Tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn B ách Khoa: MỤC LỤC
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công nghiệp hoá là vấn đề mang tính quy luật đối với tất cả các nước đang phát triển. Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá đã diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển và thực tế cho thấy rằng, trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế; trong xu hướng hội nhập, đan xen phát triển, thì việc tạo vốn cho công nghiệp hoá bằng việc huy động, khai thác, nâng cấp nguồn vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế là hết sức cần th... Ebook Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn B ách Khoa
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn B ách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết và ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Từ năm 1986, sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Chính phủ đã đưa ra chương trình đổi mới quản lý nền kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là những nguồn nhân lực mạnh nhất và trong tương lai không xa chính họ sẽ tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế nước nhà, là tiền đề để phát triển nền kinh tế mũi nhọn, phát triển cơ chế công nghiệp hoá hiện đại hoá của toàn xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả nền kinh tế quốc dân đã đề ra, đồng thời để hội nhập với xu hướng hội nhập quốc tế, các thành phần kinh tế phải biết khai thác toàn diện và hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là phải tận dụng được sự hỗ trợ của hệ thống NH. Muốn vậy, ngành NH phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải. Đây cũng đang là mỗi quan tâm đặc biệt của các NHTM, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng.
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng NH đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do khách hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, mặt khác do doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNO&PTNT chi nhánh Bách Khoa, em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNO&PTNT B ách Khoa” làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn hoạt động cho vay các DNV&N tại NHTM làm đối tượng để nghiên cứu. Từ đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại NHNO&PTNT Bách Khoa
Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xem xét ở các khía cạnh về chính sách, giải pháp và trạng thái cụ thể về quy trình cho vay tại NHNO&PTNT Bách Khoa
3. Phương pháp nghiên cứu:
Quá trình thực hiện đề tài đã vận dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp kết hợp lịch sử với logic, phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp thống kê và so sánh... đồng thời tham khảo các tài liệu và các luận văn của những lớp trước để rút ra những kết luận có tính phổ biến chung về quá trình cho vay DNV&N.
4. Kết cấu đề tài
Ch¬ng 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với DNV&N của NHTM
Ch¬ng 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHNO&PTNT Bách Khoa
Ch¬ng 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNO&PTNT Bách Khoa
Danh mục những chữ viết tắt
NHTM: Ng ân Hàng Thương Mại
NHNO &PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN: Ngân hàng nhà nước
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
CHƯƠNG 1
NH ƯNG VẤN Đ Ề CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DNV&N CỦA NHTM
1.1.NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
* Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
-Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt đông tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm có: Vốn chủ sở hữu và vốn nợ
Vốn chủ sở hữu chủ yếu bao gồm có nguồn vốn góp ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể là do đóng góp thêm hoặc trích từ lợi nhuận giữ lại, các quỹ và cuối cùng là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ là nguồn vốn lớn nhất mà ngân hàng có được để sử dụng kinh doanh. Theo luật các tổ chức tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các ngân hàng thương mại là 10%, riêng có ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là 8%, tức là nguồn vốn này có thể chiếm tới 90% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn nợ bao gồm có:
Thứ nhất là tiền gửi của khối dân cư và các doanh nghiệp các loại như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân cư… Đây là nguồn vốn huy động được nhiều nhất trong số vốn huy động được của ngân hàng. Dân cư và các doanh nghiệp nhận thấy rằng mình có một lượng vốn không dùng đến tạm thời hoặc cũng có thể họ có nhu cầu nhờ chi đối với ngân hàng để thuận tiện cho hoạt động của mình nên họ quyết định gửi số tiền của mình để nhận được khoản phần thưởng của ngân hàng cho việc đã sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền cho ngân hàng sử dụng. Đây là các khách hàng của ngân hàng và đối với khách hàng mà nói thì đây cũng là một phương pháp vừa tiết kiệm lại vừa sinh lời từ khoản tiền nhàn rỗi của mình chính là những khoản tiền gửi.
Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng nhưng không chỉ thế, vốn nợ của ngân hàng còn được hình thành từ các khoản tiền vay, ngân hàng thương mại có thể vay tiền ngân hàng trung ương bằng cách chiết khầu hoặc tái chiết khấu thương phiếu. Các thương phiếu đã được ngân hàng chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trỏ thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này tới ngân hàng nhà nước tái chiết khấu lại, như vậy trong ngắn hạn làm cho lượng tiến mặt trong két của ngân hàng thương mại tăng lên đồng nghĩa với thương phiếu của họ cũng giảm đi. Cũng có thể ngân hàng thương mại vay các tổ chức tín dụng khác trong thị trường liên ngân hàng tuy nhiên việc đi vay các tổ chức tín dụng khác thường ít được áp dụng hơn do chi phí của các khoản vay này cao hơn là vay ngân hàng trung ương. Nếu vay các ngân hàng khác thì dự trữ của ngân hàng thiếu vốn đi vay sẽ tăng lên và ngược lại với ngân hàng thừa vốn cho vay trong ngắn hạn. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn đi vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các loại giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Nhờ vậy mà các nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có thể tăng lên đảm bảo.
Thứ ba, ngân hàng cũng còn một lượng vốn nợ khác hình thành từ các hoạt động như ủy thác thanh toán, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể nhận được những khoản ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy thác chi hộ … từ những cá nhân hay tổ chức khác trong nền kinh tế làm cho nguồn vốn nợ của ngân hàng tăng lên; nguồn vốn nợ cũng có thể tăng lên nhờ nguồn trong thanh toán như khoản tiền ký quỹ trong thanh toán L/C
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
Đây là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất là hoạt động tín dụng, bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế. Lợi nhuận thu từ hoạt động này là thường là cao nhất trong tổng lợi nhuận, tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hạng. Tuy nhiên, đây là hoạt động chứa đựng độ rủi ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng của hoạt động này.
Ngoài ra còn các hoạt động sử dụng vốn khác như hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư tài chính, đầu tư vào trụ sở và những trang thiết bị kỹ thuật phục vụ quá trình hoạt động của bản thân ngân hàng, chi phí thường xuyên cho quá trình vận hành ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động kinh doanh khác
Ngoài các hoạt động cho vay và đầu tư tạo ra lợi nhuận, ngân hàng thương mại còn đóng vai trò là trung gian thực hiện các dịch vụ và hoạt động ngân hàng khác theo yêu cầu của khách hàng như: dịch vụ kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thanh toán, thu hô, chi hộ, chuyển tiền, ủy thác, bảo quản vật có giá, nghiệp vụ bảo lãnh, tư vấn… Các hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Ở một số ngân hàng lớn trên thế giới như Citibank, HSBC..thì tỷ trọng lợi nhuận thu từ dịch vụ lên đến 20%. Ngày nay, lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ này ngày càng tăng cao và chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động ngân hàng
1.2 Khái quát về DNV&N
1.2.1.Khái niệm DNNVV:
Phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội nước ta .Bởi vì sự thành đạt của các doanh nghiệp
DNNVV là khái niệm tương đối đối với doanh nghiệp lớn. Phương thức phân loại DNNVV thường là căn cứ các chỉ tiêu chuẩn như số lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng tài sản, thị phần của doanh nghiệp v.v… Vì vậy, trình độ phát triển kinh tế ở các nước là khác nhau, dẫn đến các trị số của các chỉ tiêu trên cũng khác nhau. Do đó, khái niệm DNNVV ở mỗi nước là không giống nhau.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001 tại điều 3 đã đưa ra khái niệm mới về DNN&V: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập.
- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập đăng kí hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí hoạt động theo Nghị định số 02/2000/NĐ - CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Các DNN&V luôn chiếm số lượng lớn so với các khu vực khác và tốc độ phát triển ngày càng tăng. Bằng chứng là cộng đồng DNN&V có khoảng 230 000 doanh nghiệp, trong đó chiếm đến 90% là DNN&V, đóng góp khoảng gần 30% vào GDP mỗi năm. DNN&V cũng là đội ngũ chính cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm, chưa kể các hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh nghiệp.
1.2.2.Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam.
Các DNV&N ở Việt Nam được phát triển một cách chính thức kể từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994. Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Theo các số liệu thống kê cùng kết quả điều tra các tổ chức kinh tế thì đến cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc DNV&N là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91%trong tổng số các doanh nghiệp, trong đó DNV&N thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số DCV&V ngoài quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% trong tổng số doanh nghiệp. Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo luật doanh nghiệp dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết các doanh nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do tổng cục thống kê ( GSO) và ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam công bố ngày 6/12/2006, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 31/12/2005 là 113.352 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với 31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương nghiệp chiếm 41,59%, trong xây dựng chiếm 13,46%.
1.2.2.1. Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trong nền kinh tế của một quốc gia, hệ thống các doanh nghiệp đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng. Hệ thống các doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp lớn, các DNV&N. Mỗi loại doanh nghiệp đó đều có những điểm mạnh, những khó khăn của mình trong quá trình hoạt động. Các doanh nghiệp lớn họ gặp nhiều những khó khăn về mức độ rủi ro; bất lợi về quy mô dẫn đến khả năng thay đổi mẫu mã sản phẩm, khả năng đa dạng hóa đầu tư, kinh phí cao, kênh phân phối, khả năng xâm nhập thị trường; hạn hẹp trong các lĩnh vực kinh doanh; cồng kềnh về mô hình tổ chức; khả năng hợp tác kém. Nếu như ở các doanh nghiệp khó khăn như vậy thì ở các DNV&N họ lại có những lợi thế về những mặt đó và đang ngày càng phát huy được những thế mạnh đó của mình
-Năng đông, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay đổi thị trường các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt và nhanh nhậy đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trước sự thay đổi liên tục của thị trường, các doanh nghiệp có thể chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể tăng giàm lao động hay sử dụng lao động thời vụ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, khi chuyển địa điểm sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ không gặp khó khăn như các doanh nghiệp lớn. DNV&N có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương. DNV&N có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh. Điều này càng làm cho DNV&N khai thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
-Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
Điều này hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. DNV&N có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
Để cho một doanh nghiệp lớn đi vào hoạt động được thì cần lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn, mặt khác các doanh nghiệp lớn chu kỳ sản xuất kinh doanh thường dài, khả năng thu hồi vốn chậm, rủi ro lớn. Trong khi đó đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chỉ cần lượng vốn ít hơn. Ngoài ra, với quy mô vừa, nhỏ nên các doanh nghiệp chỉ đa số là sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Đây chính là lợi thế cho các DNV&N khi vay vốn tại các ngân hàng. Các ngân hàng khi thực hiện cho vay họ thường phải xem xét kĩ những khoản vay và đặc biệt khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn sẽ đóng góp một phần cho quyết định cho vay của ngân hàng
-Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNV&N gọn nhẹ, linh hoạt, ti ết ki ệm đ ư ợc chi ph í . Nhờ có bộ máy quản lý ngọn nhẹ, việc điều hành được thực hiện được một cách trực tiếp không phải qua các khâu trung gian nên việc ra quyết định hay việc thực hiện công việc được thực hiện được một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả công việc. Nhờ đó nên có thể tiết kiệm được chi phí quản lý doanh nghiệp.
-Các DNV&N dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ nê nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Trong trường hợp này các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại sẽ có lợi thế hơn. Hơn nữa việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển hướng kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt hại và có thể nhanh chóng ứng dụng và đưa vao hoạt động những công nghệ tiên tiến, hiện đại.
-Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNV&N khá chặt chẽ:
Do số lượng lao dộng trong các DNV&N là không nhiều nên lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực cũng như mong muốn nguyện vọng của người lao động, từ đó sẽ có những biện pháp thích hợp để tạo động lực lao động, từ đó có thể nâng cao trình độ quản lý cũng như tận dụng triệt đế năng lực lao động, nâng cao hiệu quả công việc.
DNV&N có tinh thần tự lực tự cường cao
Số lượng doanh nghiệp quá lớn, nhà nước không thể kiểm soát chắt chẽ được hết cũng như khổng thể quan tâm hay có những tài trợ dễ dàng. Do vậy mà buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tinh thần tự chủ, đi lên trong cạnh tranh.
Những điểm mạnh đó của các DNV&N đã và đang là lợi thế của họ và với lợi thế đó họ dễ dàng hơn tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng
-Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối với các DNV&N.
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ bình thường (MNF) và đối sử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên của WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNV&N của Việt Nam có giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên khó thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được dỡ bỏ, các sản phẩm của các DNV&N sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn nhờ đó sẽ khai thác được lao động rẻ.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hóa nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các DNV&N cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức đối với các DNV&N cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác hiện tượng phân biệt đối sử giữa các DNNN với các DNV&N (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường hỗ trợ kinh doanh.
1.2.2.2 Những hạn chế và khó khăn của DNV&N:
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ trong những năm gần đây ở mức rất thấp, mới ở trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các DNV&N phải đối mặt với nhiều bất lợi. Cụ thể:
-Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động các số liệu thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 DNV&N năm 2004 có 2.211.795 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động như vậy quy mô về vốn và lao động của DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với các nước phát triển và đây cũng là lý khiến cho các Ngân hàng thương mại còn e dè trong việc cấp tín dụng đối với các DNV&N bởi lẽ họ chưa có kinh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ bé đội rủi ro khá cao. Việc mở rộng kinh doanh trang thiết bị công nghệ hay cải thiện chất lượng lao động đối với các DNV&N là rất khó khăn. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO.
-Hiệu quả kinh doanh thấp:
Do quy mô của các DNV&N như vậy kéo theo kết quả kinh doanh không cao. Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của DNV&N là 240 triệu đồng. Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận trên doanh thu cũng thấp ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó các DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy ( chiếm 40,6% doanh nghiệp cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến, 20,9%, xây dựng, 13,2%, các ngành kinh doanh tài sản tư vấn, khách sạn nhà hàng 25,3%. Việc tập trung như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DNV&N với nhau. Chính điều này sẽ làm giảm sự đa dạng của thị trường, giảm thị phần bản thân của các doanh nghiệp.
Phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh:
Các DNV&N gặp khó khăn do các thủ tục và điều kiện cạnh tranh khốc liệt ở thị trường trong nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc bên cạnh đó, sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn cũng ngăn chặn sự mở rộng thị trường của các DNV&N.
Không chỉ các đối thủ cạnh tranh trong nước, theo quy định của WTO Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phố toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn phải đe dọa sự tồn tại của nhiều DNV&N trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam.
- Hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu:
Một số thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu, khoảng 10-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Đây chính là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến việc tăng chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
-Trình độ của người quản lý và của người lao động còn hạn chế:
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong việc tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc, và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt Nam chịu áp lực cạnh tranh quốc tế.
Tóm lại: DNV&N hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế, và thực lực kinh tế yếu nên khả năng vay vốn càng khó khăn. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. Tất cả tạo ra một vòng luẩn quẩn không thể thoát ra được đối với các DNV&N.
-khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trường hạn chế
Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp, thiếu mạng lưới thu thập thông tin và các mỗi quan hệ rộng, các DNV&N thường gặp khó khăn trong việc phân tích các thông tin thị trường về nguyên liệu, xu hướng phát triển kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, các chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như của nước ngoài,…Hơn nữa, ngay cả khi có những thông tin thì các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc phân tích, đưa ra dự đoán do khả năng có hạn.
1.2.2.3. Vai trò của các DNV&N ở Việt Nam.
Trên thực tế các DNV&N đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong hầu hết các hoạt động kinh tế. Cùng với những lợi thế và không đòi hỏi vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ thay đổi linh hoạt theo thị trường, các DNV&N đã và đang phát huy những mặt tích cực và khảng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Đường lối kinh tế đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng ở Việt Nam cụ thể như sau:
Tăng việc làm và thu nhập cho người lao động.
Chúng ta có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn của các DNV&N là tạo việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa là không đòi hỏi trình độ quá cao, DNV&N đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống và hạn chế các tệ nạn xã hội. Rõ ràng giải quyết việc làm là một thế mạnh của các DNV&N và là nguyên nhân chủ yếu khiến ta phải quan tâm đặc biệt tới đối tượng này.
Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội.
Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng của trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện thực hiện, bí quyết sản xuất… do đó việc phát triển doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề trong nông thôn hiện nay là một hướng quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên, thu hút lao động nông thôn, nhằm phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển kinh tế.
Khu vực DNV&N thu hút được phần lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào các gõ ngách bản làng. Do yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNV&N có thế tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn vay của các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên các DNV&N có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhà rỗi trong dân cư để đầu tư sản xuất kinh doanh sự phát triển của các DNV&N ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động tạm thời nhàn rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất, rút dần lực lượng lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê hương không phải di chuyển sang lơi khác. Đây là yếu tổ chỉ đạo góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống đã và đang bị mai một, một phần nhằm khôi phục nền văn hóa dân gian mặt khác làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hóa nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu vực này không những rất dồi dào mà còn rất dẻ, do đó sẽ giúp cho các DNV&N giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
DNV&N thường áp dụng kỹ thuật phù hợp với kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi lượng vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ thuật trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật.
Tạo sự năng động, hiệu quả và thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH –HĐH đất nước :với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNV&N có khả năng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Vì vậy các DNV&N làm cho nền kinh tế thêm năng động hơn trên thực tế các DNV&N có tốc độ gia tăng lớn hơn rất nhiều các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng về số lượng các DNV&N làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc có nhiều nguồn lực được huy động vào mục tiêu phát triển kinh tế. Nói cách khác DNV&N giúp nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Tóm lại: DNV&N giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Phát triển hướng đi này là một hướng đi đúng đắn trong điều kiện nước ta hiện nay do đó các Ngân hàng thương mại phải có những biện pháp hỗ trợ DNV&N góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
1.3.Tín dụng ngân hàng đối với các DNV&N
1.3.1.Khái niệm và phân loại tín dụng.
1.3.1.1 Khái niệm về tín dụng.
Theo luật ngân hàng các nước định nghĩa:” Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác dùng, các cam kết cho người này bằng bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. (Nguồn từ phòng tín dụng..)
Theo đó, tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn, hoàn trả. Trong quan hệ này thể hiện những nội dung sau:
+Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định.
+Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất đinh, sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản chi phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
+Thông thường giá trị hoàn trả được lớn hơn lúc hai bên kỹ kết hợp đồng tín dụng.
1.3.1.2. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với định nghĩa trên ta có thể hiểu khi đề cập tới tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả hai hoạt động: đi vay, và cho vay.
-Đi vay: huy động vốn. Hoạt động này do bộ phận nguồn vốn đảm nhận.
-Cho vay: hoạt động này do bộ phận tín dụng đảm nhận.
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là các tổ chức cá nhân, xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thỏa thuận.
Theo định nghĩa này tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn, giới hạn bên cho vay là ngân hàng.
1.3.1.3. Phân loại tín dụng.
* Phân loại theo thời gian cấp tín dụng.
-Tín dụng có kỳ hạn: là khoản tín dụng có thời hạn xác định ngày trả nợ. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định cùng với quyết định 1627/2001/QD-NHNN-31/12/2000 của Thống đốc, khi phân loại theo thời hạn cấp tín dụng thì:
+Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
+Cho vay trung hạn: từ trên 12 – 60 tháng thời gian cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
+Cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
-Tín dụng không kỳ hạn: là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay mà không xác định thời hạn trả nợ.
*Phân loại theo thành phần kinh tế.
Trên cơ sở văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10, khi phân theo thành phần kinh tế, ta có thể các khoản cho vay thành.
-Cho vay DNNN.
-Cho vay kinh tế tư nhân.
-Cho vay kinh tế tập thể.
-Cho vay kinh tế cá thể.
-Cho vay kinh tế hỗn hợp.
Mỗi thành phần kinh tế đều có một đặc điểm riêng do đó ng._.ân hàng cần phải có thái độ ứng sử rất khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn. Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta thì việc phân loại này rất có ý nghĩa thực tế bởi lẽ đối với nước ta thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết và định hướng và sẽ quyết định đến khối lượng cũng như cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế còn lại.
*Phân loại theo phương thức hoàn trả:
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn được phân loại theo hai loại sau: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
-Cho vay hoàn trả một lần: các khoản cho vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thể được hoàn trả theo thỏa thuận trong hợp đồng , chẳng hạn theo tháng,quý hoặc năm .
-Cho vay trả góp: ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn,tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền .Cho vay hoàn trả một lần thường được áp dụng đối với các khaonr vay ngán hạn.
*Phân loại theo theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng.Lí do khách hàng luôn phải đối đầu với rủi do trong kinh doanh có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Chính vì vậy, trừ những ngân hàng có uy tín cao nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng ngân hàng.
-Cho vay có tài sản đảm bảo: Các tài sản được đem thế chất thường là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm cố thướng là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác. Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản được đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức phải có khả năng thanh lý được.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo:Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo, điều này các ngân hàng Việt Nam gọi là cho vay tín chấp. Nó giải thích tại sao các ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách hàng những khoản tín dụng lớn mà không cần phải đảm bảo đó là những doanh nghiệp có quan hệ vay trả xòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính tương đối vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý có hiệu quả, sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trong thời gian vừa qua các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam cung cấp tín dụng cho các DNNN thông qua hình thức này.
* Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây
- Chiết khấu thương phiếu: nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, cổ điển của các NHTM dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và người ký tên trên thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền lãi.
- Tín dụng thấu chi: thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
- Tín dụng thuê mua: trong nền kinh tế thị trường tín dụng thuê mua rất quan trọng. đây là hình thức cho thuê bất động sản như: nhà cửa, máy móc thiết bị, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng. Các chủ thể thuê có thể là các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí ,thuế và lãi kinh doanh tùy từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuế mua được tinh khác nhau.
Thời gian thuê mua có thể là ngắn,trung hoặc dài hạn.Tuy nhiên, thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường it được sử dụng.
-Tín dụng trả góp:ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đố với các khoản vay trung và dài hạn,tài trợp cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn vay mà còn kích thích được lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất và tiêu dùng.mặt khác,người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả từ đó lập được kế hoạch trả nợ.
-Tín dụng bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thu bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết.Bảo lãnh của ngân hàng sữ tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro với khách hàng.
-Tín dụng vãng lai,hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng và ngân hàng với nội dung thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.Điều kiện vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp,cầm cố hoặc bảo lãnh.trong một số trường hợp người vay có uy tín cao thì có thể không cần tài sản đảm bảo.
Đặc điểm của hình thức nay là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vay vừa dư nợ, vừa dư có. Toàn bộ thu nhập của người vay được thu nhập của người vay đều được ghi vào bên có của tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi vào bên nợ của tài khoản. Khi không có số dư có, khách hàng sử dụng một khoản tín dụng như đã thỏa thuận trong HĐTD với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có trong tài khoản.Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản.
*Phân loại theo cách thức cấp tín dụng
-Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay
-Cho vay gián tiếp:là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức xã hội nhưng ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay.
1.3.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
- Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư và tổng cục thống kê, mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các DNV&N trong những năm gần đây, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng trên một DN. Như vậy, quy mô về vốn của DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô của một DN thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO. Theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở rộng thị trường bán lẻ cho nhà phân phối nước ngoài, do đó với quy mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao các công ty nước ngoài sẽ là đối thủ lớn, đe dọa sự tồn tại của nhiều DNV&N trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam. Một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình ở Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới, kỹ thuật công nghệ làm tăng chi phí tiêu hao 1.5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30-50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, gián thành cao và năng suất thấp. Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Trong bối cảnh mới, với việc trở thành viện của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường ( MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Hiện nay, nguồn vốn của các DNV&N chủ yếu dựa vào VCSH và vốn vay của thị trường phi chính thức. Tuy nhiên, VCSH luôn có một giới hạn nhất định và chủ yếu dùng cho các đầu tư máy móc ban đầu, thiết bị, nhà xưởng, còn khoản vay từ người thân, bạn bè tuy dể dàng nhưng cũng có nhiều bất lợi. Như vậy, các DNV&N luôn trong tình trạng thiếu vốn để thực hiện nhu cầu mua máy móc thiết bị hiện đại, thu hút nhân công và quản lý giỏi… muốn thay đổi tình trang yếu kém náy thì nguồn vốn vay từ các ngân hàng thực sự có vay trò khá quan trọng đối với các DNV&N.
- Trước tiên, ngân hàng có nguồn vốn huy động rất lớn, đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế, trong đó có các DNV&N. Đồng thời, ngân hàng có nhiều phương thức cho vay để các DNV&N lựa chọn sao cho phù hợp với khả năng sản xuất và thanh toán.
- Ngân hàng còn có khả năng tư vấn các hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế qua các dịch vụ hiện đại của ngân hàng như: tín dụng, bảo lãnh… Để hỗ trợ hoạt động của các DN đạt hiệu quả hơn.
- Bên cạnh đó, ngân hàng còn có vai trò thúc đẩy các DN sử dụng vốn hiệu quả hơn thông qua việc hướng dẫn sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đồng thời đôn đốc các chủ DN trả đúng gốc và lãi.
- Chính các điều kiện trên sẽ giúp cho các DNV&N nâng cao khả năng kinh doanh của mình. Vì vậy, ngân hàng không chỉ là tổ chức cung cấp vốn thông thường mà còn là người bạn đồng hành lý tưởng của mỗi DN.
1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N của NHTM
Mở rộng hoạt động tín dụng chịu tác động của nhiều nhân tố. Mỗi nhân tố đều có những ảnh hưởng nhất định nhưng nhìn chung có 3 nhân tố sau: Nhân tố về phía ngân hàng, nhân tố về phía DNV&N và góp phần quan trọng không kém là các nhân tố từ môi trường, các quy chế, chính sách của nhà nước.
* Về phía ngân hàng:
-Chính sách tín dụng :
+Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý là để thống nhất, đảm bảo hiệu quả,an toàn và phát triển bền vững nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh, tạo được vị thế, đạt được hiệu quả tốt trong kinh doanh tín dụng.
+Bên cạnh đó chính sách tín dụng cũng phải đảm bảo tuân thủ pháp luật, quy định của NHTW. Do đó chính sách tín dụng trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng,tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
+Chính vì vậy, để mở rộng hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng chính sách tín dụng hợp lý,đúng đắn ,linh hoạt, phù hợp từng giai đoạn phát triển.Để mở rộng cho vay đối với DNV&N thì ngân hàng phải có những chính sach tín dụng đáp ứng nhu cầu của DNV&N, đồng thời mang lại hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
- Quy trình tín dụng: Là việc quyết định các bước cụ thể được thực hiện trong quá trình vay, từ lúc tiếp nhận hồ sơ đến khi thu hồi nợ và kết thúc hợp đồng. Vì vậy để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay thì ngân hàng phải tạo ra quy trình tín dụng gọn nhẹ nhưng đầy đủ, phù hợp với điều kiện DNV&N. Song song đó, quy trình cũng phải đảm bảo việc thực hiện món vay khả thi tránh việc rủi ro cho ngân hàng
- Tình hình huy động vốn và chính sách lãi suất: nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong mở rộng cho vay của ngân hàng vì ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở đi vay để cho vay. Muốn có nguồn vốn ổn định thì lãi suất đối với tiền gửi ngân hàng và tạo ra lợi nhuận. Đối với mở rộng cho vay DNV&N thì lãi suất cho vay của ngân hàng phải căn cứ đến khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trên cơ sở vẫn đảm bảo có lợi nhuận và phù hợp với DNV&N.
- Phương thức cho vay: hiện nay các NHTM chỉ tập trung cho vay theo một vài phương thức nhất định như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư. Còn các phương thức khác ít được sử dụng. Do vậy các ngân hàng càng mở rộng theo các phương thức cho vay mới để khách hàng có thể lựa chọn được phương thức phù hợp nhất với tình hình sử dụng vốn của mình.
- Công nghệ, trang thiết bị ngân hàng và chiến lược Marketing:
+ Công nghệ, trang thiết bị hiện đại là điều kiện hiện đại là điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho cả khách hàng và ngân hàng. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Trang thiết bị hiện đại cũng là cũng là vũ khí cạnh tranh hiệu quả giữa các ngân hàng.
+ Bên cạnh đó, chiến lược marketing sẽ giới thiệu các thông tin cần thiết như: các sản phẩm mới các thủ tục, các điều kiện vay vốn… đến khách hàng. Từ đó, khách hàng sẽ có thông tin hiểu biết về ngân hàng. Nếu chất lượng thông tin tốt sẽ tạo lòng tin từ phía khách hàng, mà lòng tin của khách hàng là rất quan trọng trong tìm kiếm khách hàng tiềm năng cho ngân hàng.
* Về phía DNV&N:
- Nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất: các nhu cầu đầu tư của DNV&N đặt ra đòi hỏi ngân hàng phải tiếp cận, tìm hiểu và gợi mở nhu cầu đó để đáp ứng.
- Năng lực của các DNV&N: để có thể vay vốn, các DNV&N phải thỏa mãn các điều kiện vay vốn. Khó khăn lớn nhất của DNV&N là về tài sản đảm bảo và có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Điều đó thể hiện trên năng lực thị trường và năng lực sản xuất của DNV&N. Ngoài ra, năng lực tài chính và khả năng quản lý của DN cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng cho vay của ngân hàng
* Về nhân tố môi trường, quy chế chính sách của Nhà Nước.
- Môi trường kinh tế luôn tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của DN. Khi nền kinh tế ổn định, môi trường thuận lợi sẽ tạo nhiều cơ hội cho các DN mở rộng sản xuất, tìm kiếm thị trường. Từ đó, làm tăng nhu cầu phát triển nguồn vốn để mua sắm thiết bị hiện đại, chi phí giao dịch, quản lý trong quá trình mở rộng sản xuất
- Một nhân tố khá quan trọng khác đó là chính sách của Nhà Nước đối với các DNV&N. Nếu thiếu sự quan tâm của Nhà Nước tức là thiếu chính sách hổ trợ cần thiết cho các DNV&N, sẽ gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THỐN BÁCH KHOA
2.1 Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
2.1.1 Quá trình phát triển của chi nhánh
` Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ta,hệ thống NHNo&PTNT đóng một vai trò quan trọng đó là phát triển khu vực nông thôn cho phù hợp với sự hội nhập của đất nước tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Chi nhánh Nông nghiệp Báck Khoa, Chi nhánh cấp 2 trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Láng Hạ, được hình thành trên cơ sở phát triển từ Phòng giao dịch Bách Khoa theo quyết định thành lập số 22/HĐQT-TCCB ngày 20/02/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị - NHNo & PTNT Việt Nam.
Chi nhánh Bách Khoa được thành lập từ 8/2001,được nâng cấp từ phòng giao dich đến chi nhánh cấp 2 loại 4với hai phòng giao dịch trực thuộc: Phòng giao dịch số 04 và Phòng giao dịch số 09. Trụ sở của chi nhánh Bách Khoa chuyển từ 42 Lê Thanh Nghị về 92 Võ Thị Sáu.Ngày đầu thành lập, hoạt động kinh doanh gặp không ít khó khăn, số lượng công nhân viên ít ỏi, điều kiện vật chất thiếu thốn, thị trường mới hoạt động còn nhiều lạ lẫm... Đến nay sau hơn 5 năm hoạt động Chi nhánh NHNo & PTNT Bách Khoa đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong số ít các chi nhánh cấp 2 trên toàn quốc được phép thanh toán quốc tế trực tiếp trên mạng SWIFT, tổng số lượng nhân viên của Chi nhánh NH Nông nghiệp Bách Khoa đã là 32 người và có hai Phòng giao dịch trực thuộc (Phòng Giao dịch Số 04 và Phòng Giao dịch Số 09).
2.1.2 Cơ cầu tổ chức
Cơ cấu và tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Sơ đồ mô hình tổ chức:
Ban Giám đốc
Phòng Kế toán ngân quỹ
Phòng Tín dụng
Phòng Hành chính
Phòng Giao dịch số 4
Phòng Giao dịch số 9
b. Chức năng của các phòng ban:
*Phòng kế toán- Ngân quỹ:
Phòng Kế toán- Ngân quỹ có nhiệm vụ say đây:
- Trực tiếp hách toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam.
- Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi, chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh trên địa bàn trình Ngân hàng Nông nghiệp cấp trên phê duyệt.
- Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo &PTNT trên địa bàn.
- Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu và hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
- Thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nứơc theo luật định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước.
- Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định.
- Quản lý, sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc chi nhánh giao.
*Phòng tín dụng:
Phòng tín dụng có nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tin ding khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dung.
- Phân tích kinh tế theo nghành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa trọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao.
- Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền.
- Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình ngân hàng cấp trên theo cấp phân uỷ quyền.
- Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguốn vốn thuộc Chính phủ, bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước.
- Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, thử nghiệm địa bàn, đồng thời theo dõi đánh giá, sơ kết, tổng kết, đề xuất tổng giám đốc cho phép nhân rộng
- Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất phương hướng khắc phục
- Giúp giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn.
- Tổng hợp, báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao
*Phòng hành chính có nhiệm vụ sau đây:
- Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của các chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được Giám đốc chi nhánh phê duyệt.
- Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh và các NHNo&PTNT trực thuộc trên địa bàn. Trực tiếp làm thư kí tổng hợp cho Giám đốc NHNo&PTNT.
- Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể về giao kết hợp đồng, hoạt động tố tụng, tranh chấp dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính liên quan đến cán bộ, nhân viên và tài sản của chi nhánh.
- Thực thi pháp luật có liên quan đến an ninh, trật tự, phòng cháy, nổ tại cơ quan.
- Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến nhân hàng và văn bản định chế của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Đầu mối giao tiếp với khách đến làm việc, công tác tại chi nhánh.
- Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh; thực hiện công tác hành chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của chi nhánh.
- Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa TSCĐ, mua sắm công cụ lao động, vật rẻ mau hỏng; quản lý nhà tập thể, nhà khách, nhà nghỉ của cơ quan.
- Đầu mối trong việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần và thăm hỏi ốm, đau, hiếu, hỷ cán bộ, nhân viên.
-Thực hiện nhiệm vụ khác được Giám đốc chi nhánh giao.
* Phòng giao dịch.
Phòng giao dịch 04 đặt tại 224 Lò Đúc phòng giao dịch số 09 đặt tại 114 Lê Thanh Nghị trực thuộc chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa, hạch toán kế toán phụ thuộc, có con dấu riêng, thực hiện các nhiệm vụ do Giám đốc chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
2.1.3 Kết quả hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Nguồn vốn:
Nguồn vốn đến 31/12/2007 của chi nhánh đạt 508 tỷ đồng so KH đạt 101,6% tăng so với số liệu theo cân đối 31/12/2006 là 169 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 149.8%.
*Phân theo thời gian huy động:
Tiền gửi không kỳ hạn và dưới 12 tháng 160 tỷ giảm 1 tỷ đồng và = 99% so với 2006.
Tiền gửi > 12 tháng đến <24 tháng là 55 tỷ tăng 1 tỷ đồng và = 102% so với 2006
Tiền gửi >24 tháng là 294 tỷ đồng tăng 169 tỷ đồng và = 236% so với 2006
*Phân theo tính chất nguồn vốn:
Tiền gửi dân cư: 214 tỷ đồng chiếm 42% tổng nguồn tương đối đủ để đảm bảo nguồn vốn ổn định trong thanh toán. Trong đó ngoại tệ quy đổi là 72 tỷ đồng.
Tiền gửi tổ chức kinh tế xã hội: 294 tỷ đồng chiếm 58% tổng nguồn. Trong đó nguồn ngoại tệ quy đổi là 6 tỷ đồng.
Tổng nguồn vốn nội tệ là 430 tỷ đồng chiếm 84,6 %, nguồn ngoại tệ là 78 tỷ đồng chiếm 15,4 %. So với kế hoạch giao( 500 tỷ đồng) đạt 101,6% KH.
Dư nợ : + Năm 2005 Tổng dư nợ đạt 126.801 triệu đồng .
+ Năm 2006 Tổng dư nợ đạt 255.419 triệu đồng
+ Năm 2007 Tổng dư nợ đạt 299.026 triệu đồng
Bảng 1 : Chỉ tiêu về kết quả kinh doanh
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh thu
4.928
17.412
25.211
Chi phí
3.377
14.822
18.425
Lợi nhuân
1.551
2.590
6.786
(Nguồn từ ngân hàng nông nghiệp chi nhánh Bách Khoa)
Qua bảng số liệu trên lợi nhuận của chi nhánh phát triển liên tục qua các năm, năm 2005 là 1.551 triệu đồng, năm 2006 là 2.590 triệu đồng, năm 2007 là 6.786 triệu đồng .
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
* Các hình thức cấp tín dụng đối với các DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Hiện nay, tại chi nhánh đang và đã mở rộng các hình thức cấp tín dụng đối với các DNV&N để có thể thu hút các doanh nghiệp đến với chi nhánh, nâng cao hiệu quả và uy tín của chi nhánh trên địa bàn Hà Nội. Chi nhánh hiện nay có các hình thức cấp tín dụng sau:
-Cho vay:
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng, chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các khoản vay. nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
-Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được cho trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp thời.
thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. nhìn chung hình thức này chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
-Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi hay khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn theo thời vụ như mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay vốn ngân hàng.
Khách hàng khi có nhu cầu vay vốn phải làm thủ tục vay vốn cần thiết, ngân hàng xem xét, phân tích khách hàng để xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. các món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng khoản vay, ngân hàng sẽ kiểm soát nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu nợ trước hạn hoặc chuyển thành nợ quá hạn.
+ Ưu điểm của phương thức cho vay từng lần.
Phương thức này linh hoạt trong quá trình sử dụng vốn của ngân hàng.Khi nào khách hàng có nhu cầu vay vốn NH mới xem xét đáp ứng (mỗi lần vay NH đều định thời gian cho các khoản vay đó ,đến thời hạn trả nợ, người vay phải có trách nhiệm trả nợ đối với NH ).Do đó, phương thức cho vay này NH kiểm tra chặt chẽ được từng món vay ,tính toán được hiệu quả kinh tế của từng đối tượng cho vay, từ đó đảm bảo khả năng an toàn vốn cho ngân hàng . Ngoài ra, ngân hàng có thể lập kế hoạch được nguồn vốn của mình bằng cách thông qua định kỳ hạn nợ cho mỗi món vay, từ đó có kế hoạch cho vay các khoản tiếp theo một cách chính xác để tránh tình trạng ứ đọng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Đây là một phương thức cho vay đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực qunar lý và tổ chức của các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn và cũng rất thích hợp kể cả những trường hợp khi tổ chức kinh tế vốn là những hàng lớn nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất tín nhiệm trong quan hệ giao dịch, hay đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, buộc các ngân hàng thương mai phỉa cho vay từng lần khi có nhu cầu.
+Nhược điểm của phương thức cho vay từng lần.
Thủ tục rườm rà phức tạp gây khó khăn cho người vay.Mỗi lần vay tiền người vay phải làm thủ tục gửi ngân hàng xem xét quyết định cho vay. Việc định kỳ hạn nợ đối với mỗi món vay còn mang tính chủ quan của con người, đặc biệt là khi đối tượng cho vay là các thiết bị, vật tư hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại. Nếu đối tượng vay vốn có vòng quay vốn nhanh thì doanh nghiệp dùng vốn đó vào nhiều mục đích mà Ngân hàng không kiểm soát được, điều này sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau gây ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ và ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng.
-Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian nhất định. Hạn mức tín dụg có thể tính cho cả đầu kỳ hoặc cuối kỳ. đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay - trả nhiều lần, song dư nợ không được vươt quá hạn mức tín dụng. mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Hình thức này thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn trả nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Ưu điểm
Thủ tục đơn giản nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng. Khách hàng chỉ cần lập hồ sơ vay vốn lần đầu, những lần rút vốn sau chỉ cần lập giấy nhận nợ kèm theo chứng từ phù hợp với quy định. Thông qua hình thức cho vay này Ngân hàng có thể kiểm soát được các khoản thu nhập của khách hàng và nắm bắt được tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tương đối chính xác, đặc biệt là khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó ngân hàng có những định hướng đúng đắn cho những lần vay tiếp theo.
+ Nhược điểm:
Trong hợp đồng cho vay HMTD, ngân hàng cùng khách hàng thỏa thuận HMTD, thời hạn của HMTD. Điều này cho thấy, ngân hàng phải luôn duy trì một lượng vốn nhất định để giải ngân cho người vay dẫn đến ngân hàng bị động trong sử dụng vốn. Nếu khoản vay lớn dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng, điều này gây bất lợi cho ngân hàng bởi đó là nguồn vốn chết, không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho khoản vay vốn đó.
Phương thức cho vay này chỉ áp dụng cho vay đối với những khách hàng có đủ tín nhiệm với ngân hàng, phải có nhu cầu vay vốn thường xuyên, khả năng tài chính tốt, trình độ quản lý phải đáp ứng được nhu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh ổn định. Mặt khác trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt… Do đó, các doanh nghiệp khó có đủ khả năng để đáp ứng đủ điều kiện của phương thức cho vay này.
-Cho vay luân chuyển:là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. đầu năm hoặc đầu quý doanh nghiệp làm đơn xin vay luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về phương thức vay, hạn mức tín dụng các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
-Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ.
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng thanh toán cho người bán lẻ số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Hình thức này là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
-Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp bên cạnh đó các ngân hàng còn phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Hình thức này áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. T._. nghiệp, mất ổn định trong một khoảng thời gian không trả được nợ đúng hạn cho chi nhánh thì có thể gia hạn và cho vay mới để khắc phục tình trạng trên, tư vấn cho khách hàng trả nợ được trong thời gian gia hạn.
- Đối với các khoản nợ khó đòi cần phải tiến hành đôn đốc nợ thường xuyên. Nếu tình hình không tiến triển thì phải chủ động, tích cực, nhanh chóng tiến hành bắt nợ, xiết nợ. Đây là biện pháp phải tiến hành kiên quyết, tránh tình trạng nể nang của cán bộ tín dụng đối với khách hàng. Ngân hàng cần tiến hành mua bảo đảm tín dụng để san sẻ rủi ro với các công ty bảo hiểm, tránh tổn thất toàn bộ cho Ngân hàng.
- Chi nhánh cần phải thường xuyên đánh giá chất lượng của một khoản thế chấp vay vốn Ngân hàng bằng chỉ tiêu đảm bảo dư nợ có thế chấp (LTV ) được tính bằng cách:
Tỷ lệ này càng thấp thì mức độ an toàn đối với món nợ cho vay của Ngân hàng càng cao, tỷ lệ này càng thấp là do dư nợ có tài sản thế chấp được khấu trừ hoặc giá trị tài sản thế chấp trên thị trường tăng lên. Chỉ tiêu này nếu được đánh giá thường xuyên sẽ theo dõi được độ an toàn của món vay trong từng thời kỳ biến động của giá cả thị trường. Nếu như giá thị trường của tài sản giảm, chỉ tiêu LTV cao do đó độ an toàn vốn của Ngân hàng giảm đi, nếu giá trị tài sản thế chấp tiếp tục giảm thấp thì Ngân hàng phải có kế hoạch sớm thu hồi nợ gốc, trách việc gia hạn nợ thêm cho khách hàng nếu không sẽ dễ dẫn đến mất vốn. Hiện nay NH sử dụng chỉ tiêu này và áp dụng vào trong thực tế một cách có hiệu qủa.
2.2.6. Công tác đào tạo cán bộ.
Tất cả giải pháp mục tiêu trên sẽ không thể đạt được nếu bản thân mỗi cán bộ Ngân hàng không có trình độ chuyên môn cao, không có lòng yêu nghề và đức tính trung thực thẳng thắn trong công việc đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định đến hiệu quả công việc vì vậy tiếp tục nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong công tác tín dụng nhằm sử lý công việc được nhanh hơn, đảm bảo hiệu quả cao trong công tác tín dụng..
Để không ngừng nâng cao chất lượng công tác tín dụng, Ngân hàng cần phải quan tâm trước tiên tới trinh độ CBTD ở cơ sở mình bằng cách thực hiện tiêu chuẩn hóa CBTD và quy định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn, chế độ thưởng phạt đối với CBTD. Phải triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn hàng năm cho tất cả CBTD trong cơ quan, bố trí sử dụng hợp lý và hiệu quả cán bộ, tùy theo trình độ chuyên môn của từng người nhằm phát huy tối đa sở trường của cán bộ tín dụng đồng thời phải kết hợp với công tác quy hoạch đào tạo lâu dài theo chiến lược của NHNo việt nam.
Bên cạnh việc tăng cường trình độ chuyên môn cho cán bộ tín dụng, ngân hàng cần hết sức coi trọng tới việc bồi dưỡng đạo đức , phẩm chất cho cán bộ tín dụng ở cơ sở, bởi trong công tác tín dụng, đạo đức luôn được coi là một phẩm chất quan trọng nhất.
CBTD thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững kịp thời những biến động về phía khách hàng, trên cơ sở đó giúp Ngân hàng chủ động trong việc quản lý và điều tiết các hoạt động tín dụng ở đơn vị mình.
Trong kế hoạch đào tạo cán bộ phải chú ý tới yếu tố hiệu quả và chất lượng đào tạo, đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng cán bộ mang lại hiệu quả thiết thực tránh đào tạo tràn lan, chương trình đào tạo phải phù hợp với công việc và nhiệm vụ được giao.
2.2.7. Quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân hàng đối với các DNV&N.
Hiện nay, những hiểu biết về hoạt động tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường của các tâng lớp dân cư vẫn còn hạn chế. Do đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp hộ tư nhân cá thể nắm vưỡng được các chủ trương chính sách đổi mới của Ngân hàng. Mặt khác quảng cáo làm cho khách hàng hiểu được cơ chế hoạt động, nghiệp vụ của Ngân hàng để có sự thông cảm trong quan hệ giữa hai bên, thấy được quyền lợi cũng như trách nhiệm của họ đối với Ngân hàng. Trong thời gian tới chi nhánh nên tiến hành một số biện pháp quảng cáo sau:
- Quảng cáo qua quan hệ giao dịch trực tiếp với khách hàng trong quá trình giải quyết nghiệp vụ cho vay. Đây là hình thức quảng cáo đơn giản và ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả tương đối cao.
- Quảng cáo qua thông tin đại chúng như đài, báo, vô tuyến truyền hình…các hình thức này tỏ ra rất có hiệu quả trong việc tuyên truyền các thể thức giao dịch, các đợt phát hành kỳ phiếu, áp dụng các hình thức cho vay mới.. Đây là một công cụ cạnh tranh tương đối mạnh của Ngân hàng trên thế giới nhằm khuếch trương uy tín cũng như sản phẩm của mình trên thị trường, tuy nhiên ở Việt Nam hình thức này còn rất hạn chế, chủ yếu được tiến hành ở một số Ngân hàng nước ngoài.
- Tiến hành đổi mới chính sách khách hàng: Việc đổi mới này thu hút hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của Ngân hàng trên địa bàn cạnh tranh ác liệt hiện nay. Tạo mọi điều kiện để phục khách hàng nhanh chóng, bằng công nghệ hiện đại, các tiện ích nhằm giúp các khách hàng có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, đem lại hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Ngân hàng phải có những chính sách ưu đãi về vật chất đối với các DNV&N, phù hợp với chiến lược kinh doanh từng thời kỳ. Những khách hàng có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì được giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ.
2.3. Kiến Nghị
Xuất phát từ những hạn chế tồn tại trong công tác cho vay đối với các DNV&N, không chỉ do chủ quan của Ngân hàng mà còn cả bao gồm môi trường kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội trong khu vực và cả những chính sách chế độ của nhà nước, của các ban ngành… nên để mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với các DNV&N, góp phần thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm đòi hỏi sự nỗ lực của chính Ngân hàng và sự phối hợp giúp đỡ của các cấp, các ngành. Từ thực trạng những khó khăn vướng mắc trong công tác tín dụng đối với các DNV&N của chi nhánh NHNOPTNT chi nhánh Bách Khoa nói riêng và hệ thống Ngân hàng nói chung, em xin có một số kiến nghị sau:
2.3.1.Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của nhà nước:
2.3.1.1. Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình:
- Trong thời gian qua nhà nước đã có những chủ chương chính sách nhằm phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước thông qua việc khuyến khích phát triển các DNV&N. Tuy nhiên, cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên (chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai… ) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng Ngân hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng thương mại còn đang phải khắc phục. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành các chính sách vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng, chẳng hạn như: Sớm ban hành các chính sách cụ thể liên quan đến việc cho thuê đất hoặc có thể giao đất trong thời gian dài, ổn định đối với DNV&N để các doanh nghiệp này yên tâm vào sản xuất kinh doanh, tạo môi trường hoạt động tín dụng lành mạnh, giúp Ngân hàng yên tâm đầu tư vốn hỗ trợ các DNV&N phát triển. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, tư vấn về cơ cấu ngành nghề… cho những DNV&N hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực ít sinh lời nhưng giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động.
- Tạo lập pháp chế bảo đảm tín dụng cho các Ngân hàng thương mại, thành lập công ty chuyên trách về bảo hiểm tín dụng để bù đắp những tổn thất do không thu nợ được vì những nguyên nhân khách quan như bị thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa…
- Trước mắt, trong khi chưa có cơ quan bảo hiểm tín dụng thì việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nên lấy căn cứ vào mức dư nợ tín dụng. Dư nợ tín dụng được phân loại cụ thể, trên cơ sở đó xây dựng tỷ lệ trích rủi ro cho phù hợp để phản ánh đúng tính chất của phòng ngừa rủi ro. Việc trích quỹ nên tiến hành vào cuối các quý, trên cơ sở dư nợ tín dụng phát sinh trong quý, và vào sự đánh giá thực trạng dư nợ tín dụng.
- Để các Ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay đối với các DNV&N, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không nên hình sự hóa hoạt động Ngân hàng, những cá nhân cán bộ Ngân hàng tiêu cực tham nhũng cần phải xử lí thích đáng, nghiêm minh kể cả bằng pháp luật. Nhưng đối với những rủi ro trong kinh doanh thì các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ, xử lý tranh chấp theo quy định.
2.3.1.2. Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với các DNV&N:
- Cần gắn trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy mới có sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả từ phía các cơ quan hữu quan tới toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và có cơ sở pháp lý cho Ngân hàng có các biện pháp phối hợp khi cần thiết.
Quy mô, nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xác định trong giấy phép phải phù hợp với qui mô nguồn vốn và năng lực sản xuất kinh doanh cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp. Bên cạnh đó đối với các hành vi vi phạm pháp luật như: Buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, lừa đảo… cần thẳng thắn nghiêm trị, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy kinh doanh, giấy phép thành lập để kiên quyết loại ra khỏi thị trường những phần tử kinh doanh không lành mạnh, gây lũng đoạn thị trường, đó cũng là trong những biện pháp ngăn chặn rủi ro cho tín dụng Ngân hàng, đồng thời Ngân hàng có điều kiện mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng.
Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các DNV&N:
Một thực trạng rất phổ biến trong những năm qua là tình trạng không tuân thủ một cách nghiêm túc pháp lệnh kế toán thống kê của các DNV&N. Những doanh nghiệp này thường có từ hai đến ba quyển sổ ghi số liệu tình hình sản xuất kinh doanh rất trái ngược nhau. Đối với cơ quan thuế thì họ đưa ra những số liệu chứng minh rằng doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, để tránh phải nộp thuế cho Nhà Nước, còn khi vay vốn Ngân hàng thì hoàn toàn ngược lại, những số liệu của họ chỉ ra rằng doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, tình hình sản xuất kinh doanh ổn định họ tìm đủ mọi cách để vay được vốn của NH. Từ đó cho thấy NH có thể đánh giá một cách chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nếu như không có sự hỗ trợ về phía nhà nước. Ở nước ta hiện nay có một số công ty kiểm toán đang hoạt động nhưng mới chỉ dừng lại ở một số thành phố lớn như thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và mới chỉ kiểm toán được một số doanh nghiệp Nhà Nước lớn chứ chưa đáp ứng được tình hình thực tế hiện nay. Vì vậy trong thời gian tới Nhà Nước cần có các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục buộc doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ về kế toán và thống kê do bộ tài chính quy định.
2.3.1.3. Chấn chỉnh hoạt động công chứng:
Thủ tục công chứng hiện nay đang là một nhân tố chính kìm hãm việc vay vốn NH của các thành phần kinh tế nói chung và các DNV&N Việt Nam nói riêng. Tình trạng quá tải ở các thành phố củ các cơ quan công chứng Nhà Nước, việc thu lệ phí công chứng (0,2% trên tông số tiền vay) quá lớn, đây là những nguyên nhân gây phiền hà, mất thời gian và tiền của khách hàng. Vì vậy, trong thời gian tới Nhà Nước phái có chính sách cơ cấu lại bộ máy tổ chức của cơ quan công chứng Nhà Nước sao cho vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, đồng thời vừa tiến hành được nhanh gọn và đạt hiệu quả cao các hoạt động của mình và giảm lệ phí công chứng chỉ nên ở mức 0,05% trên tổng số tiền vay là hợp lí nhằm giúp cho người vay không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và giảm được chi phí trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.3.1.4. Cần chấn chỉnh việc cấp giấy phép kinh doanh:
Hiện nay việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân vẫn diễn ra tự phát chưa có tư vấn và hỗ trợ từ các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền. Do đó, trước khi thành lập doanh nghiệp Nhà Nước cần có các tổ chức tư vấn về cơ cấu ngành nghề, mô hình doanh nghiệp để chủ doanh nghiệp chọn loại hình doanh nghiệp và cơ cấu ngành nghề cho phù hợp. Đông thời nhà nước sớm ban hành những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh phù hợp với khả năng đầu tư củ chủ đầu tư. Việc cấp giấy phép một cách ồ ạt đã dẫn đến tình trạng Nhà Nước không quản lý được các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy việc cấp giấy phép thành lập và đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp phải được kiểm soát một cách chặt chẽ và phải căn cứ vào khả năng tài chính củ chủ đầu tư cũng như những kiến thức tối thiểu cần phải trong lĩnh vực kinh doanh được chọn.
2.3.2. Những kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước:
2.3.2.1. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng:
Ngày 30/09/1998 Thống đốc NH Nhà Nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tuy nhiên, có một số quy định trong quy chế, trong giai đoạn trước mắt là chưa phù hợp cần phải điều chỉnh để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng cụ thể:
-Theo quy chế cho vay đối với khách hàng thì một khách hàng được vay nhiều tổ chức tín dụng hay nhiều tổ chức tín dụng cũng cho vay một khách hàng. Nhờ cơ chế cho phép mà các khách hàng vay vốn cơ quyền lựa chon tổ chức tín dụng phù hợp để quan hệ giao dịch, quan hệ vay vốn để thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh. Sự cạnh tranh của các NHTM, đó là việc đổi mới phong cách làm việc, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư cho vay, tăng cường mở rộng các dịch vụ NH nhằm thu hút khách hàng, nhờ đó mà hệ thống NH đã có những bước phát triển, khẳng định là ngành tiên phong trong cơ chế thị trường. Nhưng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, do điều kiện thông tin chưa phát triển, việc cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó, khi được NH cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng số tiền vay này nhằm mục đích mua nguyên vật liệu, thuê nhân công … có tính chất ngắn hạn phục vụ cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh, kết thúc sẽ thu hồi vốn trả lại cho NH. Đối với NH đây lại là tài sản mang tính ngắn hạn. Đặc điểm của nó là không lớn, rất nhiều món vay khó quản lý, việc thẩm định cho vay phức tạp. Thời gian cho vay lại ngắn nên dễ bị chiếm dụng hoặc sử dụng vốn không đúng, đây cũng chính là khâu cho vay có nhiều sở hở gây nên cao đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay. Chính vì vậy, hiện nay cần khống chế một doanh nghiệp chỉ được vay vốn lưu động ngắn hạn tại một ngân hàng trên địa bàn mà doanh nghiệp đóng trụ sở chính.
2.3.2.2.Đối với đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng:
Ngày 29 tháng 12 năm 1999,Chính phủ đã ban hành nghị định 178/1999/NĐ-CP quy chế về đảm bảo tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo quy định của luật tín dụng. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cở sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay.
Theo quy định của nghị định này, tổ chức tín dụng có quyền chủ động sử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ. Cụ thể là khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng thì tài sản đảm bảo tiền vay được xử lý theo phương thức đã thỏa thuận trên hợp đồng. Trường hợp các bên không sử lý được tài sản bảo đảm tiền vay theo phương thức đã thỏa thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ và ủy quyền cho bên thứ ba sử lý tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không sử lý được do không thỏa thuận được giá bán thì tổ chức tín dụng có quyền định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ sử lý tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ đi các chi phí sử lý thì tổ chức thu theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác.
Tuy nhiên, trong thực tế việc NH lấy được tài sản thế chấp thu hồi nợ đã gặp nhiều trở ngại như: bên đi vay không tự nguyện bàn giao tài sản cho Ngân hàng, thân nhân bên thế chấp tài sản thường đe dọa cán bộ NH trong khi làm nhiệm vụ phát mại tài sản… do vậy, những quy định trên đây của nghị định 178 phải được NH Nhà Nước Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan như : Bộ Tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính… sớm có thông tư hướng dẫn thì nghị định bảo đảm tiền vay mới có thể thực hiện trên thực tế một cách đồng bộ và có hiệu quả trong cuộc sống.
2.3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng:
NHTM khi cho bất cứ một khách hàng nào vay thì đều cần phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng đúng hiệu quả và đúng mục đích các nguồn vốn vay. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro, tổn thất cho NH. Vì vậy hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác nay. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh NH, ban lãnh đạo NH Nhà Nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng ( gọi tắt là CIC) của ngành NH.
Hệ thông CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của NHTM và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin và xử lý. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến động của CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho NHTM và tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ pháp lệnh và kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng chưa tuân thủ đúng các quy định về các thông tin, xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền lợi riêng cho mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp NHTM và tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các NHTM Việt Nam chiếm tỷ lệ cao, vượt mức cho phép. NHNN cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của các NHTM và tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các NHTM và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
2.3.2.4. Quy định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt:
Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng là một trong những chức năng quan trọng của các NH, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ khác, các NH phải luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ thanh toán để thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng, phát triển.
Khi công nghệ thanh toán phát triển, đủ điều kiện cung cấp các tiện ích cà lợi ích cho khách hàng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, NHNN cần quy định không phát triển vay bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán mà không phải giải ngân tiềm cho vay bằng các phương thức chuyển khoản để thanh toán theo tiến độ thực hiện hợp đồng giữa bên vay tiền và bên cung ứng hàng hóa hay dịch vụ . Việc làm này chính là cái chìa khóa bảo vệ an toàn NH và các bên liên quan, hướng tiền vây được sử dụng đúng mục đích.
2.3.3. Kiến nghị đối với NHNO Việt Nam:
2.3.3.1. Cải cách thủ tục vay vốn:
Để thu được lợi nhuận cao, NH phải mở rộng tín dụng của mình đối với các thành phần kinh tế. Để làm được điều đó trước tiên NH phải tiến hành cải cách thủ tục vay vốn. Hiện nay rất nhiều khách hàng là các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng để vay được vốn của NH thì cần có quá nhiều điều kiện liên quan đến nhiều loại giấy tờ và tốn rất nhiều thời gian. Mặc dù nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được hơn 10 năm nhưng những lề lối làm việc của các cơ quan hành chính Nhà nước vẫn còn mang nặng những nét đặc trưng của thời kỳ bao cấp, vẫn còn tình trạng gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, vẫn còn cảnh phải xếp hàng để chờ được công chứng giấy tờ mà đôi khi không thật sự cần thiết dẫn đến tình trạng quá tải, có hiện tượng tiêu cực, mất lòng tin vào Nhà nước. Vì vậy, để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận lợi nhanh chóng đề nghị NHNo Việt Nam cho phép bỏ những thủ tục giấy tờ thực sự không cần thiết như: không yêu cầu khách hàng phải có chứng thực của công chứng “sao y bản chính” các quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, báo cáo tình hình tài chính…khi đến vay vốn khách hàng xuất trình bản chính để Ngân hàng kiểm tra xem xét sau đó trả lại bản chính cho khách hàng, Ngân hàng chỉ cần lưu hồ sơ tín dụng là bảo sao không cần có chứng thực của công chứng, chỉ yêu cầu khách hàng công chứng hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo cho món vay có giá trị trên 50 triệu đồng, còn những hợp đồng cầm cố tài sản là giấy tờ có giá hoặc hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm cho món vay có giá trị dưới 50 triệu đồng, không nhất thiết phải có chứng thực của cơ quan công chứng.
Đối với phương án kinh doanh và giấy đề nghị vay vốn không đòi hỏi khách hàng phải có xác nhận của chính quyền địa phương vì đối với khách hàng là thể nhân thì họ chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và phương án hoặc dự án kinh doanh là đủ điều kiện để xem xét cho vay. Về điều kiện vay vốn, khách hàng chỉ cần có những điều kiện cơ bản sau:
- Có giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh hợp pháp.
- Tình hình tài chính lành mạnh, có dự án hoặc phương án kinh doanh khả thi.
- Có tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của pháp luật.
Để chủ động trong cho vay vốn, hạn chế những sơ suất không đáng có NHNoViệt Nam cần xây dựng và quy định trong hợp đồng mẫu vừa phải đảm bảo đúng các quy định của pháp luật vừa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng và tình hình cụ thể từng địa phương nhưng lại phải vừa chặt chẽ, dễ hiểu và ngắn gọn.
Đặc biệt đối với cho vay cầm cố và chiết khấu chứng từ có giá, NHNoViệt Nam phải có hướng dẫn riêng, cụ thể với thủ tục gọn nhẹ, giải quyết cho vay nhanh chóng để thu hút khách hàng đến vay vốn, vì những món vay này tài sản bảo nợ vay có tính lỏng cao, đảm bảo an toàn vốn vay.
2.3.3.2 Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng:
Cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ hơn nữa công tác kiểm soát trong nội bộ Ngân hàng nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác tín dụng. Nội dung kiểm tra hoạt động tín dụng bao gồm: Kiểm tra hồ sơ cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ, mức tín dụng được cấp, tài sản đảm bảo nợ vay…
Ngoài việc kiểm tra cần phải đi vào xem xét về mục đích sử dụng tiền vay, khả năng trả nợ trực tiếp của một số khách hàng vay vốn để có ý kiến với lãnh đạo và cán bộ tín dụng liên quan.
Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng, song ở đây Ngân hàng chỉ nên tập trung vào một số những vấn đề mà hay có những sai sót trong thực hiện. Đây cũng là nội dung mà Ngân hàng quan tâm trong công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích tín dụng và phân loại khách hàng nhằm tìm ra những biện pháp cho vay, đầu tư và quản lý vốn cho vay có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng hiện hành qua đó rút ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi để đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả. Kiến nghị tập trung thu hồi dứt điểm các loại nợ khê đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn; tiến hành xử lý các rủi ro phát sinh từ trước đến nay theo chế độ hiện hành.
Mỗi lần Ngân hàng tiến hành kiểm tra về toàn bộ hoặc một phần công tác tín dụng phải có biên bản ghi rõ những việc đã kiểm tra và các ưu điểm, khuyết điểm của đơn vị. Giám đốc chi nhánh phải chịu mọi trách nhiệm xử lý những kiến nghị của kiểm soát và báo cáo kết quả với NHNoViệt Nam.
2.3.3.3 Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng:
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với các thành phần kinh tế, NHNoViệt Nam cần quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt, rõ ràng nghiêm minh. Trong trương hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với Ngân hàng, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm, xử phạt hành chính, tùy từng trường hợp cụ thể mà Ngân hàng quy mức trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ Ngân hàng làm mất vốn như: Đối với cán bộ tín dụng có nợ khó đòi thì đình chỉ cho vay mới để thu nợ, không được tiền thưởng, chuyển công tác khác, tìm nguyên nhân để quy trách nhiệm đền bù vật chất… tuy nhiên phải được miễn trừ trách nhiệm đối với những khoản nợ quá hạn phát sinh do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch họa và do thay đổi cơ chế chính sách… Không nên đề nghị quy trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, sẽ dẫn đến nhiều cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm nặng không dám giải quyết cho vay, trở nên khắt khe trong việc xét duyệt cho vay, dẫn đến hoạt động tín dụng bị co lại.
Đưa ra quy chế khoán định mức cho vay hàng năm đối với cán bộ tín dụng. Dựa vào kết quả kinh doanh của các năm và chiến lược thị trường, các nhà lãnh đạo phân bổ định mức tín dụng cho cán bộ phụ trách từng khu vực. Sự phân bổ nay nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng tích cực hơn, tự tìm đến các đơn vị, chủ thể có yêu cầu về vốn để cho vay, giúp doanh nghiệp phát triển. Việc khoán định mức cho vay nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm cho cán bộ hoạt động tín dụng. Tin rằng nết làm được vấn đề trên chúng ta sẽ tìm ra những cán bộ tín dụng có đức có tài và đó là điều lý tưởng mà các nhà lãnh đạo Ngân hàng mong đợi. Đồng thời khi cán bộ tín dụng có thành tích thì phải khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh thần một cách kịp thời, như thưởng tác nghiệp, nâng lương trước thời hạn, tặng giấy khen…
KÕt luËn
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng hiện nay. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp này là chiến lược của các NHTM trong đó có NHNO&PTNT Bách Khoa. Vì vậy việc tìm ra các giải pháp nhằm m? r?ng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NH là một vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay. Đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của các cán bộ công nhân viên trong NH, cũng như sự nỗ lực đồng bộ của các cấp, các ngành có liên quan cũng như của chính các doanh nghiệp.
Mặc dù với sự cố gắng nỗ lực của bản thân và được sự hướng dẫn tận tình của THS. Lê Hương Lan cùng các cô, chú cán bộ tại NHNO&PTNT Bách Khoa. Song do còn nhiều hạn chế về năng lực, kiến thức của bản thân và do thời gian có hạn nên chuyên đề thực tập không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được các thầy cô cùng toàn thể các cô chú cán bộ tại Chi nhánh đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo
TS Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại – NXB Thống Kê 2006
Giáo trình tín dụng ngân hàng – Học viện Ngân hàng – NXB Thống kê HN 2001.
TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ, NXB Thống kê.
Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại
Feredric S Miskin, 1994, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật.
PGS.TS. Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế & chính sách hỗ trợ phát triển DNN&V ở Việt Nam 2005 – NXB chính trị Quốc gia
Báo cáo thường niên 2005, 2006, 2007.
Báo cáo sao kê tín dụng ngân hàng
Tạp chí ngân hàng
Tạp chí kinh tế và dự báo
Websid NHTMCPQĐ:
Webside NHNNVN:
Webside Báo điện tử thời báo kinh tế:
Webside:
Các văn bản luật liên quan đến hoạt động tín dụng
Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QH X
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng QĐ/1627/2001/QĐ-NHNN và QĐ/127/QĐ-NHNN
Các văn bản liên quan đến DNN&V
Nghị định 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNN&V.
Thông tư Liên bộ số 21/ LĐTT ngày 17/6/1993 của Bộ lao động thương binh và xã hội và Bộ Tài chính
QĐ 193/2001/QĐ-TTG về ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNN&V
Nghị định số 02/2000/NĐ - CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
NHẬN XÉT THỰC TẬP
Sinh viên: NGUYỄN HÙNG SƠN
Lớp: Ngân hàng 46Q
Sinh viên trường: ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Thực tập tại NHNo Láng Hạ, chi nhánh Bách Khoa viết về đề tài “ giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa”.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh Bách Khoa, sinh viên Nguyễn Hùng Sơn đã chấp hành đúng nội quy, quy chế của Ngân hàng, có ý thức chịu khó học hỏi, nhiệt tình tham gia các công việc của chi nhánh.
Với đề tài: “giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa”. Bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với DNV&N của NHTM.
Phần 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Phần 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa.
Bố cục bài viết chặt chẽ, số liệu phong phú, chuẩn xác, nêu lên được một số kiến nghị về mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa, thể hiện sinh viên Nguyễn Hùng Sơn rất tích cực trong việc tìm hiểu những hoạt động Ngân hàng.
Ngày….tháng….năm2008
Trưởng đơn vị
(Ký và đóng dấu)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20391.doc