chương I
vai trò tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1. Tín dụng ngân hàng
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng kèm theo thời gian hoàn trả lại cho ngân hàng toàn bộ gốc và một phần lãi do hai bên thoả thuận.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt đ
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng chủ yếu là nợ, có và trung gian, có nghĩa là ngân hàng thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận. Thông thường lượng vốn của ngân hàng rất nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, do đó ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Nguồn vốn mà ngân hàng có và huy động được là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phong phú do đó tín dụng ngân hàng cũng phải có những hình phong phú đa dạng. Theo điều 49 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới các hình thức sau:
Hình thức cho vay
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống, cho vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Hình thức chiết khấu
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông theo quy định của Pháp luật. Người giữ các giấy tờ có gía này nếu cần tiền mặt khi các giấy tờ có giá chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng thương mại để xin chiết khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền lợi và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ có giá đó cho tổ chức tín dụng “( Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng ).
Như vậy về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng chuyển tiền cho người chủ sở hữu các giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục giống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngâ hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu, nếu được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời gian đến ngắn hạn từ 3 – 6 tháng. Ưu điểm đặc biệt của hình thức tín dụng chiết khấu là nếu trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có giá đó đến Ngân hàng Trung ương xin tái triết khấu.
Hình thức nhận trả
Là hình thức tín dụng mà ngân hàng nhận trả nợ thay cho người phát hành kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kỳ phiếu đi chiết khấu. Để có được sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phát hành kỳ phiếu sẽ phải trả cho ngân hàng một khoản hoa hồng. Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và ngân hàng có quy định người phát hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm nhất trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Ngân hàng phải thẩm định khả năng thanh toán của doanh nghiệp trước khi ngân hàng đảm bảo cho doanh nghiệp đó phát hành kỳ phiếu.
Tín dụng trả nhiều lần
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi lần trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù hựp với đặc điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần. Tín dụng trả nhiều lần bao gồm bao gồm cácloại tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho mỗi lần trả nợ. Tín dụng trả nhiều lần có thị trường rộng lớn nhưng cần có điều kiện đảm baỏ để thực hiện loại hình cho vay này.
Hình thức bảo lãnh
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng ( người được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ.
Có 2 loại bảo lãnh:
Bảo lãnh bằng thư: ngân hàng phát hành một thư bảo lãnh để khách hàng có thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu ... Ttrong thư bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ trả thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền, nộp thuế...
Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: ngân hàng có thể dùng cách ký chấp nhận vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng hay do một ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền cuả một ngân hàng khác còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều ngân hàng.
Hình thức cầm cố bất động sản.
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như nhà cửa, đất đai, xưởng máy.... Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay, do đó người cho vay là người sở hữu trực tiếp còn gnười vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Vị trí của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu ( không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài ) bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. Trong những năm gần đây, do định hướng của nhà nước là phát triển nhiều thành phần kinh tế, vì vậy ngoài thành phần kinh tế nhà nước còn có thành phần kinh tế khác, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia vào công cuộc đổi mới. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những vai trò tích cực đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay
Thứ nhất: Trình độ của lực lượng sản của nước ta còn thấp, trong khi đó tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn nhưng khả năng khai thác còn hạn chế, sự độc chiếm của hình thức sở hữu nhà nước không cho phép khai thác hết những tiềm năng lớn của đất nước. Một lượng vốn khá ln vẫn còn nằm trong nhân dân, do đó chỉ có phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới có khả năng khai thác được chúng.
Thứ hai: Với tình hình nước ta hiện nay, cần phải mở cửa hoà nhập với khu vực và thế giới thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ là cầu nối quan trọng cho sự hoà nhập đó. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể thu hút vốn, công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam.
Thứ ba: Trong quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước, đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hay không có tầm quan trọng sống còn. Chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ giả quyết vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư: các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng tập trung vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như ngành công nghệ thông tin... cũng như có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp.
Thứ năm: Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt, vừa là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp, hoàn thiện, tiêu thụ sản phẩm và cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp quốc doanh. Sự kết hợp sản xuất - tiêu thụ giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn của xã hội, giúp rút ngắn thời gian sản xuất tiêu thụ sản phẩm và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và hoàn thiện hơn.
Thứ sáu: các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gắn liền với chủ sở hữu nên trong quyết định đầu tư có sự cân nhắc cẩn thận cũng như có sự ổn định nội bộ, ít xảy ra tình trạng tham nhũng, góp phần thúc đẩy quá trình lành mạnh hoá trong hoạt động của các doanh nghiệp.
Thứ bảy: doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước và được dùng vào việc đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp hỗ trợ các thành phần kinh tế yếu kém do đó sự tồn tại của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập đồng thời đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Từ sau khi Quốc hội thông Quan luật Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ( 12/1990 ) khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự phát triển nhanh chóng và đạt đựoc một số hiệu quả nhất định, phát huy tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm, tạo sự năng động trong kinh doanh và thỏa mãn một phần nhu cầu của thị trường. Một kết quả nổi bật là số lượng các các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhậnlao động khá đông, giải quyết tích cực vấn đề thất nghiệp, tạo ra công ăn việc làm cho toàn xã hội, góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội trong những năm qua. Đạt được kết quả đó là do những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế, chính sách của nhà nước luôn luôn khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hơn nữa lực lượng lao động Việt nam lại dồi dào, có tay nghề, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu về lao động cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng có những khó khăn mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đối đầu, đó là việc ra đời trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, trình độ quản lý còn chưa cao, thậm chí là yếu kém, thị trường nhỏ hẹp. Nhưng khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Một số doanh nghiệp do thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến kém khả năng cạnh tranh. Tình trạng trốn thuế, lậu thuế cũng xuất phát từ vấn đề thiếu vốn. Vậy vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang là vấn đề hết sức quan tâm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các nguồn vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Nguồn vốn của mỗi doanh nghiệp không giống nhau do quá trình huy động và sử dụng vốn phụ thuộc vaò một loạt các nhân tố khác nhau như: loại hình sở hữu doanh nghiệp, ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh, quy mô và cơ cáu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung vốn của các doanh nghiệp có thể huy động được bắt nguồn từ hai nguồn chính sau:
Vốn tự có của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép thành lập và hoạt động thì chủ doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn nhất định. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mức vốn được quy định cho từng ngành nghề kinh doanh gọi là vốn pháp định. Đây là mức vốn tối thiểu phải có để được thành lập và hoạt động theo theo quy định của Nhà nước. Tuy nhiên hiện nay khái niệm “ vốn pháp định “ đã được thay thế bằng vốn điều lệ, ngoại trừ một số ngành kinh doanh đặc biệt như vàng bạc, xây dựng....
Trong thực tế vốn tự có của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp không còn đủ khả năng duy trì hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với Công ty cổ phần, vốn đóng góp ban đầu của các cổ đông là nền tảng và là yếu tố quyết định để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Số vốn mà mỗi công ty cổ phần huy động được khi thành lập công ty để đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền gọi là vốn điều lệ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi làm ăn có lãi các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Một bộ phận khác của vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn từ lợi nhuận để lại. Một số doanh nghiệp coi trọng việc tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra trong quá trình hoạt động khi cần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, lắp đặt thêm hoặc đổi mới thiết bị công nghệ.... công ty cũng có thể tăng vốn thông qua việc huy động từ các cổ đông, song cũng có những trường hợp công ty tăng vốn bằng cách chuyển một phần quỹ dự trữ tài chính thành vốn điều lệ của công ty. Các hình thức tăng vốn này được thực hiện theo những quy định riêng biệt và chặt chẽ của Pháp luật Nhà nước và các quy định của công ty.
Để thành lập doanh nghiệp, vốn tự có được coilà tạm đủ, nhưng để duy trì và phát triển thì ngoài nguồn vốn tự có, doanh nghiệp cần phải đi vay.
Nguồn vốn đi vay
Doanh nghiệp có thể vay vốn từ các đối tác thông qua hình thức tín dụng thương mại hay vay từ ngân hàng thông qua hình thức tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại
Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác thông qua quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm, trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt, tạo ra khả năng mở rộng quan hệ hợp tác làm ăn một cách lâu bền.
Tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn tức thời cho các doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày cho tới vài năm với lượng vốn theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn, trung và dài hạn theo mức lãi suất phải trả khác nhau. Do ở Việt nam thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng ngân hàng có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp, đồng thời đối với nền kinh tế nói chung.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì điều đó không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn làm tăng chi phí vốn. Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư các doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn vay vì nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặc khác bằng cách vay vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn lãi phải trả thì thì lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp gia tăng đáng kể. Hơn nữa lãi vay được tính trong chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập, từ đó công ty sẽ được hưởng một phần lợi từ thuế. Tuy nhiên nếu tỷ lệ nợ quá cao doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro của các luồng tiền vào công ty. Nhưng tỷ lệ nợ cao thường dẫn đến mức lãi suất mong đợi cao hơn. Qua đó ta thấy rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vay từngan hàng hay vay vốn tín dụng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng với đặc điểm là buộc người vay phải trả lãi và gốc trong một thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vón để sao cho khi hết hạn thời hạn vay có đủ vốn và lãi để trả ngân hàng và một phần lợi nhuận cho mình. Với điều kiện ràng buộc về lãi xuất, thời gian và mục đích khi vay, người vay hiểu rõ trách nhiệm của họ trong việc sử dụng vốn vay và phải thúc đẩy sản xuất kinh doanh của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Như vậy tín dụng ngân hàng góp pần thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ngân hàng có thể cung cấp vốn cần thiết cho các doanh nghiệp để đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường, nâng cao trình độ của nhân viên... do đó tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Mối quan hệ rộng rãi của ngân hàng đối với các đơn vị kinh tế trong hầu hết các nghành, các lĩnh vực thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng đã tạo ra cho ngân hàng có được một hệ thống thông tin phong phú. Từ đó có thể cung cấp các thông tin về thụ trường và tư vấn cho khách hàng về kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Tuy nhiên không phải ngân hàng cung cấp được vốn cho tất cả các khách hàng mà ngân hàng tập trung vào những khách hàng làm ăn có hiệu quả để trách rủi ro cho ngân hàng. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng luôn luôn cố gằng làm ăn có hiệu quả.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra làm hai nhóm nhân tố. Đó là các nhân tố khách quan và chủ quan.
Các nhân tố mang tính khách quan
Nhân tố kinh tế
Nền kinh tế là một hệ thông bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng, ràng buộ lẫn nhau. Bất kỳ sự biến động của một hoạt động kinh tế nào đó cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hơn nữa, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các ngân hàng. Đặc biệt hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nhất đối với những biến động của nền kinh tế, do đó sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động hấp dẫn nhà đầu tư thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên, do vậy tín dụng ngân hàng có cơ hội phát triển. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong tình trạng đình trệ, các doanh nghiệp có khuynh hướng co cụm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có sự hỗ trợ của nhà nước khi phải môi trường kinh doanh bất ổn định, không kế hoạch hoá được hạot động sản xuất kinh doanh của mình thì xác xuất thất bại là rất lớn. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hạot động tín dụng của ngân hàng.
Nhân tố xã hội
Các nhân tố xã hội: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí.... ảnh hưởng trực tiếp tới các tác nhân chính tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng đó là ngân hàng và khách hàng. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa vào cơ sở tín nhiệm lẫn nhau giữa khách hàng và ngân hàng, vì vậy uy tín là tiền đề quan trọng trong quan hệ này. Đối với khách hàng nào hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín với ngân hàng thì đựoc ưu đãi trong quan hệ tín dụng. Nếu ngân hàng nào hoạt động an toàn, hiệu quả, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì được khách hàng lựa chọn, tin cậy. Niềm tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ sẽ là cơ sở để mở rộng quan hệ của mình với những đối tượng khác trong nền kinh tế.
Ngoài ra, trật tự an ninh, ATXH, trình độ dân trí ... có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ tín dụng ngân hàng. Thật vậy, nếu một nơi nào đó mà an ninh trất tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư, và các nhà đầu tư cũng sẽ không đầu tư vào nơi như vậy. Do đó nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. Ngược lại nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít trộm cướp và các tệ nạn xã hội sẽ an toàn cho hoạt động đầu tư. Điều đó sẽ khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của mình. Như vậy nhu cầu tín dụng tăng lên và tín dụng ngân hàng có cơ hội phát triển
Nhân tố pháp lý
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự và các quy định khác. Nếu các quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, không kịp thời, không ổn định và có nhiều kẽ hở thì rất khó cho ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, bởi vì ngân hàng không có một căn cứ pháp lý rõ ràng, đầy đủ và kịp thời để hoạt động. Ngược lại, những văn bản pháp luật, những quy định rõ ràng đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giưã các ngân hàng trong hoạt động tín dụng và đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng tín dụng một cách có hiệu quả.
Các nhân tố mang tính chủ quan
Việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố khách quan mà cón bởi các nhân tố chủ quan như: chính sách và thể lệ tín dụng, thông tin tín dụng, chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị của ngân hàng, tình hình huy động vốn, công tác tổ chức ngân hàng... và chính bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố hạn mức cho vay đối với khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các loại cho vay được thực hiện, sự đảm bảo và khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt giới hạn, các khoản vay có vấn đề... Tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở tín dụng của ngân hàng. Nếu tất cả các yếu tố thuộc chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng. Ngược lại, nếu như các yếu tố của chính sách đều cứng nhắc không hợp lý, không đáp ứng được những nhu cầu đa dạng về vốn của khách hàng thì ngân hàng không thể thực hiện được mục tiêu mở rộng quy mô tín dụng của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa ngân hàng trong việc thu hút khách ngàng thì chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng.
Quy trình cấp tín dụng
Quy trình tín dụng quy định các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng, được tiến hành từ khi bắt đầu phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi cả vốn và lãi.
Quy trình cấp tín dụng là một yếu tố quan trọng để thực thi chính sách tín dụng tại một tổ chức tín dụng. Có thể khái quát quá trình cấp tín dụng như sau:
lập hồ sơ xin
cấp tín dụng
Thẩm định tín dụng
Quyết định cấp tín dụng
Quản lý tín dụng được cấp
Để thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng, ngân hàng phải trả lời các câu hỏi sau:
Người được cấp tín dụng có đủ tin tưởng trong quan hệ vay trả không.
Khoản cấp tín dụng nào được cấp sẽ được hoàn trả.
Nếu tín dụng được cấp, ngân hàng có thiết lập các mối quan hệ kiểm soát được khoản tín dụng được khoản tín dụng đã cấp trong suốt thời gian quan hệ không.
Sự tôn trọng và sự kết hợp nhịp nhàng trong các bước sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được diễn biến của khoản tín dụng để có biện pháp can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Nhưng không phải nhất thiết một cách cứng nhắc theo từng công đoạn đó. Phải linh hoạt trong từng trường hợp để bảo vệ lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và toàn xã hội. Điều đó sẽ gây được cảm tình với khách hàng và ngày càng thu hút được nhiều khách ngàng quan hệ với ngân hàng.
Về thông tin tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm đượcnhiều thông tin chính xác, kịp thời hơn sẽ thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng đầu tư chủ yếu dựa vào lòng tin. Lòng tin có cính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin có đựoc. Để hoạt động tín dụng ngày càng đượ mửo rộng với chất lượng tín dụng ngày càng cao, hiệu quả lớn, ngân hàng phải nắm được chính xác thông tin về khách hàng vay vốn như:
Thông tin phi tài chính, gồm có: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội....
Thông tin gián tiếp như: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
Thông tin tài chính của khách hàng: khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.
Yêu cầu thông tin tín dụng phải chính xác, kịp thời, đầy đủ. Do đó ngân hàng cần phải có nhiều thông tin khác nhau. Thực tế ở Việt nam chúng ta rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời. Đã có nhiều khoả tín dụng bị rủi ro thất thoát do thiếu thông tin như khách hàng dùng một tài sản, thậm chí một dự án để đi vay nhiều ngân hàng, khách hàng sử dụng giấy tờ giả, hợp đồng giả, phương án giả, phương án giả để xin vay, khách hàng đảo nợ, thành Công ty con để có danh nghĩa lừa vốn vay của ngân hàng, cuối cùng không trả được nợ, ngân hàng rơi vào tình trạng khốn đốn vì gặp phải nhiều rủi ro. Điều đó làm mất lòng tin vào các khách hàng làm ăn có hiệu quả khác và có thể ngân hàng bị mất khách. Hoặc một số ngân hàng do không nắm bắt được thông tin kịp thời nên đã không đáp ứng được nhu cầu về vốn vay cho khách hàng, do vậy hạn chế việc mở rộng tín dụng của ngân hàng.
4. Tình hình huy động vốn
Ngân hàng là một ngành đặc biệt trong nền kinh tế, hoạt động chủ yếu theo phương châm “ huy động vốn để sử dụng vốn “. Bởi vậy, nếu không đi vay được tức là không huy động được vốn thì không thể có hoạt động sử dụng vốn. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển.
5. Công tác tổ chức của ngân hàng.
Nếu công tác tổ chức của ngân hàng được cụ thể hoá và được sắp xếp một cách khoa học, không bị chồng chéo, có mối liên hệ chặt chẽ giữa các Phòng ban trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng thì sẽ là cơ sở phát triển hoạt đọng tín dụng một cách lành mạnh có hiệu quả.
Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị
Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị là nhân tố quyết định thành công của việc mở rộng tín dụng. Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc của cán bộ, maketing... Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng ngânhàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Nếu như khách hàng giao tiếp với cán bộ ngân hàng mà họ cảm thấy yên tâm về trình độ nghiệp vụ của cán bộ thì chắc chắn họ sẽ tìm đến với ngân hàng đó. Còn đói với cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tín dụng cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới việc thu hút khách hàng cũng như với mục tiêu mở rộng tín dụng. Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến phù hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời các yêu cầu cảu khách hàng với chi phí mà hai bên có thể chấp nhận được, sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và ngày càng thu hút được khách hàng.
Hoạt động kiểm soát nội bộ
Đây là biện pháp hữu hiệu giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện thành công các mục tiêu đã định.
Tình trạng của chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn thua lỗ, phá sản, khốn đốn về tài chính, dẫn đến không trả được nợ ngân hàng, và ngân hàng cũng không thể tiếp tục cho các doanh nghiệp này vay và mục tiêu mở rộng tín dụng là không thể thực hện được.
Sau khi đã tìm hiểu về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, về tín dụng ngân hàng, chúng ta thấy rằng nếu như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một thành phần vô cùng quan trọng trong cơ cấu các thành phần kinh tế của một nền kinh tế thì tín dụng ngân hàng lại là một điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển và chứng tỏ vai trò của mình đối với nền kinh tế. Chính vì vậy việc thúc đẩy mối quan hệ tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là trách nhiệm lớn lao của nhà nước, của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đặc biệt là của các ngân hàng. Trong thời gian thực tập tại Sở Giao dịch, em nhận thấy Sở Giao dịch cũng đã và đang cố gắng thúc đẩy mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng kết quả đạt được còn phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan khác. Để có thể hiểu được toàn diện về tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch, ta cần đi vào thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch.
Chương II.
Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch
2.1. Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của sở giao dịch
2.1.1. Vị trí của Sở giao dịch NHN0&PTNTVn
Năm 1997 là một năm đạt được nhiều sự thành công trong hoạt động kinh tế nói chung ở Việt nam. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt nam đã thực sự bắt nhịp được với cơ chế thị trường, đất nước nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng kinh tế triền miên, tỷ lệ lạm phát giảm thấp, trình độ dân trí được cải thiện.... là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn. Hơn nữa chính trị ổn định, hệ thống luật pháp ngày càng được hoàn thiện hơn tạo ra môi trường thuận lợi cho các đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh có lãi, lượng tiền tích luỹ trong xã hội ngày càng tăng lên. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã thành có nhiều thành công lớn, đưa Việt nam từ một nước thường xuyên nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Các nông sản phẩm có chất lượng cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sự thành công này có sự đóng góp to lớn của NHNN&PTNTVN cùng với các chính sách hỗ trợ về vốn cho nông dân nghèo, mở rộng các dự án canh tác, t._.rồng rừng, VAC...
Nhằm mục tiêu mở rộng mạng lưới, đa dạng háo các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hơn nữa uy tín của NHN0&PTNTVN, NHN0&PTNTVN đã thành lập thêm một số các chi nhánh rải trên một số các đại bàn chủ yếu như Hà nội, TPHCM, Quảng nam, Đà nẵng, bình định, Thừa thiên - Huế...
Năm 1999, tình hình kinh tế xã hội của đất nước ta còn chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, lại liên tiếp xảy ra các đợt lụt bão ở miền Trung khiến tình hình kinh tế càng thêm khó khăn. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 4.8% giảm 1% so với năm 1998, lạm phát đạt ở mức thấp 0.1% đã ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế. Tỷ giá đồng Đô la so với đồng nội tệ liên tục tăng.
Tín hiệu đáng mừng là nền kinh tế đang lấy lại đà tăng trưởng, mức tăng trưởng quý sau cao hơn Quý trước, công nghiệp đạt mức tăng trưởng 10.5%, tổng sản lượng lương thực đạt mức cao nhất từ trước tới nay ( 33.8 triệu tấn ). Cán cân thanh toán được cait thiện rõ rệt thể hiện ở siêu nhập cả năm chỉ có 113 triệu USD, bằng 5.2% mức nhập siêu năm 1998. Bội chi ngân sách giữ ở mức Quốc hội cho phép là dưới 5% GDP.
Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng do sản xuất kinh doanh bị đình trệ, nguồn vốn dư thừa không mở rộng được tín dụng. năm 1999 thực hiện chính sách kích cầu tín dụng. Nhà nước đã 5 lần giảm lãi suất, thời gian giữa các lần giảm rất ngắn đã ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch kinh doanh và thu nhập của các Ngân hàng thương mại.
Sở giao dịch mới được thành lập từ tháng 5/1999 với sự cố gắng của Lãnh đạo Sở và tập thể cán bộ công nhân viên, được sự quan tâm chỉ đạo của Hội đồng Quản trị, Ban điều hành và các Ban nghiệp vụ tại Trung tâm điều hành, Sở đã đảm nhiệm được chức năng đầu mối của toàn ngành.
Sở là đơn vị hạch toán phụ thuộc đại diện theo uỷ quyền của NHN0&PTNTVN, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHN0&PTNTVN, có con dấu riêng, có bảng cân đối tài sản theo quy định của NHN0&PTNTVN, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với NHN0&PTNTVN và chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ do cam kết cuả Sở trong phạm vi uỷ quyền.
2.1.2. Nhiệm vụ của Sở Giao dịch NHN0&PTNTVN
Sở Giao dịch thực hiện chức năng trực tiếp, thực hiện các nghiệp vụ theo lệnh của TGĐ, đầu mối thực hiện các nhiệm vụ theo uỷ quyền trực tiếp kinh doanh đa năng trên địa bàn Hà nội. Sở Giao dịch có các nhiệm vụ chủ yếu:
Quản lý nội tệ, ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của NHN0&PTNTVN, cân đối điều hoà vốn ngoại tệ trong hệ thống, chấp hành quy chế dự trữ bắt buộc.
Quản lý trạng thái ngoại hối cuả NHN0&PTNTVN, làm đấu mối thanh toán NHN0&PTNTVN tại các ngân hàng khác.
Đầu mối kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước, phát triển và quản lý hệ thồng ngân hàng đại lý.
Khai thác nguồn vốn và nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán bằng đồng nội tề và ngoại tệ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định, tiếp nhận các nguồn tài trợ vốn uỷ thác cảu Chính phủ và của các tổ chức kinh tế cá nhân trong và ngoài nước, vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn.
Cho vay ngắng hạn, trung và dài hạn bằng đồng nội và ngoại tệ
Thực hiện các nghiệp vụ dịch vụ ngân hàng như thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ mua bán ngoại tệ làm dịch vị ngân quỹ như két sắt, cất giữ các loại giấytờ có giá trị bằng tiền và các dịch vụ ngân hàng khác được nhà nước cho phép.
Thực hiện quan hệ đại lý thanh toán và dịch vụ ngân hàng đối với ngân hàng nước ngoài.
Đầu tư tiền vốn liên doanh mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác.
Trực tiếp thử nghiệm các dịch vụ sản xuất mới trong hoạt động kinh doanh
Thực hiện kiểm tra kiểm soát nội bộ.
2.1.3. Tổ chức bộ máy tại Sở Giao dịch NHN0&PTNTVN
giám đốc
phạm văn quyến
phó giám đốc
nguyễn Văn minh
phó giám đốc
vũ thị ngọc dung
phó giám đốc
vũ thanh phương
phòng s.w.i.f.t
phòng tín dụng dự án
phòng kinh doanh ngoại tệ
phòng thanh toán quốc tế
phòng kế toán ngân quỹ
phòng hành chính nhân sự
2.1.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh các phòng ban trong Sở Giao dịch NHN0&PTNTVN
2.1.4.1. Phòng tín dụng dự án
Với xu hướng trở thành hội sở chính ( Sau khi chuyển về số 2 Láng Hạ) phòng tín dụng có những nhiệm vụ sau:
Ngiên cứu, xây dựng và đề xuất cho Giám đốc Sở Giao dịch các chương trình dự án, lựa chọn phương án đầu tư tín dụng có hiệu quả tối ưu.
Xây dựng và trực tiếp thẩm định tính khả thi về: tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh L/C trả chậm... trình Giám đốc xem xét quyết định.
Xây dựng chiến lược tìm kiếm khách hàng quan hệ tín dụng
Tổng hợp phân tích thông tin kinh tế, quản lý danh mục khách hàng, phân loại khách hàng có quan hệ tín dụng.
Tổ chức thực hiện thông tin, phòng ngừa và sử lý rủi ro về tín dụng.
Chấp hành chế độ báo cáo thống kê, kiểm tra các nghiệp vụ chuyên đề theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Giao dịch phân công.
2.1.4.2. Phòng kinh doanh ngoại tệ
Điều hoà vốn ngoại tệ trong toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp, quản lý và kinh doanh tài khoản tiền gửi của NHN0&PTNTVN.
Vay vốn nội, ngoại tệ ngắn, trung và dài hạn trên thị trường liên ngân hàng để tăng cường năng lực hoạt động của Sở Giao dichj theo quy định của NHN0&PTNTVN
Đầu mối tham gia kinh doanh trên thị trường liên Ngân hàng trong nước và thị trường tiền tệ quốc tế. Thực hiện việc mua bán và vay ngoại tệ trong nước và nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, bảo toàn trạng thái ngoại tệ của NHN0&PTNTVN
Nghiên cứu đề xuất á NHN0&PTNTVN. Xây dựng phương án chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trong mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, cá nhân trong nước và nước ngoài.
Xây dựng và tỏ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh tổng hợp, phân tích đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm, hàng quý và hàng tháng.
Trực tiếp kinh doanh các dịch vụ ngân hàng: mua bán ngoại tệ, chứng kháon cho khách hàng.
Tổ chức tiếp nhận, thử nghiệm các dịch vụ, sản phẩm mới NHN0&PTNTVN.
Tổ chức thực hiện chương trình công tác trong đơn vị như giao ban, sơ kết và tổng kết, thông báo chương trình công tác tháng, quý, năm.
Thực hiện các chế độ báo cáo thống kê theo quy định và các nhiệm vụ khác được Giám đốc Sở giao.
2.1.4.3. Phòng thanh toán quốc tế
Mặc dù có nhiều khó khăn song cùng với các phòng chức năng khác của Sở Giao dịch, phòng thanh toán quốc tế cũng đã có những cố gắng nhất định để hoàn thành nhiệm vụ trong năm vừa qua mà nhiệm vụ chủ yếu là:
Mở và theo dõi thư bảo lãnh, thư tín dụng theo lệnh của TGĐ NHN0&PTNTVN
Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế trực tiếp tại Sở Giao dịch.
Thực hiện nhiệm vụ triết khấu, tái triết khấu bọ chứng từ.
Tham gia đào tạo và tổ chức hướng dẫn các nghiệp vụ về thanh toán quốc tế trong hệ thống NHN0&PTNTVN
Chấp hành chế độ báo cáo theo quy định
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ trong năm qua, Phòng Thanh toán quốc tế đã phát triển mạng lưới thanh toán đến chi nhánh tỉnh, thành phố, tích cực xúc tiến quan hệ với các ngân hàng trong các khu vực khác nhau nhằm nâng cao các khả năng thanh toán thông qua việc học tập, trau dồi nghiệp vụ và mở rộng quan hệ làm ăn.
Với vai trò đầu mối trong giao dịch của Sở Giao dịch nên Phòng thanh toán quốc tế cũng đóng vai trò phục vụ thanh toán cho các chi nhánh và các hoạt động thanh toán trực tiếp tại Sở.
Hoạt động thanh toán quốc tế: Chấp hành tốt các quy định, quy trình nghiệp vụ TTQT không để xẩy ra các sai sót, rủi ro trong thanh toán.
2.1.4.4. Phòng SWIFT
Đến 31/12/1999 đã có quan hệ đại lý với 500 ngân hàng ở 72 nước trên thế giới. Chỉ tính riêng năm 1999 đã thiết lập thêm được 19 ngân hàng đại lý, đã cài đặt thêm mạng SWIFT cho 10 chi nhánh.
Từ tháng 4 năm 1999 Sở Giao dịch được giao là đầu mối duy nhất trong thanh toán quốc tế nên doanh số thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT tăng nhanh.
Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của phòng SWIFT
4.1. Làm đầu mối quan hệ đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan với SWIFT
4.2. Quản trị cập nhật và vận hành hệ thống SWIFT, Telex, SWìT- in, SWIFT - out của NHN0&PTNTVN
4.3. Thiết lập và duy trì hệ thống đại lý song phương với các Ngân hàng trên thế giới
4.4. Thiết lập, quản lý và sử dụng mật mã thanh toán quốc tế.
4.5. Thực hiện các nghiẹp vụ thanh toán quốc tế cho các chi nhánh. Kiểm soát chuyển ngoại tệ và thanh toán ra ngoài hệ thống theo chỉ định của TGĐ.
4.6. Tham gia công tác đào tạo và đào tạo lại các chi nhánh về việc thực hiện nghiệp vụ thanh toán quoóc tế theo tiêu chuẩn của SWIFT.
4.7. Tổ chức thực hiện ứng dụng các chương trình tin học và trợ giúp kỹ thuật đối với việc sử dụng maý tính của Sở Giao dịch.
4.8. Chấp hành chế độ báo cáo theo quy định và thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao.
2.1.4.5. Phòng Kế toán ngân quỹ
Công tác kế toán tại bất kỳ một ngân hàng nào đều phải hướng tới những mục tiêu nhất định, song không nằm ngoài nguyên tắc phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, tổ chức hoạt động giao dịch với khách hàng một cách khoa học trên cơ sở tổng hợp thông tin nhanh chóng phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Không ngoại lệ chức năng và nhiệm vụ của Phòng kế toán Sở giao dịch gồm:
5.1. Tổ chức hạch toán theo dõi các quỹ, vốn tập trung toàn bộ hệ thống NHN0&PTNTVN
5.2. Thực hiện hạch toán kế toán các ghiệp vụ huy động vốn, cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác của Sở theo quy định của NHN0&PTNTVN
5.3. Thực hiện công tác thanh toán, tham gia thanh toán liên hàng
5.4. Trực tiếp thực hiệ các dịch vụ rút tiền tự động, dịch vụ két sắt, nghiệp vụ nhận cất giữ giấy tờ trị giá bằng tiền và các tài sản quý cho khách hàng
5.5. Thực hiện các nghiệp vụ thu chi tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, vận chuyển tiền trên đường đi và quản lý an toàn kho quỹ nghiệp vụ.
5.6. Xây dựng kế hoach tài chính, quyết toán thu chi tài chính theo chế độ khoán tài chính của NHN0&PTNTVN quy định.
5.7. Thực hiện phân tích đánh giá hoạt động tài chính.
5.8. Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán kế toán. Chấp hành chế độ báo cáo kế toán, thống kê theo quy định.
5.9. Thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo luật định
5.10. Chấp hành định mức tồn quỹ, chế độ báo cáo kho quỹ theo quy định.
5.11. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao.
Trong năm 2001 vừa qua, Phòng Kế toán Sở Giao dịch đã đạt được một số kết quả:
Hoàn thành công việc chuyển đổi tài khoản cũ sang hệ thống tài khoản mới đảm bảo phục vụ các chi nhánh và khách hàng kịp thơì.
Mở mới 1.106 tài khảon, trong đó 953 tài khoản cá nhân, 30 tài khoản ATM, 123 tài khoản của các công ty, nâng tổng số tài khoản quản lý lên 2.028 tài khoản. Đặc biệt sau khi NHNN&PTNTVN ký hợp đồng thanh toán nhanh với các ngân hàng nước ngoài như CITIBANK, ABN, AMRO... và Kho bạc Nhà ước mở tài khoản tiền gửi tại Sở Giao dịch thì khối lượng thanh toán tăng cao so với đầu năm, nhưng công tác hạch toán kế toán đảm bảo nhanh chóng, chính xác và an toàn.
Tham gia chương trình thử nghiệm thanh toán liên Ngân hàng đạt két quả tốt, đóng góp tích cực vào đề án hiện đại hoá của Sở Giao dịch.
Thực hiện dịch vụ thanh toán các dự án nước ngoài kịp thời, an toàn, chính xác.
Công tác ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán, kế toán thực hiện tốt góp phần hạch toán, thanh toán nhanh chóng, chính xác, nâng cao năng xuất ao động, giảm thiểu thời gian làm việc thêm giừo. Trong năm 2001 Sở Giao dịch đã xây dựng được 04 chương trình phần mềm hõ trợ chương trình giao dịch trực tiếp như: Chương trình xác định kết quả khoán 946; chương trình chuyển kết thu nhập, chi phí ngoại tệ, chương trình đánh giá kết quả kinh doanh ngoại tệ; chương trình hạch toán lương.
Hoạt động ngân quỹ đạt kết quả tốt. Năm 2001 Sở Giao dịch nhận thêm dịch vụ chi trả tiền lương cho một số đơn vị qua hình thức tài khoản cá nhân nên doanh số thu chi tiền mặt VNĐ tăng nhanh.
2.1.4.6. Phòng Hành chính -Nhân sự
Thực hiện theo quyết định của HĐQT về thành lập Sở Giao dịch và Ban hành quy chế của Sở Giao dịch, Sở Giao dịch đã thành lập được 6 phòng nghiệp vụ, bổ nhiệm 9 cán bộ điều hành các phòng. Đã ban hành quy định cụ thể, phân định rõ chức năng nhiệm vụ của các phòng chuyên môn để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Duy trì thường xuyên chế độ họp Ban Giám đốc, họp giao ban với các phòng hàng tháng. Phân công rõ ràng cụ thể trong Ban Giám đốc nên việc điều hành được thông suốt và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh công tac tổ chức cán bộ Phòng hành chính - nhân sự thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu như:
6.1. Thực hiện công tác văn thư hành chính quản trị.
6.2. Thực hiện kiểm tra kiểm soát nội bộ.
6.3. Thực hiện tuyên truyền tiếp thị, lễ tân, tiép khách, xây dựng cơ quan văn minh lịch sự.
6.4. Giúp Giám đốc quy hoạch cán bộ, sắp xếp bố trí cán bộ trong Sở, làm các quyết định về khen thưởng, kỷ luật đối với các cán bộ khi dã có quýet định khen thưởng hoặc kỷ luật của Hội đồng Khen thưởng, kỷ luật của cơ quan thực hiện các chính sách chế độ đối với người lao động.
6.5. Đề xuất việc cử cán bộ đi họctập, tham quan, khảo sát trong và ngoài nước.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao.
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Tình hình hoạt động tín dụng đối với các thàn phần kinh tế tại Sở Giao dịch được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh tế
( Đơn vị: tỷ đồng )
Chi tiêu
2000
2001
số tiền
%
Số tiền
%
1. Doanh số cho vay
405
100
830,1
100
- DNNN
365,03
92.6
765,46
92.3
- DNNQD
13,365
3.3
29,35
4.5
- Các TP kinh tế khác
16,605
4.1
26,56
3.2
2. Doanh số thu nợ
321
100
612,7
100
- DNNN
283,122
88.2
575,03
92.5
- DNNQD
4,316
1.6
16,1642
2.6
- Các TP kinh tế khác
32,742
10.2
30,4633
4.9
3. Dư nợ
236
100
454
100
- DNNN
234
87.6
286
88.6
- DNNQD
10
3.5
183
5.8
- Các TP kinh tế khác
1,2
8.9
3
5.6
4. Quá hạn
8,5
8,68
( Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2000, 2001 )
Qua bảng trên ta thấy
Doanh số cho vay tăng liên tục qua các năm. Năm 2000 doanh số cho vay là 405 tỷ đồng thì sang năm 2001 doanh số cho vay là 380,1 tỷ đồng tăng 425,5 tỷ đồng ( tăng 105% so với năm 2000 ). Điều đó chứng tỏ rằng Sở Giao dịch đã thu hút được khách hàng, mở rộng được doanh số cho vay, có một chiến lược khách hàng đúng đắn. nhanh chóng và kịp thời nắm bắt được nhu cầu đó làm cho doanh số vay tăng rất nhanh. Trong đó doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước đạt 365,03 tỷ đồng năm 2000 chiếm 92.6% doanh số cho vay. Sang năm 2001 doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước tăng lên 765,46 tỷ đồng, chiếm 92.3% so với doanh số cho vay năm 2000. Còn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là các công ty TNHH, công ty cổ phần thì doanh số cho vay có xu hướng ăng lên mạnh mẽ cả giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối. Nếu như năm 2000 doanh số cho vay là 6,618 tỷ đồng, chiếm 3.3% tổng doanh số cho vay thì sang đến năm 2001 con số này đã tăng lên là 29,35 tỷ đồng và chiếm 4.5% sô với tổng doanh số cho vay. Như vậy ta thấy rõ ràng rằng doanh số cho vay đối với cả hai thành phần kinh tế là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều tăng lên đáng kể, đặc biệt là doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều đó đã thể hiện rõ sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ của Sở Giao dịch trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng đối với các odanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vấn dề dư nợ
Qua bảng trên ta thấy dư nợ các năm tăng lên nhanh chóng và liên tục. Năm 2000 tổng dư nợ là 236 tỷ đồng thì sang năm 2001 tổng dư nợ là 454 tỷ đồng, tăng 218 tỷ đồng ( tăng 92% ) so với năm 2000 ; đạt 104% so với kế hoạch năm 2001 được giao. Trong đó dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước năm 2000 là 234 tỷ đồng chiếm 87.6% tổng dư nợ. Đến năm 2001 dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước là 286 tỷ đồng, chiếm 88.6% tổng dư nợ. Như vậy đối với doanh nghiệp nhà nước dư nợ tăng lên theo số tuyệt đối là 52 tỷ đồng, tuy nhiên về số tương đối thì dư nợ năm 2001 chỉ chiếm 88.6% tổng dư nợ, tức là cao hơn không đáng kể so với năm 2000. Điều này chứng tỏ sự tăng lên của dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước tương ứng đối với sự tăng trưởng lên của tổng dư nợ. Dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2000 đạt 10 tỷ đồng, chiếm 3.5% tổng dư nợ. Sang năm 2001 dư nợ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 74.661 triệu đồng, chiếm 5.8% tổng dư nợ. Điều này chứng tỏ dư nợ tăng mạnh mẽ không chỉ đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn cả đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Để hiểu sâu hơn về tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch, ta xem xét bảng sau:
Bảng 2: Tình hình tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Doanh số cho vay
404
100
830,1
100
- DS cho vay ngắn hạn
301,778
74.7
703,84
84.8
- DS cho vay trung, dài hạn
102,22
25.3
126,16
15.2
2. Doanh số thu nợ
323
100
612,7
100
1. Thu nợ ngắn hạn
304,6
94.3
595,9
96.6
2. Thu nợ trung, dài hạn
18,411
5.7
21,078
3.4
3. Dư nợ
236
100
454
100
- Dư nợ ngắn hạn
127
55.9
80
71.9
Dư nợ trung, dài hạn
109
44.1
374
28.1
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2000, 2001 )
Qua bảng trên ta nhận thấy
Doanh số cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên. Năm 2000, doanh số cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 301,778 tỷ đồng, chiếm 74.7% tổng doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sang năm 2001 doanh số cho vay ngắn hạn đạt 703,84 tỷ đồng, chiếm 84,8%. Như vậy về số tuyệt đối đã tăng lên 202,62 tỷ đồng, tức tăng gấp 2.73 lần so với năm 2000.
Về dư nợ ngắn hạn đối với cac doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sự biến động rõ rệt. Năm 2000 dư nợ ngắn hạn là 127 tỷ đồng, chiếm 55,9% tổng dư nợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đến năm 2001 dư nợ ngắn hạn lại tăng lên là 374 tỷ đồng chiếm 71,9% tổng dư nợ. Như vậy năm 2001 dư nợ ngắn hạn tăng 147 tỷ đồng so với năm 2000.
Về công tác thu nợ năm 2000 doanh số cho vay ngắn hạn là 301,778 tỷ, mức thu nợ ngắn hạn là 304,6 tỷ, tỷ lệ doanh số thu ngắn hạn/doanh số cho vay ngắn hạn bằng 61,76% là trung bình. Đến năm 2001 tỷ lệ này là 59,56% thấp hơn so với năm 2000. Nhưng nói chung công tác thu nợ tại Sở Giao dịch là tốt, cán bộ tín dụng rất sát sao, có trách nhiệm và luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
Doanh số cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù có tăng qua các năm nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng doanh số cho vay. Năm 2000 doanh số cho vay trung và dài hạn đạt 102,22 tỷ đồng chiếm 25,32%. Đến năm 2001 con số này là 126,6 tỷ đồng chiếm 15,2% tổng doanh số. Như vậy mặc dù số tuyệt đối có tăng lên nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn lại có xu hướng giảm xuống rõ rệt.
Về công tác thu nợ cả 2 năm 2000 và 2001 thu nợ đối với cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số thu nợ. Năm 2000 dư nợ cho trung dài hạn là 109 tỷ đồng. Đến năm 2001 dư nợ trung và dài hạn là 80 tỷ đồng chiếm 28,1% so với tổng dư nợ trung và dài hạn giảm hơn so với tỷ lệ này của năm 2000. Như vậy mặc dù số tuyệt đối có tăng nhưng tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn lại có xu hướng giảm xuống.
Để giải thích nguyên nhân của tất cả các chỉ tiêu về doanh thu số cho vay, doanh thu nợ và dư nợ đều tăng lên về sự tuyệt đối nhưng các chỉ tiêu dài hạn lại giảm về số tương đối có thể diễn giải qua một số nguyên nhân sau:
1. Có sự giảm sút trong dư năm 2001 so với năm 2000. Tuy nhiên từ cuối năm 2000 và năm 2001 do kinh tế đang trong giai đoạn phục hồi và phát triển trở lại nên nhu cầu hàng hoá cũng bắt đầu tăng lên. Điều này tác động tới nhu cầu vay vốn dư nợ 2001 tăng lên rõ rệt so với năm 2000.
2. Do năm 1998 có nhiều văn bản quy định về tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay. Xét về các điều kiện tài sản đem thế chấp vay vốn ngân hàng. Điều này làm giảm đáng kể doanh số cho vay cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong năm 2000 và 2001 đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Sang năm 2000 khi nền kinh tế trong và ngoài nước có dấu hiệu phục hồi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tìm được lại thị trường, nhu cầu đầu tư tăng lên, do vậy doanh số cho vay lại có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tỷ lệ tăng của cho vay thu nợ và dư nợ trung và dài hạn không tăng tương ứng với cho vay thu nợ và dư nợ bởi vì:
Việc cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn vì thời gian càng dài rủi ro càng lớn do vậy ngân hàng bắt buộc đòi hỏi từ phía người cho vay yêu câù tài sản đảm bảo khoản vay. Nó chắc chắn rằng khoản đầu tư của ngân hàng là có hiệu quả và an toàn. Ngoài ra ngân hàng cũng đòi hỏi khách hàng phải có phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả có tính khả thi, các báo cáo kế toán và tài chính của doanh nghiệp tại năm gần nhất. Nhưng thường các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ít có phương án khả thi vì khả năng quản lý, trình độ sản xuất kinh doanh của họ, khả năng dự toán biến động của nghành của nền kinh tế rất kém. Hơn nữa sổ sách kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quá đôn giản không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. bên cạnh đó do công tác kiểm toán của nước ta chưa phát triển nên việc chấp hành chế độ kế toán của doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất lỏng lẻo. mặt khác rất ít các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu về tài sản thế chấp. Do vậy ngân hàng rất ngại cho các doanh nghiệp này vay vốn trung và dài hạn. Hơn nữa nhìn chung các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như công nghệ sản xuất còn lạc hậu. Điều đó đòi hỏi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để đổi mới sản xuất là điều rất quan trọng và cần thiết đối với doanh nghiệp này. Song các doanh nghiệp này lại không có tài sản thế chấp hay giấy tờ không đầy đủ, hoặc qua xem xét ngân hàng thấy dự án sản xuất kinh doanh không có tính khả thi hoặc hiệu quả quá thấp.
Điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến động, hệ thống pháp luật còn thiếu đồng bộ và bị chồng chéo. Nước ta chưa có một thị trường tiền tệ và thị trường vốn trong cơ cấu thị trường tài chính hoàn chỉnh chính thức để ngân hàng có thể qua đó huy động được nguồn vốn trung và dài hạn.
Đó là trình độ quản lý của các giám đốc, phó giám đốc kế toán trưởng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do các mô hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân mới được hình thành ở việt nam. Mô hình quản lý còn bắt chước, trìh độ quản lý của người lãnh đạo còn non kém, buôn bán nhỏ lẻ. Do vậy nhiều khi dự án có tính khả thi nhưng do trình độ quản lý yếu kém không có kinh nghiệm thương trường đã làm cho các dự án thất bại. Do vậy các ngân hàng cũng rất thận trọng khi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay trung và daì hạn để đảm bảo hiệu quả và an toàn cho khoản vay
Những nguyên nhân kể trên làm ảnh hưởng nhiều đến việc mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch. Tuy nhiên nhìn chung cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đều tăng qua các năm. Trong tổng dư nợ và cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì cho vay ngắn hạn luôn lớn hơn cho vay trung và dài hạn. Qua đây ta thấy được xu hướng giảm xuống của dư nợ năm 2000 so với năm 1999 đồng thời lại tăng nhanh vào năm 2001. Hiện nay sở giao dịch đã và đang tìm mọi biện pháp để mở rộng khối lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh với mục tiêu đề ra: Phát triển kinh tế an toàn về vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý, công tác sử dụng vốn không ngừng được nâng cao về số lượng và chất lượng. Để tìm hiểu một cách toàn diện về công tác tín dụng chúng ta cần xem xét chất lượng tín dụng tại sở giao dịch. Ta biết rằng trong quá trình cho vay ngân hàng vừa phải đảm bảo hoạt động tín dụng có lãi, an toàn về vốn, vừa đảm bảo lợi ích của khách hàng. Điều này rất khó thực hiện và đòi hỏi trước khi cho vay phải tìm hiểu thị trường, nắm bắt thông tin về khách hàng và điều quan trọng là phải xác định được khách hàng vay vốn có mục đích gì? Sử dụng như thế nào? Các rủi ro có thể dự đoán trước được. Đó là cơ sở để ngân hàng có thể thu hồi được vốn và lãi đúng hạn, còn doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển một cách bền vững.
Đây là vấn đề quan trọng mà các ngân hàng cần quan tâm và mong muốn ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng thể hiện qua con số nợ quá hạn của ngân hàng. Đối với Sở giao dịch ngay từ khi thành lập đã xác định rõ mục tiêu là: một mặt đảm bảo được chất lượng tín dụng, một mặt tăng được thị phần. Định hướng này đã đưa lại kết quả trong một số năm gần đây như sau:
Bảng 3: Tình hình nợ quá hạn
Đơn vị :tỷ đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tổng dư nợ
236
100
454
100
2. Nợ quá hạn
8,5
4.78
8,68
1.8
Trong đó
-NQH cho vay ngắn hạn
7,3085
4.11
7,2712
1.6
-NQH cho vay trung, dài hạn
1,1914
0.67
1,4088
0.2
Chia theo thành phần kinh tế
-NQH DN nhà nước
4,09
2.3
3,636.
0.8
-NQH DNNQD
2,845
1.6
2,727
0.6
-NQH cho vay khác
1,565
0.88
1,818
0.4
( Nguồn: Bảng phân tích nợ quá hạn theo kỳ hạn và phân theo thành phần kinh tế )
Qua bảng trên ta thấy rằng: tỷ lệ nợ quá hạn tại Sở giao dịch là tương đối thấp và đang có xu hướng giảm đi, năm 2000 nợ quá hạn chỉ còn là 8,5 tỷ đồng chiếm 4,78% thì sang năm 2001 con số này chỉ còn là 8,68 tỷ đồng chiếm 1,91% tổng dư nợ. như vậy cùng với sự tăng lên nhanh chóng của tổng dư nợ thì lại có sự giảm xuống nhanh chóng tương ứng của nợ ngắn hạn. Nếu chia theo thành phần kinh tế thì nợ quá hạn đối với các doanh nghiệp nhà nước là4,09tỷ đồng chiếm 2,3% trong năm 2000. Trong khi đó nợ quá hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 2,845tỷ đồng chiếm 1.6%. Như vậy tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong năm 2000 là tương đối cao nếu so sánh với tỷ lệ dư nợ năm 2000 là 3,5%. Sang năm 2001 tình hình này đã được cải thiện một cách đáng kể với tổng số nợ quá hạn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,6% với số tiền là 2,727 tỷ đồng. Như vậy trong năm 2001 khi dư nợ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh từ 3,5% lên tới 5,8% thì tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm từ 1,6% xuống còn 0,6%. Hơn nữa trong tổng dư nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì phần lớn là nợ quá hạn ngắn hạn và có khả năng thu hồi. Đây là một dấu hiệu đáng mừng của Sở giao dịch trong việc giảm xuống mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.
Như vậy có thể đánh giá rằng tình hình hoạt động của sở giao dịch là lành mạnh. Hầu hết các đơn vị vay vốn của ngân hàng đều là những đơn vị làm ăn có hiệu quả, luôn luôn trả nợ ngân hàng sòng phẳng đầy đủ cả gốc lẫn lãi. Đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng thấp. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này có quan hệ với ngân hàng rất thấp. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với ngân hàng.
Một vấn đề khác cũng cần phải quan tâm trong công tác tín dụng là thẩm định cho vay.
Việc quyết định cho vay hay không cho vay đối với khách hàng dựa rất nhiều vào công tác thẩm định của cán bộ tín dụng. Việc tuân thủ quy trình thẩm định đồng thời vừa cắt giảm được những thủ tục rườm rà không cần thiết lại vừa đảm bảo đúng và đầy đủ chặt chẽ về quy trình cho vay. Theo điều 15 quy định cho vay đối với khách hàng ( ban hành kèm theo quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18/01/2001 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam ): Trưởng phòng hoặc tổ trưởng tín dụng phân công cán bộ thẩm định các điều kiện vay vốn. Nhìn chung quy trình thẩm định cho vay được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1:
Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn. Kết thúc bước này cán bộ tín dụng phải rút ra được nhận xét về tư cách pháp lý,người đại diện hợp pháp của khách hàng.
Bước 2:
Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng để đưa ra được báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo chi tiết bổ sung, báo cáo tồn kho hàng hoá, báo cáo kiểm toán doanh nghiệp độc lập, báo cáo kiểm toán nội bộ...
Bước 3:
Thẩm định dự án đề nghị vay vốn của khách hàng bao gồm:
Hồ sơ vay vốn ngắn hạn: giấy đề nghị cho dự án, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ, bản sao hợp đồng mua bán hoặc báo giá phiếu nhập kho, các chứng từ, các chứng từ thanh toán.
Tài sản bảo đảm tiền vay
Xác định khả năng thực hiện dự án, nhu cầu vay và khả năng trả nợ
Kết thúc bước thẩm định này phải rút ra nhận xét và đưa ra được đề xuất đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng
Bước 4:
Thẩm định tài sản bảo đảm vay nợ
Theo quy chế tín dụng thì bất cứ mọi khoản vay nào của các doanh nghiệp đều phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản vay, giúp ngân hàng có thể thu hồi vốn khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên điều kiện này lại là vướng mắc chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn tiếp cận với tín dụng ngân hàng. Trong các năm qua doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn của sở giao dịch chủ yếu đảm bảo khoản vay bằng hình thức cầm cố, thế chấp tài sản như nhà cửa đất đai, xe máy ô tô, dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên một số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập hoạt động với quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn hẹp mà muốn vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cần phải có tài sản thế chấp. Điều này còn trở nên khó khăn đối với các doanh nghiệp đi thuê Văn phòng và cửa hàng, toàn bộ vốn tự có đều được đầu tư cho kinh doanh do đó trong những năm qua mặc dù doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tăng lên nhưng mức độ chưa tương xứng với tốc độ tăng lên của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đánh giá thực trạng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại sở giao dịch
Những kết quả đạt được
Công tác tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đạt được những kết quả đáng kể. Đó là:
Trong quan hệ tín dụng với khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Sở Giao dịch đã giải quyết cho vay nhanh ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0273.doc