Tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam: ... Ebook Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế kỉ XX, sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế thế giới nói chung cũng như từng khu vực nói riêng biến đổi mạnh mẽ. Nhiều mô hình kinh tế khác nhau đã được thử nghiệm và đưa lại những thành công đáng ghi nhận. Thực tế ở các nước trên thế giới cho thấy đống góp to lớn trong những thành công đó chính là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V).
Ở Việt Nam trước đây, loại hình doanh nghiệp này chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của DNN&V đã phát huy tác dụng. Việc phát triển các DNN&V khơi dậy ý chí kinh doanh, giải phóng các lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất và trí tuệ, tinh thần của nhân dân, huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, công nghệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp sản phẩm dịch vụ cho thị trường và tạo phần lớn việc làm cho xã hội, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện cho DNN&V phát triển. Trong bài phát biểu tại hội nghị với các doanh nghiệp ngày 9/2/2006 ở Hà nội, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Cần coi trọng và có chính sách ưu đãi hơn nữa đề phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các làng nghề ở vùng nông thôn, đây là vấn đề rất quan trọng vì nước ta đất ít, lao động nông thôn thừa, đưa doanh nghiệp nhỏ và vừa vào nông thôn sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển đô thị nhỏ, giảm bớt sự chênh lệch về đời sống giữa nông thôn và thành thị. Đây cũng là giải pháp chủ yếu tạo thu nhập và việc làm cho nông dân không còn đất trong quá trình đô thị hoá, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị, làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp”.
Đến cuối năm 2007, nước ta đã có trên 250.000 doanh nghiệp tư nhân, trong đó hầu hết là DNN&V. Theo tài liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến tháng 10 năm 2007, Việt Nam có khoảng 280.000 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 8.500 dự án FDI, trên 2.000 doanh nghiệp nhà nước, còn lại là khu vực kinh tế tư nhân. Chính phủ dự kiến đến năm 2010 sẽ phát triển thêm 220.000 doanh nghiệp chủ yếu ở khu vực kinh tế tư nhân. Tính đến đầu quý 2/2007, các DNN&V trong cả nước đã thu hút, tạo công ăn việc làm ổn định cho gần 3 triệu lao động, đóng góp gần 40% GDP hàng năm của cả nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và cam kết của chính phủ trong việc phát triển DNN&V, mặt khác đây cũng là một thị trường đầu tư tiềm năng, hấp dẫn đối với các NHTM nên trong chiến lược phát triển của NHNoViệt Nam nói chung và chiến lược của Sở giao dịch nói riêng, DNN&N được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên đến nay, việc thực hiện các điều kiện tín dụng của ngân hàng đối với một số lớn DNN&V là rất khó khăn, vượt quá năng lực của doanh nghiệp. Vì thế việc tìm ra giải pháp tín dụng đối với DNN&V đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trang hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tại Sở giao dịch NHNoViệt Nam, em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam” làm đề tài cho luận văn.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xem xét một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNN&V tại Việt Nam và việc đầu tư tín dụng của Sở giao dịch NHNo Việt Nam cho các doanh nghiệp này. Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển tín dụng cho DNN&V tại Sở giao dịch.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các DNN&V và hoạt động tín dụng cho các DNN&V của Sở giao dịch.
Phạm vi nghiên cứu là số liêu thu thập từ Sở giao dịch trong 3 năm: 2005, 2006 và 2007.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và giải thích thực tiễn như phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt đông kinh tế.
Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài lời mở đầu và phần kết luận; phần nội dung gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNN&V tại Sở giao dịch NHNoViệt Nam.
Chương III: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNN&V tại Sở giao dịch NHNoViệt Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Khái niệm
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ riêng với NHTM mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng.
Ngân hàng nói chung, NHTM nói riêng có vai trò thu hút tiền nhàn rỗi, và thông qua tín dụng, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Hàng triệu hộ cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp, người tiêu dung phải thanh toán các khoản mua hàng hoá dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua chứng khoán của Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Về mặt cấu trúc, thị trường tài chính có hai kênh dẫn vốn là kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Ở kênh trực tiếp, những người đi vay trực tiếp vay vốn từ người cho vay bằng cách bán ra chứng khoán (hay còn gọi là các công cụ tài chính. Khi kinh tế càng phát triển, việc tham gia vào tài chính trực tiếp càng đòi hỏi nhiều tiêu chí hơn. Một người thợ mộc không thể bán trái khoán trong một thị trường mở cho các công ty hoặc các cá nhân khác, bởi không ai biết anh ta là ai.Vì thế những doanh nghiệp nhỏ, hay có nhu cầu vốn ít sẽ tìm đến tài chính gián tiếp, tức là thông qua một trung gian làm kênh dẫn vốn. Và ngược lại, những người có món tiết kiệm nhỏ cũng lo ngại khi mua các chứng khoán bởi vì phải tốn kém thời gian và chi phí để tập hợp thông tin cho việc chọn chứng khoán tốt nhất, mà chưa kể đến rủi ro rất lớn của thị trường này, vì thế ngân hàng cũng là giải pháp tốt. Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng nhận tiền gửi nhàn rỗi của dân cư, các công ty và các tổ chức kinh tế xã hội để đưa đến những nơi cần vốn – các doanh nghiệp, dân cư và các tổ chức khác.
Biểu đồ 1: Giản đồ thị trường tài chính.
Các hoạt động cơ bản của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn của ngân hàng gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Vốn chủ sở hữu đóng vai trò lá chắn phá sản và thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, trong khi nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn và là cơ sở cho ngân hàng thực hiện các hoạt động tạo ra doanh thu.
Nguồn vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ), bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận chính: Vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá; ngoài ra nguồn vốn của NHTM còn từ vốn vay của các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng trung ương, và nguồn vốn khác. Trong đó tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng các đó ngân hàng huy động tình của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Nhờ hoạt động huy động vốn ngân hàng tạo ra được luồng tiền để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ sử dụng vốn, tạo ra thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy huy động vốn là một trong hai hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng nhất.
Các hoạt động tín dụng rất phong phú, bao gồm các hoạt động: tín dụng cho vay, bảo lãnh, tín dụng thuê mua, …
Trong đó, cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của NHTM. Đặc biệt đối với các NHTM Việt Nam, doanh thu từ cho vay đóng góp từ 40-50% vào tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này cũng đem lại nhiều rủi ro cho NHTM, vì vậy các ngân hàng luôn tìm mọi cách nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo mục tiêu sinh lợi và cân bằng rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc áp dụng từng loại cho vay thuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng.
Nghiệp vụ trung gian khác của NHTM
NHTM hiện đại không chỉ tập trung vào cho vay mà còn cung cấp nhiều loại dịch vụ đa dạng, có thể điểm ra một số loại hình dịch vụ sau:
Thanh toán qua ngân hàng: gồm thanh toán quốc tế và thanh toán qua biên giới.
Mua bán ngoại tệ: khi giao thương ngày càng phát triển, các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ để giao dịch
Dịch vụ thẻ
Dịch vụ tài khoản thanh toán
Trả lương qua tài khoản
SMS banking, Phone banking, Internet banking…
1.2 Những vấn đề chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Khái niệm DNN&V đã được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu nhưng việc xác định các tiêu thức phân loại vẫn chưa được thống nhất. Để phân biệt DNN&V với doanh nghiệp lớn, người ta thường căn cứ vào các tiêu thức như: Tổng vốn đầu tư, giá trị tài sản cố định, số lượng lao động thường xuyên, giá trị bằng tiền của hàng hoá hay dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động. Tuỳ vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà các tiêu thức để phân biệt được lựa chọn, tuy nhiên phổ biến là:
Số lao động thường xuyên được sử dụng
Tổng số vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam cũng dựa chủ yếu trên hai tiêu thức là vốn và lao động. Trước đây, theo văn bản số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ, DNN&V là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng và số lao động thường xuyên không quá 200 người. Cùng với sự phát triển của đất nước và ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, số lượng các doanh nghiệp ngày một tăng, có không ít doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng chưa đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/201 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNN&V quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”.
Như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân đăng kí hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; Các hợp tác xã đăng kí hoạt động theo Luật hợp tác xã; Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị điịnhsố 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/200 của Chính Phủ về đăng kí kinh doanh thoả mãn ít nhất một trong hai tiêu thức: vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng, lao động trung bình năm không quá 300 người thì đều được coi là DNN&V.
1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp thì nó còn có những đặc điêm riêng nổi bật, đó là: quy mô nhỏ, vốn đầu tư không lớn, công nghệ ít hiện đại, lao động ít, trình độ quản lý thấp, năng lực cạnh tranh yếu… Những đặc điểm đó là hạn chế song cũng là một lợi thế của DNN&V.
1.2.2.1 Quy mô sản xuất nhỏ nên có tính năng động, linh hoạt, song cơ sở vật chất, kĩ thuật, thiết bị công nghệ thường yếu kém lạc hậu.
* Qui mô nhỏ và vừa có tính năng động, linh hoạt và tự do sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
So với doanh nghiệp lớn, DNN&V năng động trước những thay đổi liên tục của thị trường. Với quy mô và cơ sở vất chất hạ tầng đồ sộ, các doanh nghiệp lớn thường khó thay đổi kịp thời theo sự chuyển biến nhu cầu của thị trường. Ngược lại, DNN&V với cơ chế năng động có khả năng chuyển hướng kinh doanh, thay đổi công nghệ và chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn.
Một lợi thế đáng kể nữa là DNN&V khi chuyển địa điểm sản xuất không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Vì vậy DNN&V thường được xây dựng gần các vùng nguyên liệu, tiếp cận được thị trường, có thể đáp ứng được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương,… giúp DNN&V tiết kiệm được tối đa những chi phí trong quá trình vận chuyển, bảo quản.
Quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm đa dạng, phong phú nên số lượng một loại sản phẩm sản xuất ra thường không lớn, mặt khác, phần lớn các sản phầm của DNN&V là những mặt hàng cần thiết, phục vụ đời sống, sinh hoạt của xã hội nên có khi khủng hoảng kinh tế thì DNN&V bị tác động ít hơn so với doanh nghiệp lớn và thường không gây thua thiệt quá lớn cho doanh nghiệp.
*Tuy nhiên, do quy mô sản xuất nhỏ nên DNN&V khó có khả năng tiếp cận với công nghệ hiện đại. Vì vậy cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hậu.
Do khả năng tài chính và trình độ hạn chế, thông thường các DNN&V chỉ sử dụng các công nghệ trung bình, đơn giản nên năng suất lao động thấp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Rất ít DNN&V được trang bị công nghệ hiện đại, trừ một số doanh nghiệp liện doanh với nước ngoài. So với doanh nghiệp lớn, DNN&V rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị quốc tế. Do thiếu thông tin về thị trường này, các DNN&V cũng khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả giúp học cải tiến và nâng cao sức cạnh tranh.
Hiện nay, các DNN&V đã có sự đổi mới công nghệ như dùng điện vào sản xuất và gắn liền với đó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp hiện vẫn còn lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp nhiều khó khăn trong nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
1.2.2.2 DNN&V có vốn đầu tư không lớn, thu hồi vốn nhanh song thường gặp khó khăn trong việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
DNN&V khi mới thành lập, ngoài số vốn hiện có của chủ doanh nghiệp, có thể huy động từ anh em, họ hàng… Ngoài ra trong quá trình hoạt động, DNN&V luôn kêu gọi vốn đầu tư; và với tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng nên DNN&V có thể thu hút được vốn trong dân cư.
Tuy nhiên, trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận được các nguồn tài chính khác nhau để mở rộng sản xuất kinh doanh thì các DNN&V lại gặp khó khăn trong việc huy động vốn, do đó các DNN&V khó có điều kiện cải tiến công nghệ sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ở Việt Nam hiện nay, sự thiếu vốn của các DNN&V đã và đang diễn ra trên bình diện khá rộng. Bởi hầu hết vốn tự có của các DNN&V đều rất nhỏ, hạn hẹp, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ. Mặt khác thị trường vốn dài hạn nước ta chưa phát triển, thị trường chứng khoán tuy mới nổi nhưng hoạt động chưa ổn định; thêm vào đó, điều kiện hút vốn từ thị trường chứng khoán đối với DNN&V là rất khó khăn và hiếm hoi. Trong đó khả năng và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn tín dụng khác đối với các DNN&V cũng bị hạn chế do chưa có uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ, thêm vào đó các doanh nghiệp thường không đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp, về báo cáo tài chính cũng như kế hoạch sản xuất, kinh doanh… nên các NHTM cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại khi đưa ra quyết định cho vay đối với khách hàng này.
1.2.2.3 DNN&V có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp, nhưng thường là lao động phổ thông, trình độ tay nghề thấp.
Do hầu hết các DNN&V sử dụng thiết bị công nghệ đơn giản nên máy móc chưa thay thế được con người và không đòi hỏi người lao động phải có tay nghề cao. Mặt khác, ở một số ngành sản xuất kinh doanh như ngành thủ công mỹ nghệ đòi hỏi phải có bàn tay trực tiếp của con người mà máy móc không thay thế được. Vì vậy, các DNN&V góp phần không nhỏ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt tại khu vực nông thôn và khu vực đô thị hoá, vùng sâu, vùng xa, kinh tế chậm phát triển.
Tuy nhiên, lao động trong DNN&V chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ tay nghề, kỹ thuật thấp, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, chưa qua đào tạo bình quân chiếm khoảng 60-70%. Ở một số vùng nông thôn, số được đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10%. Đó cũng là một trong những khó khăn khi DNN&V đưa dây truyền công nghệ tiên tiến vào mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.2.2.4. Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ linh hoạt song trình độ chưa cao.
Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNN&V gọn nhẹ, linh hoạt: công tác điều hành mang tính trực tiếp. Song trình độ, năng lực quản lý ở các DNN&V còn bị hạn chế và mang tính chất gia đình nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác điều hành doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức của các DNN&V thường đơn giản, gọn nhẹ. Các quyết định được thực hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy tiết kiệm được nhiều chi phí quản lý doanh nghiệp.
Quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các DNN&V khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt. Các lao động dễ dàng trao đổi với nhau và với lãnh đạo, đề xuất những ý tưởng mới lạ đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp mà số lao đọng không lớn lắm, người lãnh đạo doanh nghiệp có thể nắm được khẳ năng làm việc cũng như đời sống tinh thần của từng thành viên, nhờ vậy điều chỉnh vị trí công việc của người lao động để tận dụng được hết khả năng của họ.
Tuy nhiên do trình độ, năng lực quản lý ở các DNN&V chưa cao, còn mang nặng tính gia đình chủ nghĩa nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác điều hành doanh nghiệp. Nhiều chủ DNN&V không có kiến thức quản lý, không có trình độ chuyên môn, thậm trí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dựng phương án phát triển kinh doanh, lập dự án đầu tư hay làm thủ tục xin vay vốn ngân hàng theo quy đinh. Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị yếu nên không nắm bắt kịp tình hình biến đổi bên ngoài doanh nghiệp như: tình hình nguyên liệu, mặt hàng, trình độ công nghệ, các đố thủ cạnh tranh…
Nhìn lại đội ngũ các chủ DNN&V ở nước ta hiện nay cho thấy, họ có nhiều bất cập với đòi hỏi kinh doanh trong thương trường hiện đại. Về trình độ văn hoá: chủ doanh nghiệp có trình độ văn hoá trung học cơ sở khoảng 45-50%; trình độ cấp tiểu học 10-15%, thâm chí cá biệt có người chưa đọc thông viết thạo; Số có trình độ văn hoá phổ thông trung học, cao đẳng và đại học chiếm khoảng 30-35%. Về trình độ quản lý, chỉ có 2-3% chủ DNN&V được đào tạo kiến thức quản lý doanh nghiệp chính quy, 20-30% được tập huấn, đào tạo ngắn hạn (dưới 6tháng), còn đại bộ phận quản lý doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm.
Đây là điểm yếu cơ bản mà bản thân các chủ DNN&V rất khó khắc phục nên rất cần sự giúp đỡ, hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các hiệp hội doanh nghiêp và các tổ chức phi chính phủ.
1.2.2.5. Khả năng cạnh tranh yếu
Khả năng cạnh tranh của các DNN&V yếu do hạn chế về vốn, quy mô, trình độ lao động, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông tin và khả năng tiếp cận thị trường.
Vốn ít, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, công nhân lành nghề ít, trình độ quản lý thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm… làm yếu năng lực cạnh tranh của DNN&V
Mặt khác, do còn mang nặng tư tưởng làm ăn tiểu nông, cá thể nên các DNN&V chưa thấy hết được sự cần thiết của việc liên doanh, liên kết các doanh nghiệp trong sản xuất, trong tìm kiếm thị trường, phân phối hàng hoá… tạo ra sức mạnh tập thể trong cạnh tranh.
Với thực trạng này, các DNN&V đang và sẽ chịu nhiều thua thiệt trong quá trình hội nhập. Thực tế thời gian qua cho thấy: DNN&V chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm của mình, mẫu mã hàng hoá xuất khẩu không đa dạng, chất lượng thấp, không đồng đều, khả năng tiếp thị kém, rất ít doanh nghiệp giao dịch được qua mạng Internet, giới thiệu chào hàng trực tuyến, tham gia hội trợ triển lãm,… nên chưa tạo được uy tín trên thị trường. Do thiếu thông tin thị trường và liên kết lỏng lẻo, nên các DNN&V thường bị ép giá khi kí hợp đồng xuất khẩu, hoặc phải xuất khẩu qua đối tác trung gian nên không bán được giá cao. Thực trạng thiếu am hiểu về luật pháp quốc tế và tập quán thương mại quốc tế gây cho doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNN&V Việt nam nhiều thua thiệt trong quá trình tiếp cận thị trường nước ngoài. Điều này xảy ra không chỉ với DNN&V mà còn xảy ra cả với những thương hiệu hàng hoá nổi tiếng trong nước như: việc mất thương thiệu Cà phê Trung Nguyên ở Mỹ , nước mắm Phú Quốc ở Thái Lan…. ; hay bị cạnh tranh thiếu lành mạnh từ những nhà sản xuất hàng hoá tại nước nhập khẩu như trường hợp chúng ta bị kiện về bán phá giá cá Tra, cá Ba Sa, và gần đây là đồ gỗ xuất khẩu, giày dép da…
Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với các DNN&V là phải tìm mọi giải pháp vừa nâng cao sức cạnh tranh trong nước vừa cạnh tranh với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, đã và đang nhập khẩu vào nước ta ngày càng nhiều.
Thị trường của DNN&V thường nhỏ bé và không ổn định, lại phải chia sẻ với nhiều doanh nghiệp khác.
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNN&V Việt Nam hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cùng với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn, số lượng DNN&V lại quá nhiều đẩy DNN&V tới tình trạng bị chia sẻ thị trường tiêu thụ.
1.2.3 Vai trò của DNN&V
Theo số liệu thống kê của viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, đến hết năm 2007, khối kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó chủ yếu là DNN&V đã đóng góp 47% vào tổng thu nhập toàn bộ nền kinh tế, DNNN chíem 38%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 15%. Hàng năm, DNN&V chiếm tới 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, sản xuất ra 100% sản lượng của một số loại sản phẩm công nghiệp
Thứ nhất: DNN&V chiếm số lượng đông đảo và ngày càng gia tăng mạnh.
Ở hầu hết các nước, số lượng DNN&V chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNN&V cũng nhanh hơn số lượng các doanh nghiệp lớn.
Ở nước ta hiện nay, theo số liệu thống kê, doanh nghiệp quy mô lớn không nhiều, chỉ có 0,6% số doanh nghiệp có từ 1000 lao động trở lên và ngần 0,4% số doanh nghiệp có vốn từ 500tỷ đồng trở lên, những doanh nghiệp này thường là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó doanh nghiệp có dưới 300 lao động chiếm 87,8%; doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 95,6 %.
DNNN (phần lớn là doanh nghiệp lớn) tuy vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước song qua nhiều năm sắp xếp lại đã giảm về số lượng doanh nghiệp. Trong đó kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đến cuối năm 2007 đã có trên 250.000 doanh nghiệp (hầu hết là DNN&V) gấp 5 lần năm 2000 và hơn 5 lần tổng số doanh nghiệp tư nhân được thành lập từ 1991 đến 1999 cộng lại.
Thứ hai: Sản phẩm hàng hoá của DNN&V phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của mọi tầng lớp dân cư.
DNN&V hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành phần kinh tế, sức lan toả của DNN&V vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất lớn. Do có quy mô nhỏ, DNN&V có thể hoạt động kinh doanh ở trong cả các lĩnh vực mà các doanh nghiệp lớn không muốn tham gia hoạc không thể vươn tới nên nó có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu về sản phầm dịch vụ dù là nhỏ nhất của mọi tầng lớp xã hội. Theo số liệu thống kê thì các DNN&V sản xuất kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực, cung cấp 80% sản phẩm cho nền kinh tế, sản xuất ra 100% sản lượng của một số loại sản phẩm thủ công nghiệp.
Thứ ba: DNN&V có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế, tăng thu ngân sách Nhà nước.
DNN&V đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước. Ở Việt Nam, theo những số liệu hiện có, các DNN&V đã huy động được 57.327 tỷ đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và tạo được gần 10 triệu chỗ làm việc cho người lao động. Doanh thu của các DNN&V đạt khoảng 149 tỷ đồng và nộp 6,3 tỷ đồng tiền thuế. Các DNN&V đã đóng góp khoảng 26% GDP, 47% tổng thu nhập toàn bộ nền kinh tế đóng góp khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu, thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Thứ tư: Tác động kinh tế - xã hội lớn nhất của DNN&V là góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển đô thị nhỏ, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Do đặc điểm của các DNN&V là việc áp dụng các máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ ở mức thấp, chưa mang tính tự động cao nên máy móc hiện đại chưa thay thế được con người, mặc khác, có một số ngành sản xuất kinh doanh của DNN&V đòi hỏi phải có bàn tay trực tiếp của con người (như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ….) do đó các DNN&V cần một lượng lao động rất lớn và thường xuyên tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động. Vì vậy DNN&V có khả năng thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập, đảm bảo đời sống cho người lao động.
Ở hầu hết các nước, DNN&V tạo công ăn việc làm cho khoảng 50-80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, trong nhiều thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực DNN&V lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao đọng mới cao hơn doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, thì số lao động của các DNN&V trong các lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người, chiếm tới 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 26% lực lượng lao động của cả nước. Đặc biệt trong quá trình đô thị hoá hiện nay thì DNN&V thực sự là một giải pháp hữu hiệu, chủ yếu tạo thu nhập và việc làm cho số lao động nông thôn không còn đất sản xuất, hạn chế tình trạng dân nông thôn đổ về thành thị, làm phát sinh các vấn đề xã hội phức tạp. Mặt khác đây cũng chính là khu vực thu hút lao động là sinh viên mới ra trường và điều này đã góp phần giải quyết một trong những bức xúc của chúng ta hiện nay.
Thứ năm : DNN&V góp phần làm nền kinh tế năng động và hoạt động hiệu quả hơn.
Do yêu cầu vốn ít, quy mô nhỏ, DNN&V có khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất cho phù hợp với sự thay đổi của thị trường. Đồng thời với sự gia tăng các DNN&V là sự gia tăng số lượng và chủng loại hàng hoá, dịch vụ, làm cho nền kinh tế năng động hơn.
Mặt khác, trong nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp lớn không thể vươn tay đến mọi khâu trong quá trình sản xuất. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã không cho phép doanh nghiệp lớn khép kín chu kì sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả. Do đó với vai trò vệ tinh của mình, các DNN&V cũng sẽ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lớn từ cung ứng đầu vào, gia công chế biến đến tổ chức tiêu thụ hàng hoá thông qua các cửa hàng bán buôn, bán lẻ. Với lợi thế sẵn có, DNN&V đã thực hiện vai trò trung gian trong lưu thông hàng hoá rất tốt, viìhệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ nhỏ và vừa đặt ở khắp các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Số liệu thống kê cho thấy hàng năm DNN&V chiếm tới 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. Sự hợp tác giữa DNN&V và các doanh nghiệp lớn không những mang lại lợi ích cho các DNN&V mà còn giúp cho các doanh nghiệp lớn tiết kiệm thời gian và chi phí để tập trung sản xuất, tận dụng lợi thế về quy mô và công nghệ của mình để phát triển trong cơ chế thị trường. Từ đó làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.
Thứ sáu: DNN&V có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác thế mạnh, tiềm năng của từng vùng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tại địa phương.
Xuất phát từ lợi thế quy mô nhỏ và vừa thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp ở mọi nơi nên tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng mà các DNN&V ra đời, lựa chọn các mặt hàng sản xuất, kinh doanh sao cho có thể khai thác thế mạnh, tiềm năng của từng vùng một cách tốt nhất để phục vụ người tiêu dùng và tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, trong quá trình sản xuất, kinh doanh các DNN&V luôn kêu gọi vốn đầu tư vớ tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán và đi sâu vào các ngõ, ngách, bản làng nên DNN&V có thể thu hút được vốn trong dân cư, tạo cơ hội cho dân cư địa phương đầu tư sinh lời từ lượng tiền nhàn rỗi nhỏ bé của mình.
Bên cạnh đó, DNN&V đã thu hút được các nguồn lực khác như: sức lao động, tài nguyên đất, rừng, khoán sản và khai thác nguyên liệu sản xuất sẵn ._.có tại địa phương… đưa vào sản xuất, phát triển kinh tế vùng, phát huy và tận dụng thế mạnh của từng địa phương.
Trong những năm qua, DNN&V đã khơi dậy và làm sống lại các ngành nghề truyền thống của từng địa phương, làm sống lại nhiều làng nghề đã từng bị mai một theo thời gian, đặc biết là đối với nghề thủ công mỹ nghệ như: trạm khắc gỗ, mây tre đan, giốm sứ mỹ nghệ, dệt may, cói xuất khẩu… Mặt khác, đối với một nước nông nghiệp chưa có nhiều vùng chuyên canh như nước ta thì việc phát triển ngành Công nghiệp chế biên sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản là hết sức cần thiết và mô hình DNN&V là lựa chọn đúng đắn, có hiệu quả.
Thứ bảy: DNN&V có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thức hiện đô thị hoá phi tâm trung và phương châm “ly nông bất ly hương”.
DNN&V đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNN&V ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNN&V còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp.
Sự phát triển của các DNN&V ở nông thôn sẽ thu hút những người lao đọng thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ nhưng vẫn sống ngay tại quê hương bản quán, không phải di chuyển đi xa, thực hiện được phương châm “ly nông bất ly hương”. Đồng hành với nó là xu hướng hình thành những khu vực khá tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay ở nông thôn, tiến dần lên hình thành những khu thị tứ, thị trấn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê.
1.3 Tín dụng NHTM với DNN&V
1.3.1 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
1.3.1.1 Khái niệm
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách niệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng trong đó bên cho vay là các tổ chức tín dụng và bên đi vay là các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có sở để tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện.
1.3.1.2 Phân loại
Các hình thức tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú. Sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện làm xuất hiện các hính thức tín dụng mới, do đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và pháp luật của mỗi nước mà việc áp dụng các hình thứ tín dụng ở các nước có khác nhau.
Có nhiều cách phân loại tín dụng, chẳng hạn như: theo thời hạn tín dung (Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) theo đối tượng tín dung (Tín dụng vốn lưu động, vốn cố định) Theo mục đích sử dụng vốn (tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng tiêu dùng)
Trên thực tế người ta thường dựa vào tính chất và đặc điểm của nghiệp vụ cho vay để phân loại tín dụng.
- Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng, bằng nội tệ hay ngoại tệ với các nội dung được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng chiết khấu: Trong các nước có nền kinh tế thị trường, kỳ phiếu thương mại được phát hành và lưu thông theo quy định của luật pháp.
Người có kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán, nếu cần tiền có thể bán cho NHTM. NHTM mua kỳ phiếu thương mại với giá bằng hiệu số giữa mệnh giá ghi trên kỳ phiếu trừ đi lãi suất, hoa hồng và các khoản chi phí khác.
- Tín dụng cầm đồ: Tín dụng cầm đồ là loại cho vay có thế chấp bằng bất động sản hoặc bằng động sản. Tài sản cầm đồ có thể phải đem đến ngân hàng cất giữ, trường hợp đặc biệt có thể để ở kho chuyên dụng hoặc giao cho người vay giữ. Tài sản cầm dồ được đánh giá không phải bằng đúng giá trị của nó mà thường được đánh giá thấp hơn để khi rủi ro có thể bán được ngay đủ bằng số nợ gốc và lãi, và NHTM thường cũng chỉ cho vay một khoản tương ứng với tỷ lệ phần trăm giá trị của tài sản cầm đồ. Các tài sản dùng để cầm đồ rất đa dạng, có thể là: chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn, hàng hoá, kim loại quý, sổ tiết kiệm, quyền sử dụng đất…
- Tín dụng trả nhiều lần: Tín dụng trả nhiều lần là loại cho vay mà điều kiện trả nợ được phân ra nhiều thời hạn, mỗi thời hạn trả một phần.
- Tín dụng bảo lãnh: là loại cho vay phát sinh do ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua (người được bảo lãnh) không có khả năng thanh toán số nợ. Ngân hàng thu phí dịch vụ bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Hình thức bảo lãnh của ngân hàng rất đa dạng: Bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bán chịu hàng hoá, bảo lãnh thuế…
- Tín dụng thuê mua: Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê mua rất phát triển. Đây là hình thức tín dụng cho người khác tạm sử dụng tài sản của người cho thuê trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn, người đi thuê phải trả lại tài sản đó hoặc có thể mua lại. Có rất nhiều hình thức cho thuê như: cho thuê tài chính, cho thuê hoạt động… Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí, các loại thuế và lãi kinh doanh. Tuỳ từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau.
Tín dụng thuê mua có nhiều ưu điểm, đặc biệt là tạo điều kiện cho các nhà sản xuất kinh doanh thiếu vốn mở rộng sản xuất, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới hoặc thực hiện chiến lược cạnh tranh trên thị trường. Trong điều kiện mà người đi vay không có tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì hình thức tín dụng này rất phù hợp. Song trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật, quản lý của ngân hàng đòi hỏi rất cao. Môi trường pháp luật phải đồng bộ và đầy đủ.
Tóm lại có thể thấy rằng, các NHTM luôn luôn tìm cách sang tạo ra các hình thức tín dụng mới phù hợp và đáp ứng được nhu cầu của quá trình tái sản xuất, nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở rộng tín dụng, thu hút thêm nhiều khách vay, tăng thêm lợi nhuận và phân tán, giảm thấp rủi ro.
1.3.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2.1 Ngân hàng hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đầu tư mở rộng sản xuất theo chiều rộng và sâu là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nó riêng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu và sự tích luỹ trong nội bộ từng doanh nghiệp thì sẽ tốn nhiều thời gian, không thể đáp ứng được nhu cần sản xuất kinh doanh. Vì vậy các doanh nghiệp đều phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác.
Trên lý thuyết có 3 phương pháp chủ yếu để tìm nguồn tài trợ cho doanh nghiệp đó là: tăng nguồn vốn chủ sở hữu, vay có kỳ hạn và thuê (thuê mua). Sau đây sẽ phân tích kĩ điểm mạnh và điểm yếu của ba phương thức tài trợ này, từ đó có thể thấy vai trò quan trọng của ngân hàng trong hỗ trợ vốn cho DNN&V.
Tăng vốn chủ sở hữu là biện pháp an toàn nhất và ít tốn kém chi phí vốn nhất bởi có thể huy động từ các cổ đông hiện hữu, hoặc huy động trên thị trường chứng khoán, số vốn này không gây ra chi phí vốn cho doanh nghiệp (trừ chi phí để huy động ban đầu). Tuy nhiên, biện pháp này thường không áp dụng được với các DNN&V vì thực tế người chủ doanh nghiệp hoặc các cổ đông chỉ có lượng tài chính hạn chế, họ không có khả năng bỏ ra nhiều vốn hơn số vốn họ đã đóng góp vào doanh nghiệp. Tìm kiếm vốn trên thị trường chứng khoán với các DNN&V lại càng là điều không tưởng bởi quy mô hạn hẹp, uy tín chưa có và trình độ hạn chế. Vì vậy DNN&V vốn không có nhiều lựa chọn, thường tìm đến ngân hàng, trung gian tài chính này có thể cung cấp vốn nhanh nhất (sau khi doanh nghiệp đã thoả mãn một điều kiện).
Ở các nước công nghiệp phát triển, thuê mua là một biện pháp đơn giản và thuận lợi, thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt là cho các DNN&V thường gặp nhiều khó khăn khi vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Nó có tác dụng thay thế các khoản vay có bảo đảm và giảm rủi ro cho các khoản tài trợ trung hạn đối với các doanh nghiệp nhỏ không có báo cáo hoạt đông kinh doanh và báo cáo kiểm toán. Song ở Việt Nam hiện nay, đây là hình thức tài trợ vốn mới mẻ, chưa phát triển. Các DNN&V Việt Nam còn chưa quen với hình thức này, vì vậy chủ yếu họ vẫn cần đến ngân hàng để vay vốn trung và dài hạn.
Ngoài ra các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng khi quy mô tài trợ quá lớn thì rủi ro của quan hệ tín dụng này sẽ rất lớn. Mặt khác tín dụng thương mại còn mang tín dây chuyền, nên khi một doanh nghiệp không có khả năng thanh toán sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của hàng loạt các doanh nghiệp khác và tác động xấu đến kinh tế xã hội. Về lý thuyết có thể thấy, tín dụng thương mại bị hạn chế bởi phương hướng, quy mô và thời hạn. Về phương hướng, tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện được khi có sự phù hợp về nhu cầu hàng hoá. Các doanh nghiệp chỉ có thể cung cấp giới hạn trong phạm vi khả năng của mình. Và cuối cùng, vốn vay là một bộ phận nằm trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của người cho vay nên không thể kéo dài thời hạn.
Vốn ngân hàng, ngược lại có thể giải quyết những hạn chế trên, nguồn vốn ngân hàng huy động là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nên có đủ khả năng tài trợ cả vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn, đảm bảo cho doanh nghiệp không chỉ đủ duy trì sản xuất mà còn tái sản xuất mở rộng, đồng thời không bị giới hạn bởi phương hướng và quy mô.
Thực tế cho thấy, ngay cả ở những nước công nghiệp phát triển, thì tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vẫn quan trọng hơn nhiều so với thị trường chứng khoán. Ví dụ như ở Mỹ, vốn mà các công ty vay từ những trung gian tài chính gần gấp hai lần so với vốn nhận từ thị trường chứng khoán. Những nước ít sử dụng thị trường chứng khoán nhất là Đức và Nhật, ở hai nước này, vốn vay từ những trung gian tài chính hầu như gấp mười lần so với nhận từ thị trường chứng khoán. (Theo F.S. Mishkin- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính)
1.3.2.2 Tín dụng ngân hàng giúp các DNN&V tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng là nguyên tắc hoàn trả đủ gốc và lãi theo thời gian quy định; do đó thúc đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo lợi nhuận trả được nợ ngân hàng và có tích luỹ, đảm bảo tiến trình hoạt động và có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Vì vậy, để được vay vốn ngân hàng, trước hết doanh nghiệp phải khẳng định được kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
Hơn nữa, tín dụng ngân hàng với quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đã giám sát chặt chẽ tiến độ và việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đúng mục đích nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần buộc doanh nghiệp làm ăn đúng đắn thông qua việc kiểm tra định kỳ hoặc kiểm tra qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng cũng giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, tư vấn cho doanh nghiệp hoạt đông hiệu quả hơn, đảm bảo khả năng thu hồi vốn của mình.
Có thể nói: nguồn vốn tín dụng ngân hàng mang lại rất nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng. Nó không những đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường mà nó còn làm cho các doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với nguồn vốn vay, từ đó có ý thức sử dụng vốn một cách hiệu quả, tích cực, tiết kiệm và đúng mục đích. Hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp là hoạt động mang lại lợi ích tích cực hai chiều, một mặt thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, mặt khác giúp cho ngân hàng thu được nguồn lợi đáng kể từ các khoản cho vay. Do dó có thể nói rằng, tín dụng ngân hàng không những có vai trò tích cực đối với các doanh nghiệp mà còn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế quốc gia.
Tóm lại: Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng DNN&V đã khẳng định được vai trò và ảnh hưởng to lớn của mình đối với nền kinh tế. Nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, khai thác thế mạnh tiềm năng của từng vùng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tại địa phương, đóng góp một phần không nhỏ trong nguồn thu ngân sách Nhà nước, DNN&V góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần đắc lực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. Sản phẩm hàng hoá của DNN&V phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
DNN&V được Chính phủ xác định là trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế quốc gia. Theo kế hoạch đến năm 2010 Việt Nam sẽ có khoảng 500.000 DNN&V. Sự phát triển DNN&V là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên để DNN&V phát triển nhanh chóng và toàn diện không thể thiếu vai trò của tín dụng ngân hàng. DNN&V phát triển mở ra một thị trường đầu tư đầy tiềm năng và hấp dẫn đối với các NHTM và các tổ chức tài chính khác. Song để khai thác một cách có hiệu quả thị trường này, ngoài sự quan tâm đầu tư của chính phủ còn đòi hỏi sự vươn lên của cả ngân hàng và doanh nghiệp.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng cho DNN&V của NHTM
1.4.1 Các nhân tố khách quan
Các nhân tố từ môi trường vĩ mô như sự phát triển của thị trường tài chính, tình hình kinh tế chính trị quốc gia nói chung, hệ thống các văn bản pháp quy và chính sách điều hành của NHNN trong từng thời kì sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng cho DNN&V của NHTM.
Nhóm các nhân tố từ DNN&V như nhận thức của chủ doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ công nghệ… Thực tế các NHTM luôn có nhu cầu cho vay DNN&V nhưng chính các doanh nghiệp này lại không đảm bảo được những điều kiện an toàn bắt buộc trong nghiệp vụ ngân hàng.
1.4.2 Các nhân tố chủ quan
Để mở rộng cho vay DNN&V, trình độ công nghệ ngân hàng cũng phải phát triển tương xứng để thẩm định, quản lý các món vay, giảm thiểu rủi ro. Thủ tục cho vay càng đơn giản càng hấp dẫn khách hàng là DNN&V.
Bên cạnh đó là đội ngũ nhân viên tín dụng, có tâm, có tài, nhiệt tình giúp đỡ các DNN&V.
Uy tín của ngân hàng nói chung cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng. Công tác marketing ngân hàng cần được quan tâm. Chính sách marketing ở đây bao gồm cả chính sách cho vay đối với DNN&V (chính sách lãi suất, chính sách ưu đãi, …) và công tác tiếp thị ngân hàng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNN&V Ở SỞ GIAO DỊCH NHNo VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu khái quát về Sở giao dịch NHNoViệt Nam
2.1.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển Sở giao dịch
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development, viết tắt là AGRIBANK) là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản, thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt. Theo báo cáo của UNDP năm 2007, Agribank cũng là doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
NHNoViệt Nam được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988. Lúc mới thành lập, ngân hàng này mang tên Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1990, ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1996, ngân hàng lại được đổi tên thành tên gọi như hiện nay.
Agribank hiện có 9 công ty hạch toán độc lập và đang có kế hoạch thành lập thêm công ty bảo hiểm phi nhân thọ và công ty thương mại du lịch. Tuy nhiên, nhiệm vụ trọng tâm của Agribank sau khi trở thành tập đoàn tài chính vẫn là cho vay kinh tế hộ gia đình.
Sở Giao dịch NHNoViệt Nam là đầu mối của NHNoViệt Nam thực hiện một số chức năng theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc, đồng thời kinh doanh trực tiếp trên địa bàn Hà nội.
Sở giao dịch được thành lập trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại sở kinh doanh hối đoái NHNoViệt Nam theo quyết định số 232/QĐ/HĐQT-02 ngày 13/05/1999 của Chủ tịch HĐQT NHNoViệt Nam. Theo quy chế tổ chức và hoạt động, Sở giao dịch là đầu mối thực hiện các nghiệp vụ theo uỷ quền của NHNoViệt Nam và kinh doanh trực tiếp như một chi nhánh NHNoViệt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội. Sở giao dịch có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà nội.
Để mở rộng mạng lưới, thị phần năm 2002 Sở giao dịch đã thành lập 2 phòng giao dịch: Phòng giao dịch Cát Linh và phòng giao dịch Cửa Nam. Năm 2004 thành lập phòng giao dịch Hai Bà Trưng. Trong năm 2005, thành lập phòng giao dịch Kim Liên, sát nhập phòng giao dịch Cửa Nam vào phòng giao dịch Hai Bà Trưng.
Từ một đơn vị có quy mô hoạt động nhỏ, nguồn vốn huy động khi mới thành lập năm 1999 chỉ có 564 tỷ đồng, đến 31/12/2005 đã lên tới 6488 tỷ đồng; tổng dư nợ khi mới thành lập chỉ là 183 tỷ đồng, đến 31/12/2005 lên tới 2.051 tỷ đồng, trong đó dư nợ DNN&V là 759 tỷ chiếm 37% tổng dư nợ.
Trong những năm qua, Sở giao dịch đã thực hiện chủ trương đầu tư trọng điểm vào các ngành, các lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh cao trong nước và tham gia hội nhập như ngành bưu điện, bưu chính viễn thông, dầu khí, giao thông… Lựa chọn những khách hàng có tình hình sản xuất, kinh doanh ổng định, tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao thích ứng với thị trường đầu tư vốn.
Sau 9 năm hoạt động, Sở giao dịch đã sớm ổn định và củng cố tổ chức bộ máy theo quy chế tổ chức và hoạt động mới, đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Nhiều cơ chế, quy trình và các nghiệp vụ mới trong kinh doanh của một NHTM hiện đại đã được áp dụng và hoạt động có kết quả tốt, đáp ứng được nhu cầu hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống và xu thế hội nhập của ngành ngân hàng trong giai đoạn mới.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch
Biểu đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy Sở giao dịch.
Ban gi¸m ®èc
C¸c phßng chuyªn m«n
nghiÖp vô
Phßng Kinh doanh ngo¹i tÖ vµ thanh to¸n
quèc tÕ
Phßng TÝn
dông
Phßng
Nguån
vèn vµ
kÕ
ho¹ch
tæng
hîp
Phßng
KÕ
to¸n
ng©n
quü
Phßng Hµnh chÝnh nh©n
sù
Phßng vi tính
Tæ
KiÓm
tra,
kiÓm
to¸n
néi
bé
C¸c phßng giao dÞch
Tổ tiếp thị nguồn vốn và dịch vụ sản phẩm mới
Tính đến ngày 31/12/2007, Sở giao dịch có 123 nhân viên, làm việc trong tám phòng ban chính và các phòng giao dịch.
Chức năng và nhiệm vụ chính của Sở giao dịch
Đầu mối quản lý ngoại tệ mặt của NHNoViệt Nam.
Đầu mối đồng tài trợ và các dự án uỷ thác đầu tư của NHNoViệt Nam khi được tổng giám đốc giao.
Tiếp nhận các nguồn vốn uỷ thác đầu tư của Chính phủ, các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài ngước tham gia các dự án đồng tài trợ.
Theo dõi, hạch toán kế toán các khoản vốn uỷ tác đầu tư của NHNoViệt Nam.
Huy động vốn:
Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanhtoán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi , trái phiếu, kỳ phiếu và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNoViệt Nam
Được vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng giám đốc NHNoViệt Nam cho phép
Vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo quy định của NHNoViệt Nam .
Cho vay:
Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, dời sống cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm:
Cung ứng các phương tiện thanhtoán.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ
Thực hiện các dịch vu thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện các dịhc vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHNoViệt Nam
Kinh doanh ngoại hối
Huy động vốn và cho vay, mua bán ngoại thệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu các bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và NHNoViệt Nam.
Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng:
Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng theo luật các TCTD, bao gồm: Thu, chi thiền mặt, mua bán vàng bạc; máy rút tiền tự động; dịch vụ thẻ, két sắt, nhận bảo quản, cất giữ chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính tín dụng, tổ chức, cá nhận trong và ngoài nước; các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước, NHNoViệt Nam cho phép.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNoViệt Nam.
Đầu tư dưới các hình thức như: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNoViệt Nam cho phép. Trực tiếp thử nghiệm các dịch vụ sản phẩm mới trong hoạt động kinh doanh của NHNoViệt Nam.
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch.
Từ khi thành lập đến nay, kết quả tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch luôn có chất lượng và có tốc độ tăng trường ổn định, bền vững qua các năm. Thành tích đó được ghi nhận bằng danh hiệu đơn vị lá cờ đầu của hệ thống NHNoViệt Nam và được Chủ tịch nước trao tặng huân chương lao động Hạng Ba năm 2007.
Tính từ năm 2002 đến nay, qua 07 năm, nguồn vốn huy động tại Sở giao dịch NHNoViệt Nam tăng trưởng bình quân 38 % năm; dư nợ tăng trưởng bình quân 72% năm.
Sở giao dịch luôn là đơn vị đi đầu của toàn hệ thống NHNoViệt Nam về ứng dụng công nghệ và phát triển khai sản phầm, tiện ích mới, đã và đang là đối tác tin cậy của đông đảo khách hàng, các tổ chức kinh tế lớn và cá nhân, hộ gia đình.
2.1.3.1 Nguồn vốn huy động
Bảng 1: Nguồn vốn huy động
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
% tăng
(Số tiền)
Số tiền
Tăng
trưởng
Số tiền
Tăng trưởng
BQ qua các năm
Tổng số vốn huy động
6.488
8.221
127%
10.990
134%
56%
Phân theo loại tiền
- Bằng VNĐ
5.236
6.463
123%
9.012
139%
57%
- Bằng ngoại tệ quy đổi
1.252
1.758
140%
1.978
113%
53%
Theo thành phần kinh tế
- Huy động từ dân cư
1.823
2.487
136%
2.859
115%
52%
- Tiền gửi các TCKT
4.541
5.565
123%
7.960
143%
58%
- Tiền gửi, tiền vay các TCTD
124
168
135%
171
102%
46%
Phân loại theo thời gian
- Tiền gửi < 12 tháng
3.043
3.964
130%
6.359
160%
70%
- Tiền gửi > 12 tháng
3.445
4.257
124%
4.631
109%
45%
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007, Mục tiêu, giải pháp hoạt động kinh doanh năm 2008 của Sở giao dịch NHNoViệt Nam – Hà nội, 1/2008.
Nguồn vốn huy động tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ: từ 6.488 tỷ đồng năm 2005 lên tới 10.990 tỷ đồng năm 2007, tăng 4.502 tỷ đồng, với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 56%. So với năm 1999 – năm Sở giao dịch chính thức đi vào hoạt động - tổng nguồn vốn huy động tăng 19,5 lần (năm 1999 là 564 tỷ đồng).
Nguồn vốn huy động được chủ yếu từ dân cư và các tổ chức kinh tế, vì đây là nguồn vốn ổn định, bền vững. Việc nhận tiền gửi, tiền vay đối với các tổ chức tín dụng thường chỉ thực hiện khi nguồn vốn không đủ đáp ứng nhu cầu cho vay và không phải là nguồn vốn ổn định vì vậy nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (năm 2005: 1,9%; năm 2006: 2,04%; năm 2007: 1,55%)
Nguồn vốn huy động có thời hạn từ 12 tháng trở lên tăng trưởng liên tục qua các năm và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn vốn: năm 2005 là 3.445 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 53%, năm 2006 là 4.257 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 51,7%, tăng 124% so với năm trước, năm 2007 là 4.631 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 42,1%, tăng 109% so với năm trước. Theo quy định tại văn bản số 2140/NHNo-KHTH này 1/6/2005 và văn bản số 156/NHno-HĐQT-KHTH này 3/6/2005 thì nguồn vốn này có ưu thế lớn là không phải dự trữ thanh toán và dự trữ bắt buộc nên được sử dụng 100% để cho vay. Chính vì vậy Sở giao dịch đặc biệt quan tâm huy động nguồn vốn này nhằm tạo sự ổn định và nâng cao tỷ lệ sử dụng vốn, đồng thời có điều kiện mở rộng cho vay trung, dài hạn.
Để có kết quả trên, Sở giao dịch đã áp dụng nhiều biện pháp để tăng nguồn vốn huy động như:
- Điều hành tốt lãi suất huy động theo định hướng kinh doanh chung của Sở giao dịch, gia tăng cơ cấu nguồn vốn rẻ bằng cách mở rộng khách hàng tiền gửi của tổ chức, tăng cường nguồn tiền của dân cư bằng chính sách lãi suất, phí giao dịch, khuyến mãi. Trong năm đã 05 lần điều chỉnh lãi suất huy động VND và USD phù hợp với thị trường; Tăng cường thông tin rộng rãi trên các báo, đài truyền hình, in tờ rơi quản cáo để tuyên truyền tới các tổ chức và dân cư về các sản phẩm huy động vốn và tiện ích của Sở giao dịch (mười lăm loại tờ rơi giới thiệu sản phẩm dịch vụ đang triển khai)
- Triển khai thực hiện nối mạng thanh toán điện tử với các TCTD, doanh nghiệp trên địa bàn như ngân hàng An Bình, Ngân hàng CP Quốc tế, HSBC, đang triển khai kết nối thanh toán với Viettel…, nâng cấp chương trình nối mạng thanh toán điện tử với Kho bạc nhà nước để tập trung các khoản thanh toán, tranh thủ các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi.
- Tăng cường tiếp cận và khai thác các khách hàng có tích lũy vốn lớn như VIETSOV PETRO, các dự án ODA, Quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài Bộ Tài Chính, Viettel, Công ly Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt… Triển khai tốt dịch vụ trả lương qua tài khoản. Kết quả huy động được 12 triệu USD và hơn 700 tỷ vốn không kỳ hạn.
Tóm lại, với hình thức huy động vốn phong phú và linh hoạt đã làm cho nguồn vốn huy động tăng trưởng mạnh trong những năm qua, tạo điều kiện cho Sở giao dịch chủ động mở rộng hoạt động đầu tư, cho vay và các hoạt động khác có hiệu quả hơn. Đến 31/12/07 bình quân nguồn vốn đạt 89.3 tỷ đồng/cán bộ
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Bảng 2: Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
Năm 2006
Năm 2007
% tăng
2005 (Số tiền)
Số tiền
Tăng trưởng
Số tiền
Tăng trưởng
BQ qua
các năm
Doanh số cho vay
1.682
3.060
182%
4.960
162%
98%
Doanh số thu nợ
1.147
2.192
191%
3.605
164%
105%
Tăng dư nợ
2.051
2.933
143%
4.290
146%
70%
Phân theo đồng tiền vay
- Bằng VNĐ
1.247
1.597
128%
2.595
162%
69%
- Bằng ngoại tệ quy đổi
804
1.336
166%
1.695
127%
70%
Phân theo thành phần kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước
1.756
2.177
124%
2.569
118%
49%
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
219
673
307%
1.000
149%
152%
- Hộ sản xuất
76
83
109%
721
869%
316%
Phân theo thời gian
- Ngắn hạn
432
919
213%
1.895
206%
146%
- Trung, dài hạn
1.619
2.014
124%
2.395
119%
49%
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007, Mục tiêu, giải pháp hoạt động kinh doanh năm 2008 của Sở giao dịch NHNoViệt Nam – Hà nội, 1/2008.
Hoạt động cho vay của Sở giao dịch có sự tăng trưởng vượt bậc cả về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ, các chỉ tiêu đều có mức tăng gần gấp đôi so với năm trước. Cụ thể:
Doanh số cho vay qua các năm tăng lên đáng kể: năm 2005 là 1.682 tỷ đồng, năm 2007 là 4.960 tỷ đồng, bình quân tăng trưởng qua các năm là 98%.
Doanh số thu nợ cũng tăng lên hàng năm: năm 2005 là 1.147 tỷ đồng, năm 2007 là 3.605 tỷ đồng. Bình quân tăng trưởng qua các năm là 105%.
Tổng dư nợ đến 31/12/2007 đạt 4.290 tỷ đồng tăng 2239 tỷ đồng so với năm 2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 70%. So với năm 1999, tổng dư nợ tăng 23,44 lần (dự nợ năm 1999 là 183 tỷ đồng). Đến 31/12/2007 bình quân dư nợ đạt 89,3 tỷ đồng /cán bộ.
Hiện nay, Sở giao dịch đã mở rộng cho vay đến tất cả các thành phần kinh tế, trong đó dư nợ DNNN tăng trưởng liên tục qua các năm, dư nợ DNN&V có bước tăng trưởng mạnh mẽ và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng dư nợ, năm 2005 là 295 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,3%, năm 2006 là 856 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,1%, năm 2007 là 1.843 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43%. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm đạt tới 208%.
Cơ cấu dư nợ thay đổi, dư nợ trong vay trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ và giảm dần qua các năm: năm 2005 là 1.619 tỷ đồng, chiếm 78.9 %tổng dư nợ, năm 2006 là 2.014 tỷ đồng, chiếm 68,6%tổng dư nợ, năm 2007 là 2.359 tỷ đồng, chiếm 55 % tổng dư nợ.
2.1.3.3. Chất lượng tín dụng
Dư nợ quá hạn đến ngày 31/12/2007 là 20,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,47% tổng dư nợ, so với 31/12/2006 tăng 14,24 tỷ đồng (tỷ lệ tăng 0,27%) Trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 5,8 tỷ đồng, cá nhân là 3 tỷ đồng.
Nợ xấu nhóm III: 10,1 tỷ đồng, nợ xấu nhóm IV: 0,08 tỷ động, nợ xấu nhóm V: 19,5 tỷ đồng. Tổng nợ xấu đến thời điểm 31/12/2007 là 29,7 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ. Nguyên nhân chủ yếu do khách hàng gặp khó khăn về tài chính, tuy nhiên các khoản nợ đề có tài sản đảm bảo nên hạn chế khả năng mất vốn có thể xảy ra. Nhìn chung việc chuyển nợ quá hạn, phân loại nợ được xử lý kịp thời, phản ánh đúng chất lượng tín dụng.
2.1.3.4 Công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ
Công tác thanh toán qua ngân hàng được mở rộng cả về quy mô và chất lượng với việc ứng dụng công nghệ tin học trong thanh toán. Đặc biệt năm 2004, thực hiện “văn minh giao dịch”, Sở giao dịch đã triển khai hệ thống xếp hàng tự động và thực hiện giao dịch một cửa, nâng hạn mức giao dịch cho thanh toán viên phù hợp với trình độ, mức độ thành thạo với công việc, thúc đẩy tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian xử lý nghiệp vụ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Khối lượng bút toán, số lượng bút toán tăng nhanh nhưng vẫn thực hiện hạch toán kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh, đảm bảo an toàn tài sản. Nhờ vậy số lượn._. chuyên môn, tình trạng cư trú, tình trạng hôn nhân, thời gian hoạt động kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, địa chỉ trụ sở doanh nghiệp… Hoàn hiện hệ thống chấm điểm tín dụng, tiến tới tin học hóa hệ thống thống tin khách hàng, tin học hóa hệ thống chấm điểm tín dụng.
3.2.2. Vận dụng chính sách tín dụng linh hoạt, phù hợp với đối tượng khách hàng là DNN&V
Theo đánh giá của Ngân hàng Châu Á: Một trong những điểm yếu của NHNN&PTNT Việt Nam trong việc cho vay đối với DNN&V, là thủ tục cho vay chưa phù hợp, chưa có chính sách ưu đãi về lãi suất đối với DNN&V, phương thức cho vay chưa đáp ứng được yêu cầu của DNN&V, chưa tận dụng được quy chế mềm dẻo về thế chấp. Vì vậy để góp phần thực hiện cam kết của Chính phủ trong việc thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ phát triển; thực hiện định hướng của NHNN&PTNT Việt Nam là xác định cho vay DNN&V, hộ nông dân là thị trường chính Sở giao dịch phải vận dụng chính sách tín dụng một cách linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn mới có thể chiếm lĩnh thị trường tiềm năng song còn đang bị ngỏ này. Cụ thể:
* Về lãi suất
Sở giao dịch cần đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với từng DNN&V, dựa trên kết quả thẩm định tín dụng và lịch sử quan hệ với ngân hàng. Chú trọng những ngành nghề có triển vọng, đang được nhà nước khuyến khích hỗ trợ để có ưu đãi lãi suất phù hợp. Mặc dù cho vay các khách hàng là DNN&V chứa nhiều rủi ro hơn và món vay nhỏ hơn so với các khách hàng lớn, Sở giao dịch không thể đưa ra mức lãi suất ưu đãi như đối với các tổng công ty lớn đã có quan hệ tín dụng lâu dài. Tuy nhiên ngân hàng vẫn có hể đưa các mức lãi suất khác nhau áp dụng cho các ngành nghề sản xuất kinh doanh đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, các khách hàng vay vốn với số lượng lớn, hoặc có quan hệ vay trả thường xuyên, được ngân hàng tín nhiệm thì có thể xem xét mức lãi suất thấp hơn so với khách hàng khác.
* Về phương thức cho vay
Trong quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do NHNN ban hành và quy định cho vay đối với khách hàng của NHNN&PTNT Việt Nam đều quy định: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng, ngân hàng thoả thuận với khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay. Quy chế này cho phép Sở giao dịch chủ động lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng.
Vì thế sở giao dịch cần mạnh dạn mở rộng các phương thức cho vay đối với DNN&V, đặc biệt là phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, vay trả thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng; do hiện nay các DNN&V hầu như chỉ mới được vay theo một phương thức duy nhất là vay từng lần. Hạn mức tín dụng áp dụng cho DNN&V có thể linh hoạt phù hợp với từng thời kì và từng doanh nghiệp. Song song với giải pháp này, Sở giao dịch cần nâng cao khả năng quản lý tín dụng tránh tình trạng doanh nghiệp lạm dụng vốn của ngân hàng, sử dụng sai mục đích.
* Về thời hạn cho vay
Theo quy định khách hàng và ngân hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại ngắn hạn và trung dài hạn. Việc xác định thời hạn cho vay phù hợp sẽ thuận lợi cho cả hai bên, ngân hàng sẽ thu được lãi đáng kể nếu tham gia trong suốt chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy các ngân hàng cần tham gia như một nhà đầu tư. Có thể coi ngân hàng như một cổ đông được ưu tiên thu lãi ngay đầu tiên và phải rút ra khỏi Hội đồng quản trị sau khi đã thu được toàn bộ vốn vay cả gốc và lãi.
Do đó sở giao dịch cần xác đinh kỳ hạn trả nợ hợp lý, có xem xét đến chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng dựa vào thông tin từ khách hàng như báo cáo tài chính, bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, bảng lưu chuyển tiền tệ và kế hoạch sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua bán của doanh nghiệp kết hợp với thông tin về ngành như kết quả hoạt động của các doanh nghiệp cùng ngành, các chính sách của chính phủ cho ngành, … cùng với trình độ của cán bộ tín dụng.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng việc định kỳ nạn trả nợ một cách tuyệt đối chính xác là rất khó. Cần tránh đặt một kỳ hạn trả nợ quá ngắn không đủ một chu kỳ luân chuyển vốn gây khó khăn cho doanh nghiệp hoặc một kỳ hạn trả nợ quá dài làm cho khách hàng khi có tiền chưa muốn trả ngân hàng ngay mà lại sử dụng vào việc khác.
* Về đảm bảo tiền vay
Như ở phần thực trạng đã nêu, vấn đề đảm bảo tiền vay bằng tài sản hiện nay vẫn là một khó khăn lớn cho các DNN&V khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Vì vậy Sở giao dịch cần đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giúp đỡ các doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị hồ sơ, hoàn thiện các thủ tục pháp lý cần thiết, đặc biệt trong việc tiếp cận các cơ quan chức năng để hoàn thành giấy tờ chứng minh sở hữu tài sản.
Bên cạnh đó, sở giao dịch cũng nên mạnh dạn xem xét áp dụng biện pháp cho vay không đảm bảo bằng tài sản đối với DNN&V. Đối với hình thức này, ngân hàng có thể dựa trên uy tín và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Có thể áp dụng hình thức cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp đã có quan hệ lâu dài, tin cậy với ngân hàng. Bên cạnh đó có thể xem xét cho các DNN&V vay khi có sự đảm bảo của các doanh nghiệp lớn, các Tổng công ty… Sở giao dịch có thể xem xét cho vay không có tài sản đảm bảo đối với DNN&V khi sản phẩm của nó được sử dụng phục vụ cho hoạt động các doanh nghiệp lớn. Trong trường hợp này cần có sự đảm bảo của các doanh nghiệp lớn đó và cam kết của khách hàng phải chứng minh được tình hình tài chính của mình là lành mạnh, có tài sản cố định và tài sản lưu động đủ lớn, những hàng hóa dịch vụ đang sản xuất kinh doanh phải có địa chỉ tiêu thụ và ổn định trên thị trường.
Bởi trên thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng khi xem xét một bộ hồ sơ vay vốn, hầu như chỉ quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp và các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp của khách hàng có đầy đủ và hợp pháp không. Nhưng thực tế, trong thời gian qua tài sản thế chấp chưa thể được coi là một đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp, bởi vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khúc mắc, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi vốn khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Vì vậy vấn luận văn sản thế chấp không thể được coi là điều kiện quan trọng nhất để ngân hàng xem xét cho vay nữa mà điều cần quan tâm là hiệu quả hoạt kinh doanh của đơn vị, uy tín trên thị trường và sự sẵn lòng trả nợ đúng hạn của đơn vị đó. Ngân hàng cần nắm được thông tin này rồi mới có thể linh hoạt hơn trong việc đặt quan hệ tín dụng với doanh nghiệp chứ không e dè và chặt chẽ như hiện nay.
3.2.3. Thực hiện tốt Marketing trong việc tiếp cận với các DNN&V
Hiện nay, các tầng lớp dân cư, hộ sản xuất hiểu biết rất hạn chế về hoạt động tín dụng ngân hàng. Họ cũng không biết về các hình thức cho vay mà ngân hàng đang áp dụng cũng như về hồ sơ thời gian, lãi suất.. Điều đó làm ngân hàng mất khả năng lựa chọn làm đơn vị tài trợ vốn cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, Sở giao dịch cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo tài các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay đối với khách hàng nói chung và DNN&V, đặc biệt là với các DNN&V ngoài quốc doanh nói riêng.
Đối với từng đối tượng khách hàng phải áp dụng các biện pháp marketing khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của Sở giao dịch. Có thể xem xét một số biện pháp là:
- Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: quảng cáo luôn là một biện pháp hữu hiệu đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Các phương tiện được áp dụng ở đây là truyền thanh, truyền hình, các loại báo chí. Khi có dịch nên thông báo rộng rãi ra công chúng, để các doanh nghiệp nắm được thông tin mới nhất về những tiện ích do Sở giao dịch cung cấp.
- Trực tiếp tiếp cận khách hàng: hoạt động này được thực hiện thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ ở các bộ phận giao dịch với khách hàng có thể giới thiệu về các sản phẩm tín dụng, mời khách hàng đặt quan hệ tín dụng với ngân hàng. Các cán bộ ngân hàng khi đi dự hội thảo, hội nghị, tranh thủ làm quen với các doanh nghiệp và giới thiệu họ đến giao dịch với ngân hàng mình…Tiếp tục tổ chức tốt hội nghị khách hàng, qua đó củng cố mối quan hệ gắn bó giữa ngân hàng với doanh nghiệp, lấy ý kiến của các doanh nghiệp về những mong muốn của họ, những khó khăn thực tế doanh nghiệp phải đối mặt khi vay vốn ngân hàng. Từ đó nắm được những nhu cầu của khách hàng, hiểu thêm những mong muốn của khách hàng để nghiên cứu triển khai những loại hình sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng những nhu cầu đó.
3.2.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về khách hàng
Trở ngại đối với khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của DNN&V thường xuất phát từ hai phía ngân hàng và doanh nghiệp, song nhìn tổng thể về thị trường đó là tình trạng thông tin mất đối xứng. Cụ thể là doanh nghiệp không có thông tin đầy đủ về ngân hàng và ngân hàng không có thông tin đầy đủ về doanh nghiệp. Vì vậy thông tin về khách hàng trong hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng, thông tin càng chính xác càng tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng có cơ sở vững chắc, tự tin trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay.
Sở giao dịch cần chủ động xây dựng và củng cố hệ thống thông tin về khách hàng là DNN&V; kể cả doanh nghiệp đã và đang có quan hệ tín dụng và cả với một số doanh nghiệp tiềm năng chưa có quan hệ tín dụng bởi chính những doanh nghiệp đó sẽ trở thành khách hàng của ngân hàng khi họ có nhu cầu về vốn và Sở giao dịch sẽ kịp thời nắm bắt được ngay khi họ chưa kịp đặt quan hệ với các ngân hàng khác.
Các thông tin về khách hàng có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau:
Ở tầm vi mô: từ chính DNN&V , từ bạn hàng của doanh nghiệp, thậm chí có thể phỏng vấn công nhân hoặc những người sống xung quanh doanh nghiệp…
Ở tầm vĩ mô: từ Bộ Kế hoạch và đầu tư, các Bộ chuyên ngành, Sở kế hoạch và đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất… Trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC) của NHNN cũng là một nguồn thông tin rất quan trọng, đáng tin cậy trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra Sở giao dịch có thể khai thác thông tin và số liệu lịch sử từ các tổ chức thống kê, phòng thống kê, phòng Công nghiệp, phòng Nông nghiệp… của các quận, các huyện, thị và thành phố.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án
Tiêu chuẩn cao nhất để ngân hàng lựa chọn khi ngân hàng quyết định cho vay nên là hệ số sinh lời trên 1 đồng vốn đầu tư. Ngâ hàng cần lựa chọn ưu tiên đối với các sự án coóhệ số sinh lời trên 1 đồng vốn đầu tư lớn nhất. Với chính sách này, sự phân phối tín dụng ngân hàng sẽ được thực hiện bằng cơ chế tự điều chỉnh một cách tối ưu theo hướng hiệu quả kinh tế đầu tư tối tưu. Việc phân bổ tín dụng theo kiểu ưư tiên cho những người có thế lực, quen biết với ngân hàng hoặc sự can thiệp trực tiếp của cấp uỷ chính quyền địa phương không còn cơ sở để tồn tại. Quan hệ tín dụng thực sự trở thành bình đẳng đối với mọi khách hàng.
3.2.6. Tăng cường cán bộ tín dụng phù hợp với quy mô và yêu cầu quản lý vốn vay đối với khu vực DNN&V
Con người là nguồn lực quý báu nhất, là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động tín dụng con người lại càng đóng vai trò quan trọng do toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát… đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Vì vậy, trong những năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Ban lãnh đạo Sở Giao dịch hết sức quan tâm.
Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu đề ra là mở rộng tín dụng đối với DNN&V Sở giao dịch cần ưu tiên nguồn lực cho khu vực này, cả về số lượng và chất lượng:
- Bổ sung và tuyển mới cán bộ bố trí đầy đủ nhân sự cho các bộ phận để thực thi nhiệm vụ song song việc bố trí và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ chuyên theo dõi và cho vay DNN&V.
Bởi như đã phân tích ở phần trên, cho vay DNN&V thường là các khoản nhỏ mà hồ sơ lại không đầy đủ nên cán bộ tín dụng thường ngại cho vay. Vì vậy ngoài khả năng, năng lực cán bộ, cần bố trí những người có tâm huyết hoạt động trong lĩnh vực này. Một đặc điểm của Sở giao dịch là cán bộ trẻ, có trình độ, có khả năng tiếp thu cái mới; bộ máy lãnh đạo có nhiều kinh nghiệm và đã được trải nghiệm qua nhiều môi trường kinh doanh khác nhau nên việc cơ cấu tổ chức dành nguồn lực đặc biệt ưu tiên phát triển cho vay DNN&V sẽ thuận lợi và đem lại hiệu quả cao hơn. Đảm bảo đề Án kinh doanh 5 năm của Sở giao dịch, bao gồm kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực: mục tiêu đến 2010, tỷ lệ cán bộ tín dụng chiếm 70% tổng số cán bộ. Trong đó số cán bộ cho vay DNN&V đạt từ 30 - 35%.
- Công tác đào tạo cán bộ cần được chú trọng thường xuyên qua việc liên tục tổ chức các lớp hợc về luật, chứng khoán, phân tích tài chính doanh nghiệp, ngoại ngữ, marketing, quản trị ngân hàng…
Trong thực tế, các dự án của các DNN&V đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để đảm bảo công tác thẩm định tốt, là một khâu quan trọng quyết định cho vay có hiệu quả hay không. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng hợp, trình độ nghiệp vụ vững, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp cao. Mặt khác, để tạo thuận lợi cho DNN&V tiếp cận được với ngân hàng, cán bộ ngân hàng, mà trước hết là cán bộ tín dụng, phải có khả năng tư vấn cho khác hàng về mọi lĩnh vực như; phương pháp lập dự án sản xuất kinh doanh, những ván đề liên quan đến việc sử dụng vốn hiệu quả, cung cấp thông tin cần thiết cho khách hàng… Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải được bồi dưỡng kiến thức toàn diện, từ đó mới có thể tư vấn được cho khách hàng. Vì vậy, việc tổ chức học tập nghiệp vụ và tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ do NHN0 Việt Nam tổ chức là một việc làm thiết thực tạo điều kiện cho cán bộ hiểu biết và nắm bắt kịp thời tình hình kinh tế xã hội, sự phát triển kinh tế đất nước, nâng cao trình độ nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành và đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trong khu vực DNN&V.
3.2.7. Đa dạng hóa sản phẩm
Thành lập phòng khách hàng DNN&V tại sở giao dịch và các chi nhánh thành viên để thực hiện chức năng bán lẻ và cung cấp tất cả các sản phẩm, dịch vụ của NHN0 giành cho đối tượng khách hàng này.
Đẩy mạnh hoạt động Cho thuê nhằm tài trợ vốn cho DNN&V thuận lợi và đơn giản, phù hợp với trình độ của hầu hết các DNN&V hiện nay.
Phát triển các sản phẩm khác dành cho DNN&V như tài khoản séc, dịch vụ trao đổi tài chính, dịch vụ ngoại hối, dịch vụ thương mại, sản phẩm bảo hiểm cho bên thứ ba…
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
3.3.1.1. Nâng cao nhận thức, tăng cường kỹ năng quản lý và khả năng tiếp cận thị trường.
Như đã phân tích ở phần trên, trình độ, năng lực quản lý tài chính và khả năng tiếp thị của chủ DNN&V thấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và là nguyên nhân cơ bản làm cho các DNN&V chưa tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, tăng cường kỹ năng quản lý doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh và đầy biến động là một yêu cầu cấp thiết. Có trình độ, có kiến thức các DNN&V sẽ khắc phục được những hạn chế đang là những bất lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là sẽ đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay hiệu quả.
Muốn vậy, các chủ doanh nghiệp phải chủ động và tích cực trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm về quản lý; tìm cách tiếp cận và nắm bắt thị trường, tìm hiểu và đối phó với các đối thủ cạnh tranh. Để làm được điều đó, DNN&V có thể thông qua Hiệp hội DNN&V hoặc các tổ chức khác như các Câu lạc bộ doanh nghiệp, "vườn ươm doanh nghiệp nhỏ"… để được cung cấp thông tin về nhiều lĩnh vực. Tham gia các chương trình, hội thảo, các khóa đào tạo ngắn hạn do Dự án phát triển DNN&V Việt Nam, chương trình phát triển DNN&V thuộc Dự án Mêkông (MPDF) tổ chức. Tiếp cận với Trung tâm hỗ trợ DNN&V của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để được giúp đỡ giải quyết những khó khăn về vốn, về thị trường trong nước và các cơ hội hợp tác quốc tế. Đặc biệt các DNN&V cần tranh thủ sự trợ giúp các Chính phủ về hoạt động đào tạo nguồn nhân lực; trong thời gian tới, nên chú ý đến các chương trình trợ giúp tạo nguồn nhân lực; trong thời gian tới, nên chú ý đến các chương trình trợ giúp tổng hợp của Nhà nước đã và đang triển khai tại các Tỉnh, Thành phố được đề cập đến trong Nghị định 90/2001 của Chính phủ.
Đối với những doanh nghiệp có điều kiện, cần chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhất là các chủ doanh nghiệp đạt trình độ đại học, với các hình thức đào tạo có thể là chính quy, tại chức, đào tạo từ xa… Bằng cấp rất quan trọng trong việc nâng cao vị thế của người chủ doanh nghiệp trong mọi quan hệ và sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc ký các hợp đồng kinh tế.
3.3.1.2. Phát triển quan hệ liên doanh, liên kết giữa các DNN&V, tạo mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp lớn
Theo đánh giá của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị doanh nhân thì đây là một khâu yếu của DNN&V. Vì vậy, ngay từ bây giờ, từng doanh nghiệp phải tích cực triển khai các mối quan hệ liên doanh, liên kết; liên kết trong sản xuất; liên kết trong tìm kiếm thị trường, phân phối hàng hóa; liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp về từng ngành hàng, từng sản phẩm, trong từng làng nghề… từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của từng loại sản phẩm và của cả doanh nghiệp.
Các DNN&V cần phải tích cực và duy trì mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn. Có thể từng DNN&V bắt đầu bằng các hợp đồng đơn lẻ với các doanh nghiệp lớn, duy trì thường xuyên mối quan hệ kinh tế, dần dần trở thành những bạn hàng đáng tin cậy, làm doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, là người cung cấp nguyên liệu, sản phẩm trung gian đầu vào hoặc làm đại lý tiêu thụ, phân phối những sản phẩm đầu ra. Đây cũng là một lợi thế chứng tỏ năng lực của DNN&V khi ngân hàng xem xét cho vay hoặc doanh nghiệp có thể nhận được sự bảo lãnh của các doanh nghiệp lớn khi quan hệ tín dụng với ngân hàng.
3.3.1.3. Thực hiện chế độ kế toán theo quy định của Nhà nước
Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán. Phải hạch toán đúng, đủ các yếu tố tài cấu thành sản phẩm cũng như các chi phí quản lý khác. Báo cáo tài chính phải phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phải đầy đủ thông tin, có tính chân thực cao… Điều này rất cần thiết đối với một đơn vị hạch toán kinh doanh, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các DNN&V thuận lợi hơn trong việc nhận được các khoản tín dụng của ngân hàng.
Hiện nay hệ thống kế toán của DNN&V đang được đơn giản hóa, đồng thời với việc nâng cao trình độ của các chủ doanh nghiệp, việc thực hiện chế độ kế toán trong các DNN&V trong thời gian tới sẽ tốt hơn rất nhiều.
3.3.1.4. Chủ động cập nhật luật mới về bất động sản
Luật mới về đất đai cho phép các doanh nghiệp tiếp cận với quyền sử dụng đất và đất sử dụng thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp cần tìm hiểu và khẩn trương hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) để chủ động hơn khi sử dụng đất đai của mình, đồng thời có thêm điều kiện vay vốn từ ngân hàng.
3.3.2. Đối với NHNoViệt Nam
Như đã phân tích ở phần trên do trình độ, năng lực hạn chế nên việc đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng trong hồ sơ vay vốn là rất khó khăn và vượt quá khả năng của nhiều DNN&V. Vì vậy, trong thủ tục cho vay DNN&V, NHNo Việt Nam nên có quy định riêng, đơn giản hơn; cụ thể nên nghiên cứu bỏ bớt thủ tục giấy tờ không hoặc ít có lượng thông tin cần thiết hay những báo cáo mà dù có nhưng nó cũng không đáng tin cậy để giảm thời gian chi phí cho khách hàng.
Theo điều tra về thực trạng DNN&V do Cục phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch đầu tư) công bố mới đây, thì hiện chỉ có 32,3% số DNN&V có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại, mà trong số đó chứng tỏ khả năng để được tiếp cận với các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại, mà trong số đó chỉ có 35-40% bộ hồ sơ đủ thủ tục và có thể được chấp nhận cấp vốn. Như vậy chứng tỏ khả năng để được tiếp nhận nguồn vốn ngân hàng của các DNN&V rất hạn chế, điều đó do nhiều nguyên nhân (cả về phía doanh nghiệp) song trong đó có nguyên nhân về thủ tục vay vốn về phía ngân hàng.
Về nguồn nhân lực
Hiện nay, vấn đề biên chế lao động của Sở giao dịch đang là một khó khăn lớn trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong việc mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng. Việc mở rộng tín dụng đối DNN&V càng làm cho vấn đề nhân lực của Sở khó khăn thêm. Đề nghị NHN0 Việt Nam bổ sung biên chế lao động cho phù hợp nhằm tạo điều kiện cho Sở giao dịch đảm đương tốt nhiệm vụ được uỷ quyền và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tiếp, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng và đảm bảo an toàn vốn vay đối với DNN&V.
3.3.3. Đối với Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước
Hiện nay Chính phủ có nhiều chương trình, chính sách và biện pháp trợ giúp cho DNN&V phát triển. Đây là một chủ trương đúng, đã và đang mang lại những hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của DNN&V, Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện một số vấn đề sau:
3.3.3.1. Đối với Chính phủ
Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DNN&V
Nghị định 90/2001 NĐ-CP của Chính phủ là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của các DNN&V. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này cần có một chiến lược lâu dài, ổn định với những biện pháp cụ thể hơn. Cần khẳng định và nêu bật được vai trò của các DNN&V trong nền kinh tế Việt Nam, để đưa ra những hướng ưu tiên phát triển khu vực này theo ngành, vùng lãnh thổ, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp tục có những biện pháp khuyến khích đối với một số đối tượng là các DNN&V sản xuất các sản phẩm thuộc ngành nghề truyền thống; các sản phẩm tiêu dùng thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; đặc biệt cần có chính sách ưu đãi đối với các DNN&V chế biến sản phẩm của nông dân, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa…
Về chính sách khoa học công nghệ
Hiện nay, Chính phủ đã thông qua đề án phát triển thị trường công nghệ và ban hành nghị định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ công lập. Cánh cửa đã mở rộng cho các tổ chức khoa học, công nghệ và các doanh nghiệp tìm đến nhau, hợp tác với nhau vì lợi ích của cả hai phía. Tuy nhiên, điều này đem lại cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp lớn, đối với DNN&V do hạn chế về nhận thức nên đây chưa hẳn đã là sân chơi bình đẳng. Vì vậy, Chính phủ cần có định hướng, biện pháp cụ thể hơn giúp các DNN&V tiếp cận các thông tin về công nghệ trên thị trường trong và ngoài nước để tìm giải pháp nâng cao trình độ công nghệ và sức cạnh tranh.
Việc hàng năm Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng doanh nghiệp với sự có mặt của các nhà khoa học công nghệ đã tạo được bước phát triển mới cho quan hệ hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, nếu tổ chức được các buổi gặp gỡ chỉ riêng với các DNN&V thì Thủ tướng chính phủ và các nhà khoa học sẽ nghe được kỹ hơn những khó khăn của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ. Từ đó sẽ có biện pháp tháo gỡ khó khăn và tư vấn cho họ những thông tin cần thiết, giúp các DNN&V thuận lợi hơn trong sản xuất kinh doanh, tự tin hơn trong đổi mới công nghệ của mình.
3.3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
Trong những năm khó khăn trực tiếp tác động đến việc mở rộng cho vay DNN&V của NHN0 nói chung và của Sở giao dịch nói riêng là chính sách tài chính tín dụng. Chính sách này thực sự nhiều bất cập, chưa thông thoáng, chưa tạo điều kiện pháp lý để doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Chính sách tài chính tín dụng cần được thay đổi như sau:
- Đẩy mạnh hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNN&V.
Thực hiện quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 của Chính phủ về thành lập, tổ chức hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNN&V, đến nay hầu hết các tỉnh thành đã thành lập Quỹ này đã tạo lên sự kỳ vọng rất lớn về khả năng khai thông nguồn vốn cho hoạt động của các DNN&V. Song trong thực tế hoạt động của các quỹ này còn rất hạn chế.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DNN&V trên nguyên tắc vừa đảm bảo an toàn cho vốn của ngân hàng, vừa đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách thuận tiện và nhanh chóng. Cơ chế tín dụng thay đổi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp hoặc không đủ vốn tự có vẫn có thể vay được vốn ngân hàng nếu dự án sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả.
- Có chính sách hỗ trợ cho ngân hàng khi cho vay DNN&V như hỗ trợ về nguồn vốn, về cơ sở vật chất, về lãi suất…
PHẦN KẾT LUẬN
Ra đời cách đây 7 năm, Nghị định 90/2001/CP của Chính phủ như một luồng gió làm thức tỉnh hoạt động của các DNN&V vốn chiếm tỷ lệ khá đông đảo trong tổng số doanh nghiệp cả nước. Các DNN&V đã không ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế. Theo kế hoạch phát triển DNN&V từ năm 2006-2010 của Cục phát triển DNN&V trình Chính phủ, đến 2010 sẽ có khoảng 500.000 DNN&V, các DNN&V sẽ tạo thêm 2,5 triệu chỗ làm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để tăng đóng góp cho GDP và tỷ lệ DNN&V trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3%-6%. Song vấn đề thiếu vốn, thiếu thông tin thị trường, trình độ công nghệ thấp, trình độ quản lý yếu, tính liên kết không cao… là mặt trái của bức tranh về sự phát triển của các DNN&V đã được Bộ Kế hoạch và đầu tư tổng kết tại Hội nghị 3 năm thực hiện Nghị định 90/2001/CP về trợ giúp phát triển DNN&V, trong đó một khó khăn được coi là trầm trọng nhất và là gốc rễ sâu xa tạo ra những bất lợi khiến loại hình DNN&V chưa thể vươn lên đúng với vị thế của nó trong nền kinh tế là vấn đề thiếu vốn.
Mặt khác, DNN&V phát triển mở ra cơ hội đầu tư lớn hơn cho các ngân hàng, trong đó có NHN0 Việt Nam nói chung và DNN&V còn có một khoảng cách nhất định, DNN&V khó tiếp cận được các nguồn tín dụng từ phía ngân hàng để giải quyết vấn đề thiếu vốn, ngược lại ngân hàng cũng chưa khai thác được tiềm năng của đối tượng này. Hiện nay có một số dự án hỗ trợ của nước ngoài tham gia cung ứng nguồn tín dụng cho các DNN&V như: Ngân hàng thương mại thế giới (WB), Ngân hàng Châu Á như: Ngân hàng thương mại thế giới (WB), Ngân hàng Châu Á (ADB), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JIBIC), ngân hàng Tái thiết Đức và quỹ Mê công… Vì vậy tìm cách tiếp cận khu vực kinh tế này không chỉ là giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp mà còn đem lại lợi ích cho ngân hàng, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh trong hoạt động tín dụng hiện nay.
Với mong muốn góp phần giải quyết khó khăn trên của DNN&V, đồng thời góp phần mở rộng thị trường kinh doanh của Sở giao dịch, chuyên đề tập trung hoàn thành một số nội dung cơ bản sau:
- Phân tích những đặc điểm, vai trò của DNN&V, từ đó nêu lên những lợi thế, hạn chế của loại hình kinh tế này. Đồng thời phân tích rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNN&V trong tình hình hiện nay.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng đối với DNN&V nói riêng tại Sở giao dịch. Đồng thời cũng nêu lên những vướng mắc, tồn tại và những nguyên nhân hạn chế việc mở rộng dư nợ đối với DNN&V tại Sở giao dịch.
- Chuyên đề đã nêu lên định hướng phát triển DNN&V của Chính phủ và chiến lược hoạt động tín dụng đối với DNN&V đến năm 2010 của Sở giao dịch. Đồng thời đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNN&V tại Sở giao dịch và một số kiến nghị đối với Chính phủ, với NHN0 Việt Nam nhằm tạo điều kiện để Sở giao dịch mở rộng tín dụng đối với DNN&V.
Việc phát triển DNN&V cũng như việc mở rộng đầu tư tín dụng đối với loại hình kinh tế này đang là mối quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành nói chung và của NHN0 Việt Nam cũng như sở giao dịch nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, em đã được sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, đặc biệt là cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Hương Lan và các cán bộ tại Sở giao dịch. Song do thời gian có hạn cũng như những hạn chế của bản thân nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2008
Danh Mục tài liệu tham khảo
1, PGS.TS. Phan Thị Thu Hà - Giáo trình Ngân hàng Thương mai, NXB ĐH KTQD, Hà nội - 2007
2, F.Minskin,Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, 1992
3, Sở giao dịch NHNo Việt Nam, Hệ thống quy chế cho vay, Hà nội - 2005
4, Sở giao dịch NHNo Việt Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2007, Mục tiêu, giải pháp hoạt động kinh doanh năm 2008, Hà nội, 1/2008
5, Sở giao dịch NHNo Việt Nam, Đề án kinh doanh 5 năm (2006-2010), Hà nội - 2006
6, Quyết định 636/QĐ- HĐQT-XLRR ngày 22/6/2007 của Chủ tịch HĐQT NHNo Việt Nam
7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN
8, Nghị định 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2003 của Chính phủ
9, Quyết định 71/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002 của Hội đồng quản trị NHNoViệt Nam
10, Nghị định 90/2001/NĐ-CP này 23/11/2001của Chính phủ
11, Thông tư 06/2000/TT-NHNN của NHNN Việt Nam
12, Quyết định số 232/QĐ/HĐQT-02 ngày 13/05/1999 của Chủ tịch HĐQT NHNo Việt Nam
13, Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ
14, Báo điện tử của Bộ kế hoạch và đầu tư
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
DNN&V: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
NHNo : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM: Ngân hàng thương mại
TCTD: Tổ chức tín dụng
Sở giao dịch: Sở giao dịch NHNo Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên biểu đồ
Biểu đồ 1: Giản đồ thị trường tài chính
Trang
11
Biểu đồ 2: Cơ cấu tổ chức bộ máy Sở giao dịch
39
Biểu đồ 3: Tỷ trọng trong tổng dư nợ theo loại hình doanh nghiệp
78
Biểu đồ 4: Đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp theo khu vực kinh tế
79
Tên bảng
Trang
Bảng 1: Nguồn vốn huy động
42-43
Bảng 2: Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ
45-46
Bảng 3: Thu nhập, Chi phí, kết quả tài chính
49
Bảng 4: Tình hình cho vay, thu nợ, dư nợ thời điềm 31/12/2007
54
Bảng 5 : Dư nợ phân loại theo thời gian
55
Bảng 6: Dư nợ phân loại theo thành phần kinh tế
56
Bảng 7: Dư nợ DNN&V phân theo ngành kinh tế
57
Bảng 8: Tỷ lệ nợ quá hạn của DNN&V trong tổng dư nợ
58
Bảng 9: Nợ quá hạn của DNN&V qua các năm.
59
Bảng 10: Bảng xác định nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp
64-65
Bảng 11: Kế hoạch kinh doanh đến năm 2010
75-76
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33361.doc