LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế VN liên tục tăng trưởng và tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 8%/năm. Đặc biệt năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 8,5% . Với thành tựu đạt được VN trở thành 1 trong 2 nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trên Thế giới chỉ đứng sau Trung Quốc. Đạt được thành tựu như vậy là do sự tăng trưởng mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước. Đặc biệt phải kể tới sự tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vự
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c Ngân hàng - Tài chính nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh… lĩnh vực cho vay tiêu dùng không có gì là xa lạ và nó chiếm khoảng 60% trên tổng dư nợ tín dụng thì ở Việt nam tỷ lệ này chỉ là xấp xỉ 20% và nó vẫn còn khá mới mẻ không chỉ với người dân mà ngay cả với các TCTD.
Việt nam là nước có dân số trẻ, năng động, mức thu nhập của người lao động ngày càng được nâng cao, đời sống nhân dân đựơc cải thiện đáng kể, từ đó phát sinh những nhu cầu chi tiêu mới như: mua nhà, ôtô, trang thiết bị đồ gia dụng đắt tiền, đi du lịch hay du học… Bên cạnh đó sau hơn 1 năm VN là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra cơ hội cho người tiêu dùng được tiếp cận và sử dụng những mặt hàng nhập ngoại phong phú về chủng loại, có chất lượng cao với mức giá mà một bộ phận không nhỏ người dân VN có thể đáp ứng được và sẵn sàng móc hầu bao của mình để được sở hữu món đồ mà họ yêu thích và cần thiết cho gia đình họ. Vấn đề đặt ra là để mua được một ngôi nhà hay một chiếc ôtô sang trọng với giá hàng trăm triệu – nhiều tỷ đồng, với một số người không thể tích luỹ đủ ngay số tiền lớn như vậy trong khi họ thực sự cần có nhà để lập gia đình, sống tự lập hay cần có phương tiện đi lại…Để gom đủ số tiền lớn như vậy họ có thể đi vay bạn bè, vay người thân, nhưng có lẽ đi vay ngân hàng là phương án nhiều người ưa thích lựa chọn bởi nguồn vốn ngân hàng cho vay hoàn toàn phù hợp với nhu cầu vay người của người tiêu dùng về khối lượng và thời gian sử dụng vốn.
Hiện nay, khi thị trường ngân hàng Việt nam đã cho phép các ngân hàng nước ngoài vào đầu tư theo cam kết của Việt nam trong tiến trình hội nhập do đó lĩnh vực cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển sôi động và sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Với những lợi thế riêng có của mình mỗi ngân hàng đã đang và sẽ có những chiến lược để phát huy tối đa thế mạnh đó. Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ hiện có các ngân hàng cần phải không ngừng nghiên cứu triển khai những sản phẩm và dịch vụ mới sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Chi nhánh NHNT Chương dương hoạt động trên địa bàn Quận Long Biên, Huyện Gia Lâm và một số huyện ngoại thành Hà nội, đây là một địa bàn đang đô thị hoá và có dân số trẻ, mức sống ngày một nâng cao, vì vậy nhu cầu tiêu dùng của người dân nơi đây trong thời gian tới sẽ rất lớn, có thể nói đây sẽ là một thị trường đầy tiềm năng để phát triển các dịch vụ ngân hàng hướng vào đối tượng là cá nhân, hộ gia đình và có thể xem đây là cơ hội để mở rộng Tín dụng tiêu dùng tại Chi nhánh NHNT Chương dương.
Trong quá trình thực tập tại đây được sự góp ý hướng dẫn của cán bộ nhân viên Chi nhánh NHNT Chương dương cùng với sự tìm hiểu, lựa chọn của bản thân em xin nghiên cứu đề tài: “Giải pháp mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Chi nhánh NHNT Chương dương” cho chuyên đề thực tập cuối khoá của mình.
Chuyên đề gồm:
Chương 1: Tổng quan về Tín dụng tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng Tín dụng tiêu dùng tại Chi nhánh NHNT Chương Dương
Chương 3: Giải pháp mở rộng TD tiêu dùng tại Chi nhánh NHNT Chương Dương
Xin cảm ơn tập thể Ban Giám đốc, cán bộ nhân viên Chi nhánh NHNT CD đã chỉ bảo tận tình cung cấp những thông tin, tài liệu phong phú giúp em hoàn thành chuyên đề của mình.
Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyuễn Thị Thu Thảo cùng các các Thầy Cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính đã dành nhiều tâm huyết tận tình chỉ bảo truyền đạt những kinh nghiệm quý báu giúp đỡ em trong thời gian em thực tập và viết chuyên đề.
Em xin trân thành cảm ơn!
CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG TIÊU DÙNG
1.1. Giới thiệu chung về Tín dụng tiêu dùng
Nếu như ở Việt nam hoạt động cho vay tiêu dùng còn khá mới mẻ và mới chỉ thực sự phát triển trong vài năm trở lại đây thì ở các nước có nền kinh tế phát triển khái niệm về cho vay tiêu dùng đã qúa quên thuộc và phát triển sôi động từ rất lâu rồi. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 hoạt động cho vay tiêu dùng thực sự phát triển bùng nổ, nó không chỉ xuất hiện trong danh sách sản phẩm, dich vụ của các Ngân hàng mà nó còn xuất hiện ở các TCTD khác như: công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, ngân hàng tiết kiệm bưu điện… Vì vậy sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng các ngân hàng luôn chiếm được vị trí hàng đầu. Theo con số thống kê trong thời gian gần đây tín dụng tiêu dùng là khoản mục tài sản mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng do đó các ngân hàng đang ngày càng tập chung nguồn vốn vào lĩnh vực này chủ yếu thông qua các hình thức thẻ tín dụng các khoản vay bất động sản… nhưng tín dụng tiêu dùng lại là hoạt động có chi phí và rủi ro cao nhất đối với các ngân hàng vì tín dụng tiêu dùng chủ yếu tập chung vào các đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, đây là những đối tượng có tình hình tài chính bị thay đổi rất nhanh do những thay đổi về công việc, sức khoẻ dẫn tới sự sụt giảm thu nhập. Vì vậy các ngân hàng luôn phải đặt ra những biện pháp quản lý đặc biệt và linh hoạt trong lĩnh vực này.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 80 thế kỷ 20 hoạt động tín dụng nói chung của hệ thống NHTM đã có sự thay đổi to lớn. Nếu như trước đây các ngân hàng chỉ chủ yếu phát triển lĩnh vực cho vay thương mại thì đến giai đoạn này họ đã mở rộng lĩnh vực bằng việc triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng. Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều phương tiện máy móc hiện đại như: máy rút tiền tự động, máy tính nối mạng… đã góp phần thúc đẩy các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ với các TCTD trong nước mà còn với các tổ chức tài chính khác trong khu vực và trên thế giới.
Hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển mạnh là do xuất phát từ chính mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu như các khoản tín dụng thương mại nhằm mục đích thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp thì tín dụng tiêu dùng lại nhằm mục đích tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Lĩnh vực cho vay tiêu dùng đang và sẽ phát triển hết sức mạnh mẽ không chỉ có các ngân hàng thương mại mà còn có rất nhiều các TCTD khác như các công ty tài chính, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty bảo hiểm các tập đoàn tài chính quốc tế có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt nam… cùng tham gia.
1.2. Hoạt động Tín dụng tiêu dùng của NHTM
1.2.1. Khái niệm tín dụng tiêu dùng
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng tiêu dùng ( hay cho vay tiêu dùng ), theo cách hiểu đơn giản thì cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân hay hộ gia đình. Tuy nhiên một khái niệm chung và đầy đủ nhất về cho vay tiêu dùng được các NHTM đưa ra là: “cho vay tiêu dùng là một hình thức qua đó ngân hàng chuyển cho khách hàng ( cá nhân hay hộ gia đình ) quyền sử dụng một lượng giá trị ( tiền ) trong một khoảng thời gian nhất định, với những thoả thuận mà 2 bên đã ký kết ( về số tiền cấp, thời gian cấp, lãi suất phải trả…) nhằm giúp cho khách hàng có thể sử dụng những hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn.”
1.2.2. Phân loại TDTD
Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà các NHTM có thể chia TDTD thành các hình thức khác nhau. Ở đây xin đưa ra 3 tiêu chí các NHTM thường sử dụng để phân loại TDTD.
1.2.2.1. Căn cứ vào mục đích vay
Theo căn cứ trên TDTD được chia thành 2 loại:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú ( Residential morage loan ): là các khoản cho vay nhằm mục đích tài trợ cho nhu cầu mua nhà, sửa sang nhà cửa của cá nhân hay hộ gia đình. Các khoản vay này thường có khối lượng lớn, thời gian dài do đó các ngân hàng thường gặp phải những rủi ro về lãi suất khi mà lãi suất huy động tăng trong ngắn hạn.
+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú ( Noresidentiual monage loan ): là các khoản cho vay nhằm mục đích tài trợ cho nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ gia dụng, đi du lịch, du học, giải trí… các khoản vay này thường có quy mô nhỏ thời gian tài trợ ngắn vì vậy mức độ rủi ro mà các ngân hàng gặp phải không cao bằng khoản cho vay tiêu dùng cư trú.
1.2.2.2. Căn cứ vào hình thức cho vay
+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp (Indirect Consumer Loan ):
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh do công ty bán lẻ bán chịu hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng.
Hợp đồng mua lại các khoản nợ ký kết giữa ngân hàng và công ty bán lẻ quy định rõ các điều kiện về loại hàng, số tiền và đối tượng được bán chịu. Thông qua các điều kiện đó nhà cung cấp sẽ thoả thuận với khách hàng của mình về việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Quá trình trên được khái quát qua sơ đồ sau:
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
(4)
(5)
(2) (3)
(6)
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ bán toàn bộ chứng từ mua bán chịu hàng hoá cho ngân hàng
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng
Cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện thông qua các hình thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo hình thức này nếu người tiêu dùng không thanh toán được các khoản nợ như đã cam kết khi đến hạn thì ngân hàng có quyền truy đòi toàn bộ khoản nợ đó từ công ty bán lẻ.
- Tài trợ truy đòi hạn chế: theo hình thức này nếu người tiêu dùng không thanh toán được các khoản nợ cho ngân hàng như đã cam kết khi đến hạn thì công ty bán lẻ phải thanh toán một phần khoản nợ đó cho ngân hàng tuỳ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ.
- Tài trợ miễn truy đòi: theo phương thức này sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm trong việc khoản nợ đó có được người tiêu dùng thanh toán cho ngân hàng hay không. Phương thức này chứa đựng nhiều rủi ro đối với ngân hàng vì vậy chỉ có các công ty bán lẻ rất được ngân hàng tin cậy mới được áp dụng phương thức này.
- Tài trợ có mua lại: theo phương thức này, khi thực hiện cho vay tiêu dùng theo phương thức truy đòi hạn chế và miễn truy đòi nếu người tiêu tiêu dùng không thể thanh toán cho ngân hàng các khoản nợ khi đến hạn thì ngân hàng sẽ tiến hành thanh lý tài sản để thu hồi nợ và lúc này công ty bán lẻ sẽ có trách nhiệm mua lại tài sản thanh lý từ ngân hàng.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct Consumer Loan):
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Quá trình cho vay có thể được khái quát qua sơ đồ sau:
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻ
Ngân hàng
(3)
(1) (5) (2) (4)
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay
(2) Người tiêu dùng thanh toán trước cho công ty bán lẻ một phần số tiền mua tài sản
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng trả góp tiền vay cho ngân hàng
Ưu điểm: cho vay tiêu dùng theo hình thức trực tiếp là rất linh hoạt và được các ngân hàng ưa thích sử dụng vì nó có sự đàm phán trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng qua đó ngân hàng tự quyết định có cấp tín dụng cho khách hàng hay không. Ngoài ra các cán bộ tín dụng của ngân hàng còn có cơ hội phát huy tối đa năng lực của mình thông qua quy trình thẩm định khách hàng. Hơn nữa khi khách hàng tiếp xúc trực tiếp với ngân hàng sẽ giúp cho khách hàng được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ khác mà ngân hàng đang cung cấp, qua đó ngày càng củng cố mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Nếu các ngân hàng có mối quan hệ tốt với các công ty bán lẻ thì cho vay tiêu dùng theo hình thức gián tiếp sẽ mang lại độ an toàn cao hơn cho ngân hàng do rủi ro đã được san sẻ bớt cho các công ty bán lẻ. Còn cho vay tiêu dùng theo hình thức trực tiếp mọi rủi ro thuộc về ngân hàng. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng theo hình thức trực tiếp ngân hàng sẽ là người quyết định có cấp tín dụng cho khách hàng hay không và các quyết định này có độ chính xác là rất cao, cao hơn rất nhiều so với các quyết định của các công ty bán lẻ bởi ngân hàng có các nhân viên tín dụng đã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ vững vàng cùng với những quy trình thẩm định khách hàng bài bản.
1.2.2.3. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
+ Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đối với hình thức cho vay này ngân hàng cần chú ý những điểm sau:
+ Loại tài sản được tài trợ: nếu những tài sản được hình thành từ khoản vay thoả mãn nhu cầu lâu bền của người tiêu dùng trong tương lai thì ý thức về việc trả nợ của người tiêu dùng sẽ rất cao. Vì vậy các ngân hàng nên quan tâm đến việc lựa chọn tài sản để tài trợ, các tài sản có thời gian sử dụng dài, có giá trị lớn giúp người tiêu dùng hưởng thụ được tiện ích của nó trong thời gian dài sẽ được các ngân hàng ưa thích lực chọn để tài trợ.
+ Số tiền phải trả trước: với hình thức này các ngân hàng khi quyết định cho vay họ sẽ yêu cầu người tiêu dùng phải có 1 lượng vốn tự có nhất định và các ngân hàng sẽ chỉ cho vay tối đa 70% tổng giá trị tài sản. Quy định này của ngân hàng nhằm tránh trường hợp khách hàng dùng tài sản hình thánh từ vốn vay làm tài sản thế chấp, khi phải phát mại tài sản không gây nhiều rủi ro cho ngân hàng.
Điều khoản thanh toán:
- Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với thu nhập của người vay sau khi đã trừ các khoản chi tiêu cần thiết khác.
- Giá trị tài sản không được thấp hơn số tiền cho vay chưa được thu hồi.
- Thời hạn vay không được quá dài tránh trường hợp tài sản được tài trợ giảm giá trị dẫn tới rủi ro đối với ngân hàng.
- Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ được tính theo một trong các cách sau:
Phương pháp lãi đơn: theo đó số tiền gốc khách hàng phải trả mỗi kỳ là đều nhau và nó được tính bằng cách lấy số nợ gốc chia cho kỳ hạn trả nợ, kỳ hạn trả nợ có thể là tháng, quý, năm hoặc năm tài chính. Số tiền lãi trả mỗi kỳ bằng lãi suất nhân với số dư nợ gốc kỳ đó.
Phương pháp lãi gộp: đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong hình thức cho vay tiêu dùng trả góp. Theo phương pháp này, số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn nợ (a) được tính như sau:
Trong đó: - i là lãi suất
- A là số nợ gốc
- n là kỳ hạn trả nợ
Việc phân bổ lãi vay theo thời gian: khi sử dụng phương pháp lãi gộp để tính lãi các ngân hàng thường tiến hánh phân bổ phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ hạn thanh toán.
Việc trả nợ trước hạn: trường hợp người đi vay trả nợ trước hạn nếu tiền trả góp tính theo phương pháp lãi đơn thì người đi vay chỉ phải thanh toán số nợ gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại cho ngân hàng. Còn nếu tiền lãi tính theo phương pháp lãi gộp thì vấn đề sẽ phức tạp hơn trong trường hợp này lãi được giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng tín dụng, nếu khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác thời hạn nợ ban đầu do đó số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Khi đó ngân hàng sử dụng phương pháp phân bổ lãi cho vay theo thời gian để tính số lãi thực tế phải thu dựa trên thời hạn nợ thực tế.
+ Cho vay tiêu dùng trả một lần
Trong thực tế đây là hình thức rất ít sử dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng vì nó thường là những khoản vay có quy mô nhỏ, thời hạn cho vay ngắn số tiền vay sẽ được thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này ngân hàng sẽ không mất nhiều thời gian như cho vay tiêu dùng trả góp do không phải tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ.
1.2.3. Đặc điểm Tín DụngTiêu Dùng
Thực chất tín dụng tiêu dùng là một loại hình trong tín dụng ngân hàng vì vậy nó mang những đặc điểm của tín dụng nói chung. Tuy nhiên tín dụng tiêu dùng nhằm vào đối tượng khách hàng là cá nhân và hộ gia đình do vậy ngoài những đặc điểm chung tín dụng tiêu dùng còn có một số đặc điểm sau:
1.2.3.1. Đặc điểm về khách hàng và mục đích vay
Khách hàng chủ yếu trong lĩnh vực này là cá nhân và hộ gia đình, mục đích của các khoản vay hướng tới là nhu cầu chi tiêu của cá nhân hay hộ gia đình chứ không xuất phát từ mục đích kinh doanh như các khoản tín dụng khác. Nhu cầu vay tiêu tiêu dùng bị chi phối bởi mức thu nhập và trình độ dân trí của khách hàng. Những người có thu nhập cao thường có xu hướng chi tiêu nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình, với họ việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
1.2.3.2. Nhu cầu vay và nguồn trả nợ
Khách hàng trong lĩnh vực vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia đình vì vậy nhu cầu vay của họ rất nhạy cảm và có tính chu kỳ. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh mọi người sẽ kỳ vọng thu nhập của mình sẽ tăng trong tương lai, khi đó người dân sẽ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn trong hiện tại và do đó vay tiêu dùng tăng lên. Trong trường hợp nền kinh tế tăng trưởng chậm hoặc suy thoái thì tình hình sẽ ngược lại cho vay tiêu dùng sẽ giảm. Cũng có thể thấy được nguồn trả nợ từ các khoản tín dụng thượng mại là khoản thu nhập tăng lên từ quá trình sản xuất kinh doanh, bán hàng của doanh nghiệp nhưng đối với các khoản TDTD nguồn trả nợ được lấy từ thu nhập của người vay trong tương lai. Vì vậy những cá nhân có mức thu nhập cao, việc làm ổn định, có trình độ học vấn cao thì sẽ được các ngân hàng lựa chọn cấp tín dụng.
1.2.3.3. Quy mô và số lượng
Nếu như ở các khoản tín dụng khác tại ngân hàng đa phần là có quy mô lớn và số lượng khách hàng vay là nhỏ thì trong TDTD hoàn toàn ngược lại quy mô các khoản vay nhỏ và khối lượng lớn. Bởi lẽ khách hàng vay tiêu dùng nhằm mục đích chi tiêu, đa số khách hàng vay tiêu dùng đều đã có sự tích luỹ trước, ngân hàng đóng vai trò chỉ là người hỗ trợ để cho việc mua sắm sản phẩm được dẽ ràng hơn khi việc tích luỹ vẫn chưa đủ. Mặt khác số lượng khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng lớn do vậy tổng quy mô món vay lại rất lớn.
1.2.3.4. Chi phí và rủi ro
Cho vay tiêu dùng thường có chi phí và độ rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của hệ thống ngân hàng, nguyên nhân là do các khoản vay tiêu dùng hết sức nhạy cảm với những biến động về tình hình kinh tế, thiên tai, tình trạng thất nghiệp ra tăng, bên cạnh đó là tình trạng sức khoẻ của người vay tất cả những yếu tố trên đều có thể làm thay đổi đến thu nhập của người vay trong tương lai qua đó ảnh hưởng tới việc trả nợ của họ sau này. Ngoài ra vấn đề đạo đức của người vay cũng có tác động tới khả năng thu nợ từ các khoản tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng tập chung chủ yếu vào đối tượng là cá nhân và hộ gia đình do đó vấn đề quản lý sau vay cũng là một khó khăn mà ngân hàng đang gặp phải. Do quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng món vay lớn nên ngân hàng khó có thể kiểm soát tốt tình hình thu nhập và khả năng tài chính của từng khách hàng. Các thông tin ngân hàng nhận được hoàn toàn là từ phía khách hàng cung cấp do vậy tính xác thực của nó phụ thuộc vào tính trung thực của khách hàng vì vậy chi phí và rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng tăng cao.
1.2.3.5. Lãi suất và lợi nhuận
Có nhiều phương pháp khác nhau để ngân hàng xác định mức lãi suất đối với khoản TDTD. Song phần lớn lãi suất được xác định như sau:
Lãi suất cho vay tiêu dùng
=
Chi phí huy động vốn
+
Chi phí hoạt động khác
+
Rủi ro tổn thất dự kiến
+
Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn
+
Lợi nhuận cận biên
Do chi phí và rủi ro của các khoản vay tiêu dùng cao nên lãi suất cho vay tiêu dùng thường được định giá cao hơn hẳn so với lãi suất của các khoản tín dụng thương mại. Các khoản TDTD thương có lãi suất không đổi trong xuất thời hạn vay vì vậy các ngân hàng gặp phải rủi ro về lãi suất khi mà lãi suất huy động trong ngắn hạn tăng. Nếu như lãi suất ở các khoản tín dụng thương mại được điều chỉnh bởi lãi suất thị trường thì lãi suất cho vay tiêu dùng lại cố định, do người vay quan tâm đến số tiền mình phải trả nhiều hơn là quan tâm đến lãi suất vay. Khi lãi suất của các khoản TDTD cao cùng với đó là số lượng của các khoản cho vay tiêu dùng nhiều dẫn tới tổng khối lượng cho vay tiêu dùng lớn điều này đồng nghĩa với lợi nhuận từ các khoản TDTD là rất đáng kể.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay tiêu dùng của NHTM
Có rất nhiều những nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM, ở đây xin trình bày 3 nhóm nhân tố chính đó là nhóm nhân tố xuất phát từ phía ngân hàng, nhóm nhân tố xuất phát từ phía khách hàng và nhóm nhân tố xuất phát từ môi trường hoạt động của ngân hàng.
1.3.1. Nhóm nhân tố xuất phát từ phía ngân hàng
1.3.1.1. Định hướng phát triển của ngân hàng
Định hướng phát triển của ngân hàng là điều kiện tiên quyết để hoạt động cho vay tiêu dùng được phát triển tại ngân hàng đó. Nếu trong chiến lược phát triển của ngân hàng không quan tâm tới lĩnh vực cho vay tiêu dùng thì dù nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng có lớn tới đâu cũng sẽ không được quan tâm và do đó cũng không thể triển khai được. Ngược lại nếu ngân hàng muốn phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng thì dù người tiêu dùng có nhu cầu vay hay không các ngân hàng sẽ vẫn có kế hoạch cụ thể để kích thích nhu cầu và thu hút những khách hàng đó đến với mình. Khi đó cung và cầu về cho vay tiêu dùng sẽ có sự tương thích và hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội mở rộng và phát triển.
1.3.1.2. Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng của NH là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định chi phối toàn bộ hoạt động tín dụng do Hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng nguồn vốn tài trợ cho sự phát triển của nền kinh tế một cách hiệu quả. Chính sách tín dụng có các khoản mục sau:
- Hạn mức tín dụng
- Các loại hình cho vay mà ngân hàng thực hiện
- Các quy định về tài sản đảm bảo
- Kỳ hạn của các khoản tín dụng
- Hướng giải quyết phần tín dụng vượt quá hạn mức cho vay
- ……………………
Các cán bộ tín dụng thông qua chính sách tín dụng lựa chọn hướng đi và là khung tham chiếu rõ ràng về những căn cứ để xem xét nhu cầu vay vốn của khách hàng từ đó đưa ra các quyết định về việc cấp tín dụng. Vì vậy chính sách tín dụng là một công cụ không thể thiếu đối với mỗi cán bộ tín dụng. Một khách hàng không thể vay vốn được từ ngân hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mình nếu hình thức cho vay tiêu dùng không nằm trong chính sách tín dụng của ngân hàng do đó TDTD tại ngân hàng đó không thể phát triển. Ví dụ một ngân hàng không có hình thức cho vay để mua ôtô thì dù khách hàng có nhu cầu và mọi điều kiện đáp ứng là hoàn hảo thì khách hàng đó cũng không thể được cấp tín dụng. Ngược lại nếu một ngân hàng đã sẵn có những hình thức cho vay tiêu dùng với chất lượng tốt thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng là hoàn toàn có cơ hội để mở rộng và phát triển. Do tính chất đặc thù của ngành ngân hàng, các ngân hàng không thể cạnh tranh với nhau bởi danh mục sản phẩm dịch vụ vì vậy một chính sách tín dụng đúng đắn và hợp lý sẽ giúp mỗi ngân hàng có được sự khác biệt và tạo ra ưu thế cạnh tranh từ đó đáp ứng đầy đủ nhu cầu và làm hài lòng ngay cả những khách hàng khó tính nhất. Vì thế TDTD sẽ thực sự phát triển và phát triển toàn diện tại ngân hàng đó.
1.3.1.3. Chất lượng trình độ cán bộ ttín dụng
Yếu tố về chất lượng trình độ cán bộ tín dụng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng tại các NHTM. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào nhân tố con người cũng luôn đóng vai trò then chốt. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng thì nhân tố con người luôn được đặt lên hàng đầu. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không phải ở lãi suất, ở các trương trình khuyến mại hay danh mục sản phẩm dịch vụ mà là ở phong cách phục vụ khách hàng của các cán bộ nhân viên của ngân hàng và các cán bộ tín dụng là một bộ phận quan trọng trong số đó. Hoạt động cho vay tiêu thực hiện được hay không là do người điều hành nó mà người điều hành không ai khác chính là các cán bộ tín dụng. Đạo đức của những cán bộ tín dụng được xếp vào vị trí hàng đầu trong những nhân tố chủ quan tác động tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu một cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi nhưng không có đạo đức nghề nghiệp thì cũng trở nên vô gía trị, chỉ vì một chút lợi trước mắt của bản thân mà làm ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài của cả tập thể ngân hàng. Tuy nhiên để đánh giá một cách toàn diện cán bộ tín dụng thì chỉ riêng đạo đức nghề nghiệp thôi là chưa đủ mà chúng ta còn phải xem xét về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và khả năng đưa ra những biện pháp xử lý những tình huống xảy ra bất ngờ cũng là hết sức cần thiết. Một cán bộ tín dụng năng động luôn tran hoà với mọi người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp tốt nhiệt tình và luôn có trách nhiệm trong công việc cộng thêm đạo đức nghề nghiệp chắc chắn sẽ tạo cho khách hàng sự tin tưởng trong giao dịch và lưu lại trong lòng họ một ấn tượng tốt đẹp qua đó quảng bá được hình ảnh của ngân hàng. Ngoài ra một cán bộ tín dụng có hiểu biết sâu vế các lĩnh vực khác trong cuộc sống và một mối quan hệ xã hội rộng cũng là điều kiện cần để giúp ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều khách hàng về mình. Một ngân hàng có những cán bộ tín dụng chất lượng và có sự phân công xắp xếp công việc hợp lý sao cho phát huy được điểm mạnh của từng cán bộ chắc chắn hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng tại ngân hàng đó sẽ thực sự phát triển và đủ sức cạnh tranh với các TCTD khác.
1.3.1.4. Năng lực tài chính và trình độ quản lý của ngân hàng
Ngân hàng là lĩnh vực hoạt động mang lại rất nhiều lợi nhuận nhưng cũng là lĩnh vực luôn phải đối mặt với những rủi ro lớn. Do vậy năng lực tài chính của mỗi ngân hàng là một yếu tố mà các nhà lãnh đạo cần cân nhắc khi đưa ra các quyết định trong đó có các quyết định về hoạt động cho vay tiêu dùng. Năng lực tài chính của ngân hàng được xác định dựa trên một số yếu tố như: lượng vốn chủ sở hữu, tỷ trọng nợ qúa hạn trên tổng dư nợ, số lượng tài khoản thanh khoản, tỷ lệ % lợi nhuận năm sau so với năm trước… Nếu một ngân hàng có các chỉ tiêu trên là tốt số lượng tài sản thanh khoản nhiều, tỷ lệ % lợi nhuận cao… thì có thể coi ngân hàng đó có năng lực tài chính tốt. Với điều kiện về tài chính như vậy ngân hàng có thể đảm bảo phát triển tốt các hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng từ đó cho vay tiêu dùng có cơ hộ được mở rộng.
Trong năm qua toàn thế giới chứng kiến sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Việc áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống là một điều tất yếu, lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực hoạt động áp dụng mạnh mẽ nhất những tiến bộ khoa học công nghệ, các ngân hàng được trang bị nhiều phương tiện hiện đại như máy tính nối mạng, máy rút tiền tự động ATM… Do vậy trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của ngân hàng cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới tới sự phát triển của hoạt động tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng đó. Một ngân hàng được trang bị những trang thiết bị hiện đại, thì họ có thể tăng tiện ích cho khách hàng, từ đó khách hàng sẽ biết đến các dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn. Đặc biệt trong hoạt động cho vay tiêu dùng khi mà số lượng khách hàng rất lớn, việc quản lý gặp rất nhiều khó khăn thì trình độ công nghệ và quản lý của ngân hàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng giúp các ngân hàng tránh được các rủi ro trong hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động cha vay tiêu dùng. Thông qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại các ngân hàng có thể quản lý danh sách khách hàng một cách dễ dàng hơn, họ có thể tiết kiệm được nhân công, chi phí quản lý góp phần làm giảm giá thành dịch vụ. Thêm vào đó khi có các công nghệ hiện đại hỗ trợ thì việc giải quyết các thủ tục hành chính nhanh chóng và chính xác. Và đó là cơ sở để các ngân hàng thu hút được nhiều hơn khách hàng về phía mình, tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng được phát triển và mở rộng.
1.3.2. Nhóm nhân tố xuất phát từ phía khách hàng
Một ngân hàng không thể phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng nếu không có khách hàng có nhu cầu và đáp ứng tốt những điều kiện mà ngân hàng đưa ra. Dưới đây xin trình bày 2 nhân tố thuộc về bản thân khách hàng ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3.2.1.Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay vốn cuả khách hàng
Trước khi ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng tín dụng thì ngân hàng phải thẩm định khách hàng dựa trên các điều kiện quy định khi cho vay của ngân hàng, do vậy hoạt động cho vay tiêu dùng chỉ được thực hiện khi khách hàng đáp ứng được các điều kiện mà ngân hàng đưa ra. Các điều kiện thường thấy đó là điều kiện về tài sản đảm bảo, các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp tài sản đó hay chứng nhận về mức thu nhập hàng tháng của khách hàng… Sau khi khách hàng hứng minh mình đáp ứng được các điều kiện quy định của ngân hàng, khi đó khách hàng sẽ được cấp tín dụng.
1.3.2.2. Năng lực sử dụng vốn của khách hàng
Trong một khoản cho vay tiêu dùng nguốn trả nợ gốc chính là khoản thu nhập trong tương lai của khách hàng. Thu nhập của khách hàng quyết định đến nhu cầu vay nhưng cũng là cơ sở để ngân hàng quyết định có cho khách hàng vay tiêu dùng hay không. Ngân hàng phải xem xét liệu co cho khách hàng đó vay hay không, liệu thu nhập trong tương lai của người vay có thể đủ trả cho khoản vay ở hiện tại hya không. Do vậy có thể khẳng định thu nhập thu nhập trong tương lai của khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ nhu cầu vay tiêu dùng mà còn nảnh hưởng tới quy mô khoản vay cũng như việc phát triển cho vay tiêu dùng tại mỗi ngân hàng. Bên cạnh vấn đề thu nhập, cho vay tiêu dùng còn bị chi phối bởi một số nhân tố thứ yếu khác như vấn đề đạo đức và thiện trí trả nợ ._.của người vay. Một khách hàng có thu nhập ổn định đạo có đức tốt có ý thức trả nợ đụng hạn chắc chắn sẽ được các ngân hàng lựa chọn làm đối tác lâu dài của mình. Khi đó rủi ro trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng sẽ thấp từ đó tạo điều kiện kích thích ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng cùng với đó là các điều kiện, thủ tục cho vay sẽ không quá khắt khe.
1.3.3. Nhóm nhân tố xuất phát từ môi trường hoạt động của ngân hàng
1.3.3.1.Yêu cầu phát triển của nền kinh tế
Một đất nước có nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo cơ hội mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Kinh tế vĩ mô ổn định với sự ổn định của các chỉ số về lạm phát, việc làm, lãi suất, tỷ giá… sẽ làm cho các định chế tài chính về lĩnh vực cho vay không có những biến động. Nền kinh tế phát triển và ổn định việc làm tăng, thất nghiệp giảm mức thu nhập của người lao động tăng và ổn định làm cho khả năng thanh toán các khoản vay được đảm bảo, bên cạnh đó chi phí của việc đi vay tiêu dùng, chi phí mua sắm trang thiết bị đắt tiền, di du lịch cũng vì thế mà không thay đổi từ đó nhu cầu vay tiêu dùng của người dân tăng lên do họ sẽ quyết định đi vay đẻ thoả mãn nhu cầu hiện tại sau đó sẽ hoàn trả khoản vay từ thu nhập trong tương lai. Chính vì vậy nền kinh tế phát triển ổn định không chỉ nâng nâng cao đời sống của người dân mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng. Ngược lại khi nền kinh tế có sự biến động thường xuyên như hiện nay với tỷ lệ lạm phát cao, lãi suất liên tục thay đổi, tỷ giá biến động từng ngày… tâm lý chung của người tiêu dùng là sẽ ít đi vay đẻ tránh được những rủi ro về những chi phí của khoản vay có thể tăng lên, và họ cũng không giám chắc mình có thể trả được các khoản vay đó trong tương lai. Các trung gian tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng cũng sẽ hạn chế cho vay vì họ lo ngại sẽ khó thu hồi các khoản tín dụng đã cấp do thu nhập trong tương lai của khách hàng có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào với tình trạng nền kinh tế bất ổn.
Như vậy có thể khẳng định sự phát triển của nền kinh tế có một tác động hết sức to lớn đến hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng, nền kinh tế phát triển quá nhanh, quá chậm hay có bất ổn đều không tốt. Do đó để ổn định được hoạt động cho vay tiêu dùng các ngân hàng cần phải luôn trú ý tới sức khoẻ của nền kinh tế để có thể ứng phó kịp thời với những biến đổi bất ngờ nhằm hạn chế tối đa những rủi ro gặp phải đối với ngân hàng.
1.3.3.2. Môi trường pháp luật và chính sách của Nhà nước về lĩnh vực tiêu dùng trong nước
Môi trường pháp luật đó là sân chơi chung của mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào thị trường. Chúng ta dễ nhận ra các công cụ điều tiết thị trường, các chính sách đều được cụ thể hoá bằng hệ thống pháp luật. Một hệ thống phấp luật hoàn thiện là cơ sở đảm bảo cho hoạt động tài chính an toàn ổn định kích thích các định chế tài chính nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ có chất lượng ngày một nâng cao, củng cố mối quan hệ hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa ngân hàng với khách hàng. Đặc biệt trong hoạt động cho vay tiêu dùng khi cả ngân hàng và khách hàng là những cá nhân đều được đảm bảo về lợi ích thì hoạt động vay tiêu dùng sẽ diễn ra thuận lợi hơn. Thông qua hệ thống pháp luật ngân hàng và người đi vay thực hiện được các thủ tục giấy tờ cũng như có phương hướng giải quyết hợp lý khi phát sinh các tranh chấp trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh một môi trường pháp luật hoàn thiện thì nhân tố chính sách của Nhà nước về lĩnh vực tiêu dùng trong nước cũng không kém phần quan trọng. Các chính sách có thể kìm hãm hay thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Tuỳ từng thời kỳ phát triển kinh tế của mỗi nước mà các chính sách này là khác nhau. Ví dụ khi Nhà nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng coi trọng xuất khẩu khi đó tiêu dùng trong nước sẽ ít được quan tâm, mọi hoạt động đều hướng tới mục tiêu đáp ứng quá trình xuất khẩu. tuy nhiên với chính sách này không phải nước nào cũng có thể thành công do đó chiến lược phát triển phổ biến ở hầu hết các nước là chiến lược phát triển kinh tế ổn định và bền vững. Với tinh thần đó Nhà nước sẽ tạo môi trường thuận lợi đẩy mạnh tiêu dùng trong nước thông qua các chính sách thuế, thương mại, du lịch, giáo, dục y tế… và đó là bước đẹm để hoạt cho vay tiêu dùng có thể phát triển rộng khắp trong cả nước.
1.3.3.3. Môi trường văn hoá – xã hội
Trước khi các ngân hàng muốn phát triển một sản phẩm dịch vụ mới ngoài các yếu tố về môi trường pháp luật, điều kiện kinh tế… thì các ngân hàng còn phải quan tâm tới môi trường Văn hoá xã hội. Môi trường văn hoá xã hội ở đây có thể được hiểu là những phong tục tập quán, thói quên sử dụng dich vụ ngân hàng, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập, trình độ dân trí, thị hiếu… của người dân. Đặc biệt trong hoạt động cho vay tiêu dùng đối tượng khách hàng nhắm tới chủ yếu là cá nhân có nhu cầu chi tiêu lớn, đây là bộ phận người bị ảnh hưởng bởi môi trường Văn hoá xã hội nhiều hơn cả các yếu tố khác. Ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập chỉ chiếm khoảng 10% người dân nơi đây có thói quên mua sắm chi tiêu nhiều hơn, vì vậy có thể dễ hiểu tại sao cho vay tiêu dùng ở các nước này lại phát triển mạnh đến như vậy. Bên cạnh đó các quan niệm về ngân hàng xa lạ hay gần gũ, có an toàn hay không, thói quên dùng tiền mặt hay dùng thẻ tín dụng cũng là những yếu tố có tác động đến cho vay tiêu dùng. Vì những lý do trên khi phát triển hoạt động TDTD các ngân hầng phải luôn quan tâm đến phong tục, lối sống của đại bộ phận dân cư nơi ngân hàng mình đóng chân từ đó đưa ra những biện pháp nhằm kích thích nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng một cách hợp lý sao cho dịch vụ ngân hàng mình đang cung cấp có thể tồn tại được trên thị trường qua đó củng cố nâng cao vị thế cạnh tranh với các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng khác.
1.4. Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng của các NHTM tại một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
1.4.1. Quá trình phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM Việt Nam
Ở Việt nam hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM đã phát triển vào những năm đầu của thập kỷ 90, trong giai đoạn đầu cho vay tiêu dùng tập trung chủ yếu vào cho vay trả góp, các sản phẩm cung ứng còn sơ khai, đơn điệu. Các NHTM tỏ ra lúng túng trong việc cấp tín dụng theo hình thức này do chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện nghiệp vụ. Trong thời gian qua đã ra đời một loạt các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể quy trình nghiệp vụ hoạt động trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng và đây là lúc các NHTM tại Việt nam liên tục phát triển và mở rộng các loại hình cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra ưu thế cạnh tranh cho ngân hàng mình. Việt nam được coi là một thị trường đầy tiềm năng để phát triển các loại hình dịch vụ cho vay tiêu dùng.
Nếu như trứơc đây người tiêu dùng rất ngại tiếp xúc với nguồn vốn từ ngân hàng vì họ cảm thấy phức tạp, về phía ngân hàng thì họ cũng không mặn mà cho vay tiêu dùng vì lo ngại gặp phải rủi ro. Nhưng đến thời điểm này tình hình đã đổi khác. Khách hàng thuộc tất cả mọi tầng lớp đều thích có mối quan hệ với ngân hàng họ đến ngân hàng không chỉ để gửi tiền tiết kiệm mà còn để vay vốn, đặc biệt là vay để: mua và sửa nhà, mua ôtô, đi du học… Do đó trong thời gian tới tuy sẽ có hàng loạt ngân hàng trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động cho vay tiêu dùng song với một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng như Việt nam sẽ hứa hẹn mang lại sự thành công cho các ngân hàng biết tận dụng nó.
1.4.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại một số nước
1.4.2.1. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại Trung Quốc
Hiện nay cho vay tiêu dùng được coi là một xu thế phát triển tất yếu tại các NHTM, đặc biệt với một quốc gia như trung quốc với dân số đông nhất nhì Thế giới thật là đáng tiếc cho những ngân hàng đang hoạt động tại Trung quốc không triển khai rộng rãi hoạt động cho vay tiêu dùng. Các NHTM ở Trung Quốc đã trú trọng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng và đã đạt được một số kết quả đáng khen ngợi. Vào những năm 90 của thế kỷ trước do nền kinh tế còn chưa phát triển đời sống của người dân chưa cao do đó nhu cầu vay tiêu dùng là không nhiều vì vậy hoạt động cho vay tiêu dùng tại Trung Quốc còn khá hạn chế. Bước sang những năm đầu của thể kỷ 20 Trung Quốc nổi lên là một cường quốc kinh tế mới tại Châu á và trên Thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất Thế giới trong nhiều năm qua. Nền kinh tế phát triển mức thu nhập của người lao động nâng cao đời sống của người dân vì thế mà được cải thiện nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng phong phú và đây là nền tảng cho sự phát triển hoạt động TDTD. Theo đánh giá của các nhà quản lý Ngân hàng Trung Quốc cho vay tiêu dùng chính là tương lai của các NHTM và họ cần phải tập trung thật nhiều nguồn lực của mình vào lĩnh vực này nếu muốn cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc. Ngay từ cuối năm 1990 Ngân hàng Kiến Thiết Trung quốc (CCB) đã dẫn đầu về phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Vào năm 1999 CCB đã kéo dài thời hạn cho vay có thế chấp lên từ 20 lên 30 năm, giá trị khoản vay cũng được nâng từ mức 70 lên 80% giá trị tài sản thế chấp, đồng thời cuối năm 1999 CCB bắt đầu chấp thuận các khoản cho vay do các cá nhân đứng ra bảo lãnh, bãi bỏ quy định về việc yêu cầu người đi vay cần phải được người chủ lao động của mình đứng ra bảo đảm cho khoản vay. CCB còn có một kế hoạch đầy tham vọng là sử dụng các phương tiện kỹ thuật công nghệ sẵn có của mình để phát triển hình thức dịch ngân hàng Internet và đưa ra một số sản phẩm dịch vụ ngân hàng điển tử bán lẻ.
Ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông cũng là một trong số các NHTM ở Trung Quốc sớm triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng và đến thời điểm này Ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông là một trong những ngân hàng hàng đầu tại Trung Quốc trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Ngân hàng này đã làm đơn giản hoá các thủ tục về tài sản thế chấp cho các khách hàng khi vay vốn tại ngân hàng bằng cách là ngân hàng hợp tác với các công ty chuyên kinh doanh bất động sản đồng thời giảm số lần mà người vay phải đến giao dịch với một chi nhánh ngân hàng từ 20 lần xuống còn 3 lần. Có thể nói đây là một điểm rất mới trong hoạt động cho vay tiêu dùng mà ngân hàng phát triển Thượng Hải – Phú Đông thực hiện tại thời điểm đó. Từ tháng 8/1999 ngân hàng phát triển Thượng Hải – Phú Đông đã phối hợp với các công ty du lịch lữ hành để đưa ra các khoản cho vay du lịch, kể từ đó đã có rất nhiều những cặp vợ chồng trẻ mới cưới có cơ hội được tận hưởng tuần trăng mật thông qua những chuyến du lịch bằng các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng này còn kéo dài các khoản vay dành cho đào tạo Đại học từ 2 năm lên 4 năm và thành lập một quỹ đặc biệt dành cho các bậc cha mẹ vay vốn do muốn gửi con cái vào các trường học tư nhân đắt tiền. Ngân hàng Thượng Hải - Phú Đông đã cố gắng đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu vay tiêu dùng của nhiều đối tượng dân cư nhằm tăng thêm uy tín của ngân hàng và cạnh tranh với các ngân hàng khác. Để thực hiện được kế hoạch này ngân hàng phát triển Thượng Hải – Phú Đông đã tăng gấp đôi số nhân viên Marketing cho lĩnh vực tín dụng tiêu dùng và chiếm khoảng 22% tổng quỹ lương. Cho vay tiêu dùng đã mang lại sức sống mới cho các NHTM tại Trung Quốc, tuy nhiên các khoản cho vay tiêu dùng vẫn còn khá mới mẻ với không chỉ người tiêu dùng mà còn mới mẻ với các Tổ chức tín dụng tại Trung Quốc do vậy những rủi ro trong lĩnh vực này gặp phải vẫn chưa bộc lộ rõ nét và đầy đủ. Khả năng trả nợ của các khoản vay tiêu dùng phụ thuộc phần nhiều vào tình trạng của người vay như tình trạng sức khoẻ và công việc vì vậy những rủi ro mà các ngân hàng gặp phải là không thể lường trước nên vẫn xẩy ra một số trường hợp các khoản vay đến hạn trả mà người vay không có khả năng trả nợ. Mặt khác kể từ năm 2003 cùng với sự phát triển của hoạt động cho vay của khu vực ngân hàng thì lạm phát cũng gia tăng và nạn đầu tư qúa mức trong tất cả các khu vực khác nhau đã trở thành mối lo ngại hàng đầu của Chính phủ giữa lúc bao trùm tâm lý lo ngại nền kinh tế phát triển nhanh kiểu bong bóng. Do vậy Ngân hàng Trung ương Trung Quốc vừa tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vừa kiểm soát các ngân hàng và hoạt động cho vay quá mức đối với khu vực bất động sản. theo quy định của uỷ ban Giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) yêu cầu tất cả các ngân hàng thương mại nước này đều phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% kể từ ngày 1/1/2007, trong đó khoản tiền cho khu vực bất động sản vay chưa trả sẽ không được phép chiếm hơn 30% tổng dư nợ vay chưa trả của một ngân hàng. Thách thức lớn nhất hiện nay đối với các NHTM Trung Quốc là khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trên lĩnh vực cho vay tiêu dùng: HSBC, Citibank, Standard Chartered… đang nổi lên là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh, các NHTM trong nước của Trung Quốc nếu không củng cố ngay lập tức lĩnh vực cho vay tiêu dùng thì rất có thể lĩnh vực cho vay tiêu dùng sẽ rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh vốn đã rất mạnh về TDTD.
Trong những năm qua nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh từ đó kích thích nhu cầu vay tiêu dùng nhưng các dịch vụ liên quan khác của ngân hàng trong nước lại không được trú trọng. Các dich vụ cho vay tiêu dùng vẫn còn sơ khai ít đa rạng và không có những thay đổi kịp thời với sự biến động không ngừng của môi trường xung quanh, do vậy có thể dễ hiểu tại sao các NHTM Trung Quốc lại không thể cạnh tranh nổi với các ngân hàng nước ngoài. Trái ngược hoàn toàn với các NHTM Trung Quốc các ngân hàng nước ngoài vừa có kinh nghiệm vừa hiện đại và năng lực tài chính hơn hẳn, chẳng hạn như Citibank đã phát hành trên 100 triệu thể tín dụng trên toàn thế giới và có những hệ thống đánh giá độ tín nhiệm của khách hàng đã đựơc kiểm nghiệm. Với kinh nghiệm dày dạn và hệ thống giao dịch hiện đại các ngân hàng nước ngoài có ưu thế vượt trội so với các đối tác Trung Quổc trong lĩnh vực kinh doanh thể tín dụng mặc dù số lượng chi nhánh của họ tại Trung Quốc là không nhiều. Các loại thẻ của các ngân hàng này chủ yêú nhằm vào đối tượng khách hàng là những người giàu có bên cạnh đó các hạn mức tín dụng cho sinh viên cũng được nâng cao vì thế các ngân hàng nước ngoài vượt xa các ngân hàng Trung Quốc về dư nợ tín dụng. Không chỉ mạnh về thẻ tín dụng các ngân hàng nước ngoài còn triển khai các khoản cho vay mua nhà trả chậm, rõ ràng đây là một dịch vụ có rất nhiều triển vọng do dấn số Trung Quốc khá đông nhu cầu về vay mua nhà là rất lớn. Theo đánh giá của các nhà phân tích các ngân hàng lớn của nước ngoài sẽ không mở chi nhanh trên toàn quốc và cũng không nhằm vào thị trường cho vay mua nhà trả chậm đối với các khách hàng trung lưu, mà chủ yếu các ngân hàng nước ngoài sẽ lôi kéo các khách hàng giàu có với các dịch vụ có mức chi phí cao nhưng lại hoàn toàn làm hài lòng những khách hàng khó tính nhất do mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng luôn ở mức cao. Theo các chuyên gia tư vấn cách tốt nhất để cho vay tiêu dùng phát triển và phát triển phổ biến là chúng cần phải được tách riêng thánh bộ phận có thể tự kinh doanh hạch toán lỗ lãi hoàn toàn độc lập với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
1.4.2.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM Châu Âu
Ở Châu Âu so với các loại tín dụng khác thì TDTD ra đời muộn hơn nhưng nó lại đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân tại các nước phát triển. Đến nay tín dụng tiêu dùng đã trở thánh qúa phổ biến tại Châu Âu. Cùng với các loại tín dụng khác tín dụng tiêu dùng làm hoàn thiện phong phú môi trường tín dụng hướng tới bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
- Đối tượng, hình thức, giá trị và thời hạn của khoản vay tiêu dùng
Nghị định 87/102CEF ra đời ngay 22/11/1986 của Cộng đồng chung Châu Âu khởi thảo bước đầu tiên có tính thống nhất về các điều khoản luật, các quy tắc và quản lý hành chính tín dụng tiêu dùng trong phạm vi toàn cộng đồng. Nghị định này đã liên tục được sửa đổi trong các giai đoạn tiếp theo: NĐ90/08/CEE ngày 22 tháng 2 năm 1990, NĐ98/7/CEE ngày 16 tháng 2 năm 1998.
Nghị định 87/102/CEF quy định: tất cả các cá nhân có đủ năng lực hành vi đều có khả năng được cấp TDTD với điều kiện: khoản tín dụng đó không sử dụng để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp, nó chỉ mang tính chất thuần tuý là tiêu dùng cho cá nhân. Tuy vậy để phòng ngừa rủi ro các NHTM vẫn có những giới hạn về đối tượng nhận tín dụng ví dụ như giới hạn về độ tuổi.
Trên cơ sở Nghị định chung các nước cũng có đề ra những luật, quy tắc của riêng mình tạo ra sự khác biệt nhất định giữa các quốc gia về phạm vi, đối tượng, giá trị của khoản vay về thời hạn vay và lãi suất...
Ví dụ: Ỏ nước Bỉ thông thường các khoản tín dụng tiêu dùng thường được cấp cho những người có nhu cầu vay với khoản tín dụng tối thiểu là 1.250 EUR và tối đa là 20.000 EUR thời hạn tối thiểu là 3 tháng. Thực tế các NHTM Bỉ cũng áp dụng quy định này một cách linh hoạt. Ví dụ tại ngân hàng AGF:
- Đối với cho vay mua Ôtô AGF áp dụng mức tín dụng từ 1.500 EUR đến 100% giá trị tài sản mua trong khoảng thời gian từ 12 – 60 tháng, với lãi suất 0,805%/tháng.
- Với việc sửa chữa bếp, nhà tắm, bể bơi, trang trí nhà cửa... cho vay từ 2.250 EUR đến 45.000 EUR thời hạn từ 12 – 120 tháng với mức lãi suất 0,814%/tháng.
- Các thông tin trong cho vay tiêu dùng
Khi đề nghị cấp một khoản tín dụng cho vay tiêu dùng người vay phải có trách nhiệm khai báo chính xác và đầy đủ cho ngân hàng những thông tin mà ngân hàng thấy cần thiết nhằm mục đích thẩm định khách hàng trước khi cấp tín dụng. Ngược lại ngân hàng cần cung cấp chính xác và đầy đủ cho khách hàng những thông tin cần thiết về lãi suất, thời hạn vay, phương thức trả nợ cũng như tư vấn cho khách hàng loại hình và số lượng tín dụng phù hợp nhất căn cứ vào thẩm định của các cán bộ tín dụng. Khi người vay có thể chứng minh được mình đáp ứng được các điều kiện mà ngân hàng đặt ra là phù hợp với quy định và năng lực chi trả của mình thì hợp đông tín dụng sẽ được ký kết.
- Ký hợp đồng tín dụng
Trước khi ký hợp đồng ngân hàng gửi cho khách hàng bản hợp đồng mẫu trong đó nêu rõ các điều khoản cần thiết về số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất, lãi suất qúa hạn cũng như các phương thức trả nợ… mà 2 bên có thể thoả thuận. Trong thời gian 15 ngày kể từ ngày khách hàng nhận được bản hợp đồng ngân hàng có trách niệm chờ thông tin phản hồi từ người tiêu dùng. Trong thời gian đó khách hàng vẫn có quyền từ chối ký hợp đồng và trong vòng 7 ngày kể từ ngày hợp đồng được ký khách hàng vẫn có quyền huỷ bỏ.
- Thanh toán lãi và gốc
Số tiền người vay phải trả hàng tháng (A) là:
Trong đó: - i là lãi suất tháng
- M là giá trị khoản vay
- n là thời gian vay
Lãi suất tối đa cho các khoản vay tín dụng được điều chỉnh định kỳ. Lãi suất các khoản vay tiêu dùng thường được xác định dựa trên giá trị và thời hạn vay của khoản tín dụng.
Trong thực tế có một số tình huống phát sinh như sau:
_ Thanh toán trước: vào bất kỳ thời điểm nào người vay đều có quyền thanh toán trước hợp đồng với điều kiện họ phải thông báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định (ở Bỉ là 1 tháng )
_ Thanh toán chậm: trong trường hợp này người vay phải chịu mức lãi suất phạt tối đa là mức lãi suất đang áp dụng + 10%
_ Khi không còn khả năng thanh toán: người tiêu dùng có thể yêu cầu Thẩm phán Toà án kinh tế xem xét cho họ được hưởng sự “đơn giản hơn trong thanh toán” khi tình trạng tài chính của người tiêu dùng trở nên trầm trọng, Thẩm phán Toà án kinh tế có quyền xác định số tiền còn lại mà người đi vay tiếp tục phải chịu.
_ Rủi ro và bảo đảm tín dụng: TDTD được đánh giá là mang nhiều rủi ro vì vậy để đảm bảo cho khoản tín dụng, ngân hàng đòi hỏi khách hàng một số yêu cầu sau:
Ký kết một hợp đồng bảo hiểm trọn đời liên quan trực tiếp đến khoản vay cá nhân này nhằm bảo đảm được sự chi trả khi khách hàng qua đời trong thời hạn hợp đồng còn giá trị. Với hợp đồng này công ty bảo hiểm đảm nhận trách nhiệm hoàn trả cả vốn và lãi còn phải trả của người đi vay cho ngân hàng.
Ký kết một hợp đồng chuyển nhượng lương, hợp đồng này là một giấy uỷ quyền của khách hàng, bảo đảm chuyển toàn bộ thu nhập của người vay vào hợp đồng bảo hiểm suốt đời. Khi hợp đồng tín dụng tiêu dùng hết hạn nếu khách còn nợ ngân hàng khoản bảo hiểm được chuyển lại cho khách hàng.
_ Quản lý hành chính: Mỗi quốc gia có một hệ thống quản lý hành chính công tác cho vay tiêu dùng. tại Bỉ là một hội đồng kiểm soát bao gồm 5 thành viên một chủ tịch, 2 chuyên gia luật về tín dụng tiêu dùng và 2 chuyên gia về thông tin hoạt động theo nhiệm kỳ 6 năm. Hội đồng liên kết với các cơ quan liên quan tiến hành giám sát, hướng dẫn:
+ Sự tuân thủ các điều khoản trong luật
+ Soạn thảo các tài liệu, giấy tờ cần thiết cho việc áp dụng luật
+ Giúp đỡ giải quyết tranh chấp có liên quan
+ Làm báo cáo hàng năm vào đầu kỳ để gửi tới phòng làm luật
Các ngành, cơ quan khác có liên quan như NHTW Bỉ, các TCTD các cơ quan quản lý hành chính khác đều có trách nhiệm gửi các thông tin cần thiết cho hội đồng và các thành viên của hội đồng khi có yếu cầu.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với các NHTM Việt nam
Theo xu hướng phát triển tất yếu các ngân hàng ngày càng phát triển mạnh loại hình cho vay tiêu dùng trong hoạt động tín dụng chung của họ. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ dần chiểm tỷ trọng lớn trên tổng dư nợ cho vay và phát triển phổ biến ở tất cả các nước trên Thế giới. Theo con số thống kê kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng tài nhiều nước cho thấy cho vay tiêu dùng không rủi ro cao như người ta lo ngại nhưng nó đêm lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng, nhất là tại các nước có nền kinh tế phát triển. Việc phát triển hoạt động tín dụng phải đi đôi với các quy định, quy trình giám sát và quản lý rủi ro tín dụng trước, trong và sau khi cấp tín dụng một cách nghiêm ngặt, hệ thống thông tin đánh giá khách hàng phải đầy đủ và luôn cập nhật kịp thời do hình thức này chủ yếu là các món vay nhỏ và không có tài sản đảm bảo. Để đảm bảo sự an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng, giữa các TCTD với nhau và với NHTW luôn có sự thống nhất cao. TDTD tại Việt nam và một số nước trong khu vực đang gặp phải một số khó khăn như: thu nhập của người lao động không ổn định, hệ thống thông tin tín dụng cá nhân chưa phát triển, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện. Đặc biệt các NHTM của Việt Nam vấp phải sự cạnh tranh cực kỳ gay gắt của các ngân hàng nước ngoài khi mà theo cam kết của tiến trình hội nhập từ 1/4/2008 các ngân hàng 100% nước ngoài được phép thành lập và hoạt động tại Việt nam, đây là các ngân hàng vốn rất mạnh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Vì vậy để tránh được những khó khăn trong thời gian tới các NHTM Việt nam phải không ngừng cải tiến công nghệ, đào tạo cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi nâng cao năng lực tài chính… để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài có mặt tại Việt nam.
Sáu nguyên nhân khiến cho vay tiêu dùng tại việt nam chưa phát triển đúng với tiềm năng:
Một số ngân hàng ngại cho vay tiêu dùng vì các món vay nhỏ nhưng chi phí quản lý lớn và nhiều rủi ro: Đúng vậy cho vay tiêu dùng nhằm vào nhóm đối tượng khách hàng chủ yếu là cá nhân và giá trị khoản vay được tính dựa trên thu nhập của người lao động. Chúng ta làm một phép tính đơn giản các ngân hàng cho vay tiêu dùng với những người có thu nhập tối thiểu 3 triệu/tháng và giá trị khoản vay sẽ là 25 tháng lương như vậy giá trị khoản vay sẽ vào khoảng 70 -80 triệu. Đối với ngân hàng cho vay 80 triệu là một khoản vay nhỏ tuy nhiên lại có rất nhiều người vay do vậy quá trình thẩm định và quản lý mất nhiều thời gian và chi phí, bên cạnh đó còn ẩn chứa rất nhiều rủi ro do thu nhập của người vay có thể thay đổi bất kỳ lúc nào do họ mất việc làm hoặc ốm đau… Ngoài hình thức trên các ngân hàng cũng cho vay tiêu dùng theo hình thức cầm cố giấy tờ có giá như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu nhưng nhìn chung đây vẫn là những món vay nhỏ nên các ngân hàng không mặn mà cho vay lắm. Tất cả những phân tích trên là lý do khiến cho vay tiêu dùng còn chưa phát triển mạnh tại thị trường Việt nam.
Thiếu thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng liên quan đến khách hàng cá nhân:
Nếu như các khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp thì việc thu thập thông tin về khách hàng đó sẽ không gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên khách hàng trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng chủ yếu là cá nhân mà các ngân hàng không có cơ sở dữ liệu về thông tin để tra cứu đảm bảo cấp tín dụng trong thời gian ngắn nhất. Hiện nay hệ thống tra cứu thông tin duy nhất là Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN ( CIC ) nhưng do một số ngân hàng không cập nhập đầy đủ nên vẫn xẩy ra trường hợp khách hàng có dư nợ tại ngân hàng khác nhưng CIC vẫn không hề có thông tin. Các cơ quan cung cấp thông tin cá nhân như phòng địa chính, chính quyến địa phương xã ( phường ) nơi người vay cư trú hay công an thì lại chưa sẵn sàng cung cấp những thông tin liên quan. Bên cạnh đó nhiều khách hàng vì muốn vay được tiền nên đã che dấu thông tin hoặc khai báo thông tin không đúng sự thật do đó làm ngân hàng đưa ra những đánh giá không chính xác về khách hàng đó dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần có những biện pháp để khách hàng hợp tác trung thực trong việc cung cấp thông tin để tạo lòng tin đồng thời tìm kiếm các nguồn bảo lãnh để củng cố quan hệ với ngân hàng.
Văn bản pháp luật liên quan chưa đồng bộ và phù hợp với thực tế:
Việt nam là một nước có hệ thống pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng nói riêng là không được hoàn chỉnh, vẫn còn tồn tại nhiều văn bản pháp luật chồng chéo lên nhau, văn bản này phản bác lại văn bản kia, nhiều văn bản chỉ mới có hiệu lực được một thời gian ngay lập tức đã bộc lộ ra những vấn đề trái với thực tế và lập tức bị vô hiệu. Đặc biệt là các văn bản liên quan đến bất động sản, đăng ký giao dich bảo đảm… Điều 13 luật đất đai năm 2003 quy định hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê chỉ được thế chấp bảo lãnh quyền sử dụng đất tại các TCTD để sản xuất kinh doanh không phải để tiêu dùng nên ngân hàng không được nhận quyền sử dụng đất làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay tiêu dùng. Trong một vài năm trở lại đây tại Hà nội tình hình phát triển nhà ở theo quy hoạch phát triển nhất là nhà trung cư, nhà vườn và biệt thự trong các khu đô thị tăng nhanh về cả số lượng xây dựng cũng như nhu cầu mua của người sử dụng nhưng việc cho vay để mua những ngôi nhà này cũng còn gặp nhiều khó khăn. Khách hàng muốn vay vốn mua nhà và thế chấp chính ngôi nhà hình thành từ vốn vay tương đối nhiều nhưng các phòng Công chứng Nhà nước không chấp nhận ký kết hợp đồng công chứng tài sản hình thành từ vốn vay, do đó không đảm bảo tính pháp lý về tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Thủ tục hành chính còn phức tạp đối với cả người cho vay và người đi vay:
Qúa trình hoàn thành các thủ tục để các ngân hàng có thể cho vay còn chưa đồng bộ, đặc biệt là những giao dich cần có tài sản đảm bảo. Việc cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất và sở hữu nhà còn chậm khiến khách hàng gặp khó khăn trong việc sử dụng tài sản là nhà và đất làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng. Thời gian đăng ký giao dịch bảo đảm, thủ tục xác nhận tại một số cơ quan chính quyền Phường, Xã gặp nhiều vướng mắc mất nhiều thời gian, mạng lưới đăng ký giao dịch bảo đảm còn mỏng, phân bố chưa hợp lý. Đối với cho vay có tài sản bảo đảm trong giấy đề nghị vay vốn có mục yếu cầu xác nhận của chính quyền địa phương nơi mình cư trú, tuy nhiên một số hộ gia đình có hộ khẩu và tài sản thế chấp ở 2 điạ chỉ khác nhau. Hoặc khi khách hàng có nhu cầu vay sửa nhà phải có giấy phép sửa chữa nhà của Phường, Quận hay sở xây dựng nhưng đối với các trường hợp sửa chữa nhỏ khách hàng thường ngại xin giấy phép vì thủ tục rườm rà. Một khó khăn nữa là các ngân hàng rất khó có được xác nhận của chủ đầu tư dự án về việc giao bản gốc chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận quyến sở hữu đối với tài sản đang thế chấp tại ngân hàng trong trường hợp khách hàng thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lại.
Vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay khi khách hàng không trả được nợ:
Đối với các khoản vay tiêu dùng có tài sản thế chấp khi đến hạn thanh toán khách hàng không có khả năng trả nợ thì về nguyên tắc ngân hàng sẽ thanh lý tài sản đảm bảo để thu nợ nhưng trên thực tế các ngân hàng chưa thể chủ động xử lý tài sản đặc biệt là bất động sản nếu không có ý kiến chấp thuận của chủ tài sản và các cơ quan chức năng có liên quan mặc dù trong hợp đồng thế chấp cầm cố qua công chứng có xác nhận rõ: “trường hợp người vi phạm các cam kết trong hợp đồng tín dụng ngân hàng được xỷ lý tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ gốc lãi và các chi phí có liên quan”. Ở các nước phát triển cho vay tiêu dùng chỉ chiếm từ 35-40% tổng dư nợ cho vay nhưng lợi nhuận lại chiếm khoảng 60-65% tổng lợi nhuận của các ngân hàng. Một trong những lý do của việc các ngân hàng rất yên tâm triển khai rộng rãi cho vay tiêu dùng là vì pháp luật ở các nước này rất nghiêm khắc trừng trị những khách hàng đi vay không trả nợ. Nếu có nợ qúa hạn ngân hàng sẽ gửi giấy báo nợ đến khách hàng 3 lần sau lần thứ 3 trát gọi của Toà, trước hết Toà án gọi 2 bên đến điều trần, nếu người vay cam kết và trả nợ thì thôi nếu không sẽ có những phán quyết cưỡng chế. Đây cũng là một trong những điểm mà các cơ quan quản lý Nhà nước Việt nam cần lưu tâm, tham khảo khi đưa ra các văn bản luật điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt nam.
Quy chế chính sách của NHNN và các NHTM về cho vay tiêu dùng còn thiếu:
Cho vay tiêu dùng nó mang những đặc thù riêng nhưng hiện NHTM vẫn thực hiện theo Quy chế cho vay chung của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo QĐ1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/13/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Về phía các ngân hàng thương mại cũng chưa có các văn bản quy định cụ thể về điều kiện cho vay, quy trình thực hiện thủ tục giấy tờ phù hợp với từng loại sản phẩm đối với khách hàng cá nhân và hộ gia đình vay tiêu dùng để giảm bớt những thủ tục không cần thiết.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
2.1. Tổng quan về Chi nhánh NHNT Chương Dương
2.1.1. Lich sử hình thành và phát triển Chi nhánh ._.àng đưa ra là không ít, nhiều khách hàng muốn thủ tục đơn giản, thời gian phê duyệt nhanh cùng với đó là một thái độ nhiệt tình, cầu thị của các nhân viên tín dụng… Do đó yêu cầu đặt ra đối với chi nhánh là chất lượng sản phẩm dịch phải không ngừng được đổi mới và nâng cao. Khi khách hàng tìm hiểu và lựa chọn ngân hàng làm đối tác, nếu ngân hàng không đáp ứng được những yêu cầu, tiêu trí đó của khách hàng thì ngay lập tức ngân hàng sẽ để mất những khách hàng đó vĩnh viễn.
- Tín dụng tiêu dùng là một lĩnh vực hoạt động mới, là một xu thế phát triển tất yếu và rất tiềm năng, do vậy trong thời gian tới sẽ có rất nhiều NHTM tham gia cung cấp sản phẩm dịch vụ này. Các ngân hàng đua nhau thực hiện các chiến thuật cạnh tranh dưới nhiều hình thức nhằm tạo ra sự khác biệt, riêng có cho ngân hàng mình. Bên cạnh đó là hàng loạt các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh văn phòng đại diện của các ngân hàng lớn cũng đã được phép thành lập và hoạt động tại việt nam. Đây là các ngân hàng có thế mạnh hơn hẳn các NHTM trong nước về lĩnh vực tiêu dùng. Trong khi đó sản phẩm dịch vụ trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại CN còn rất nghèo nàn đơn điệu không có sự khác biệt với các ngân hàng khác, sức cạnh tranh yếu và đây là hạn chế lớn nhất đang tồn tại ở CN hiện nay.
2.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
* Nguồn nhân lực: Như đã trình bày ở phần trước nguồn nhân lực tại CN cũng là một nguyên nhân kìm hãm hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Cán bộ tín dụng của chi nhánh thiếu cả về mặt số lượng và chất lượng. Về mặt số lượng do các cán bộ tín dụng phải quản lý những khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp và cả những khách hàng cá nhân do vậy gây lên sự quá tải và sức ép từ phía công việc lớn dẫn đến hiệu quả làm việc bị giảm sút. Bên cạnh đó sự mở rộng về quy mô của chi nhánh như mở thêm 2 phòng giao dịch trong thời gian qua cũng đã khiến cho CN thiếu hụt về số lượng cán bộ tín dụng. Về mặt chất lượng các cán bộ tín chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp trong một thời gian dài, khi chuyển sang cho vay tiêu dùng thì đối tượng khách hàng là các cá nhân mang những đặc điểm khác hẳn so với các khách hàng là doanh nghiệp do vậy không tránh khỏi những bỡ ngỡ trong công việc.
*Kinh nghiệm: Chi nhánh NHNT Chương Dương mới chỉ triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng trong vài năm trở lại đây do vậy kinh nghiệm hoạt động còn thiếu. So với các ngân hàng bán lẻ như ACB, Techcombannk và một số ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt nam như: HSBC, Citibank… thì CN thua kém hơn hẳn. Ví dụ như Techcombank là ngân hàng ngày từ khi đi vào hoạt động thì đối tượng khách hàng mà ngân này nhằm tới là những doanh nghiệp vừa và nhỏ và các khách hàng cá nhân do vậy hoạt động cho vay tiêu dùng tại Techcombank cũng hình thành từ đó. Đối với toàn hệ thống NHNT lĩnh vực truyền thống và là thế mạnh chính là các sản phẩm dịch vụ liên quan tới lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu, hơn nữa CN cũng chỉ mới được thành lập và đặc biệt CN mới triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng được một thời gian ngắn do vậy việc thiếu kinh nghiệm trong hoạt động cho vay tiêu dùng là không thể tránh khỏi.
* Hoạt động Marketing của Chi nhánh NHNT Chương Dương còn chưa hiệu quả. Hiện ở chi nhánh các nhân viên phòng Quan hệ khách hàng kiêm luôn công việc của một cán bộ tín dụng và marketing mà CN chưa có bộ phận phòng ban riêng trong hoạt động marketing. Hoạt đông marketing nhằm quảng bá hình ảnh của ngân đối với công chúng bằng việc thường xuyên đăng tin về ngân hàng trên báo, đài, tạp trí truyền hình đặc biệt là trang Web của ngân hàng. Tuy nhiên có thể thấy đây chỉ là những hoạt động marketing thực hiện chung cho cả hệ thống NHNT, chúng ta rất hiếm thấy hoạt động marketing được thực hiện riêng bởi CN. Chính vì vậy khách hàng của ngân hàng vẫn chủ yếu là các khách hàng tổ chức có quan hệ tín dụng lâu năm với CN còn các khách hàng cá nhân vẫn còn biết rất ít về CN. Trong khi đó rất nhiều NHTM khác hiện nay rất trú trọng tới hoạt động marketing của ngân hàng mình đặc biệt họ sử dụng truyền hình như một phương tiện quảng bá có tính đại chúng. Các ngân hàng điển hình về cho vay tiêu dùng đã có những chiến lược quảng bá rất hiệu quả như VIB tài trợ cho chương trình ở nhà chủ nhật một chương trình mà người xem chính là đối tượng khách hàng của các sản phẩm cho vay tiêu dùng, VPbank tài trợ chương trình khởi nghiệp…
* Mạng lưới chi nhánh: hiện nay mạng lưới chi nhánh trong hệ thống NHNT còn thưa thớt chủ yếu tập chung và các thành phố lớn, do vậy vẫn chưa khai thác một cách triệt để nhu cầu vay tiêu dùng ở một số điạ bàn, khu công nghiệp ở một số tỉnh lẻ.
Qua phân tích ở trên có thể thấy được kết quả đạt được trong hoạt động cho vay tiêu dùng của CN là đáng ghi nhận. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều những vướng mắc cần phải được gỡ bỏ. Nếu khắc phục được những hạn chế phân tích ở trên thì chắc chắn hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ trở thành một thế mạnh trong hoạt động tín dụng của CN. Cụ thể CN đang vấp phải một số khó khăn vướng mắc sau:
- Các sản phẩm cho vay tiêu dùng còn đơn điệu, chỉ tập chung vào một số khía cạnh đơn giản của TDTD như cho vay mua nhà dự án, cho vay mua ôtô, thông qua thể tín dụng... mà chưa thấy sản phẩm có nhu cầu lớn và riềm năng như: cho vay đi du học, du lịch, cho vay sửa nhà xuất hiện.
- Phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng phải được đảm bảo bằng các tài sản có giá trị chuyển đổi cao vì vậy làm hạn chế rất nhiều nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng.
- Hoạt động Marketinh tại CN còn chưa được trú trọng, phần lớn hoạt động Marketing tại CN là hoạt động Marketing chung của cả hệ thống NHNT. CN chưa có phòng Marketing riêng, hoạt động marketing tại CN do phòng QHKH đảm nhận do vậy tín chuyên môn hoá và hiệu quả của hoạt động chưa cao.
- CN chưa hình thành được mối quan hệ với với các nhà phân phối ôtô, các chủ đầu tư xây dựng khu đô thị, biệt thự, trung cư cao cấp… vì vậy một phần lớn khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng đã bị bỏ qua chưa khai thác được.
- Phần lớn nguồn huy động của CN là nguồn ngắn hạn trong khi đó TDTD chủ yếu là các khoản cho vay trung và dài hạn do vậy CN hiện đang thiếu nguồn trung và dài hạn tài trợ cho lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
- Chất lượng cán bộ nhân viên tại CN nhánh còn yếu đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng do CN mới triển khai cung cấp dịch vụ này chưa lâu.
- Một số chính sách về thủ tục tài sản thế chấp, thủ tục cho vay tiêu dùng tại CN còn cứng nhắc và chưa đồng bộ, dẫn tới tình trạng khách hàng ngại sử dụng sản phẩm cho vay tiêu dùng tại CN…
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NHNT CHƯƠNG DƯƠNG
3.1. Định hướng phát triển TDTD của ngân hàng trong thời gian tới
3.1.1. Một số thuận lợi của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt nam
Mới đây Bộ thương mại đưa gia dự báo giai đoạn 2006 – 2010 chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người / tháng tại Việt nam tăng bình quân 10,75% khu vực nông thôn tăng 11,25% và khu vực thành thị tăng 10% . Với mức tăng như vậy đến năm 2010 chi tiêu bình quân đầu người/tháng của cả nước ước đạt 657.800đ/tháng trong đó khu vực thành thị đạt 1.054.700đ/ người/tháng và khu vực nông thôn đạt 537.400đ/người/tháng.
Bên cạnh đó mức thu nhập của người lao động tăng cao từ đó phát sinh những nhu cầu mới nhằm mục đích hưởng thụ. Do vậy xu hướng chi tiêu cho nhà ở, dược phẩm, chăm sóc y tế, đi du lịch, thông tin và giáo dục sẽ có tốc độ phát triển cao hơn các chi tiêu khác.
Có thể dễ nhận thấy một xu hướng phát triển mới ở đại bộ phận giới trẻ Việt nam hiện nay nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại là tiêu trước trả sau. Và có thể dự báo được xu hướng tiêu dùng “ tiêu trước trả sau” sẽ ngày càng trở nên phổ biến trong giới trẻ Việt nam, tương tự như như tại các nước phát triển khác với tầng lớp trung lưu ngày càng nhiều
Theo trung tâm thông tin thương mại, qua tổng kết xu hướng tiêu dùng từ năm 1996 – 2006 tại Việt nam cùng với những thuận lợi khi Việt nam là thành viên của WTO. Giám đốc điều hành công ty nghiên cứu thị trường TNS Vietnam Ralf Matheaes đưa ra những dự báo về xu hướng tiêu dùng mới trong những năm tới tại Việt nam
* Về phát triển dân số: dân số Việt nam khoảng trên 82 triệu người hiện đang xếp thứ 13 trên thế giới trong đó 75% dân số sống ở nông thôn. Đến năm 2020 dân số Việt nam được dự đoán tăng nhanh và vượt qua Nhật bản. Tỷ lệ phát triển dân số sẽ mang lại một vài xu hướng tiêu dùng mới và những thay đổi trong những năm tới. Trong đó việc tăng mạnh lực lượng lao động và kiểu hộ gia đình nhỏ sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng.
* Phân khúc tiêu dùng: hiện tại phân khúc tiêu dùng ở Việt nam vẫn chưa ró nét, chủ yếu là sự phân biệt về giới tính, tuổi tác nhưng cũng chưa tạo ra nhiều sự phân khúc. Theo dự báo, năm 2016 Việt nam sẽ là một nước tràn ngập sự phân khúc tiêu dùng. Ngoài các tiêu chí của cải, giới tính và tuổi tác thì sẽ có nhiều nhân tố phức tạp khác tham gia vào việc phấn khúc tiêu dùng tại Việt nam từ đó quá trình phân khúc sẽ phức tạp hơn dẫn tới hình thành một thị trường tiêu dùng đa dạng. Đó chính là thuận lợi cho hoạt động tiêu dùng tại Việt nam phát triển trong tương lai gần.
* Tâng lớp thu nhập cao: trong vòng 10 năm tới tầng lớp người có thu nhập cao tăng lên khoảng 10% (hiện tầng lớp này chỉ chiếm khoản 1% dân số ) Vì vậy một lượng lớn khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng sẽ tăng cao tại Việt nam.
Vì vậy đẩy mạnh cho vay tiêu dùng là một xu hướng tất yếu là điều kiện khách quan của nền kinh tế thị trường, các NHTM phải coi đây là chiến lược, là mục tiêu phát triển của mình trong tương lai.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh NHNT Chương Dương
Chi nhánh NHNT Chương Dương xác định trong kế hoạch hoạt động năm 2008 và các năm tiếp theo 2 mục tiêu quan trọng nhất là đẩy mạnh hoạt động tiêu dùng cùng với cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, những doanh nghiệp thường xuyên sử dụng dịch vụ của ngân hàng và người dân trên địa bàn. Chiến lược của CN là đa dạng hoá cá sản phẩm dịch vụ đặc biệt là các sản phẩm trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng song song với việc tập trung hoàn thiện các sản phẩm truyền thống và hiện có tại CN.
Cụ thể trong công tác tín dụng CN sẽ thực hiện kế hoạch tăng dư nợ cho vay. Tăng cường và củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thồng, đẩy mạnh hoạt động marketing nhằm quảng bá hình ảnh của ngân hàng từ đó có thể thu hút được thật nhiều khách hàng mới đến quan hệ với ngân hàng. Ngòai ra trong giai đoạn tới ngân hàng sẽ tăng cường quản lý rủi do tín dụng góp phần giảm nợ quá hạn xuống dưới mức 5%. CN tăng cường công tác quản lý tài chính, góp phần đảm bảo an toàn cho cả hệ thống, không ngừng quan tâm tới việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng cũng như tập thể cán bộ nhân viên tại chi nhánh.
Chi nhánh NHNT Chương Dương xác định thị trường cho vay tiêu dùng là một thị trường đầy tiềm năng nhưng xu thế cạnh tranh thì ngày càng trở nên mạnh mẽ khi mà kinh tế Việt nam đang trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới. Với năng lực hiện có của mình Chi nhánh NHNT Chương Dương hoàn toàn có đủ khả năng khai thác thị trường cho vay tiêu dùng trên điạ bàn Quận Long Biên và vung lân cận một cách hiệu quả.
Cùng với mục tiêu to lớn của NHNT VN đó là phát triển từ một NHTM cổ phần thành một tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng, CN cũng sẽ không ngừng nghiên cứu đổi mới để góp chung vào mục tiêu đó và tiến tới sẽ là một ngân hàng bán lẻ đa năng. Và lĩnh vực cho vay tiêu dùng sẽ là hướng phát triển được ngân hàng trú trọng nhiều hơn cả. Cụ thể một số điểm như sau:
- Không ngừng đa rạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, mở rồng đối tượng khách hàng từ đó gia tăng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Duy trì và nâng cao chất lượng các khoản cho vay tiêu dùng đã thực hiện
- Phấn đấu thời gian tới dư nợ cho vay tiêu dùng đạt 10% tổng dư nợ cho vay nâng doanh thu từ hoạt động này lên 15% tổng doanh thu của ngân hàng
- Tập trung ngày càng nhiều vốn cho hoạt động này đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
3.2. Định hướng chung nhằm mở rộng TDTD tại các NHTM Việt nam
- Các NHTM cần đơn giản giản hoá các chính sách, thủ tục cho vay tiêu dùng nhằm giúp khách hàng không bị ảnh hưởng đến kế hoạch vay và sử dụng vốn của mình, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ngân hàng.
- Đa dạng hoá danh mục sản phẩm cung cấp nhằm giúp cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn trước khi quyết định ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng. Đây cũng là một cách giúp các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác
- Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhân viên của mình từ đó nâng cao năng lực của cán bộ nhân viên giúp cho các cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn vững cùng với sự hiểu biết sâu rộng, phong phú về các ngành nghề trong xã hội có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu công việc trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng.
- Nâng cao chất lượng thu thập thông tin về khách hàng từ bên ngoài: ngoài các thông tin mà khách hàng cung cấp, ngân hàng cần phải thu thập thông tin về khách hàng từ nhiều phía. Có thể thu thập thông tin từ phía các ngân hàng mà khách hàng đó đã có quan hệ tín dụng, hay các đồng nghiệp nơi khách hàng đang công tác nhằm mục đích giúp ngân hàng có được đánh giá xác thực nhất về khách hàng. Từ đó đưa ra các quyết định tín dụng chính xác giúp các NH hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất.
- Đổi mới công nghệ thông tin ngân hàng: trong thời gian gần đây công nghệ thông tin có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình cạnh tranh mở rộng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, công nghệ thông tin ngân hàng hiện đại cũng giúp các cán bộ ngân hàng giảm tải công việc góp phần tăng năng suất và hiệu quả công việc.
3.3. Giải pháp mở rộng TDTD tại Chi nhánh NHNT Chương Dương
3.3.1. Đa dạng hoá các sản phẩm cho vay tiêu dùng
Hiện nay tại CN các sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng còn khá đơn giản không có nhiều sự khác biệt với các ngân hàng khác, còn mang nặng tính truyền thống chưa gắn kết được với công nghệ hiện đại. Các sản phẩm cho vay tiêu dùng hiện CN đang cung cấp chỉ tập chung vào những khía cạnh đơn giản của hoạt động như: thông qua thẻ tín dụng, cho vay mua nhà, mua ôtô mà chưa thấy suất hiện sản phẩm liên quan đến cho vay đi du học, du lịch… đây là những sản phẩm có nhu cầu rất lớn trong thời gian tới và hiện đã được các ngân hàng khác như ACB, Techcombank cung cấp, hiệu quả thu được là rất cao. Chi nhánh NHNT Chương Dương mới chỉ triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng trong một thời gian ngắn nên cần phải tham khảo kinh nghiệm triển khai các sản phẩm này từ các ngân hàng khác từ đó tiếp thu những thế mạnh và rút kính nghiệm những hạn chế vướng mắc tại các ngân hàng đi trước.
Bên cạnh đó CN phải luôn trú trọng phát triển những sản phẩm cho vay tiêu dùng mà CN đã triển khai được góp phần tạo nên bộ sản phẩm cho vay tiêu dùng tại chi nhánh phong phú về cả số lượng và chất lượng. Có như vậy hoạt động cho vay tiêu dùng của CN trong thời gian tới sẽ được triển khai rộng rãi và phát triển đúng với năng lực hiện có của CN và tiềm năng của thị trường.
Việc đa rạng hoá các sản phẩm cho vay tiêu dùng sẽ khắc phục được hạn chế về sự đơn điệu đối với các sản phẩm cho vay tiêu dùng góp phần làm phong phú thêm bộ sản phẩm dịch vụ hiện có tại Chi nhánh.
3.3.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng
Hiện tại các thủ tục về cho vay, thủ tục về tài sản đảm bảo còn khá cứng nhắc và máy móc do vậy để khắc phục được hạn chế này nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại CN. CN cần hoàn thiện lại chính sách tín dụng cụ thể với các biện pháp sau:
- Linh hoạt trong chấp nhận hồ sơ và tài sản thế chấp: việc xem xét hồ sơ giấy tờ là thủ tục rất phức tạp nó làm tăng thời gian và chi phí của ngân hàng trong quá trình hoạt động, kìm hãm kế hoạch vay và sử dụng vốn của khách hàng. Mặc dù trong thời gian qua CN đã cố gắng đổi mới, thực hiện chính sách một cửa, tuy nhiên việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyến sử dụng đất ở các khu đô thị còn rất chậm. Đặc biệt là việc cấp giấy chứng nhận quyến sở hữu nhà ở các khu trung cư mới xây. Trong khi đó giá trị các căn hộ ở khu trung cư rất cao hoàn toàn có thể dùng làm tài sản thế chấp cho ngân hàng. Vì vậy các CN có thể linh hoạt hơn trong hồ sơ về tài sản thế chấp. CN có thể giải quyết hồ sơ về tài sản thế chấp ngay cả khi chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà miễn là CN có được thông tin chính xác về tài sản thế chấp, sau đó đề nghị khách hàng hoàn thiện sau một thời gian ngắn tính từ khi giải ngân. Có như vậy mới đáp ứng tốt nhất được nhu cầu khách hàng và thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với CN.
- Tăng tỷ lệ vay / giá trị tài sản đảm bảo: hiện nay tỷ lệ cho vay mua nhà là 70% đối với căn nhà được mua từ tiền vay tại CN, cho vay mua ôtô là 80% tuy nhiên giá trị ngôi nhà, chiếc ôtô là rất lớn nhìn chung có mức giá ổn định thậm trí còn tăng trong tương lai đặc biệt là gía trị nhà, đất vì vậy CN cần tăng tỷ lên này lên nhằm giúp khách hàng giảm nặng vướng mắc về tài chính, như vậy số lượng khách hàng đến vay tại CN sẽ tăng rất cao.
- Cải tiến chất lượng dịch vụ: trong hoạt động cho vay tiêu dùng hay bất cứ một hoạt động nào khác tại chi nhánh, CN không thể thực hiện chiến lược cạnh tranh thông qua lãi suất, danh sách sản phẩm dịch vụ mà chỉ có thể cạnh tranh thông qua chất lượng dịch vụ mà mình đang cung cấp. Chất lượng dịch vụ ở đây chính là thời gian giao dịch nhanh, thái độ phục vụ của nhân viên nhiệt tình có thiện trí. Để có được chất lượng dịch vụ tốt cần phải có chiến lược cụ thể, dài hơi, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ phận và một cách thống nhất các biện pháp đề ra.
3.3.3. Hình thành và củng cố mối quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động ngân hàng
CN chưa có các một quan hệ với các công ty xây dựng, chủ đầu tư hay các nhà phân phối các sản phẩm ôtô, hàng hoá khác nơi mà Ngân hàng có thể gặp gỡ và ký hợp đồng cho vay tiêu dùng với các khách hàng nhằm tài trợ một phần vốn cho họ trong việc mua sắm của mình.
3.3.3.1. Liên kết với các Công ty xây dựng, chủ đầu tư:
Ký hợp đồng liên kết ba bên khách hàng - ngân hàng - chủ đầu tư, qua đó khách hàng muốn mua nhà nhưng chưa đáp ứng đủ nguồn tài chính, thì thông qua liên kết này khách hàng sẽ không phải lắng về vấn đề tài chính nữa mà họ sẽ được ngân hàng tài trợ vốn để mua nhà. Cũng thông qua liên kết này các thủ tục về hồ sơ tài sản thế chấp sẽ được rút ngắn đi rất nhiều về thời gian chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng.
Có thể học tập cách làm của ngân hàng ACB khi họ thành lâp hẳn Trung tâm giao dich bất động sản, mục đích của của hình thức này nhằm hỗ trợ khách hàng tìm kiếm các căn hộ theo ý mình. Bên cạnh đó Trung tâm giúp cho khách hàng có được những thông tin chính xác, đầy đủ về thị trường nhà đất qua đó chọn mua được những ngôi nhà phù hợp thông qua nguồn vốn ngân hàng cho vay.
3.3.3.2. Liên kết với các nhà phân phối cung cấp các sản phẩm ôtô
CN cần hình thành mối quan hệ liên kết với các hãng xe lớn như Toyota, Mercedes Benz… để các hãng này giới thiệu khách hàng đến ngân hàng vay tiền để thực hiện nhu cầu mua sắm ôtô của mình. Đây chính là điểm yếu của CN so với các chi nhánh của ngân hàng VPbank, VIB trên cùng địa bàn. Trong thời gian tới ngân hàng và các nhà cung cấp xe hơi nên hình thành mối quan hệ và ký các hợp đồng mua bán nợ nhằm kích thích khả năng bán hàng của nhà cung cấp và hoạt động cho vay tiêu dùng tại CN. Bên cạnh đó giữa ngân hàng và nhà cung cấp xe hơi cũng phải thoả thuận để đưa ra các văn bản quy định liên quan đến phương thức tài trợ giữa 2 bên là truy đòi toàn bộ hay miễn truy đòi để có thể tránh được các tranh chấp không đáng có có thể xảy ra.
3.3.4. Tăng cường nguồn huy động trung và dài hạn
Hiện tại nguồn trung và dài hạn tài trợ cho hoạt đông cho vay tiêu dùng tại CN là rất thiếu bởi lẽ các sản phẩm cho vay tiêu dùng tại chi nhánh đều có thời hạn rất dài từ 5 năm đối với cho vay mua ôtô đến 15 – 20 năm đối với cho vay mua nhà dự án. Trong khi đó phần lớn nguồn huy động của CN nhánh là các nguồn có thời hạn ngắn, theo quy định các ngần hàng chỉ được phép sử dụng 30% nguồn ngắn hạn để tài trợ cho vay trung và dài hạn. Vì vậy các ngân hàng muốn mở rộng cho vay tiêu dùng thì cần phải tăng cường huy động các nguồn trung và dài hạn để đáp ứng được khả năng tài trợ cho lĩnh vực vay tiêu dùng và cũng để tránh được rủi ro thanh khoản đối với CN. Trong thời gian qua nhằm tăng nguồn vốn huy động, CN đã tiến hành khai trương và cho vào hoạt động 2 phòng giao dich, đây là một cố gắng rất lớn của tập thể cán bộ nhân viên tại chi nhánh góp phần huy động thật nhiều nguồn vốn về cho CN đặc biệt là nguồn trung và dại hạn tạo cơ sở để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng trong thời gian tới. Để huy động nguồn dài hạn Chi nhánh NHNT Chương Dương có thể tham khảo mốt số cách sau:
- Sử dụng vốn của các quỹ bảo hiểm và hưu trí. Hiện nay các quỹ bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện… rất phát triển. CN có thể sử dụng lại nguồn vốn của các tổ chức này thông qua hình thức phát hành trái phiếu.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi có thời hạn dài, phát triển các loại hình tiết kiệm gắn với cho vay như tiết kiện mua sắm, tiết kiệm nhà ở… vì hiện tại tỷ lệ tiền mặt trong dân cư đang nắm giữ là rất lớn.
3.3.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Như đã trình bày ở trên một trong những khó khăn mà CN đang gặp phải là chất lượng cán bộ tín dụng cho vay tiêu dùng vẫn còn yếu do thiếu kinh nghiệm khi mà hoạt động này mới được triển khai tại CN chưa lâu. Có thể thấy được mối quan hệ giữa chất lượng cán bộ tín dụng với chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Khách hàng cảm nhận được chất lượng dịch vụ thông qua phong cách phục vụ của từng nhân viên ngân hàng, một nhân viên có thái độ đúng mực, luôn nhiệt tình trong công việc, vững vàng nghiệp vụ và am hiểu sâu các lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ để lại ấn tượng tốt cho khách hàng đặc biệt là các khách hàng cá nhân luôn có những yêu cầu khắt khe về chất lượng dịch vụ ngân hàng. CN có đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, nhiệt tình, năng động sáng tạo tuy nhiên lại thiếu kinh nghiệm do vậy lãnh đạo Chi nhánh NHNT Chương Dương cần quan tâm tới việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho các nhân viên của mình để có thể đáp ứng cho chiến lược mở rộng cho vay tiêu dùng của CN trong thời gian tới.
3.3.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing ngân hàng
Trong thời gian qua CN chưa thực sự quan tâm tới công tác marketing. Hiện chi nhánh vẫn chưa có phòng marketing riêng các nhân viên phòng QHKH kiêm luôn công tác tín dụng và công tác marketing vì vậy không thể tránh khỏi sự quá tải trong công việc dẫn tới hiệu quả công việc không cao. Thời gian tới CN cần triển khai chiến lược marketing cho riêng mình kết hợp với hoạt động marketing của toàn hệ thống NHNT nhằm quảng bá thương hiệu của ngân hàng đến toàn bộ công chúng. CN nên thành lập một phòng ban riêng chuyên nghiên cứu và thực hiện công tác marketing đảm bảo hoạt động được thực hiện xuyên xuất không bị gián đoạn và không rõ ràng như hiện nay. Các nhân viên marketing cần tận dụng mối quan hệ của mình để quảng cáo về các dịch vụ cho vay tiêu dung mà CN đang cung cấp tới khách hàng, đặc biệt là các khách hàng cá nhân. Bên cạnh đó việc thành lập một trang Web riêng cho CN cũng hết sức cần thiết để có thể tận dụng tất cả các kênh thông tin. Trong Web của CN cần có mục hỏi đáp thắc mắc để giúp cho những thông tin phản hồi từ phía khách hàng đến được với CN từ đó CN có thể khắc phục những sai sót kịp thời.
Xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý cũng là một mảng mà CN cần phải quan tâm trong quá trình mở rộng TDTD. Vì đối tượng khách hàng trong lĩnh vực này là những cá nhân. Nhu cầu và yêu cầu của họ là hết sức đa dạng vì vậy CN cần có những chính sách chăm sóc cho từng đối tượng khách hàng. Ví dụ đối với những khách hàng lần đầu quan hệ với ngân hàng yêu cầu các nhân viên phải tư vấn, hưóng dẫn cho họ về các sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng kỹ càng hơn giúp họ lựa chọn và sử dụng dịch vụ hợp lý nhất với điều kiện của mình.
3.4. Một số kiến nghị đối với Chính phủ và NHNN
3.4.1. Kiến nghị đối với chính phủ
- Nhà nước cần có các biện pháp ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: như đã trình bày ở phần trên môi trường kinh tế vĩ mô có tác động thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng tại các NHTM phát triển nếu nó ổn định. Ngược lại nó sẽ kìm hãm hoạt động nếu môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn. Do vậy Nhà nước luôn quan tâm tới sự ổn định môi trường kinh tế, nó không chỉ thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển mà còn thúc đẩy các hoạt động khác như sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư…phát triển góp vào sự phát triển chung của đất nước.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý: đặc biệt hành lang pháp lý trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng vì hiện vẫn chưa có văn bản pháp lý nào chính thức điều chỉnh và hướng dẫn các NHTM thực hiện trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Vì vậy trong thời gian qua các NHTM vẫn còn lúng túng trong quá trình thực hiện. Việc hoàn thiện hành lang pháp lý không chỉ tạo cơ hội cho các NHTM triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng dẽ dàng hơn mà còn tạo tâm lý cho khách hàng sự yên tâm được bảo vệ khi sử dụng các sản phẩm cho vay tiêu dùng mà ngân hàng cung cấp. Một số kiến nghị cụ thể: - Tạo cơ chế khuyến khích các ngân hàng cho vay bán lẻ - Sớm ban hành một văn bản luật điều chỉnh riêng hoạt đông TDTD đó là Luật Tín dụng tiêu dùng – Đơn giản các thủ tục hành chính như rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà… tạo điều kiện để sản phẩm cho vay mua nhà được tiến hành nhanh hơn – Ban hành các quy định về việc cần phải minh mạch các thông tin nhà đất nhằm hạn chế các giao dịch ngầm giúp cả ngân hàng và khách hàng đưa ra các quyết định chính xác kịp thời.
3.4.2. Kiến nghị đối với NHNN
- NHNN cần sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng: hiện tại các NHTM thực hiện cho vay tiêu dùng vẫn dực trên các văn bản chung cho hoạt động tín dụng, mặc dù muốn xây dựng những quy định riêng cho hoạt động này cũng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy một văn bản pháp quy điều chỉnh và hướng dẫn về lĩnh cho vay tiêu dùng là hết sức cần cho các NHTM trong thời điểm này.
- NHNN cần lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng:hiện tại hệ thống thông tin liên ngân hàng vẫn chưa được quan tâm. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng việc thu thập thông tin về khách hàng chủ yếu lấy từ chính khách hàng đó cung cấp. Do vậy độ chính xác còn phục thuộc vào nhân cách đạo đức, thiện trí của khách hàng đó. Vì thế trong thời gian tới hệ thống thông tin liên ngân hàng cần phải được phát triển giúp các ngân hàng chia sẻ thông tin về khách hàng tạo điều kiện cho các ngân hàng có được thêm thông tin về khách hàng nhằm tránh cho ngân hàng đưa ra quyết định cho vay sai lầm và những rủi ro tín dụng.
- NHNN cần có các biện pháp nâng cao năng lực cán bộ ngân hàng: với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN cần phải tổ chức các lớp đào tạo cán bộ ngân hàng đặc biệt là các lớp đào tạo cán bộ tín dụng tiêu dùng nhằm giúp các NHTM khắc phục được tình trạng thiếu những cán bộ tín dụng tiêu dùng có năng lực thực sự. Các cán bộ tín dụng tiêu dùng phải được trang bị các kiến thức về các loại xe hơi, kiến thức về nhà đất, thị trường bất động sản cũng như khả năng thu thập thông tin từ các khách cá nhân…
KẾT LUẬN
Cho vay tiêu dùng là một xu thế phát triển tất yếu của thời đại, lợi ích mà nó mang lại không chỉ riêng đối với người đi vay và người cho vay mà nó còn mang lại lợi ích to lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước Việt nam. Cho vay tiêu dùng giúp đa dạng hoá hoạt động, hạn chế rủi ro đối với ngân hàng. Ngoài ra cho vay tiêu dùng còn kích thích nền sản xuất trong nước phát triển, giúp cho người dân được tiếp cận với tiến bộ kho học kỹ thuật thông qua việc sử dụng các phương tiện hiện đại góp phần nầng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân tiến tới ổn định trật tự kinh tế - xã hội.
Tín dụng tiêu dùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hệ thống NHNT VN nói chung và Chi nhánh NHNT Chương Dương nói riêng. Đặc biệt NHNT VN là một ngân hàng hàng đầu Việt nam về phát hành các loại thẻ, và thanh toán không dùng tiền mặt. Với phương châm đúng đắn của Ban Giám đốc cùng với sự nỗ lực hết mình của tập thể cán bộ nhân viên, Chi nhánh NHNT Chương Dương đã đạt được những thành tựu đáng khen ngợi trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên hoạt động này mới chỉ được triển khai tại chi nhánh trong thời gian ngắn cộng với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay để có thể mở rộng tín dụng tiêu dùng một cách an toàn và hiệu quả đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực hết mình của Ban Giám đốc và tập thể cán bộ nhân viên tại Chi nhánh.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do khả năng về kinh nghiện nghiên cứu, kiến thức và sự hiểu biết của bản thân còn hạn chế, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong có được những ý kiến đóng, nhận xét của các Thầy cô trong khoa và các cán bộ Chi nhánh NHNT Chương Dương.
Xin trân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình NHTƯ - nhà xuất bản Thốngkê năm 2005
Giáo trình NHTM – nhà xuất bản Thống kê năm 2005
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – nhà xuất bản Thống kê năm 2004
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp – nhà xuất bản Thống kê năm 2004
Quản trị NHTM – nhà xuất bản tài chính năm 2004- Ttác giả Peter Rose
Báo cáo kết quả kinh doanh Chi nhánh NHNT Chương Dương năm 2004 -2007
Văn bản pháp luật về tín dụng ngân hàng và các văn bản liên quan
Tạp trí ngân hàng, thời báo ngân hàng do NHNN phát hành
Thông tin ngân hàng ngoại thương - chịu trách nhiệm xuất bản Thạc sỹ Nguyễn Thu Hà – Phó TGĐ NHNT VN
Các trang Web: WWW.vietcombank.com.vn,
WWW.Thoibaokinhtesaigon.com.vn
Danh mục các chữ viết tắt
CN: Chi nhánh
NHNT VN: Ngân hàng ngoại thương Việt nam
NHNN: Ngân hàng nhà nước
TDTD: Tín dụng tiêu dùng
NHNT: Ngân hàng ngoại thương
NHTM: Ngân hàng thương mại
TTXNK: Thanh toán xuất nhập khẩu
TCTD: Tổ chức tín dụng
BẢN NHẬN XÉT KẾT QUẢ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33182.doc