ký chấp nhận của chủ tài khoản). Đây là dịch vụ có nhiều
tiềm năng cần được triệt để khai thác, bởi vì hiện nay các khoản chi phí của đa số
người dân thành phố như: tiền điện, nước, điện thoại và các loại chi phí khác chiếm
một khoản lớn trong tổng số tiền thu nhập của mỗi cá nhân gia đình.
Dịch vụ phát hành thẻ bảo chi nội – ngoại tệ bằng nguồn vốn tự có của khách
hàng, có nhiều mệnh giá khác nhau với nhiều hình thức ưu đãi, thuận tiện cho khách
hàng. Đây là dịch vụ Ngân hàng thông dụng ở các nước phát triển và một số nước
đang phát triển. Thẻ bảo chi, về bản chất thì gần giống như séc bảo chi, chỉ khác ở
chỗ là cách thức sử dụng có tính hiện đại hơn vì được thông qua hệ thống mạng máy
móc, thiết bị. Loại thẻ này có tính an toàn cao hơn các loại thẻ tín dụng khác, vì Ngân
hàng chỉ phát hành thẻ dựa trên số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng.
3.3.4/ Nhanh chóng trang bị các dịch vụ Ngân hàng điện tử hiện đại cho các
NHTM như: Internet banking, Mobi banking, Home banking…
Các NHTM Việt Nam cần sớm tiếp cận với các nhà cung cấp các tiện ích Ngân
hàng điện tử, tuyển chọn nhân viên có trình độ vi tính cao vào làm việc tại các bộ
phận kỹ thuật, nhanh chóng hoàn thành giai đoạn nghiên cứu, thí điểm các loại hình
dịch vụ này để sớm trang bị cho các chi nhánh NHTM trên địa bàn đưa vào sử dụng,
thoả mãn nhu cầu khách hàng, phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, đảm bảo đủ
sức cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng với các Ngân hàng nước ngoài khi hội nhập.
Việc trang bị các tiện ích hiện đại này sẽ giúp các Ngân hàng khai thác triệt để
mạng thông tin, nâng cấp và mở rộng không gian giao dịch của Ngân hàng, giúp khách
hàng tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc xử lý các nghiệp vụ thông qua mạng từ
Ngân hàng đến doanh nghiệp.
3.4/ Các kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực mở rộng tín
dụng và dịch vụ ngân hàng:
3.4.1/ Kiến nghị đối với Chính phủ:
3.4.1.1/ Ban hành luật Séc, đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Thể thức thanh toán Séc là một trong những thể thức thanh toán không dùng
tiền mặt quan trọng nhưng thực tế tại Cần Thơ, thể thức này chỉ chiếm tỷ trọng dưới
1% trong tổng các phương thức không dùng tiền mặt . Mặc dù thể thức thanh toán
bằng Séc được qui định tại nghị định 30/CP và thông tư 07/TT điều chỉnh những vẫn
còn một số vướng mắc như :
Trang 47
+ Phạm vi thanh toán hẹp, không cho phép thanh toán khác hệ thống, ngoài địa
bàn thành phố.
+ Thời gian hiệu lực của tờ Séc chỉ có 15 ngày rất ngắn so với thông lệ ở các
nước là 6 tháng hoặc 1 năm ...
Vì vậy Chính phủ cần xem xét điều chỉnh các nội dung về thanh toán Séc, trên
cơ sở đó ban hành luật Séc để tạo tính chất pháp lý cao hơn để các ngân hàng đẩy
mạnh phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt này, tạo nhiều tiện ích
cho khách hàng.
3.4.1.2/ Chính phủ nên xem xét bổ sung luật các tổ chưc tín dụng :
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng hiện đại ngày nay đã tập trung vào các
dịch vụ bán lẻ như dịch vụ thanh toán tạo tiện ích cho khách hàng không phải chỉ tập
trung vào dịch vụ bán buôn như các hình thức cấp tín dụng. Các giao dịch thanh toán
không chỉ đơn thuần là chứng từ bằng giấy, với phương pháp thủ công mà ngày nay đã
được phát triển với hình thức cao hơn đó là thanh toán điện tử, giao dịch qua mạng
Internet, Homebanking... Do đó luật các tổ chức tín dụng phải được điều chỉnh, thay
đổi , bổ sung cho phù hợp với thực tế.
3.4.2/ Kiến nghị đối với hệ thống NHNN Việt Nam:
3.4.2.1/ Tổ chức tốt mạng lưới thông tin phòng ngừa rủi ro và tạo điều kiện thuận
lợi nhất để các NHTM khai thác thông tin một cách có hiệu qủa :
Công tác thu thập, phân tích thông tin phòng ngừa rủi ro có ý nghĩa rất quan
trọng trong công tác mở rộng tín dụng. Phần lớn các NHTM trên địa bàn TP. Cần
Thơ khi tiến hành thẩm định khách hàng để mở rộng tín dụng chỉ chủ động tìm kiếm
thông tin từ bản thân ngân hàng mà chưa có sự hỗ trợ từ phía NHNN. Với vai trò là
người tổ chức và quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, NHNN có đủ điều kiện
cần thiết để thu thập, tổng hợp, phân tích các thông tin liên quan đến việc mở rộng tín
dụng trên phạm vi toàn quốc và quốc tế. Để hỗ trợ có hiệu qủa cho các NHTM,
NHNN nên hình thành một bộ phận chuyên trách về công tác thông tin phòng ngừa
rủi ro tại mỗi địa phương, hướng dẫn các NHTM truy cập và khai thác mạng thông tin
tín dụng, góp phần phòng ngừa rủi ro khi mở rộng tín dụng cho các NHTM.
3.4.2.2/ Để các Ngân hàng thương mại có thể đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng, đề
nghị Ngân hàng Nhà nước:
- Ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật để các Ngân hàng thương mại
thuận lợi hơn trong việc áp dụng dịch vụ mới.
- Tại Việt Nam, hoạt động của thị trường mở và thị trường tiền tệ còn chưa
phát triển kéo theo một số hoạt động dịch vụ của Ngân hàng cũng không phát triển
Trang 48
theo như: Chiết khấu thương phiếu, nghiệp vụ đầu tư… Trong thời gian tới cùng với
việc hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong việc hiện đại hoá Ngân hàng, Ngân hàng
Nhà nước cần thay đổi lại tổ chức và cách thức hoạt động của thị trường mở và thị
trường tiền tệ để các NHTM có thể mở rộng các dịch vụ của mình.
- Ngân hàng Nhà nước phải có các điều tiết nhằm tập trung được sức mạnh
tổng hợp của hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh, tránh tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh và đầu tư lãng phí như hiện nay.
- Thu nhập của người dân chưa cao, người dân chưa có thói quen giao dịch
thanh toán qua Ngân hàng. Mặc khác trình độ dân cư còn chưa đồng đều, nhận thức
về dịch vụ Ngân hàng còn chưa phổ biến. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước với vai trò là
Ngân hàng của các Ngân hàng nên liên kết với các ngành như: Bưu điện, thuế, nước,
điện….Thực hiện việc thanh toán các chi phí điện, nước, điện thoại qua tài khoản cá
nhân tại Ngân hàng để người dân dần có thói quen sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
3.4.3/ Kiến nghị đối với UBND thành phố :
3.4.3.1/ Xây dựng cơ chế ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư chiều sâu, đổi mới doanh nghiệp :
Với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá
trình hội nhập sắp tới, thay đổi máy móc thiết bị hoặc đầu tư mới với trình độ công
nghệ hiện đại là yêu cầu cấp bách. Một trong những nguồn vốn quan trọng để thực
hiện chiến lược này là nguồn vốn đầu tư tín dụng của NHTM. Để thực hiện tốt yêu
cầu này, NHTM có khách hàng để mở rộng tín dụng UBND TP cần thực thi các chính
sách:
- Quy hoạch các khu kinh tế tập trung có điều kiện sản xuất kinh doanh thuận
lợi và đầu tư cơ sở hạ tầng như bưu chính-viễn thông, đường giao thông, hệ thống điện
nước, hệ thống xử lý chất thải... Thực hiện chính sách giá thuê đất linh hoạt kèm dịch
vụ hỗ trợ đầu tư hoàn chỉnh.
- Giảm các loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...
đối với những doanh nghiệp đổi mới chiều sâu theo tỷ lệ thích hợp.
- Hỗ trợ quá trình đầu tư đổi mới của doanh nghiệp thông qua chính sách hỗ trợ
lãi suất ngân hàng.
3.4.3.2/ UBND TP nên tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để phát triển cơ
sở hạ tầng:
Để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế của địa phương thì các điều
kiện cơ sở hạ tầng phải đáp ứng đầy đủ. Đối với những công trình lớn như cải tạo mở
rộng Cảng Cần Thơ, xây mới Cảng Cái Cui, cải tạo sân bay Cần Thơ, ... là những yêu
cầu cấp bách. Sự phát triển các công trình trọng điểm này sẽ kéo theo sự gia tăng đầu
tư. Tuy nhiên, khả năng đầu tư của địa phương có giới hạn, do đó UBND TP nên kiến
Trang 49
nghị Chính phủ, các Bộ thuộc Chính phủ có sự xem xét đầu tư hợp lý. Song song đó,
UBND TP cũng cần mối quan hệ đối ngoại để tìm nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế.
Sau khi đầu tư phát triển được hệ thống cơ sở hạ tầng thì nhịp độ đầu tư phát
triển kinh tế sẽ gia tăng. Khi đó NHTM có nhiều điều kiện để lựa chọn khách hàng
tránh được những hạn chế về tình trạng "khan hiếm" khách hàng như hiện nay.
3.4.4/ Những biện pháp thuộc bản thân các NHTM để mở rộng tín dụng và dịch vụ
ngân hàng:
3.4.4.1/ Mở rộng tín dụng phải nằm trong tầm quản lý và kiểm soát của các ngân
hàng:
- Việc mở rộng tín dụng ngân hàng phải nằm trong tầm quản lý và kiểm soát
của ngân hàng, ngân hàng chỉ được huy động vốn trong phạm vi cho phép và tổng dư
nợ của một khách hàng không được vượt qúa 15% vốn tự có của ngân hàng, ngân
hàng chỉ cho vay ra khi đã đảm bảo chắc chắn sẽ thu được nợ .
- Việc mở rộng tín dụng ngân hàng phải gắn liền với chất lượng tín dụng không
để phát sinh thêm nợ qúa hạn, nợ khoanh và nợ chờ xử lý , tránh tình trạng mở rộng
tín dụng nhưng không có khả năng thu hồi được nợ và lãi, gây thất thoát vốn của ngân
hàng .
- Việc mở rộng tín dụng ngân hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các qui định về
tài sản đảm bảo và phải thực hiện công tác bảo hiểm tín dụng .
3.4.4.2/ Để mở rộng dịch vụ các Ngân hàng thương mại cần phải:
- Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính, cơ cấu lại nguồn thu nhập,
nâng cao vốn tự có. Như chúng ta đã biết, để có thể cung ứng cho khách hàng những
dịch vụ Ngân hàng hiện đại thì đầu tư ban đầu là rất lớn, phụ thuộc vào khả năng tài
chính của bản thân Ngân hàng. Do vậy, các Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện
triệt để chương trình trọng tâm là lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính bao
gồm: cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có để cơ cấu lại nguồn thu nhập theo hướng thu
nhập từ dịch vụ /tổng thu nhập tăng; Sửa đổi danh mục cho vay và xử lý những tài sản
không hiệu quả trong số các tài sản mang tính rủi ro cao ra khỏi danh mục; Tiếp tục
thực hiện mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ…
- Hoàn thiện định hướng phát triển và chiến lược đa dạng hoá dịch vụ: Trên cơ
sở nghiên cứu môi trường kinh doanh, bản thân nội lực của từng Ngân hàng để xây
dựng chiến lược phát triển tổng thể, nhất quán có tầm trung dài hạn từ đó có các
bước đi và lộ trình cụ thể.
- Các NHTM phải nỗ lực hơn trong việc tìm hiểu thị trường. Để từ đó có thông
tin phân đoạn thị trường mà mình sẽ mở rộng. Mỗi Ngân hàng phải biết được khách
hàng thực sự muốn gì thì Ngân hàng sẽ có khả năng định vị bản thân để cạnh tranh và
Trang 50
lớn mạnh dựa trên tiềm lực và khách hàng sẵn có bằng cách cung cấp các dịch vụ có
nhu cầu nhiều nhất. Khi đưa một sản phẩm ra thị trường, Ngân hàng phải tìm hiểu
phản ứng của khách hàng đối với những dịch vụ mà mình đã đưa ra cung cấp. Từ đó,
có các thông tin có tính cơ sở để đưa ra các chính sách điều chỉnh thích hợp và phát
triển đối với hoạt động dịch vụ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III : Mở rộng tín dụng & dịch vụ là việc làm hết sức cần
thiết đối với sự phát triển của NHTM, để mở rộng tín dụng và dịch vụ, ngoài những
biện pháp trực tiếp là tăng cường cho vay và đa dạng hóa các hình thức tín dụng –
dịch vụ, các NHTM trên địa bàn TP.Cần Thơ cũng cần phải có những biện pháp hỗ
trợ mang tính đồng bộ và toàn diện từ Trung ương đến địa phương . Mặc dù mỗi giải
pháp được tách ra phân tích riêng nhưng giữa chúng đều có mối quan hệ đan xen lẫn
nhau, trong qúa trình vận dụng vào thực tế cần phải có sự phối hợp chặt chẽ để đem
lại hiệu qủa cao .
Trang 51
PHẦN KẾT LUẬN
[ \
Cần Thơ là thành phố giàu tiềm năng, có lịch sử hình thành khá lâu đời, giữ vai
trò rất quan trọng cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh, là động lực phát
triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nhiều lợi thế phát triển kinh tế, tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 13,54%, do đó nhu cầu cho vay và
cung ứng các dịch vụ tài chính Ngân hàng để phát triển kinh tế là rất lớn. Việc mở
rộng tín dụng & dịch vụ không những giúp cho Ngân hàng có điều kiện để sử dụng tốt
nguồn vốn đã huy động từ xã hội, cung cấp đủ vốn và dịch vụ tài chính hiện đại cho
nền kinh tế, Ngân hàng có điều kiện tối đa hoá lợi nhuận và phân tán được rủi ro mà
còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các NHTM khi tiến hành hội nhập kinh tế.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn về mở rộng tín dụng và dịch vụ, luận văn
đã đạt được những kết quả chủ yếu như sau:
1/ Trình bày và phân tích được những lý luận cơ bản về cạnh tranh, chiến lược
cạnh tranh, tổng quan về NHTM trong nền kinh tế thị trường, tầm quan trọng và sự
cần thiết phải mở rộng tín dụng & dịch vụ Ngân hàng.
2/ Phân tích được khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam so với
các Ngân hàng nước ngoài, thực trạng hoạt động tín dụng và dịch vụ của các NHTM
trên địa bàn trong thời gian qua, đồng thời nêu lên được những hạn chế trong việc mở
rộng tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
3/ Luận văn đã đề cập đến những giải pháp cụ thể để mở rộng tín dụng và dịch
vụ Ngân hàng phù hợp với định hướng phát triển của thành phố và đề xuất được
những kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước trong việc mở rộng tín dụng – dịch vụ
Ngân hàng.
* Những đóng góp và giải pháp quan trọng để mở rộng tín dụng – dịch vụ ngân
hàng:
- Tăng cường công tác huy động vốn tạo nguồn vốn ổn định để mở rộng tín
dụng
- Đẩy mạnh các hình thức tín dụng trực tiếp như mở rộng cho vay tiêu thụ sản
phẩm thông qua hợp đồng, cho vay tiêu dùng và cho vay bảo đảm bằng tài sản thế
chấp.
- Giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt.
- Giải pháp về nâng cấp hệ thống ATM và mở rộng khách hàng sử dụng ATM
trên địa bàn.
- Đa dạng thêm các loại hình dịch vụ như: thanh toán hộ tiêu dùng, dịch vụ
phát hành thẻ bảo chi nội - ngoại tệ cho các Ngân hàng thương mại.
Trang 52
- Nhanh chóng trang bị các dịch vụ Ngân hàng điện tử hiện đại cho các NHTM
như: Internet banking, Mobi banking, Home banking…
* Những kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước trong hoạt động mở rộng tín
dụng và dịch vụ Ngân hàng:
- Nhóm các kiến nghị đối với Chính phủ:
+ Ban hành luật Séc, đẩy mạnh hình thức thanh toán không dùng tiền mặt .
+ Chính phủ nên xem xét bổ sung luật các tổ chức tín dụng.
- Nhóm các kiến nghị đối với hệ thống NHNN Việt Nam:
+ Tổ chức tốt mạng lưới thông tin phòng ngừa rủi ro và tạo điều kiện thuận
lợi nhất để các NHTM khai thác thông tin một cách có hiệu qủa.
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật để các Ngân hàng thương mại
thuận lợi hơn trong việc áp dụng dịch vụ mới.
+ Cần thay đổi lại tổ chức và cách thức hoạt động của thị trường mở và thị
trường tiền tệ để các NHTM có thể mở rộng các dịch vụ của mình.
- Phải có các điều tiết nhằm tập trung được sức mạnh tổng hợp của hệ thống
Ngân hàng thương mại quốc doanh, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và
đầu tư lãng phí như hiện nay.
- Ngân hàng Nhà nước với vai trò là Ngân hàng của các Ngân hàng nên liên kết
với các ngành như: Bưu điện, thuế, nước, điện…,thực hiện việc thanh toán các chi phí
điện, nước, điện thoại qua tài khoản cá nhân tại Ngân hàng để người dân dần có thói
quen sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
- Nhóm các kiến nghị đối với UBND thành phố :
+ Xây dựng cơ chế ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư chiều sâu, đổi mới doanh nghiệp.
+ UBND TP nên tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để phát triển cơ
sở hạ tầng.
- Nhóm những biện pháp thuộc bản thân các NHTM để mở rộng tín dụng và dịch
vụ ngân hàng:
+ Mở rộng tín dụng phải nằm trong tầm quản lý và kiểm soát của các ngân
hàng.
+ Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính, cơ cấu lại nguồn thu nhập,
nâng cao vốn tự có.
+ Hoàn thiện định hướng phát triển và chiến lược đa dạng hoá dịch vụ.
+ Các NHTM phải nỗ lực hơn trong việc tìm hiểu thị trường.
Trang 53
Do vấn đề mở rộng tín dụng và dịch vụ là một lĩnh vực hết sức rộng, luận văn
chưa thể đề cập hết, chỉ tập trung vào phân tích thực trạng và tìm ra các giải pháp cụ
thể mở rộng tín dụng và dịch vụ phù hợp với thực trạng, với mong muốn là góp phần
làm hoạt động tín dụng và dịch vụ trên địa bàn TP. Cần Thơ ngày một phát triển. Tuy
nhiên, vì khả năng nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên luận văn cũng
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy
cô và các bạn đồng nghiệp.
Trang 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ \
1- Nguyễn Đăng Dờn (chủ biên), Hoàng Đức, Trần Huy Hoàng, Trầm Xuân
Hương (2001), Tiền tệ – Ngân hàng, NXB TP. HCM.
2- Hồ Diệu (2002), Quản trị Ngân hàng, NXB Thống kê.
3- Hồ Diệu (2000), Tín dụng Ngân hàng, NXB Thống kê.
4- Dương Thị Bình Minh (chủ biên), Vũ Thị Minh Hằng, Trầm Xuân Hương, Phạm
Đăng Tuấn, Sử Đình Thành, Nguyễn Anh Tuấn (2001), Lý thuyết tài chính – tiền
tệ, NXB Đại học quốc gia TP.HCM.
5- Nguyễn Văn Ngôn (1996 ), Một số nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống
kê.
6- Nguyễn Thanh Tuyền (2000), Đào Duy Huân, Công nghiệp hoá ở một số nước
Đông Nam Á bài học kinh nghiệm và tầm nhìn đến năm 2020, NXB Chính Trị.
7- Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Những thách thức của Ngân hàng
thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế, NXB Thống kê, Hà
Nội.
8- Michael. E. Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà
Nội.
9- Báo cáo của NHNN thành phố Cần Thơ các năm 2002, 2003, 2004.
10- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2002), Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt dộng
Ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ và
hội nhập quốc tế.
11- Luật các tổ chức tín dụng (1997), NXB Chính trị quốc gia.
12- Nghị định số 85/2002/NĐ-CP của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung số
178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng.
13- Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 17/02/2005 về xây dựng và phát
triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
14- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15- Các tạp chí, sách báo như :
* Đỗ Xuân Đồng (2003), “Dịch vụ Ngân hàng trong thời đại công nghệ thông
tin và hội nhập kinh tế”, Tạp chí ngân hàng, (Số 8), số trang 34-35-36.
Trang 55
* Nguyễn Đình Tự (2004), “Một số vấn đề về tăng cường năng lực hoạt động
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, Tạp chí Ngân
hàng, (số 2), số trang 5-6-7.
* Đặng Công Hoàn (2004), “Chiến lược cạnh tranh của các Ngân hàng theo mô
hình cạnh tranh của Micheal Porter”, Tạp chí Ngân hàng, (số 11), số trang 18-
19-20.
* Nguyễn Khắc Việt Trung (2005), “Nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo an
toàn hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, Tạp
chí Ngân hàng, (số 2), số trang 18-19-20-21.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0839.pdf