Giải pháp mở rộng tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kim Động

Lời nói đầu Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất 1.1. Tín dụng Ngân hàng và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất 1.1.1. Tín dụng Ngân hàng 1.1.1.1. Khái niệm Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dich giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kết trả với một lượng giá trị lớn hơn th

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kim Động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo thời hạn đã thoả thuận TDNH là mối quan hệ tin dụng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là các chủ thể khác trong NKT, trong đó Ngân hàng đóng vai trò là người đi huy động để cho vay. Giá (lãi suất) của khoản vay do Ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoản thời gian tồn tại của khoản vay. Chủ thể tham gia trong quan hệ TDNH là Ngân hàng, Nhà nước, Doanh nghiệp và hộ dân cư. Đối tượng được sử dụng để cho vay ở đây là tiền, nó không chịu sự giới hạn theo hàng hoá, vận động đa phương đa chiều. Đây là đặc điểm khác biệt giữa TDNH với các loại hình tín dụng khác. TDNH đối với hộ sản xuất là tín dụng mà một bên chủ thể tín dụng là NH, một bên là các hộ sản xuất. 1.1.1.2. Đặc trưng của tín dụng - Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả nợ . - Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn . Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay. Việc xác định thời hạn cho vay dựa vào: + Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hơp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ sẽ gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có nguồn để trả nợ, nhưng nếu có nguồn thu nhập khác ngoài nguồn thu chính thì có thể thu nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay có thể ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc xác định thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay mà còn dựa vào tính chất vốn của người cho vay có thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay ngắn hơn để đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng. - Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng của tín dụng. Vì vốn cho vay của Ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho người kỳ thác. Mặt khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho Ngân hàng một khoản lãi. 1.1.1.3. Các phương thức cấp tín dụng chủ yếu của Ngân hàng a. Cho vay trực tiếp từng lần Đây là hình thức cho vay phổ biến của NH đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và giải trình cho NH phương án sản xuất kinh doanh. NH sẽ tiến hành thẩm định phân tích khách hàng xem có đủ điều kiện và an toàn để cho vay hay không. Nếu NH xét thấy đủ điều kiện ký kết hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, mức lãi suất và các điều kiện ràng buộc khác cần thiết. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ tiến hành thu gốc và lãi. Quá trình khách hàng sử dụng vốn vay, NH sẽ kiểm soát mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả dự án. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng NH sẽ huỷ hợp đồng, thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. b. Cho vay theo hạn mức HMTD là mức dư nọ tín dụng tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thoả thuận trong HĐTD Đây là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một HMTD. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay và trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá HMTD. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án kinh doanh sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ, nêu yêu cầu vay và làm giấy nhận nợ. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, Ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng. Thời hạn cho vay được xác định trên HĐTD hoặc trên từng giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khách hàng kinh doanh tổng hợp thì lựa chọn chu kì kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng lớn nhất để xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay trên giấy nhận nợ có thể không phù hợp với thời hạn hiệu lực của HMTD. Cho vay theo HMTD là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. c. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng hoá có thê thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để khách hàng mua hàng và sẽ thu được nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay,HMTD, lãi suất và phương thức trả lãi, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. HMTD có thể thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để Ngân hàng xem xét mối quan hệ vói khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tinh hình tài chính của Ngân hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến Ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền vay. Ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho người bán, theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (Có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng) đều là đối tượng được Ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho Ngân hàng. Tuy nhiên Ngân hàng có thể chỉ cho vay đối với một tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho của khách hàng trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần một lần cho nhiều lận vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn hơn. Song nếu như doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Cho vay luân chuyển dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá cả Ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới…từ đó xác tới một thời hạn cho vay hợp lý nhất. d. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng mà theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ, hàng lâu bền hoặc đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc thu nhập hàng kì của người tiêu dùng). Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán về số hàng hoá mà khách hàng mua trả góp. Các cửa hàng bán nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ phía Ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho Ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho cửa hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp thường rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của Ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng. e. Cho vay thấu chi Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có tài sản đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân song chỉ chủ yếu cấp cho khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (khách hàng có thể phải trả phí cam kết cho Ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả: Lãi = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi*Số tiền thấu chi f. Cho vay gián tiếp Cho vay gián tiếp là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay thông qua các tổ chức trung gian. Đó là các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ..Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu là để hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Trong phương thức cho vay này Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Tuy nhiên để các tổ chức trung gian hoạt động có hiệu quả thì các tổ chức trung gian cũng bị mất chi phí, vì vậy Ngân hàng phải trích một phần thu nhập cho các tổ chức trung gian. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua các người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa Ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay thông qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ…) Cho vay thông qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của Ngân hàng, tuy nhiên nó cũng bộc lộ những khuyết điểm. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất cho vay để cho vay ngược lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc bán với giá đắt cho người vay vốn. g. Các phương thức cho vay khác: Mà pháp luật không cấm phù hợp với quy định tại quy chế số 1627/2002/QĐ-NHNN và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay vốn 1.1.1.4. Các nguyên tắc và điều kiện đảm bảo của tín dụng Ngân hàng a. Các nguyên tắc tín dụng Đặc thù của hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng là hàm chứa rất nhiều rủi ro vì mọi rủi ro của khách hàng đều liên đới hoặc trực tiếp ảnh hưởng đến Ngân hàng. Để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình các Ngân hàng thường tiến hành phân loại và lựa chọn khách hàng, tức là lựa chọn cho mình những khách hàng tốt nhất, những khách hàng có thể đảm bảo tính an toàn, tính sinh lời của Ngân hàng. Sự lựa chọn này dựa trên một số nguyên tắc tín dụng, các nguyên tắc tín dụng này được cụ thể hoá trong các quy định của NHNN và NHTM bao gồm: Thứ nhất: Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Với nguyên tắc này Ngân hàng có thể kế hoạch hoá được các dòng tiền ra_vào để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng đi vay mượn và Ngân hàng phải trả gốc và lãi theo đúng cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu khách hàng thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để Ngân hàng phát triển. - Thứ hai: Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận với Ngân hàng, đó là những thoả thuận không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động của Ngân hàng và Ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi được khống chế. Thực hiện nguyên tắc này Ngân hàng quản lý xem các khách hàng của mình có sử dụng vốn đúng với dự án đã được Ngân hàng thẩm định là hiệu quả, và các hoạt động của khách hàng không được đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Điều này giúp Ngân hàng quản lý được nguồn vốn của mình. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động luật pháp và việc tài trợ đó phù hợp với cương lĩnh hoạt động của Ngân hàng. b. Các điều kiện đảm bảo tín dụng NH chỉ xem xét cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: +Thứ nhất: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm hành vi dân sự theo quy định của pháp luật + Thứ hai: Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. + Thứ ba: có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, cụ thể: - Có vốn tự có tham gia vào dự án. - Kinh doanh có hiệu quả: có lãi, trường hợp lỗ thì phải có phương án khả thi khắc phục lỗ đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối với khách hàng vay vốn nhu cầu đời sống thì phải có nguồn thu ổn định để trả nợ NH. + Thứ tư: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi. + Thứ năm: Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ, NHNN Việt Nam và hướng dẫn của các NHTM và các TCTD. 1.2 Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế đất nước trong giai đoạn CNH_HĐH đất nước 1.2.1. Khái niệm hộ sản xuất: Theo nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của Chính phủ thì Hộ sản xuất bao gồm: Các hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, công ty cổ phần, các tổ chức hợp tác. Các DN, các thành viên của HTX, tập đoàn sản xuất của cac DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành Nông- Lâm- Ngư- Diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Như vậy hộ sản xuất theo nghị định 14/CP bao gồm nhiều loại hình sở hữu. Trong đó có cả sở hữu Nhà nước. Để có thái độ đối xử thích hợp trong hoạt động tín dụng đối với các loại hình sở hữu để đảm bảo phù hợp với cơ chế quản lí tín dụng do NHNN ban hành. NHNo&PTNT Việt Nam đã có qui định số 499/NĐNT ngày 2//9/1993 giải thích khái niệm về hợp tác xã như sau Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Có hai loại hộ vay vốn: Hộ loại 1: Bao gồm hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu, hộ cá thể tư nhân làm kinh tế gia đình theo nghị định 29 ngày 29/3/1993. Hộ là những thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác các DNNN. Hộ loại 2: Là hộ sản xuất kinh doanh theo luật định bao gồm các hộ: Hộ tư nhân, hộ làm nhóm sản xuất kinh doanh, tổ chức theo nghị định 66/HĐBT ngày 2/3/1992 hợp tác xã tổ chức theo điều lệ hợp tác xã, do Nhà nước qui định, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức theo luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990. Các loại hộ nói trên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các ngành: Nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã ven đô đều được vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam 1.2.2. Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất. - Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng. - Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất của các hộ sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hoá. - Các hộ sản xuât ngoài hoạt động nông nghiệp và công chức còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp (sản xuất hàng hoá, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp) với các mức độ khác nhau. - Hộ nghèo và hộ trung bình chiếm tỷ trọng cao, khó khăn lớn nhât của hộ sản xuất là thiếu vốn. - Về nhân lực: Hộ sản xuất chủ yếu sử dụng nguồn nhân lực tự có. Đây là nguồn nhân lực ở quy mô gia đình được huy động để tăng gia sản xuất. Một số hộ sản xuất hàng hoá có thuê thêm lao động vào lúc thời vụ hoặc thuê lao động thường xuyên nếu hộ đó có quy mô sản xuất lớn. - Về quy mô sản xuất: Hộ sản xuất sản phẩm, dịch vụ với quy mô nhỏ, quy mô ở mức gia đình và trang trại là chủ yếu. Do điều kiện về nguồn vốn và khả năng quản lý, sức cạnh tranh trên thị trường nên hộ sản xuất thường khó mở rộng được quy mô. Tuy nhiên trong thời gian tới chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn hơn. - Về ngành nghề: Hộ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh trên rất nhiều lĩnh vực, với nhiều ngành nghề rất đa dạng và phong phú bao gồm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thậm chí có nhiều hộ còn tham gia hoạt động sản xuất cả trong lĩnh vực công nghiệp như công nghiệp may mặc, xây dựng cơ bản. - Về khả năng quản lý: Khả năng quản lý của hộ sản xuất nhìn chung còn rất nhiều hạn chế. Khả năng quản lý và tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ trong cuộc sống. Người chủ gia đình thống nhất quản lý mọi yếu tố từ nguyên vật liệu, sản xuât tới tiêu dùng và tiêu thụ. - Về nguồn vốn sản xuât: Nguồn vốn sản xuất của hộ sản xuất chủ yếu là tự có với quy mô nhỏ. Đây là nguồn vốn do tiết kiệm tích luỹ được hoặc là do vay mượn của người quen, bạn bè. Có rất ít hộ sản xuất tiếp cận được với nguồn vốn Ngân hàng vì thiếu các điều kiện trong đảm bảo tiền vay của Ngân hàng và quy trình vay mượn rườm rà phức tạp. Nhận xét: Từ những nội dung đã nêu trên cho thấy kinh tế hộ sản xuất rất phong phú, đa dạng; đối tượng cho vay mang tính tổng hợp bao gồm nhiều lĩnh vực; mức độ và hiệu quả sử dụng vốn cũng khác nhau. Chính vì vậy nội dung thẩm định vốn cho vay đối với hộ nông dân đóng vai trò hết sức quan trong và là khâu quyết định đến sự an toàn vốn cũng như sự pháp triển bền vững của Ngân hàng. 1.2.3. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất đối với NKT trong giai đoạn CNH_HĐH đất nước Đất nước là một chỉnh thể thống nhất với mỗi gia đình là một tế bào của nó. Một chỉnh thể chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững nếu từng tế bào của nó đều khoẻ mạnh và sung sức. NKT của một quốc gia không thể không tồn tại và phát triển bền vững khi nó chỉ dựa vào một số ít các cá thể. Đó là nguyên tắc cơ bản của một NKT đa thành phần – NKT với các tác nhân kinh tế khác nhau trong đó hộ gia đình được xem là cơ sở của sự phát triển. Hộ sản xuât ngày càng trở nên quan trọng và đã trở thành “Doanh nghiệp hộ gia đình” với đầy đủ các chức năng kinh tế từ việc lập kế hoạch sản xuất đến việc ra quyết định và sản xuất. Có một thời ở Việt Nam chúng ta coi trọng tập thể là trên hết và không quan tâm đến quyền lợi kinh tế của các hộ cá nhân. Tập thể là gì? Nó chính là các cá nhân hợp lại mà thành. Vậy thì tập thể làm sao vững mạnh nếu như từng hộ cá nhân không có cơ hội tồn tại và phát triển. Những suy nghĩ đó trước đây đã quy những người mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế vào tội tiểu tư sản và xa rời tập thể. Nhờ có những nhận định sáng suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong chính sách đổi mới kinh tế, những đường lối đúng đắn trong bước đầu củng cố NKT quốc dân đã nhận ra vai trò của hộ gia đình và đưa hộ gia đình vào trọng tâm phát triển NKT quốc dân. Điều này được cụ thể hoá bằng nghị quyết 10 của Bộ chính trị mà theo đó hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hoàn cảnh Việt Nam là một nước với 80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp thì vai trò của hộ gia đình càng trở nên quan trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang trong công cuộc CNH_HĐH đất nước. Vai trò của hộ sản xuất đối với NKT quốc dân thể hiện trên các phương diện sau: Thứ nhât: Hộ gia đình tái sản xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động- một nhân tố quan trọng hàng đầu không thể thiếu đối với quá trình sản xuất. Trong tất cả các hoạt động thì con người đều đứng ở vị trí trung tâm chi phối tới các nhân tố khác. Hiện nay Đảng và Nha nước ta xác định lấy nguồn lực con người là khâu then chôt để thực hiện thành công CNH_HĐH đất nước. Điều đó càng cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của hộ gia đình - đơn vị sản xuất ra nguồn lực con người, sản xuất ra tương lai, vận hội và thời đại. Thứ hai: Hộ gia đình là một đơn vị sản xuất và cung cấp hàng hoá cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động sản xuất của mình hộ sản xuất làm ra các sản phẩm vật chất, dịch vụ để tiêu dùng và cung cấp cho thị trường. Trong giai đoạn hiện nay,sản xuất hàng hoá và xây dựng nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đã trở thành một xu thế tất yếu của bất cứ quốc gia nào. Nền kinh tế thị trường đã chỉ ra rằng phải sản xuất cái thị trường cần, bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có. Các hộ sản xuất đã và đang chuyển từ việc sản xuất,tiêu dùng tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư vào chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản xuất, cung cấp cho thị trường nhiều loại hàng hoá có giá trị và có chất lượng. Như vậy hộ gia đình là một nhân tố đóng góp vai trò quan trọng trong tổng cung của nền kinh tế, đóng góp vào cho GDP của xã hội một khối lượng vật chất đáng kể. Thứ ba: Hộ gia đình là đơn vị tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, là thị trường cho các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Như vậy, hộ nông dân giải quyết vấn đề đầu ra của quá trình sản xuất, làm cho quá trình sản xuất , tái sản xuất được thông suốt. Tiêu dùng của hộ gia đình là một yếu tố để đánh giá và lượng hoá tổng cầu. Cũng thông qua sự thay đổi của tiêu dùng trong hộ nông dân các doanh nghiệp có thể nhận biết và chuyển đổi lĩnh vực đầu tư một cách thích hợp và hiệu quả. Thứ tư: Không những tái sản xuất ra con người, hộ gia đình còn là nơi nuôi dưỡng chăm sóc con người từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành, là môi trường đầu tiên và quan trọng định hình nhân cách con người. Thông qua những lề lối gia phong, những truyền thống đạo lý, hộ gia đình góp phần bảo vệ và phát triển nền văn hoá Việt Nam nhất là trong thời buổi mở cửa hoà nhập kinh tế và văn hoá với thế giới. Hộ gia đình đóng góp một phần quan trọng trong chiến lược của Đảng là hoà nhập mà không hoà tan, đổi sắc không đổi màu. Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc nằm ở trong mỗi con người và như vậy nó nằm trong truyền thống đạo lý gia phong của mỗi gia đình. Nếu công tác nuôi dưỡng giáo dục con người trong các hộ gia đình được làm tốt sẽ góp phần hạn chê các tệ nạn xã hội. 1.2.4. Định hướng phát triển của kinh tế hộ sản xuất Cùng với xu hướng phát triển kinh tế nói chung trong cơ chế thị trường của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế hộ có một xu hướng vận động phát triển sau: Xu hướng chuyên môn hoá sản xuất: Trong cơ chế thị trường với đòi hỏi sản xuât cái thị trường cần và vòng quay của trao đổi diễn ra mãnh liệt các gia đình đã tận dụng tối đa những lợi thế kinh tế của mình để chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm cung cấp cho thị trường. Thực tế đã xuất hiện nhiều hộ gia đình chuyên sản xuất nấm, cà phê, chăn nuôi bò sữa. Điển hình của xu hướng này là việc khôi phục và phát triển mạnh mẽ các làng nghề truyền thống. Tại các làng nghề này một bộ phận không nhỏ lao động đã được rút ra khỏi sản xuất nông nghiệp để chuyên môn hoá sản xuất các mặt hàng cung cấp cho thị trường. Xu thế này đã góp phần tích cực và tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với xu thế này bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới về mọi mặt. Kinh tế xã hội ở các làng nghề phát triển mạnh mẽ, thu nhập của các hộ gia đình là nghề ngày một tăng cao. Xu hướng đa dạng hoá sản xuất: Với nhiều mô hình kinh tế như mô hình VAC, mô hình kinh tế trang trại kết hợp nông lâm thuỷ sản, các hộ gia đình đang ngày càng đa dạng hoá cây trồng vật nuôi. Đã xuất hiện những mô hình kinh tế trang trại kết hợp du lịch sinh thái hết sức hiệu quả vừa tăng thu nhập vừa góp phần cải thiện mội trường. Việc đa dạng hoá sản xuất này đã tận dụng một cách tối đa các tư liệu sản xuất, góp phần tăng thu nhập. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều con giống, cây giống mới thích hợp với nhiều điều kiện thời tiết khác nhau đã dần hạn chế và xoá bỏ tính mùa vụ của cây trồng vật nuôi, Điều này giúp các hộ gia đình trong cùng một thời gian có thể có được một cơ cấu cây trồng vật nuôi phong phú đa dạng. Nhiều hộ gia đình còn tranh thủ khoảng thời gian rảnh rỗi để làm thêm các nghề phụ như cung cấp các dịch vụ mua bán, làm các nghề thủ công truyền thống, góp phần tăng thu nhập cho các gia đình cải thiện đời sống. Với xu thế phát triển này đã tận dụng một cách tối đa lao động trong lúc nông nhàn của sản xuất nông nghiệp, qua đó góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội. Đây là quy luật tất yếu và khắc nghiệt của phát triển kinh tế thị trường. NKT thị trường đã và đang làm cho hố ngăn cách giàu nghèo giữa các hộ gia đình trong xã hội ngày một sâu sắc. Một số các hộ gia đình do nắm bắt được nhu cầu, nhanh nhạy với những thay đổi của thị trường đã nhanh chóng trở nên giàu có. Một số hộ khác do không có trình độ và kinh nghiệm, không có phương án sản xuât kinh doanh phù hợp đáp ứng nhu cầu thị trường đã trở nên nghèo khó. Các hộ giàu do có vốn nên họ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh nên lại càng giàu thêm còn các hộ nghèo thì ngày càng trở nên túng quẫn. Xu hướng phân hoá giàu nghèo này làm cho tình hình an ninh xã hội ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng là những vấn đề nan giải của đất nước. 1.3. Vai trò của TDNH đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất. 1.3.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam nói chung. Trong nhiều năm qua, kể từ khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (5/1951) cho đến nay đất nước trải qua những giai đoạn khó khăn nhưng Nhà nước luôn luôn chú trọng đến việc hỗ trợ vốn cho đồng bào ở các vùng nông thôn, đảm bảo phát triển kinh tế gia đình, cũng như tiềm năng phát triển của hộ nông dân trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm và những sản phẩm thiết yếu cho xã hội. Nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội ngày càng phát triển, hệ thống hợp tác xã tín dụng ở nông thôn trước đây và quỹ tín dụng ngày nay và các NHTM đã tham gia cung ứng vốn cho sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là thông qua cho vay hộ sản xuất. Cho vay sản xuất nông nghiệp của hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã thể hiện những vai trò sau: - Thúc đẩy quá trình huy động vốn trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn nhằm phát triển và mở rộng sản xuất hàng hoá. - Đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn trong nông nghiệp nông thôn. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tính hàng hoá của sản phẩm nông nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta. - Phát huy tối đa nội lực của các hộ kinh tế, khai thác hết các tiềm năng về lao động và đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả nhất. - Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân, tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình thành những thói quen tôt trong hoạt động kinh tế cho phù hợp với yêu cầu CNH_HĐH đất nước. - Đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. 1.3.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình. Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của NKT hàng hoá. Đối với Nhà nước thì TDNH còn là một công cụ đắc lực hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với doanh nghiệp, cá nhân thì TDNH là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm thời về vốn sản xuất. Đặc biệt là cơ chế quản lý hiện nay. Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất, mỗi hộ sản xuất giờ đây trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, phải tính toán mức chi phí bỏ ra khả năng thu nhập, xác định mức vốn cần thiết cho đầu tư sản xuất, khả năng cấp vốn tự có, số vốn cần phải đi vay. Do đó trong nền kinh tế thị trường, TDNH có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển của Hộ sản xuất. Một là : Đáp ứng nhu cầu cho Hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển NKT. Khi chuyển đổi NKT tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường thì nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các vùng với nhau ngày một gia tăng. Các hộ sản xuất ngày nay chỉ chuyên môn hoá các loại nông sản hàng hoá có lợi nhất và loại dần các loại nông sản phẩm sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Các hộ sản xuất bán cho xã hội sản phẩm mà họ sản xuất ra, đồng thời mua từ thị trường những sản phẩm hàng hoá mà họ cần, để đạt được điều đó các hộ sản xuất cần nhiều vốn để mua vất tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật mua sắm máy móc thiết bị, trong khi vốn tự có của các hộ còn rất hạn chế, nên các hộ sản xuất cần tới sự giúp đỡ của Ngân hàng để mở rộng sản xuất được liên tục. Vì thế TDNH có vai trò cực kì quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tê hộ nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay. Hai là : Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn của hộ sản xuất. Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện một lực lượng tiền tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời cũng xuất hiện những tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ của Ngân hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước nhăm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế của Hộ sản xuất, khuyến khích các hộ kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để Ngân hàng trợ giúp cho vay. Đầu tư là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho Ngân hàng vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NHTM với tư cách là trung gian tài chính, là cầu nối tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn , tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn Trong NKT bao cấp, việc huy động vốn hay cho vay vốn khô._.ng phải là mục tiêu sống còn của hoạt động tín dụng, huy động vốn bao nhiêu , cho vay như thế nào có đáp ứng được nhu cầu về vốn cho NKT hay không, thu hồi vốn đúng hạn không? đều được giải quyết theo cơ chế bao cấp. Trái lại gắn với NKT thị trường là kinh doanh phai có hiệu quả, phải có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Ngân hàng trong hoạt đông kinh doanh của mình phải có lợi nhuận. Nếu đầu tư tín dụng mà không tốt, không có hiệu qua không thu hồi được nợ thì hoạt đông kinh doanh sẽ bị lỗ và có thể dẫn đến phá sản, cho nên trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, mỗi Ngân hàng phải có chiến lược kinh doanh của mình, phải tìm biện pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí thấp để kinh doanh tín dụng có hiệu quả. Do vậy có thể nói rằng, cùng với các hoạt động tài chính và thương mại, tín dụng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội nói chung và trong NKT hộ nói riêng, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng của NKT. Ba là: TTDNH tác dụng có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy mạnh cạnh tranh trong NKT hộ góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong môi trương cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp, các hộ sản xuất luôn hoạt động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả quản trị kinh doanh. Để làm được điều nay, đòi hỏi một lượng vốn lớn. Chính TDNH sẽ là người tài trợ cho nhu cầu này, đặc biệt trong NKT thị trường, để tránh được sự trừng phạt kinh tế do không trả được nợ vay Ngân hàng, đồng thời tạo khả năng nắm phần thắng trong cạnh tranh gay gắt, thậm chí khốc liệt. Trong bối cảnh đó, hoạt động kinh tế đương nhiên sẽ rất nhộn nhịp và sôi động. Bên cạnh đó, TDNH cũng tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển sản xuất kinh doanh từ ngành nghề này sang ngành nghề khác vì chỉ có tín dụng mới đáp ứng được nhu cầu vốn cho việc thay đổi cơ câu sản xuất kinh doanh. Các hộ sản xuất sẽ dễ dàng chuyển từ ngành nghề có lợi nhuận thấp sang ngành nghề có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho việc bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận trong NKT tế nhằm hình thành nên cơ cấu kinh tế hợp lý. TDNH với đặc trưng luôn trả gốc và lãi giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả của các hộ sản xuất, các các doanh nghiệp chính điều này thể hiện ưu thế của TDNH so với việc cấp vốn ngân sách đầu tư vào lĩnh vực này, vì khi được cấp vốn ngân sách, người sử dụng vốn thường ít quan tâm đến sử dụng vốn một cách có hiệu quả do không phải hoàn trả lại vốn. Bốn là: TDNH góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn đặc biệt là đối với các hộ sản xuất. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao nên tại thời điểm chưa thu hoạch được, chưa có hàng hoá để bán thì người nông dân ở tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu về chi tiêu tối thiểu, từ đó tạo điều kiện cho vay nặng lãi hoành hành, đặc biệt cơ bản của tín dụng cho vay nặng lãi ở nông thôn là lãi suất cho vay rất cao, làm cho hộ sản xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó được. Nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng hơn, gây nên tiêu cực ở nông thôn. Đứng trước tình hình trên Ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến hành cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp xúc với vốn vay Ngân hàng, các Ngân hàng đã đơn giản thủ tục cho vay, tổ chức mạng lưới Ngân hàng tới tận các thôn xóm để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư đổi mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần làm giàu cho bản thân và xã hội. TDNH thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vấn đề cho vay nặng lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng để bóc lột người lao động để thu lợi nhuận. Năm là: TDNH là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy các hộ sản xuất kinh doanh nhanh chóng thích nghi và hội nhập quan hệ quốc tế. Ngày nay trong mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới và khu vực đang phát triển rất đa dạng cả về nội dung và hình thức, việc đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến giữa các nước trên thế giới. Bởi vì vốn là nhân tố tác động đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này, nhưng trên thực tế không phải tổ chức kinh tế nào cũng dư vốn để hoạt động. Do vậy để hoạt động, đòi hỏi phải có một khối lượng về vốn chính TDNH sẽ là nguồn tài trợ cho các nhu cầu đó. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc thù trong kinh doanh tiền tệ, qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực cung vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Cho nên TDNH đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền NKT các nước với nhau. Đặc biệt các nước đang phát triển thì TDNH hoạt động vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất nhập hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để CNH_HĐH đất nước. Ơ Việt Nam, Các hộ sản xuất hầu như luôn thiếu vốn. Nhờ có TDNH mà họ có vốn để sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị tạo ra những sản phẩm tiêu dùng trong nước và đem đi xuất khẩu. Từ đó từng bước các hộ sản xuất kinh doanh nhanh chóng thích nghi và hội nhập quan hệ quốc tế. Sáu là TDNH là công cụ tài trợ cho các hộ sản xuất kinh doanh phát triển. Bên cạnh việc sử dụng công cụ lãi suất, kết hợp với cơ chế chính sách chênh lệch khách hàng tiềm năng đối với những hộ sản xuất kinh doanh cũng như các hộ sản xuất kinh doanh kém phát triển nhờ cung cấp đủ vốn, kịp thời cho các hộ sản xuất. Mặt khác khi có vốn các hộ sản xuất sẽ phải tìm cách để có thể trả nợ gốc và lãi đúng hạn, tức là hộ phải tìm các biện pháp để sử dụng vốn có hiểu quả trong vòng quay của vốn. Như vậy, rõ ràng là TDNH đã thúc đẩy các hộ sản xuất khó khăn kém phát triển và các hộ sản xuất lớn có cơ hội phát triển. Bảy là: TDNH kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy độ sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Các Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thành toán có khả năng kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động của NKT thông qua các nghiệp vụ thanh toán. Để thực hiện được các món nợ vay, các cán bộ tín dụng buộc phải nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh trước trong và sau khi sản xuất. Qua đó TDNH có thể kiểm soát được các hoạt dộng của hộ sản xuất. Nguyên tắc cơ bản của TDNH là vay vốn phải hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn khi sử dụng vốn vay của hộ sản xuất phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng, phải trả nợ đúng hạn và các điều kiện kèm theo khác, như vậy để sản xuất kinh doanh có hiệu quả có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay thì các hộ sản xuất buộc phải hạch toán kinh tế. Như vậy rõ ràng là TDNH đã kiểm soát và thúc đấy hộ sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Tám là: TDNH đã góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo cho hộ sản xuất có điều kiện tiếp tục ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ vào sản xuất. Cùng với việc đầu tư của Ngân sách Nhà nước, vốn tự huy động của dân. Ngân hàng không chỉ đầu tư vốn ngắn hạn mà còn đầu tư vốn trung dài hạn để xây dựng kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp như phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng công trình thuỷ lợi, đường xá, giao thông, điện Nhằm phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới Đây là những việc mà chỉ có thể bổ xung hỗ trợ của Nhà nước mới có thể làm được. Cũng từ đó tạo điều kiện mở mang, nâng cao trình độ dân trí để hộ nông dân có thể tiếp thu và thực hiện chuyển giao công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nông nghiệp, để xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh./ TDNH tạo điều kiện phát triển ngành nghề mới, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Chính việc xây dựng cơ sở vật chất xây dựng các xí nghiệp nông sản, đầu tư chuyển cơ cấu cây trồng đã tạo công ăn việc làm thu hút lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn Việt Nam. Từ đó từng bước nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân.. Chín là: TDNH thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng sản xuất hàng hoá. Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh tế lời ăn lỗ chịu, cơ chế thị trường là cạnh tranh do vậy đòi hỏi trình độ sản xuất cũng phải được nâng cao, cơ cấu kinh tê hợp lý, hạch toán kinh phí sao cho chi phí đầu tư vào thấp để được thu lợi nhuận cao. Chế độ chính sách cho vay của Ngân hàng là phải đảm bảo thu hồi cả gốc lẫn lãi đúng hạn và vốn vay phải thực sự mang lại hiệu quả, tổ chức cho vay phải lấy nguyên tắc hiệu quả kinh tế là thước đo nên đã đưa kinh tế hộ sản xuất từ tự túc tự cấp quen dần với NKT hộ sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường Tóm lại: Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu được trog việc cho vay vốn đến hộ sản xuất, nó góp phần giải quyết một lượng lớn nhu cầu phát triển sản xuất của hộ nông dân, mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, góp phần thay đổi cơ chế trong nông nghiệp theo nghị quyết 10. Cho vay hộ sản xuất rõ ràng là một định hướng đúng đắn của Ngân hàng là một trong những công cụ kinh tế có hiệu quả cao trong hệ thống công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thúc đẩy sự phát triển của NKT, thực hiện xoá đói giảm nghèo, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Và ngược lại phát triển kinh tế hộ sản xuất còn tạo ra thị trường vốn rộng lớn, duy trì và phát triển TDNH. 1.4. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất 1.4.1. Nhóm nhân tố từ môi trường kinh tế, pháp lý * Chính sách của Đảng và Nhà nước: Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói chung và kinh tế hộ sản xuất nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Đây là cơ sở, là chiếc xương sống để NH có thể mạnh dạn hơn trong việc đầu tư vốn cho hộ sản xuất bởi vì nó tạo ra những cơ chế đặc biệt ưu đãi đối với các NH cũng như các khách hàng trong quan hệ tín dụng. Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng NH nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn: Văn bản số 320/CV-NHNN 14 ngày 16/4/1999 của Thống đốc NHNN về hướng dẫn cho vay đối với các hộ theo tinh thần quyết định của Chính phủ đã tạo ra một cơ chế cực kỳ thuận lợi để các NH có thể mở rộng tín dụng khu vực này. * Môi trường kinh tế xã hội địa phương: Môi trường kinh tế địa phương nới địa bàn của NH hoạt động có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng đối với kinh tế hộ nói riêng ở địa phương. Môi trường kinh tế này bao gồm diện tích, dân số, vị trí địa lý, tốc độ tăng trưởng GDP, Các tiêu chí này cho biết NH có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng được hay không. Khi kinh tế địa phương phát triển tốt, các doanh nghiệp và cá nhân sẽ có nhu cầu vốn lớn hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng gia sản xuất và đó là yếu tố thuận lợi để các NH tăng cường cho vay. * Các quy định và chính sách tín dụng của NHTW Đó là các quy định về mức dự trữ bắt buộc, các quy định về đảm bảo tiền vay, quy chế cho vay đối với một khách hàng, Những chính sách tín dụng này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiến đến việc mở rộng tín dụng của NH. Mặc dù các chính sách và quy định của NHTW là cần thiết vì nó nhằm bảo vệ NH giảm bớt rủi ro song nó phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của NKT.TDNH còn góp phần gìn giữ những tinh hoa văn hoá của dân tộc trong các làng nghề truyền thống. Đó là những tinh hoa văn hoá của ông cha ta trong cuộc sống thẩm mỹ được kết tinh trong những sản phẩm truyền thống. Do thiếu vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mà nhiều làng nghề truyền thông đang dần bị mai một. Do đó TDNH sẽ giúp các làng nghề truyền thống được phục hồi và phát triển, góp phần to lớn vào việc gìn giữ và phát huy tinh hoa 1.4.2. Nhóm nhân tố từ NH * Mục tiêu và chính sách TDNH: Khi quyết định mở rộng tín dụng đối với khách hàng mới và cũ NH phải căn cứ vào mục tiêu, chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn nhất định, căn cứ vào chính sách tín dụng mà NH đang áp dụng. Chiến lược này được xây dựng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của NKT, căn cứ vào định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước. Các mục tiêu và chính sách của NH có thể ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế hộ bao gồm: - Hạn chế tập trung vốn vào một đối tượng khách hàng để đa dạng hoá rủi ro. Đây là chiến lược không bỏ trứng vào một giỏ. - Mục tiêu phục vụ tốt nhất lợi ích kinh tế- chính trị- xã hội của địa phương - NH sẽ tập trung vào đối tượng khách hàng tiềm năng hay khách hàng truyền thống. Nói cách khác NH cần mở rộng thị trường bằng cách mở rộng khách hàng mới hay đi vào chiều sâu để tăng sức cạnh tranh với các đối thủ khác. Mục tiêu, chiến lược, chiến lược kinh doanh và chính sách tín dụng sẽ cho biết NH có tham gia và mở rộng tín dụng với đối tượng khách hàng này không. Chỉ khi mục tiêu và chính sách tín dụng đã được xác định các NH mới có thể tiến hành các hoạt động cho vay và mở rộng tín dụng. * Khả năng về vốn: NH không thể mở rộng tín dụng đối với mỗi nhóm đối tượng nào đó được nêu như bản thân NH không có khả năng về vốn. Tức là NH không thể tăng cho vay nếu như nguồn vốn của NH không tăng. Hơn nữa với một nguồn vốn hạn hẹp, NH không muốn đầu tư toàn bộ tài sản của mình vào một nhóm đối tượng khách hàng bởi vì như vậy NH sẽ không theo đuổi được mục tiêu đa dạng hoá khách hàng, giảm thiểu rủi ro. Một NH có tiềm lực tài chính hùng mạnh, hoạt động trên nhiều lĩnh vực thì khả năng tồn tại và phát triển và phát triển sẽ bền vững hơn rủi ro ít hơn, phân tán hơn. * Đội ngũ cán bộ tín dụng: Đây là người trực tiếp giao dịch với khách hàng, là bộ mặt của NH và là người có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định có cho vay hay không. Một đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm sẽ đảm bảo cho sự thành công của các món vay, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và sinh lợi của nguồn vốn NH. Ngoài ra phong cách và thái độ phục vụ của nhân viên NH là công cụ marketing tốt nhất để mở rộng thị trường cho vay của NH. * Cơ sở vật chất mạng lưới: Một NH có hệ thống cơ sở vật chất mạng lưới rộng khắp đến mọi nơi mọi địa bàn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tăng cho vay vì như vậy sẽ giảm bớt chi phí của khoản vay đối với khách hàng, đó là các chi phí liên quan đến khoản vay như chi phí đi lại, thời gian. Song hành với nó thì chi phí quản lý khoản vay đối với NH cũng như được giảm bớt, tăng hiệu quả sử dụng vốn cho cả khách hàng NH. 1.4.3. Nhóm nhân tố từ các hộ gia đình. * Nhu cầu về vốn Đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc mở rộng TDNH đối với kinh tế hộ. NH sẽ không mở rộng tín dụng được nếu khách hàng không có nhu cầu. Đó là các nhu cầu vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu để sản xuất một mặt hàng mới. Chỉ khi nào khách hàng có nhu cầu vốn thực sự thì NH mới có thể cho vay được. * Khả năng trả nợ: Mục tiêu của NH trước hết là đảm bảo an toàn về vốn sau đó là khả năng sinh lợi và chiến lược thị trường lâu dài. NH không thể mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với khách hàng nếu như khách hàng không thể có khả năng trả nợ. Khả năng trả nợ của khách hàng được dựa trên tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng là chủ yếu. Tuy nhiên tình hình sản xuất kinh doanh tốt, tài chính lành mạnh chưa đủ đảm bảo cho NH có thể thu hồi các khoản nợ mà khách hàng phải có phương án trả nợ và chứng minh được khả năng trả nợ. Khả năng trả nợ là một trong những điều kiện quyết định để NH cho vay mà khách hàng phải đáp ứng. * Đảm bảo tiền vay: Các khoản vay của NH thông thường phải có các tài sản đảm bảo, thế chấp. Đây là điều gần như bắt buộc đối với các khách hàng không phải là khách hàng truyền thống của NH. Giá trị tài sản thế chấp đối khi quyết định độ lớn của khoản vay. Xét một cách toàn diện thì NH không bao giờ mong muốn xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ bởi vì NH chỉ có thể tồn tại và phát triển khi khách hàng tồn tại và phát triển. Việc buộc khách hàng phải có tài sản thế chấp chỉ là bước đường cùng nhằm tránh những thất thoát về vốn của NH. Biện pháp đảm bảo tiến vay cũng bao gồm sự đảm bảo bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể bảo lãnh vay vốn. Hiện nay các hộ gia đình khi vay các món vay nhỏ hơn 10 triệu nếu là sản xuất thuần nông, các món vay nhỏ hơn 20 triệu nếu làm trang trại, các món vay nhỏ hơn 50 triệu nếu nuôi trồng thuỷ sản thì không cần tài sản thế chấp mà chỉ cam kết trả nợ và nộp chứng nhận quyền sử dụng đất. Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNo&PTNT KIM ĐỘNG 2.1. Tổng quan về về NHNo&PTNT Kim Động 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Kim Động NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập vào tháng 7/1988 theo Nghị định 53/HĐBT. Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam do thống đốc NHNN phê chuẩn vào ngày 22/12/1997: “NHNo&PTNT Việt Nam- NHTM quốc doanh, là doanh nghiệp nhà nước dạng đặc biệt tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước có thẩm quyền tự chủ về mặt tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và bảo toàn vốn đầu tư”. Ngân hàng nông nghiệp huyện Kim Động có trụ sở tại Thị Trấn Lương Bằng huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên. Sau khi huyện Kim Thi tỉnh Hải Hưng được tách thành 2 huyện Kim Động và Kim Thi, kể từ ngày 01 tháng 4 năm 1996, chi nhánh ngân hàng huyện kim động chính thức đi vào hoạt động trên cơ sở nâng cấp từ ngân hàng cấp III Kim Động trực thuộc chi nhánh NH huyện Kim Thi. Với biên chế 36 cán bộ, tuổi đời bình quân cao,trình độ bất cập, cơ sở cật chất, trang thiết bị còn khiêm tốn. Về môi trường: Ngân Hàng Nông Nghiệp huyện Kim Động quản lý địa bàn hành chính của huyện Kim Động với 20 xã. Với nền kinh tế nghèo làn,100 % các xã trong huyện là nền kinh tế thuần nông.Với cơ sở vật chất nghèo nàn, nền kinh tế chưa phát triển , nông nghiệp là chủ yếu. Các ngành công nghiệp của trung ương đóng trên địa bàn không có, công nghiệp của địa phương còn nhỏ bé,các làng nghề chưa phát huy được, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trưòng ,nhất là thị trường xuất khẩu. Dân số sống bằng nghề nông nghiệp chiếm 85%. Số lao động chưa có việc làm chiếm khoảng 10%, sự chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn.Như vậy môi trường kinh doanh và xuất phát từ đặc thù tại địa phương nên có rất nhiều khó khăn . Đứng trước thực tế như vậy , ban lãnh đạo Ngân Hàng Nông Nghiệp huyện Kim Động đã đồng thời vận dụng nhiều biện pháp , trong đó vấn đề tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực được ban lãnh đạo đặc biệt quan tâm vì đây là yếu tố quyết định đến sự thành công của ngân hàng. Kết hợp với việc bố trí xắp xếp các phòng ban là việc xắp xếp cán bộ lãnh đạo chủ chốt một cách hợp lý để khai thác năng lực và trình độ sẵn có của mỗi cán bộ . Mặt khác, chú trọng đến việc bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ cán bộ nhân viên, bồi dưỡng cán bộ kinh doanh, phong cánh phục vụ , học tập nâng cao văn hoá, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối của đảng và phát luật của nhà nước nhằm nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin của Đảng và Chính Quyền trong cơ quan tạo nên sự đoàn kết trong nội bộ. Với những bứơc đi đúng hướng và kịp thời , sau nhiều năm hoạt động từ một ngân hàng khó khăn đã vươn nên lấy lại thế ổn định , từ năm 2000 đến năm 2003 xếp loại khá , tạo đà cho sự phát triển bền vững của những năm tiếp theo. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức ,chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban NHNo&PTNT Kim Động là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo quy định của pháp luật về một NHTM; chịu sự quản lý điều hành của NHNo&PTNT Việt Nam về tổ chức và hoạt động. Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh NHNo&PTNT Kim Động chịu sự quản ký trực tiếp của Ngân Hàng Nông Nghiệp Tỉnh Hưng Yên. Cơ cấu tổ chức bao gồm :Trụ sở chính và hai chi nhánh ngân hàng cấp III. Năm 2004 tổng biên chế Ngân Hàng Nông Nghiệp huyện Kim Động có 36 cán bộ (22 nữ,14 nam).Trong đó 6 cán bộ có trình độ đại học, 20 cán bộ có trình độ trung học, 1 cán bộ có trình độ kỹ thuật. -Ban giám đốc : Giám đốc phụ trách công tác quản lý, thi đua và kiểm tra; 1 phó giám đốc phụ trách kế toán,kho quỹ và hành chính; 1 phó giám đốc phụ trách kế hoạt và kinh doanh -Phòng kinh doanh:với tổng số 8 cán bộ nhân viên trực tiếp thực hiện nghiệp vụ kinh doanh . Tham mưu cho ban giám đốc trong việc kinh doanh và lập kế hoạch, tổng hợp thống kê. -Phòng kế toán, hành chính, ngân quỹ: Với tổng số 9 cán bộ công nhân viên.Trong đó : Trực tiếp thực hiện các phần hành về nghiệp vụ kinh tế phát sinh về hoạt động nguồn vốn của chi nhánh và các nghiệp vụ trung gian khác Trong đó: + Cán bộ làm ngân qui :Với tổng số 2 cán bộ công nhân viên, trực tiếp thực hiện nghiệp ngân quỹ : Thu , chi tiền mặt , kiểm đếm, chọn loc tiền, bảo quản tiền đảm bảo an toan tài sản của khách hàng cũng như của ngân hàng. + Cán bộ làm hành chính: Với tổng số 2 cán bộ công nhân viên , trực tiếp bảo vệ an toàn tài sản cơ quan và lái xe phục vụ công việc của cơ quan… - Tổ kiểm tra nội bộ : với tổng số 2 cán bộ công nhân viên, trực tiếp thực hiện việc kiểm tra các mặt nghiệp vụ cơ quan. -Ngân hàng cấp III Đức Hợp và Trương Xá, với tổng số cán bộ là 19 người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ huy động vốn và đầu tư tín dụng cho các khách hàng trong địa bàn 9 xã trong huyện. BAN GIÁM ĐỐC HỘI SỞ CHÍNH PHÒNG KINH DOANH PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG HÀNH CHÍNH PHÒNG KIỂM TRA NH CẤP III TRƯƠNG XÁ NH CẤP III ĐỨC HỢP CƠ CẤU TỔ CHƯC TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP HUYỆN KIM ĐỘNG 2.1.3. Những kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHNo&PTNT Kim Động trong những gần đây 2.1.3.1. Công tác huy động vốn Trong những năm qua công tác huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp huyện Kim Động đã có sự tăng trưởng ổn định, do ngân hàng đã đa dạng hoá các hình thức huy động, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm như: Tiết kiệm trả lãi trước, trả lãi sau, tiết kiệm bậc thang, kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng theo nhiều hình thức, nhiều mức lãi suất với nhiều kỳ hạn khác nhau, mở nhiều tiền gửi tài khoản cá nhân. Ngân hàng nông nghiệp huyện Kim Động luôn bám sát chủ trương chính sách phát triển kinh tế của địa phương, của nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể, chủ động triển khai hình thức huy động vốn đến từng khu vực dân cư có các nguồn vốn để gửi tiền vào ngân hàng được thuận tiện, an toàn và nhanh chóng. Hiện nay chi nhánh đã và đang thực hiện chi trả lãi tiền gửi tiết kiệm trước hạn nhằm khuyến khích người gửi tiền. Bảng 1: Nguồn vốn huy động trong những năm gần đây Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Tổng 62340 76935 90808 Theo loại tiền huy động VNĐ 55000 60935 75080 Ngoại tệ 7340 16000 15000 Theo nguồn gốc Tiền gửi TCKT 7420 8550 10785 Tiền gửi dân cư 48395 60405 69725 Vay TC khác 6525 7980 9570 ( Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo&PTNT Kim Động 2002-2004) con số này tăng lên 76935 triệu đồng, tăng hơn năm trước 14595 triệu đồng, tốc độ tăng 23.4%, năm 2004 đạt 90080 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 13145 triệu đồng, tốc độ tăng 17%. Trong đó, huy động vốn bằng VND chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, thường chiếm khoảng 79%-83% nguồn vốn huy động được. Nếu phân chia theo nguồn gốc thì tiền gửi dân cư chiếm tỉ lệ cao nhất thường chiếm tỷ lệ từ 77%-79%. 2.1.3.2. Công tác tín dụng Trong những năm qua hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng nông nghiệp huyện Kim Động đã có nhiều đổi mới. Bên cạnh việc thực hiện cơ chế cho vay mới của ngân hàng nhà nước theo quyết định 1627/NHNN. Chi nhánh đã hoàn chỉnh chương trình quản lý tín dụng trên máy vi tính. Với chính sách cởi mở về cơ chế cho vay của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam chi nhánh đã chủ động bám sát các định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương để quyết định đầu tư vốn . Nên công tác tín dụng đã tiếp cận và đầu tư có hiệu quả vào các dự án , các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế địa phương như: Chương trình VAC, bò sữa ,Hiện nay ngân hàng chú trọng đầu tư cho vay tiêu dùng trong nhân dân,đặc biệt là cán bộ công nhân viên nhà nước trong địa phương. Với phương châm “vui lòng khách đến ,vừa lòng khách đi” phong cách giao dịch của cán bộ ngân hàng nông nghiệp huyên Kim Động mỗi ngày một văn minh, lịch sự hơn nên đã thu hút khách hàng đến giao dịch tiền gửi, tiền vay ngày một nhiều. Kết quả là nguồn vốn huy động và dư nợ đều tăng trưởng qua các năm , thể hiện ở một số năm gần đây như sau. Doanh số cho vay: Doanh số cho vay của chi nhánh tăng trưởng đều qua các năm. Năm 2002 đạt là 58276 triệu đồng so với năm 2001 tăng 10637 triệu đồng với tốc độ tăng là 22,3%. Năm 2003 doanh số cho vay là 70557 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 12281 triệu đồng với tốc độ tăng là 21,1%. Năm 2004 đạt được là 90602 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 20045 triệu đồng với tốc độ tăng là 28,4% - Doanh số thu nợ: Vì mục tiêu của công tác tín dụng là an toàn vốn và có lợi nhuận, cho vay phải đảm bảo thu được cả gốc và lãi, do vậy mà công tác thu nợ rất được quan tâm một cách đúng mức, doanh số thu nợ cũng tăng lên tương ứng với doanh số cho vay. Cụ thể: năm 2002 đạt 50623 triệu, tăng 8568 triệu với năm 2001, tốc độ tăng 19%. Năm 2003, doanh số thu nợ đạt 61752 triệu, tăng so với năm 2002 là 11129 triệu tốc độ tăng 22%. Năm 2004 doanh số thu nợ là 79877 triệu tăng so với năm 2003 là 18152 triệu tốc độ tăng 29,3% - Dư nợ: Năm 2002 đạt 54703 triệu tăng so với năm 2001 là 10116 triệu đồng với tốc độ tăng là 22,6%. Năm 2003 đạt được là 67444 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 12741 triệu đồng với tốc độ tăng là 23,3%. Năm 2004 đạt được là 85802 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 18358 triệu đồng với tốc độ tăng là 27,2% - Nợ quá hạn: Bảng 3 : Dư nợ quá hạn tại NHNo & PTNT Kim Động(2002-2004). Đơn vị : Triệu đồng. Dư nợ Năm Dư nợ QH Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn(%) 2002 84 54703 0,15 2003 67 67444 0,09 2004 122 85802 0,14 Năm 2002 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 0,15% trên tổng dư nợ sang đến năm 2003 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 0,09% trên tổng dư nợ, năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 0,14%. Sở dĩ nợ quá hạn thấp do các ngân hàng cơ sở thường xuyên tổ chức phân tích nợ quá hạn, hàng tháng đến từng khách hàng đưa ra các biện pháp tích cực để thu hồi nợ nên kết quả thu nợ đạt khá ngăn chặn được nợ quá hạn phát sinh. * Dư nợ phân theo cơ cấu đầu tư Bảng 4: Cơ cấu dư nợ theo thời hạn cho vay Đơn vị: Triệu Đồng Chỉ Tiêu 2002 2003 2004 Stiền +/- % Stiền +/- % Stiền +/- % N-hạn 31256 5598 20,9 38672 7416 23,7 47526 8854 22,8 T-dàI hạn 23447 4572 24,2 28772 5325 22,7 38276 9540 33 (Nguồn báo cáo tín dụng của NHNo&PTNT Kim Động từ năm 2002- 2004) -Ngắn hạn:năm 2002 dư nợ ngắn hạn đạt được là 31256 triệu đồng tăng so với năm 2001 là 5598 triệu đồng với tốc độ tăng là 20,9%.Năm 2003 đạt được 38672 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 7416 triệu đồng với tốc độ tăng là 23,7%. Năm 2004 đạt được 47526 tăng so với năm 2003 là 8854 triệu đồng với tốc độ tăng là 22,8% -Trung –dài hạn: Năm 2002 dư nợ trung –dài hạn là23447 triệu đồng tăng so với năm 2001 là 4572 triệu đồng với tốc độ tăng là 24,2%. Năm 2003 đạt được là 28772 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 5325 triệu đồng với tốc độ tăng là 22,7%. Năm 2004 đạt được là 38276 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 9504 triệu đồng với tốc độ tăng là 33% * Dư nợ phân theo thành phần kinh tế Bảng 5: Dư nợ theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Tỷ trọng năm 04(%) DNNN 2166 3045 4289 4,9 DNNQD 3152 4091 5282 6,1 HTX 753 1087 1608 2,1 HSX 48632 59221 74632 86,9 (Nguồn: Báo cáo tín dụng của NHNo&PTNT Kim Động từ năm 2002-2004) -DNNN:Dư nợ DNNN đạt 4298 triệu đồng trong năm 2004 tăng 1235 triệu đồng so với năm 2003 với tốc độ tăng là 41,1% và chiếm 4,9% tổng dư nợ -DNNQD: Dư nợ DNNQD đạt 5282 triệu đồng trong năm 2004 tăng 1191 triệu đồng so với năm 2003 với tốc độ tăng là 29,1% và chiếm 6,1% trong tổng dư nợ -HTX: Dư nợ của HTX đạt 1608 triệu đồng trong anưm 2004 tăng so với năm 2003 là 521 triệu đồng với tốc độ tăng là 47,9% và chiếm 2,1% trong tổng dư nợ -Hộ SX: Dư nợ của hộ sản xuất là 74632 triệu đồng trong năm 2004 tăng 15411 triệu đồng so với năm 2003 với tốc độ tăng là 26% và chiếm 86,9% trong tổng dư nợ. 2.1.3.3. Các hoạt động dịch vụ khác của Ngân hàng - Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ: Năm 2002-2004, do tác động suy thoái của nền kinh tế thế giới lãi suất huy động liên tục giảm, từ mức lãi suất 5,5%/năm đến cuối năm chỉ còn 1,9%/năm. Mặt khác tỷ giá USD so với VND vẫn có xu hướng tăng dần, tỷ lệ ngoại hối bắt buộc giảm trong khi đó Ngân hàng Nhà nước tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên từ 12% đến 15% làm cho các ngân hàng thương mại tăng chi phí đầu vào. Do vậy hoạt động kinh doanh đối ngoại hết sức khó khăn trong việc cân đối kim ngạch tại chỗ cho doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất nhập khẩu, lượng cung ngoại tệ luôn trong tình trạng thiếu do yêu cầu chuyển đổi nhận nợ từ ngoại tệ sang VND để tránh rủi ro tỷ giá. Từ năm 2002 Ngân hàng Nông Nghiệp huyện Kim Động bắt đầu nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, hoạt động kinh doanh ngoại tệ từ năm 2004. Bước đầu gặp không ít những khó khăn do ảnh hưởng của kinh tế thế giới và giá vàng liên tục đạt mức cao nhất từ truớc đến nay, đồng đô la mỹ bấp bênh. Song với sự cố gắng lớn của Ngân Hàng Nông Nghiêp Kim Động nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã bước đầu đạt được kết quả ổn định và có mức tăng trưởng khiêm tốn song vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kinh doanh của ngân hàng Kết quả kinh doanh ngoại tệ năm 2004 như sau: Doanh số mua vào năm 2004 đạt 582000 USD Doanh số bán ra năm 2004 đạt 578000 USD Nghiệp vụ thanh toán quốc tế Thực hiện quyết định số 44/QĐ-NHNN ngày 21 tháng 3 năm 2002 của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nứơc cho phép các ngân hàng thương mại được phép sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn do đó khối lượng thanh toán của ngân hàng nông nghiệp Kim Động đã gia tăng đáng kể. Doanh số thanh toán và._.g không nên áp dụng một mức lãi suất cứng nhắc cho mọi đối tượng mà nên áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau dựa trên đánh giá về mức độ rủi ro của các món vay. Ngân hàng chỉ nên qui định một khung lãi suất dao động trong một khoảng nào đó đối với một nhóm khách hàng, giao cho cán bộ tín dụng quyết định mức lãi suất nhưng phải phù hợp với khung lãi suất đã qui định. Thực tế cho thấy đối với khách hàng là các hộ sản xuất trên địa bàn Kim Động thì nhu cầu về dịch vụ kèm theo như thanh toán, ngân quĩ, chuyển tiền... là rất ít. Chính vì vậy đối với nhóm khách hàng là các hộ sản xuất, lãi suất là nhân tố có sức cạnh tranh rất lớn và là nhân tố mang tính quyết định trong chiến lược mở rộng thị phần của Ngân hàng đối với khách hàng là các hộ sản xuất. Các hộ sản xuất quan tâm đến mức lãi suất nhiều hơn là các dịch vụ tiện ích. Do đó Ngân hàng cần xây dựng và vận hành một cơ chế chính sách lãi suất phù hợp và có tính cạnh tranh. Để thực thi được điều này ngoài việc tiết kiệm các chi phí hoạt động Ngân hàng còn phải có các chính sách thu hút những nguồn vốn có chi phí thấp để tài trợ cho việc hạ lãi suất. Những nguồn vốn này gồm tiền gửi không kì hạn, tiền gửi thanh toán, các nguồn vốn uỷ thác, vốn từ các chương trình của Chính phủ, của tỉnh. * Dựa trên phân loại khách hàng vay vốn: + Với khách hàng có tiền sử tốt, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả cao Ngân hàng cho vay với mức lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay trung bình do hiệu quả kinh doanh cao, rủi ro tín dụng thấp. + Với các khách hàng khác đủ điều kiện vay vốn thì cho vay với lãi suất cao hơn do khả năng rủi ro tín dụng lớn hơn. Như vậy điểm mấu chốt của căn cứ này là dựa trên phân loại khách hàng, lựa chọn khách hàng vay vốn của Ngân hàng. Ngân hàng cần xây dựng được các tiêu chí phân loại khách hàng khoa học, hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn. * Dựa vào nguồn huy động để cho vay + Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước theo các chương trình tín dụng chỉ định: Do không mất phí huy động, Ngân hàng có thể cho vay với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng theo yêu cầu của bên cung cấp vốn. + Nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước: Đối với nguồn vốn này Ngân hàng phải cho vay đúng đối tượng theo lãi suất được uỷ thác để giữ uy tín với đối tác cho vay. Mức lãi suất uỷ thác thường thấp hơn so với lãi suất huy động của Ngân hàng. Tuy khó có thể hạ quá thấp mức lãi suất cho vay từ nguồn vốn này vì thực chất Ngân hàng cũng phải trả phí cho nguồn vốn này nhưng nhìn chung đây là một nguồn vốn tốt, chi phí thấp và qui mô khá lớn. + Nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Nguồn vốn này Ngân hàng phải trả lãi suất huy động bằng lãi suất huy động trên thị trường, nhìn chung khó có thể dùng nguồn vốn này để cho vay với lãi suất ưu đãi. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn huy động này để cho vay các hộ sản xuất với lãi suất thương mại nhưng nên thấp hơn lãi suất cho vay của các Ngân hàng khác cùng cho vay hộ sản xuất nếu có thể. Do đó Ngân hàng cần tiết kiệm chi phí hoạt động để có thể thực hiện được mục tiêu hạ lãi suất. * Sử dụng lãi suất cho vay biến đổi Lãi suất cho vay đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn Ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất biến đổi. Do giá cả thị trường có những biến đổi khó có thể lường trước được và lãi suất cũng dao động và thay đổi theo. Bên cạnh đó hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ của lạm phát và thực tế cho thấy lạm phát có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển nếu lạm phát dừng ở mức vừa phải. Do đó lạm phát là điều tất yếu sẽ xảy ra đối với bất kỳ NKT nào trong cơ chế thị trường song chúng ta lại không biết nó xảy ra ở mức độ như thế nào, với tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Vì vậy Ngân hàng nên thống nhất với khách hàng mức lãi suất thị trường vào thời điểm đó. Quy định như vậy sẽ là khách quan và hợp lý cho cả khách hàng và Ngân hàng bởi vì do thời gian vay trung và dài hạn dài cho nên nếu quy định một mức lãi suất cao hơn lãi suất thực tế trên thị trường và có một lúc nào đó khách hàng phải chịu mức lãi suất cho vay của Ngân hàng không đáp ứng đủ một mức lãi suất cho vay của Ngân hàng. Như vậy quy định một mức lãi suất biến đổi sẽ làm cho cả Ngân hàng và khách hàng giảm bớt được rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. 3.3.1.4. Mở rộng cho vay theo hạn mức. Trong thực tế cho vay các hộ sản xuất hiện nay NHNo&PTNT Kim Động chủ yếu cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức rất ít. Tuy nhiên trong hoạt động, khá nhiều hộ sản xuất có nhu cầu vốn thường xuyên song mức vốn mỗi lần không lớn lắm, đặc biệt là các hộ trong các làng nghề và các hộ kinh doanh dịch vụ thương mại. Chính vì vậy nếu như cho vay từng lần với một khối lượng lớn cho cả chu kì hoạt động sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận vốn của Ngân hàng mà khách hàng vay về tạm thời không sử dụng đến gây lãng phí nguồn vốn và tăng chi phí đầu vào cho khách hàng. Bên cạnh đó nều như khách hàng chỉ vay vốn đủ cho nhu cầu của một lần thì khách hàng phải tiến hành làm nhiều bộ hồ sơ vay vốn. Như vậy sẽ rất mất thời gian và chi phí liên quan cho cả Ngân hàng và khách hàng. Để khắc phục tình trạng trên, Ngân hàng nên áp dụng rộng rãi hơn hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các hộ sản xuất có nhu cầu mà Ngân hàng thấy rằng hợp lý. Hạn mức có thể là 6 tháng, 1 năm và nên quy định số dư hạn mức vào cuối thời gian của cho vay hạn mức. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt và hiệu quả cho vay theo hạn mức, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng tiền vay của khách hàng xem có đúng như cam kết trong hợp đồng vay vốn hay không. Ngân hàng cũng nên có một cơ chế mềm mỏng hơn để có thể xem xét điều chỉnh hạn mức cho vay, thời hạn vay nếu xét thấy điều này là cần thiết và hợp lý cho khách hàng. 3.3.1.5. Mở rộng tín dụng gián tiếp Các món vay của đa số hộ sản xuất hiện nay có khối lượng tín dụng nhỏ và xảy ra trên địa bàn trải rộng, dẫn đến chi phí quản lý món vay tăng cao, gây bất lợi cho cả hai phía. Hơn nữa do các món vay nhỏ song khối lượng các món vay lại lớn nên một cán bộ tín dụng phải phụ trách nhiều món vay, dẫn đến tình trạng quản lý các khoản vay của các cán bộ tín dụng không được sát sao, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nợ quá hạn của hộ sản xuất. Để khắc phục tình trạng trên Ngân hàng nên tìm một hình thức tín dụng hiệu quả mà ít tốn kém hơn, đó chính là tín dụng gián tiếp. Có nhiều cách cho vay gián tiếp đối với các hộ sản xuất. Thứ nhất: Cho vay thông qua tổ nhóm hợp tác Tổ nhóm tín dụng hợp tác là một tổ chức bao gồm các thành viên cùng sinh sống trong một làng, xã... tự nguyện tập hợp với nhau thành một tổ trưởng, tổ phó và kế toán (hoặc thư kí) được các thành viên trong tổ tự bầu, hoạt động theo quy chế nội bộ, được các tổ chức đoàn thể, hội cấp trên quản lý trực tiếp hoặc được UBND xã, phường thừa nhận và liên đới chịu trách nhiêm trong việc vay vốn Ngân hàng. Các hộ này cùng kí chung vào một hợp đồng tín dụng đối với Ngân hàng, khi vay vốn nếu một hộ thành viên nào đó không đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng thì tổ nhóm sẽ đứng ra bảo lãnh tín chấp cho thành viên đó và tổ nhóm có trách nhiệm cùng với Ngân hàng quản lý khoản vay đó. Trước khi nộp hồ sơ vay vốn, tổ nhóm hợp tác cần cùng nhau xem xét xin vay bao nhiêu là phù hợp với nhu cầu khả năng của từng hộ và của cả tổ. Như vậy mô hình cho vay thông qua tổ nhóm đã san sẻ một phần khâu giám sát khoản vay vốn của Ngân hàng tới các thành viên trong tổ, đồng thời các thành viên trong tổ còn phải giúp đỡ nhau trong quá trình sử dụng tiền vay để mở rộng sản xuất phát triển kinh tế, hạn chế rủi ro. Ngoài ra các thành viên trong các tổ nhóm là các thành thành viên ưu tú và có uy tín đối với xóm làng cho nên đây cũng là một cách sàng lọc, lựa chọn khách hàng một cách hiệu quả và chính xác, chọn ra được những khách hàng có tư cách tín dụng tốt cho Ngân hàng. Thứ hai: Cho vay thông qua tổ chức Chính trị- Xã hội Đó là các tổ chức như Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Công đoàn... Ngân hàng cần có mối liên kết hết sức chặt chẽ đối với các tổ chức này. Các tổ chức này có thể xây dựng những chương chình, dự án kinh tế để thực hiện triển khai trong phạm vi hoạt động của hội mình. Ngân hàng xem xét, thẩm định dự án xem có hiệu quả hay không để tiến hành giải ngân. Các tổ chức này phải có trách nhiệm sàng lọc, lựa chọn các hộ có đủ tiêu chuẩn thực hiện dự án và phải sát sao quản lý nguồn vốn vay cùng với Ngân hàng. Các tổ chức chính trị này sẽ là cầu nối trung chuyển, là trung gian quan hệ giữa Ngân hàng và các hộ. Việc thu nợ gốc, thu lãi vay Ngân hàng có thể bàn giao một phần nào đó cho các tổ chức này. Thứ ba: Cho vay thông qua hệ thông quỹ tín dụng nhân dân Với việc mở rộng tín dụng uỷ thác thông qua hệ thông tín dụng nhân dân, NHNo&PTNT Kim Động cũng có thể dần mở rộng cung cấp dịch vụ thông qua hệ thống này như các dịch vụ chuyển tiền , chi trả kiều hối và thậm chí cả một số nghiệp vụ thanh toán khi thầy phù hợp. 3.3.2 Giải pháp về tổ chức mạng lưới, xây dựng cơ sở hạ tầng Do đặc thù của tín dụng nông nghiệp nông thôn là hoạt động trên địa bàn rộng lớn phân tán nên Ngân hàng cần có một tổ chức mạng lưới rộng khắp để đáp ứng một cách đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn của các tổ chức và cá nhân. Hiện nay, hệ thống chi nhánh của NHNo&PTNT Kim Động gần như bao phủ địa bàn toàn tỉnh, tuy nhiên do sự phát triển kinh tế của một số vùng trong tỉnh là không đồng đều, một số vùng đang phát triển với tốc độ cao nên thực tế hệ thống chi nhánh của NHNo&PTNT Kim Động vẫn chưa thực sự đến gần được với người nông dân. các chi nhánh rộng lớn là sự thể hiện tốt nhất về sức mạnh và uy tín của Ngân hàng, đồng thời nó là một biện pháp marketing rẻ tiền nhất và hiệu quả nhất. Chính vì vậy mở rộng hệ thống chi nhánh mạng lưới là một trong những biện pháp quan trọng để tiếp cận và thu hút khách hàng. Trong tương lai Ngân hàng cần mở rộng thêm mạng lưới chi nhánh của minh song phải nghiên cứu kĩ đặc điểm kinh tế cả các vùng do sự phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh diễn ra không đồng đều giữa các khu vực, các vùng. Đặc biệt Ngân hàng cần mở rộng thêm các Ngân hàng lưu động (nay là phòng giao dịch), các bàn giao dịch bởi vì mô hình này phù hợp địa bàn hoạt động của Ngân hàng là lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra Ngân hàng nên mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật cho các chi nhánh, cải thiện điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên nhằm phục vụ tốt hơn cho hoạt động của Ngân hàng. 3.3.3. Giải pháp về nhân sự Một trong những vấn đề quyết định sự an toàn tín dụng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng. Từ việc chấp hành cơ chế chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ cho vay, quyết định đầu tư, kiểm tra kiểm soát vốn vay, thu nợ... nói chung mọi đúng, sai, thành công hay thât bại đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể trong quan hệ tín dụng. Cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao sẽ hiểu được bản chất của các hình thức cho vay, phương thức cho vay,lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định tín dụng. Các kiến thức về kế toán, tài chính sẽ giúp cho cán bộ tín dụng tiến hành dễ dàng và nhanh chóng công tác thẩm định, một trong những khâu quan trọng nhất trong qui trình tín dụng, qua đó có thể nâng cao hiệu quả trong công tác thẩm định và cho vay, đồng thời có thể phát hiện ra các dự án thiếu tính khả thi để từ chối cho vay, qua đó hạn chế rủi ro tín dụng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro phải có đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi. Giỏi ở đây là những cán bộ được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về kinh tế thị trường, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Đồng thời người cán bộ tín dụng phải có đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm, tư lợi, sẽ thực hiện đầu tư các dự án không có hiệu quả, thiếu tính khả thi gây tổn thất cho Ngân hàng và xã hội. Bên cạnh những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, các kiến thức tổng hợp về nhiều lĩnh vực như những hiểu biết về thị trường, công nghệ, nguyên liệu, lao động, đất đai hay thậm chí cả những kiến thức về môi trường... cũng là những kiến thức cần thiết với các cán bộ tín dụng khi tiến hành cho vay đối với khách hàng nói chung, các hộ sản xuất nói riêng. Ngoài ra thái độ tác phong, trình độ và cung cách phục vụ của các cán bộ tín dụng là hình ảnh sinh động nhất của Ngân hàng, là bộ mặt của Ngân hàng và có ảnh hưởng lớn đến niềm tin và các quyết định của khách hàng. Chính vì vậy, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng thông qua đào tạo và đào tạo lại là việc hết sức cần thiết. NHNo&PTPT Kim Động luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, coi đây là khâu then chốt trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và mở rộng thị phần. Để thực hiện một cách có hiệu quả giải pháp về nhân sự Ngân hàng cần chú trọng vào một số công việc chính sau đây: - Thứ nhất: Công tác đánh giá cán bộ và bố trí cán bộ cần thực hiện một cách phù hợp và hợp lý: Đây là công việc cực kỳ quan trọng bởi lẽ nếu đánh giá chính xác sẽ tạo điều kiện tốt cho việc đào tạo và đào tạo lại cũng như việc bố trí công tác thích hợp cho cán bộ công nhân viên một cách hợp lý, giúp họ phát huy hết khả năng và thế mạnh của mình. Nhờ đó công việc của cán bộ công nhân viên sẽ đạt hiệu quả hơn. Ngược lại, nếu đánh giá sai sẽ dẫn đến hàng loạt các rủi ro cho Ngân hàng: Bố trí vị trí công tác không tương xứng với năng lực làm việc sẽ gây ra tâm lý chán nản, tiêu cực, bầu không khí làm việc căng thẳng do bị áp lực của công việc , giảm hiệu quả công việc và lãng phí nguồn lực. Bố trí vị trí công tác quá sức so với trình độ thực tế của cán bộ sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Do đó việc đanh giá cán bộ và bố trí cán bộ phải dựa vào những căn cứ sau: + Phải nắm vững và dựa vào tiêu chuẩn cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để đánh giá. + Phải lấy hiệu quả công tác và sự đóng góp thực tế của cán bộ làm thước đo phẩm chất và năng lực, không nên đồng nhất bằng cấp, học vị. - Thứ hai: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ: Để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng thì vấn đề đào tạo và đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ cán bộ được quan tâm và chú trọng nhiều hơn nữa. Hàng năm Ngân hàng nên tổ chức những đợt tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ nhân viên. Nên thuê thêm những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực Ngân hàng để tư vấn cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ, tài trợ du học cho các cán bộ có năng lực... việc tổ chức đào tạo chuyên môn gồm một số giai đoạn sau: + Thực hiện đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của Ngân hàng và mức độ đáp ứng nhu cầu hiện tại, dự tính đến nhu cầu nhân lực và trình độ cần phải có trong tương lai theo chiến lược phát triển chung của Ngân hàng. Nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này là phát hiện ra những hụt hẫng về kiến thức của mỗi cán bộ khi thực hiện các chức trách cụ thể và tác động của những thiếu sót đó đến kết quả công việc. + Tổng hợp các nhu cầu cụ thể về đào tạo cán bộ, ưu tiên lựa chọn ứng cử viên đi đào tạo là các cán bộ có triển vọng nhất. + Lập kế hoạch và ngân sách đào tạo đến từng bộ phận. + Giám sát quá trình đào tạo và kết quả đào tạo. + Tổng kết công tác đào tạo sau một năm, xây dựng các phương pháp động viên các cán bộ công nhân viên với việc sử dụng một số khuyến khích về tinh thần và vật chất. Ngoài ra, quá trình đào tạo chuyên môn cho cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng cần đi vào bề sâu. Nhân viên tín dụng không chỉ phải biết rõ về các nghiệp vụ tín dụng mà còn phải am hiểu các vấn đề xã hội cũng như các vấn đề của các ngành kinh tế then chốt, về giá cả, thị trường... Có như vậy mới đảm bảo giảm tối thiểu được rủi ro khi tiến hành cho vay đối với khách hàng và mở rộng được thị phần. 3.3.4. Giải pháp về chỉ đạo điều hành. Để hoạt động tín dụng được tiến hành liên tục và đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự chỉ đạo điều hành đúng đắn. Mở rộng tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất là một định hướng lâu dài và quan trọng của NHNo&PTNT Kim Động. Chính vì vậy từ trung tâm điều hành co đến các chi nhánh huyện thị tất cả đều phải thông suốt chủ trương, quan điểm đó. Điều này đòi hỏi Ngân hàng cần phải có sự chỉ đạo điều hành đúng đắn và kịp thời. Sự chỉ đạo điều hành này được thể hiện trên một số phương diện chính sau: -Triển khai kịp thời, có bài bản các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng kinh doanh của ngành, thực hiện có hiệu quả 5 công cụ điều hành đó là: Kế hoạch- lãi suất- tài chính- kiểm tra, kiểm soát và thi đua. Từ đó tác động tích cực đến các cấp Ngân hàng và đội ngũ cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh hiểu, nắm vững và chăm lo đến kết quả kinh doanh. - Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng điều hành tại các Ngân hàng cơ sở, phân công rõ việc, làm việc gì giỏi việc đó, thực thi công việc đúng qui trình nghiệp vụ và qui chế quản trị điều hành. Từng cấp Ngân hàng xây dựng quy chế đồng bộ và phải kiên trì, kiên quyết điều hành theo quy trình đã xây dựng, tiếp tục làm chuyển biến nhận thức của cán bộ công nhân viên về ý thức và phong cách kinh doanh theo cơ chế thị trường, quá trình chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp hành chính và kinh tế, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo chính. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền địa phương và các ngành hữu quan tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng kinh doanh. - Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác huy động nguồn vốn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt để mở rộng kinh doanh. Từng cấp Ngân hàng thực hiện theo hướng: đa dạng hoá, đa phương hoá các hình thức huy động vốn, tiếp tục phát hành các hình thức tiết kiệm dự thưởng, quay số và bốc thăm trúng thưởng, kết hợp với tặng quà khuyến mại, chú ý huy động nguồn vốn có kỳ hạn từ 1 năm trở lên và huy động vốn dân cư nhằm ổn định nguồn vốn lớn, phối kết hợp chặt chẽ với Kho bạc, BHXH làm tốt công tác chi trả và khơi nguồn tăng nguồn thu. Làm tốt công tác tuyên truyền, sản phẩm gắn với quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lương phục vụ. - Tiếp tục mở rộng đầu tư vào các thành phần kinh tế, trên cơ sở phân loại thị trường, lựa chọn khách hàng để đầu tư có hiệu quả, bên cạnh việc đầu tư vào thị trường nông nghiệp, nông thôn, tiếp tục củng cố và mở rộng màng lưới cho vay qua tổ nhóm, mặt khác coi trọng đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, doanh nghiệp, làng nghề, kinh tế trang trại, hộ tư nhân cá thể, vận dụng linh hoạt cơ chế đảm bảo tiền vay, mở rộng cho vay theo hạn mức tín dụng. Đồng thời kiên quyết chỉ đạo có hiệu quả các giải pháp, xử lý thu hồi nợ xấu, nợ quá hạn, nợ 238, 88, thành lập các tổ thu hồi nợ, phối kết hợp chặt chẽ với cấp uỷ chính quyền địa phương để có biện pháp thu hồi nợ, nhất là trong dịp thu hoạch vụ mùa, chuyển nợ quá hạn kịp thời những món nợ xấu để thu hồi và xử lý bằng các biện pháp thích hợp. - Quan tâm chỉ đạo và làm tốt công tác kiểm tra kiểm soát, tập trung sửa sai dứt điểm những sai sót theo kết luận của thanh tra NHNN, các đoàn kiểm tra của NHNo tỉnh và tự kiểm tra của Ngân hàng cơ sở, chú trọng kiểm tra chất lượng tín dụng mới cho vay, tổ chức kiểm tra đối chiếu tiền gửi, tiền vay với khách hàng, tiếp tục triển khai đề án đổi miền cán bộ tín dụng, kể cả cán bộ quản lý từ đó vừa kiểm tra chất lượng kinh doanh vừa tạo động lưck thúc đẩy kinh doanh phát triển. - Tập trung chỉ đạo xây dựng nguôn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, tiếp tục xây dựng phương án đào tạo và đào tạo lại đổi ngũ cán bộ, nâng cao kiến thức nghiệp vụ, pháp luật , Marketing đào tạo phổ cập 100% cán bộ biết sử dụng máy vi tính và nghiệp vụ WB cho các ngân hàng cơ sở để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập trong thời gian tới. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn và công đoàn thường xuyên giáo dục cán bộ nâng cao phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, làm việc có kỷ cương vì sự nghiệp5 chung. Đẩy mạnh các phong trào thi đua, làm tốt công tác xây dựng quỹ từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, phong trào văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, phấn đấu hoàn thành vượt mức mục tiêu kinh doanh 2005. 3.4. Một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay 3.4.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để bảo vệ năng lực tài chính của ngân hàng nông nghiệp, chính phủ nên chuyển các khoản nợ khó đòi đối với những khoản cho vay theo chỉ định của chính phủ sang ngân hàng chính sách hoặc công ty quản lý tài sản. Hệ thống tiêu thụ nông sản phẩm: hiện nay chưa hợp lý gây thua thiệt cho người nông dân, cũng là vấn đề cần sớm được tháo gỡ để có được trật tự tối thiểu cho sự vận động của các kênh tiêu thụ, điểm tiêu thụ hàng hoá nông sản. Đề nghị Nhà nước cần có những quy định về hành chính có tính chất bắt buộc, không để tình trạng mạnh ai nấy làm, chèn nhau ép giá gây thua thiệt cho nông dân, dẫn đến khó khăn cho Ngân hàng trong đầu tư tín dụng. Trên thực tế một số vùng xa chưa được quy hoạch tổng thể; sản xuất tiêu thụ sản phẩm bấp bênh, gây không ít khó khăn cho công tác đầu tư tín dụng. Nhu cầu vốn vay thì nhiều song không xây dựng được các dự án phương án sản xuất. Do đó, đề nghị Nhà nước sớm có sự chỉ đạo xây dựng, quy hoạch phát triển kinh tế cho từng vùng, tạo nền móng cơ sở để Ngân hàng thực hiện đầu tư đúng hướng . Hỗ trợ nông dân trong đào tạo và chuyển giao công nghệ, thành lập các trung tâm tư vấn cho nông dân. Có chính sách hỗ trợ về thuế thích hợp như mức thuế miễn giảm khi gặp thiên tai hay sự cố rủi ro bất khả kháng. Tổ chức thực hiện tốt chỉ thị 05 của Bộ chính trị ngày 10/10/2000 “về việc củng cố hoàn thiện và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, đảm bảo thị trường tiền tệ, tín dụng vùng nông thôn lành mạnh ổn định. Quỹ tín dụng nào hoạt động không hiệu quả thì cần kiên quyết xử lý, cho giải thể, nếu không với tính chất hoạt động tín dụng kiểu “cài răng lược ” như hiện nay tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Có chính sách bao tiêu sản phẩm đối với các sản phẩm là hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, tạo một thị trường ổn định để các hộ yên tâm sản xuất. Hiện nay do thị trường đầu ra không ổn định, hơn nữa các thương lái lạm dụng tình trạng khó khăn về vốn của người nông dân nên đã o ép, hạ giá khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ gặp nhiều khó khăn. Nhà nước nên thành lập thêm các công ty xuất nhập khẩu sở hữu Nhà nước hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ để đảm bảo tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho các hộ sản xuất. 3.4.2. Đối với uỷ ban nhân dân huyện Kim Động. Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế của Huyện, đề nghị Huyện chỉ đạo các ngành chức năng có quy hoạch cụ thể kinh tế vùng, ngành nghề, cây con. Từ đó, chỉ đạo xây dựng các dự án khả thi làm căn cứ giúp Ngân hàng nghiên cứu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp với nhau tạo điều kiện giúp đỡ Ngân hàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho các hộ vay vốn dễ dàng hơn. Tăng cường phối hợp giữa các ban ngành để làm công tác dự báo thị trường, đặc biệt là thị trường nông phẩm tốt hơn. Giành một số kinh phí của Huyện để hỗ trợ cho các hợp tác xã, các hộ sản xuất nâng cao trình độ quản lý, hiểu biết về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến. 3.4..3. Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chính phủ đã ban hành văn bản về ưu đãi cho vay đối với mô hình kinh tế trang trại, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nên sớm ban hành quy chế cho vay mô hình kinh tế này. Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam kiến nghị với các cơ quan chính phủ có biện pháp tăng cường hiệu lực của các trung tâm bán đấu giá để hỗ trợ NH xử lý nợ bằng các biện pháp như xiết nợ, mua bán nợ, xử lý triệt để những khoản nợ khó đòi. NHNo &PTNT Việt Nam cần nghiên cứu, tổng kết cho phù hợp hơn về cơ chế cho vay qua tổ nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ mô hình tổ chức cho vay lưu động, xác định rõ hình thức cho vay trang trại để mở rộng các mô hình có hiệu quả, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. NHNo & PTNT Việt Nam cần định ra sản phẩm dịch vụ cải tiến phù hợp với thực tế (với hộ nông dân, hộ sản xuất ) như áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi xuất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản. NHNo Việt Nam nên tiếp tục mở rộng mạng lưới đến cấp xã hơn nữa để chiếm lĩnh thị trường, giữ vững khách hàng truyền thống trước khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực hoàn toàn. Đồng thời chuyển các Ngân hàng liên xã thành các đơn vị sinh lời, tạo điều kiện cho việc triển khai hệ thống khuyến khích cán bộ, hệ thống thông tin quản lý nhằm phân tích đầy đủ chính xác hơn nữa về tình hình hoạt động của mỗi chi nhánh. 3.4..4 Đối với NHNo & PTNT Kim Động. Để nâng cao chất lượng tín dụng trước hết cần quan tâm tới con người (Cán bộ tín dụng ) yếu tố con ngươì là trung tâm của mọi vấn đề. Triển khai đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực thấp, đào tạo và giúp đỡ cán bộ tín dụng có kiến thức về cơ chế thị trường, những kiến thức về khoa học kỹ thuật liên quan đến hoạt động ngân hàng, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, có như vậy cán bộ tín dụng mới có đủ khả năng đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư đạt kết quả. Đặc biệt nâng cao trình độ vi tính và ngoại ngữ để hướng tới việc "giao dịch một cửa". Phối hợp với ban ngành kinh tế trong tỉnh phổ biến và triển khai mạnh mẽ chủ trương cho vay của Chính phủ theo quyết định 67/ QĐ- CP về chính sách tín dụng đối với việc phát triển nông nghiệp nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất: máy tính, các phương tiện làm việc cho các chi nhánh, từng bước hiện đại hoá ngân hàng, góp phần nâng cao vị thế Ngân hàng trên thị trường. Phối hợp với ngành liên quan để xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật của từng loại cây con chủ yếu trên địa bàn, qua đó chỉ đạo NHNo huyện trực thuộc xây dựng định xuất đầu tư phù hợp với thực tế trên địa bàn, chỉ đạo các chi nhánh ngân hàng trực thuộc phối hợp bới UBND phường ( huyện ), xã thực hiện việc lập "Hồ sơ kinh tế địa phương ", xây dựng đề án chiến lược kinh doanh theo sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam, để giúp cho cán bộ tín dụng xác định chính xác nhu cầu của hộ. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động của Ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi tư nhân và vận động thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam nghiên cứu chế độ ưu đãi cho đội ngũ cán bộ tín dụng ở địa bàn nông thôn các chế độ về công tác phí thoả đáng, để khuyến khích cán bộ tín dụng bám sát địa bàn, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ. Đề nghị với chính phủ cho phép cho vay theo quyết định 67/ QĐ- CP đối với nhu cầu vay vốn phục vụ tiêu thụ hàng nông sản tại nông thôn, những hộ kinh doanh nhỏ ở thành thị để tạo điều kiện cho khách hàng được vay vốn thuận tiện. * Tóm lại, đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các loại hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp. Để mở rộng tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất, cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ của các cấp, các cơ quan, ban ngành liên quan và sự nỗ lực của bản thân Ngân hàng thì mới đạt được hiệu quả. KẾT LUẬN Trong những năm vừa qua NHNo&PTNT Kim Động đã cho vay đối với hộ sản xuất lên tới hàng trăm tỷ đồng, là Ngân hàng dẫn đầu trong hệ thống NHTM cho vay hộ san xuất phát triển kinh tế, góp phần to lớn vào công cuộc CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bộ mặt kinh tế nông thôn huyện Kim Động đã và đang thay đổi từng ngày nhờ những đồng vốn quí báu của Ngân hàng. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Kim Động vẫn còn gặp phải một số vướng mắc nhất định làm ảnh hưởng đến khả năng tăng dư nợ đối với thành phần kinh tế này. Với mong muốn NHNo&PTNT Kim Động tăng trưởng và phát triển hoạt động kinh doanh một cách ổn định và hiệu quả, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn, đặc biệt là vốn cho các hộ mở rộng sản xuất trong thời kỳ mới, trong khoá luận này em đi sâu nghiên cứu tìm hiểu hoạt động sản xuất, xu hướng vận động phát triển của hộ sản xuất trên địa bàn huyện Kim Động, tìm ra những nguyên nhân vướng mắc, những hạn chế trong việc mở rộng tín dụng đối với thành phần kinh tế này. Trên cớ sở đó em đề ra những hướng khắc phục, những kiến nghị đối với các cá nhân, tổ chức liên quan để hoạt động tín dụng phát triển kinh tê hộ phát triển hơn nữa. Hy vọng rằng một số đóng góp ý kiến nho nhỏ của mình đối với một vấn đề tương đối lớn, trong thời gian tới hoạt động tín dụng phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Kim Động có những bước phát triển mới, bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn Huyện Kim Động ngày một cải thiện, cuộc sống ấm no hơn, phồn thịnh hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - Nhà xuất bản thống kê năm 2000. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng. Cẩm nang tín dụng NHNo 2002. Các báo cáo tổng kết công tác tín dụng và hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 của NHNo & PTNT huyện Kim Động. Bài giảng môn Ngân hàng thương mại của Khoa Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, học viện Ngân hàng. Bài giảng môn Marketing Ngân hàng của Khoa Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, học viện Ngân hàng. Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn CNH - HĐH, NXB Chính trị quốc gia 1997. Kinh tế hộ - lịch sử và triển vọng. Vũ Tuấn Anh, Nxb Khoa học xã hội 1995. Tạp chí nông nghiệp và thời báo ngân hàng 10- Tạp chí Ngân hàng . BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT. TDNH : tín dụng Ngân hàng. NHTM : Ngân hàng Thương mại. NHNN : Ngân hàng nhà nước. SXKD : sản xuất kinh doanh. HSX : hộ sản xuất. CNH : công nghiệp hoá. HĐH : hiện đại hoá. DNNN : doanh nghiệp Nhà nước. CBTD : cán bộ tín dụng. NQH : nợ quá hạn. NHNO&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn CNH_HĐH :Công nghiệp hoá hiện đại hoá DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HTX : Hợp tác xã ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0100.doc
Tài liệu liên quan