Tài liệu Giải pháp mở rộng Thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuụi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010: ... Ebook Giải pháp mở rộng Thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuụi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng Thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuụi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế chịu sự điều chỉnh gắt gao của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu.
Với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng mạnh mẽ, có những doanh nghiệp đã tự khẳng định mình bằng sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có không ít những doanh nghiệp không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường và phá sản.
Đối với doanh nghiệp thì vấn đề sống còn bao giờ cũng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Kẻ mạnh sẻ chiếm lĩnh thị trường và phát triển, kẻ yếu sẽ mất thị phần và phá sản đó là quy lụât tất yếu của cạnh tranh. Với những kiến thức đã học và qua thời gian thực tập tại Công ty TNHH Thương mại VIC, được sự giúp đỡ của giảng viên Th.S.Đặng Thị Lệ Xuân và Ban lãnh đạo Công ty TNHH Thương mại VIC, các phòng ban nghiệp vụ, tôi quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuụi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010”.
Với việc nghiên cứu chuyên đề này, tôi mong rằng bản thân mình sẽ tổng hợp được tất cả những kiến thức đã học trong thời gian qua và áp dụng thực tế trong sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Thương mại VIC để góp một phần vào công cuộc phát triển của doanh nghiệp.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trang tiêu thụ của Cụng ty thức ăn chăn nuụi TNHH TM VIC ở Việt Nam Giai Đoạn 2001 - 2005
Chương III: Một số giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuụi của Cụng ty TNHH TM VIC trong giai đoạn 2006-2010.
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm về thị trường
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường. Chúng ta có thể gặp một số khái niệm sau:
a. Là sự biểu thị ngắn gọn quá trình mà nhờ đó các quyết định của các hộ gia đình về việc tiêu dùng các hàng hoá khác nhau, các quyết định của các doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và như thế nào, các quyết định của công nhân về làm việc bao lâu và cho ai được điều hoà bởi sự điều chỉnh giá cả
b.Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
c. Thị trường là một khuôn khổ vô hình trong đó người này tiếp xúc với người kia để trao đổi một thứ gì đó khan hiếm và trong đó họ cùng xác định giá và số lượng trao đổi.
Các khái niệm trên đều xoay quanh khái niệm phổ biến sau: Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, giữa người mua và người bán với mục đích là trao đổi hàng hoá và dịch vụ
Qua các khái niệm trên ta thấy trong một số trường hợp người mua và người bán có thể tiếp xúc trực tiếp tại các địa điểm cố định như các thị trường hàng tiêu dùng quần áo, rau quả… Trong nhiều trường hợp khác công việc giao dịch diễn ra qua điện thoại, vô tuyến hoặc các phương tiện từ xa khác như trong thị trường chứng khoán. ở thị trường hàng thủ công mỹ nghệ cũng vậy công việc giao dịch có thể diễn ra ở một số địa điểm cố định, cũng có khi giao dịch từ xa. Nhưng điều chung nhất đối với các thành viên tham gia thị trường (gồm cả thị trường thủ công mỹ nghệ) là họ đều tìm cách tối đa hoá lợi ích của mình. Người bán ( người sản xuất ) muốn tối đa hoá lợi nhuận, người mua( người tiêu dùng) muốn tối đa hoá sự thoả mãn ( lợi ích ) từ sản phẩm họ mua.
Về mặt nguyên lý, sự tác động qua lại giữa người bán và người mua xác định giá của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể, đồng thời xác định cả số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm cần sản xuất và qua đó sẽ xác định việc phân bổ và sử dụng tài nguyên khan hiếm của xã hội. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của cơ chế thị trường. Tuy nhiên hoạt động của thực tế của thị trường rất phức tạp, phụ thuộc vào số lượng, quy mô, sức mạnh thị trường của những người bán và những người mua.
1.2.Cỏc tiờu chớ khi xem xột và phõn loại thị trường
Khi xem xét về hành vi của thị trường( tức là xem xét trên giác độ cạnh tranh hay độc quyền) các nhà kinh tế phân loại thị trường gồm: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo( gồm cạnh tranh độc quyền và độc quyền tập đoàn)
Khi nghiên cứu về thị trường các nhà kinh tế sử dụng một số tiêu thức sau để phân loại thị trường:
Dựa vào số lượng người bán và người mua : Là tiêu thức rất quan trọng để xác định cấu trúc thị trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền có rất nhiều người bán và người mua. Mỗi người trong số họ chỉ bán ( hoặc mua) một phần rất nhỏ trong lượng cung thị trường. Trong thị trường độc quyền bán thì một ngành chỉ có một người bán( người sản xuất ) duy nhất. Trong thị trường độc quyền mua chỉ có một người mua duy nhất. Trong thị trường độc quyền bán tập đoàn có một vài người bán, còn trong thị trường độc quyền mua tập đoàn chỉ có một số người mua.
Loại sản phẩm: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sản phẩm đồng nhất. Trong thị trường cạnh tranh độc quyền sản phẩm khác nhau. Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau một ít. Trong thị trường độc quyền sản phẩm là độc nhất
Sức mạnh thị trường của người bán và người mua: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, người bán và người mua đều không có ảnh hưởng gì đến giá thị trường của sản phẩm, nghĩa là họ không có sức mạnh thị trường. Trong thị trường độc quyền bán ( mua) người bán (mua) có ảnh hưởng rất lớn đến giá thị trường của sản phẩm. Trong thị trường độc quyền bán (mua) tập đoàn, người bán ( mua) có ảnh hưởng đến giá trị thị trường của sản phẩm ở một mức độ nào đó.
Các trở ngại gia nhập thị trường: Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các trở ngại gia nhập thị trường là rất thấp. Ngược lại, trong thị trường độc quyền bán (mua) tập đoàn có những trở ngại đáng kể đối với việc gia nhập thị trường. Chẳng hạn, trong các ngành sản xuất ô tô, luyện kim, việc xây dựng nhà máy mới là rất tốn kém. Đó chính là trở ngại lớn đối với việc gia nhập thị trường. Còn trong điều kiện độc quyền thì việc gia nhập thị trường là cực kỳ khó khăn.
Hình thức cạnh tranh phi giá: Trong cạnh tranh hoàn hảo không có sự cạnh tranh phi giá. Trong cạnh tranh độc quyền cũng như trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất sử dụng nhiểu hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản phẩm. Các nhà độc quyền cũng quảng cáo để thu hút thêm khách hàng.
1.3.Cung thị trường
Khái niệm
Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cung gồm cung của từng cá nhân và cung của thị trường. Cung thị trường là tổng hợp các mức cung của từng cá nhân lại với nhau.
Cung thể hiện mục đích bán hàng của nhà sản xuất.
Các yếu tố xác định cung
Cũng tương tự như cầu, ngoài chịu ảnh hưởng của giá còn rất nhiều yếu tố khác để xác định cung về hàng hoá và dịch vụ (công nghệ, giá của các yếu tố đầu vào)
Công nghệ
Công nghệ là một yếu tố quan trọng góp phần năng cao năng suất, giảm chi phí lao động trong qua trình chế tạo sản phẩm. Sự cải tiến công nghệ làm cho đường cung dịch chuyển về phía phải, nghĩa là làm tăng khả năng cung lên. Với công nghệ hiện đại - tự động hoá, năng suất lao động tăng nhiều hơn so với lao động thủ công và cung tăng nhiều lên.
Giá của các yếu tố đầu vào
Nếu giá của các yếu tố đầu vào giảm sẽ dẫn đến giá thành sản xuất giảm và cơ hội kiếm lợi nhuận sẽ cao lên do đó các nhà sản xuất có xu hướng sản xuất nhiều lên.
Chính sách thuế
Chính sách thuế của Chính phủ có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định sản xuất của các hãng do đó ảnh hưởng đến việc cung sản phẩm. Mức thuế cao sẽ làm cho phần thu nhập còn lại cho người sản xuất ít đi và họ không có ý muốn cung hàng hoá. Ngược lại, nếu mức thuế thấp sẽ khuyến khích các hãng mở rộng sản xuất của mình.
Số lượng người sản xuất
Số lượng người sản xuất càng nhiều thì cung càng lớn.
Các kỳ vọng
Mọi người đều mong đợi về sự thay đổi giá của các hàng hoá, gía của các yếu tố đầu vào, chính sách thuế… đều có ảnh hưởng đến cung hàng hoá và dịch vụ. Nếu sự mong đợi dự đoán có thuận lợi cho sản xuât thì cung sẽ được mở rộng và ngược lại.
1.4.Cầu thị trường
Khái niệm
Để tìm hiểu về cầu thị trường trước hết chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là cầu.
Cầu là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cầu thị trường: là tổng số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà mọi người sẵn sàng và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian đã cho. Cầu thị trường là tổng hợp của các cầu cá nhân lại với nhau.
Cầu thể hiện mức mua sắm của người tiêu dùng.
các yếu tố xác định cầu: Cầu không chỉ phụ thuộc vào giá của hàng hoá mà ngoài ra còn phụ thuộc vào rất nhiểu yếu tố khác (thu nhập của người tiêu dùng, giá của các hàng hoá liên quan)
Thu nhập của người tiêu dùng
Thu nhập là một yếu tố quan trọng xác định cầu. Thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua của người tiêu dùng.
Khi thu nhập tăng lên thì người tiêu dùng cần nhiều hàng hoá hơn và ngược lại. Tuy nhiên phụ thuộc vào từng loại hàng hoá cụ thể mà mức độ thay đổi cầu sẽ khác nhau. Mặc dù sự tăng lên của thu nhập dẫn đến sự tăng cầu đối với hầu hết các hàng hoá, nó không dẫn đến sự tăng cầu đối với tất cả các loại hàng hoá. Những hàng hoá có cầu tăng lên khi thu nhập tăng lên được gọi là các hàng hoá thông thường. Còn các hàng hoá mà cầu giảm đi khi thu nhập tăng lên gọi là hàng hoá thứ cấp.
Giá cả của các hàng hoá liên quan
Cầu đối với hàng hoá không chỉ phụ thuộc vào hàng hoá, nó còn phụ thuộc vào giá của các hàng hoá liên quan. Các hàng hoá liên quan này chia làm hai loại:
Hàng hoá thay thế
Hàng hoá bổ sung
Hàng hoá thay thế là hàng hoá có thể sử dụng thay cho hàng hoá khác. Khi giá của một loại hàng hoá thay đổi thì cầu đối với hàng hoá kia cũng thay đổi.
Hàng hoá bổ sung là hàng hoá được sử dụng đồng thời với hàng hóa khác. Đối với hàng hoá bổ sung khi giá của một hàng hoá tăng lên thì cầu đối với hàng hoá bổ sung sẽ giảm đi
Dân số
Dân cư của một thị trường đông thì nhu cầu về một mặt hàng nào đó cũng sẽ lớn hơn. Thị trường tiêu thụ của vùng đó là lớn nếu chúng ta biết cách khai thác, kích cầu thì sẽ làm cho cầu tăng lên.
2. TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
2.1.Tiêu thụ sản phẩm.
Theo từ điển kinh tế học hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm là hoạt động kinh doanh nghiệp vụ của công ty thương mại đem hàng bán cho xí nghiệp sản xuất, dân cư ở thành phố, nông thôn. Tiêu thụ hàng hóa là đưa hàng hóa từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực tiêu thụ, là điểm cuối của quá trình tổ chức lưu thông hàng hóa của ngành thương nghiệp. Thông qua tiêu thụ hàng hóa sản phẩm của công nông nghiệp trở thành hàng hóa vật tư tiêu dùng cho sản xuất và tiêu thụ trong sinh hoạt. Đồng thời thực hiện được giá trị hàng hóa trong ngành sản xuất: từ đó tái sản xuất xã hội được tiến hành thuận lợi, tạo điều kiện tất yếu để mở rộng tái sản xuất. Việc tiêu thụ hàng hóa phân chia theo đối tượng có tiêu thụ hàng hóa bán buôn và tiêu thụ hàng hóa bán lẻ. Tiêu thụ hàng hóa là khâu trung tâm của lưu thông hàng hóa. Nó có tác dụng quan trọng đối với việc thỏa mãn nhu cầu xã hội, thực hiện thu nhập tài chính quốc gia, xí nghiệp và cá nhân.
Như vậy có thể nói tiêu thụ hàng hóa là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó mỗi khâu có vị trí chức năng riêng đồng thời có ảnh hưởng qua lại đối với các khâu khác. Trong nền kinh tế thị trường, mối liên hệ giữa sản xuất phân phối và tiêu dùng được thực hiện thông qua lưu thông hàng hóa. Lưu thông hàng hóa là khâu trung gian giữa một bên sản xuất và phân phối với một bên là tiêu dùng. Trong mối liên hệ đó sản xuất là gốc là điểm xuất phát có vị trí quyết định đối với phân phối trao đổi và tiêu dùng. Lưu thông có ảnh hưởng trở lại sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất, đảm bảo cho sản xuất hoạt động bình thường liên tục, gắn các cơ sở sản xuất, các ngành kinh tế trong một cơ cấu thống nhất, do đó nếu lưu thông hàng hóa bị ách tắc thì sớm hay muộn sản xuất sẽ bị gián đoạn hay ngừng trệ.
Các khâu lưu thông hàng hóa (còn gọi là vòng quay lưu thông hàng hóa), hàng hoá được lưu chuyển từ khu vực sản xuất sang khu vực tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa từ sản xuất tới tiêu dùng thường phải qua 4 khâu chủ yếu như sau: khâu thu mua, khâu vận tải, khâu tồn giữ, khâu tiêu thụ. Sau khi qua 3 khâu trên thì đến khâu cuối cùng là tiêu thụ. ở khâu tiêu thụ, hàng hóa được chuyển từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực tiêu dùng, sản phẩm hàng hóa đó thỏa mãn nhu cầu sản xuất và cũng là điều kiện tất yếu của sản xuất.
Tiêu thụ sản phẩm với mục tiêu chủ yếu là bán hết các sản phẩm với doanh thu tối đa và chi phí kinh doanh cho hoạt đông tiêu thụ tối thiểu. Với mục tiêu đó tiêu thụ sản phẩm không phải là hoạt động thụ động, chờ hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm rồi mới tìm cách tiêu thụ chúng mà tiêu thụ phải có nhiệm vụ chủ động từ việc nghiên cứu thị trường, xác định đúng đắn nhu cầu thị trường và cầu của bản thân doanh nghiệp đang hoặc sẽ có khả năng sản xuất ra để quyết định đầu tư tối ưu; chủ động tiến hành hoạt động quảng cáo cần thiết nhằm giới thiệu thu hút khách hàng; tổ chức công tác bán hàng cũng như các hoạt động yểm trợ nhằm bán được nhiều hàng hóa với chi phí kinh doanh cho hoạt động bán hàng thấp nhất cũng như đáp ứng tốt nhất các dịch vụ sau bán hàng.
Trong quá trình lưu thông hàng hóa tiêu thụ hàng hóa được coi là khâu trung tâm. Công thức của lưu thông hàng hóa là H-T-H. ở đây thể hiện hai giai đoạn bán và mua. Quá trình lưu thông hàng hóa chấm dứt khi các giá trị sử dụng đổi chỗ và đổi chủ, còn tiền thì đọng lại trong lưu thông và chúng từ tay người này qua tay người khác. Trong nền kinh tế thị trường lưu thông hàng hóa là sự trao đổi hàng hóa thông qua quan hệ tiền tệ trong nội bộ các thành phần kinh tế, giữa các thành phần kinh tế, giữa các vùng, giữa các địa phương, giữa trong nước và nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân và toàn xã hội. Như vậy lưu thông hàng hóa có chức năng cung cấp hàng hóa là một khâu trung gian nối sản xuất với sản xuất, nối sản xuất với tiêu dùng. Thông qua lưu thông, tiêu thụ hàng hóa làm cho hàng hóa thực hiện được giá trị của nó, góp phần khôi phục và đẩy mạnh quá trình tái sản xuất xã hội.
Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng cuối cùng, người ta chia ra làm hai cách tiêu thụ trực tiếp và tiêu thụ gián tiếp.
- Tiêu thụ trực tiếp: Là hình thức người sản xuất bán thẳng sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua các trung gian.
- Tiêu thụ gián tiếp: Là hình thức người sản xuất bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng thông qua các trung gian, bao gồm: người bán buôn, người bán lẻ, đại lý.
Mặc dù việc tiêu thụ sản phẩm được phân chia thành hai cách, song trong thực tế hầu như không có doanh nghiệp nào lại sử dụng một cách duy nhất. Thông thường các doanh nghiệp đều sử dụng kết hợp cả hai cách tùy vào đặc điểm từng loại sản phẩm, hàng hóa và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà doanh nghiệp lựa chọn cách tiêu thụ chủ yếu.
Tóm lại trong nền kinh tế thị trường, một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đúng đắn luôn là cơ sở để xây dựng một kế hoạch sản xuất thích hợp, nhịp độ cũng như diễn biến của hoạt động sản xuất phụ thuộc vào nhịp độ và diễn biến của hoạt đông tiêu thụ trên thị trường. Vậy tiêu thụ sản phẩm là hoạt động cực kỳ quan trọng, quyết định hoạt động sản xuất.
2.2. Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm
Phát triển thị trường có thể thực hiện về khía cạnh mặt hàng, theo chiều rộng và theo chiều sâu. Khi định hướng phát triển thị trường hàng hoá có thể phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu hoặc cùng một lúc phát triển theo cả hai hướng này.
Phát triển về mặt hàng có thể thực hiện về lượng và về chất thể hiện: Thứ nhất, việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm và dựa trên nhu cầu đa dạng mong muốn thỏa mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã cho phép doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất để tạo sản phẩm đa dạng đáp ứng nhu cầu con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khác hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hay một đất nước nào phát hiện, khơi gợi, nắm bắt nhu cầu thoả mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường. Thứ hai, việc phát triển mặt hàng hiện thời, đó là quá trình không ngừng hoàn thiện cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người.
- Phát triển theo chiều rộng là việc thực hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng nhu cầu để bán nhiều hơn các loại sản phẩm dịch vụ nào đó. Đồng thời việc phát triển theo chiều rộng còn bao gồm cả phát triển về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài và trong nước để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó.
-Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm việc như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng.
Theo nội dung này, phát triển thị trường hàng hóa đó là việc tăng cường được số lượng thị trường, tăng cường tiêu thụ về chất lượng cũng như số lượng, thay đổi tích cực cơ cấu mặt hàng tiêu thụ
3. VAI TRÒ CỦA thị trường tiờu THỤ SẢN PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
3.1. Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm có vị trí cực kỳ quan trọng. Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mục đích của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là nhằm thu lợi nhuận thông qua bán hàng, vì vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng nhất, nó chi phối các nghiệp vụ khác.
Tăng sản lượng tiêu thụ sản phẩm cũng như hoàn thiện công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng vòng quay của vốn, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng vốn cũng như góp phần tạo lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra để bán, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tiêu thụ sản phẩm đem lại doanh thu giúp doanh nghiệp bù đắp được chi phí bỏ ra, có lợi nhuận đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất và phát triển doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu không tiêu thụ được sản phẩm của mình sản xuất thì toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh sẽ bị đình đốn, nguồn lực không được tái tạo. Do đó tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất.
Tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì phát triển mở rộng thị trường. Doanh nghiệp hiện nay không chỉ thu hẹp công việc kinh doanh của mình trong phạm vi thị trường cố định mà luôn cố gắng mở rộng thị trường mới. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể tổn tại và phát triển được. Việc tìm kiếm, phát triển thị trường mới, đưa sản phẩm của doanh nghiệp tới đáp ứng nhu cầu thị trường là một hoạt động của công tác tiêu thụ sản phẩm.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn có một vị thế cao trên thị trường, có rất nhiều cách xác định vị thế doanh nghiệp trên thị trường. Thị phần hay doanh số hàng hóa bán ra so với thị trường là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá vị thế doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có vị thế cao khi chiếm được thị phần lớn và ngược lại. Để có được thị phần cao thì công tác tiêu thụ sản phẩm là vô cùng quan trọng, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Ngoài ra, tiêu thụ sản phẩm còn mang lại thông tin rộng rãi về thị trường giúp doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn trong đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đảm bảo an toàn.
3.2. Phát triển thị trường tiờu thụ sản phẩm yếu tố sống còn của doanh nghiệp.
Trong quy luật phát triển chung kẻ đứng lại hoặc đi chậm hơn kẻ khác sẽ trở thành người thụt lùi đối với xã hội và theo quy luật tât yếu sẽ bị đào thải. Chính vì vậy mà muốn tồn tại được thì không những phải phát triển mà còn phải là phát triển nhanh.
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt thì một doanh nghiệp muốn tồn tại được thì tất yếu phải liên tục đổi mới, không ngừng nâng cao vị thế của mình ở trong thị trường, mở rộng thị trường tiêu thụ. Chỉ khi làm được như vậy thì doanh nghiệp mới không ngừng lớn mạnh mới đủ khả năng đứng vững trước sự phát triển của thời đại:
Sự phát triển thị trường tiêu thụ giúp doanh nghiệp khẳng định tên tuổi vị thế của mình trong cạnh tranh và nó còn tạo tiền đề về nguồn lực cho quá trình đổi mới. Thị trường tiêu thụ cũng đồng nghĩa với doanh thu và đi cùng với lợi nhuận - từ đó mà doanh nghiệp có nguồn lực đầu tư cho tái sản xuất, đầu tư mở rộng – nâng cao cả số và chất sản phẩm của doanh nghiệp mình - khi chất lượng và số lượng đều đươc nâng lên thì tất yếu khách hàng sẽ gia tăng và thị trường tiêu thụ sẽ mở rộng.
Một yếu không thể thiếu của bất kỳ quy luật phát triển nào đó là yếu tố con người. Con người là động lưc tất yếu để tạo lên phát triển. Muốn phát triển trước tiên phải phát triển con người. Vì vậy mà khi doanh nghiệp muốn phát triển được thì phát triển con người phải thực hiện đầu tiên.Và câu hỏi được đặt ra là nguồn lực lấy ở đâu – câu trả lời duy nhất của doanh nghiệp đó là từ lợi nhuận, điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp muốn phát triển được thì việc cần làm đầu tiên là: ”làm thế nào để mở rộng thị trường”
4.CÁC MÔ HÌNH LÝ THUYẾT CƠ BẢN SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG.
4.1.Mô hình năm áp lực cạnh tranh của M.Porter.
Michael E. Porter của trường quản trị kinh doanh Harvard đã đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp cho các nhà quản lý sử dụng phân tích môi trường nghành. Porter đưa ra mô hình năm lực tác động vào nghành:
* Mức độ cạnh tranh giữa các Công ty đang hoạt động trong nghành.
* Khả năng cạnh tranh của các đối thu tiềm ẩn
* Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế.
* Sức ép về giá của người mua.
* Sức ép về giá của người cung ứng.
Lập luận của Porter là mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực đó có thể coi là một sự đe doạ khi mà nó làm giảm lợi nhuận. Một tác động cạnh tranh yếu tố có thể được coi là cơ hội khi nó cho phép Công ty kiểm được lợi nhuận nhiều hơn. Ví dụ, số Công ty đang hoạt động trong nghành tăng lên sẽ hạn chế khả năng của chúng trong việc nâng giá để kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Cường độ của năm lực tác động này thường thay đổi theo thời gian, đòi hỏi các nhà quản lý chiến lược phải nhận biết được những cơ hội và các đe doạ chúng xuất hiện và phải đưa ra những đối sách chíên lược phù hợp.
4.1.1. Sự cạnh tranh của các đụớ thủ tiềm ẩn:
Đối thủ tiềm ẩn là các Công ty hiện không ở trong nghành nhưng có khả năng nhày vào hoạt động kinh doanh trong nghành đó. Ví dụ, vào những năm 80 Công ty điện tín Hoa Kỳ được xem là đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn của máy vi tính, bởi vì nó có công nghệ, đội ngũ nhân viên bán hàng để sản xuất và bán sản phẩm máy vi tính. Năm 1985, Công ty điện tín Hoa Kỳ (AT&T) thực sự đã nhảy vào kinh doanh máy vi tính .
Đối thủ mới tham gia trong nghành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của Công ty do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn dành được 1 phần thị trường. Do đó những Công ty đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Bởi vì hiển nhiên là nhiều Công ty nhảy vào kinh doanh trong một ngành, nó sẽ trở nên khó khăn hơn đối với các Công ty đang hoạt động trong ngành đó. Vì vậy phải bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình Công ty thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài. Ví dụ, các Công ty Xeros và General Electric từng nhận thấy rằng lợi thế của sản xuất, nghiên cứu, marketing và dịch vụ trên quy mô lớn là hàng rào ngăn cản sự xâm nhập vào ngành công nghiệp sản xuất máy tính.
Một nghiên cứu có tính kinh điển về những trở ngại cho việc nhảy vào một ngành kinh doanh cho được nhà kinh tế học Joe Bain đưa ra. Ông ta xác định 3 yếu tố trở ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh doanh:
- Sự ưa chuộng sản phẩm: Đó là sự ưa thích của người mua đối sản phẩm của Công ty hiện đang hoạt động, những Công ty này có thể thiết lập lên sự ưa chuộng của khách hàng đối với sản phẩm mình bằng cách: Quảng cáo thường xuyên tên Công ty và nhãn hiệu. Đối với sản phẩm thông qua các chương nghiên cứu và phát triển, nhấn mạnh ưu thế về chất lượng hàng hoá cao và dịch vụ sau bán hàng.
Như vậy sự ưa chuộng sản phẩm làm giảm bớt sự đe doạ thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn, làm cho họ thấy rằng việc phá vỡ sự ưa thích của người tiêu dùng đối với sản phẩm của các Công ty trong ngành là khó khăn và tốn kém.
- Các ưu thế về chi phí thấp: Đây chính là khó khăn đối với các đối thủ tiềm ẩn khi mới nhảy vào ngành. Những lợi thế về chi phí thường bắt nguồn từ: Phương pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu dài, sự quản lý có hiệu quả đầu vào của sản xuất như lao động, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị có nguồn vốn kinh doanh ổn định với lãi suất thấp do hoạt động của Công ty chứa đựng ít rủi ro hơn các Công ty khác.
- Tính hiệu quả của sản xuất lớn: Đây là ưu thế về chi phí của các Công ty có quy mô lớn. Ưu thế của sản xuất lớn bao gồm: Giảm chi phí thông qua sản xuất hàng loạt đã đầu ra đã được tiêu chuẩn hoá, giảm giá cho việc mua các nguyên liệu đầu vào và các bộ phận máy móc thiết bị với khối lượng lớn, sự phân bổ đều những chi phí cố định cho một khối lượng sản xuất lớn hơn và cả tính hiệu quả của sản xuất lớn trong quảng cáo.
Nếu Công ty có được những lợi thế này sẽ buộc các Công ty mới thâm nhập vào đương đầu với những khó khăn về quy mô sản xuất nhỏ và phải đương đầu với những bất lợi về chi phí lớn.
4.1.2. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các Công ty trong những ngành khác nhưng thoả mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các Công ty trong ngành. Những Công ty này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Ví dụ, các Công ty trong ngành Càfờ cạnh tranh một cách gián tiếp với các Công ty trong ngành chè và những ngành nước giải khát không cồn. Nếu giá của cà phê tăng quá lớn so với giá chè thì người uống cà phê sẽ chuyển sang uống chè. Hiện tượng này đã từng sảy ra khi thời tiết lạnh bất thường đã phá hoại phần lớn vụ thu hoạch cà phê ở Braxin trong năm 1975 – 1976. Giá cà phê đã tăng đến mức kỷ lục, phản ánh sự thiếu cà phê nghiêm trọng và phần lớn người tiêu dùng đã chuyển sang tiêu dùng chè hàng ngày.
Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó giới hạn một mức giá Công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của Công ty. Ngược lại nếu sản phẩm của một Công ty có rất ít các sản phẩm thay thế, Công ty có cơ hội để tăng giá và kíêm được lợi nhuận tăng thêm.
4.1.3. Sức ép về giá về giá của người mua
Người mua được xem như là sự đe doạ mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của Công ty tăng lên. ngược lại nếu người mua có những yếu thế sẽ tạo cho Công ty cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. người mua có thể gây áp lực đối với Công ty đến mức nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với Công ty. Theo Porter, những yếu tố tạo áp lực cho người mua là:
Khi ngành cung cấp gồm nhiều Công ty nhỏ còn người mua chỉ là số ít Công ty nhưng có quy mô lớn.
Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình như một đòn bẩy để yêu cầu được giảm giá.
Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các Công ty cung ứng cùng loại sản phẩm.
Ví dụ: Về một ngành người mua rất ớt ưu thế là ngành cung cấp các linh phụ kiện ôtô.
Các cơ sở cung cấp linh phụ kiện ôtôt rất nhiều và quy mô lại nhỏ. Khách hàng của họ là các nhà sản xuất ô tô, quy mô rất lớn, số lượng lại ít. Ví dụ hãng Chrysler quan hệ thường xuyên với 2000 các cơ sở cung cấp các linh phụ kiện khác nhau và thường hợp đồng với nhiều Công ty khác nhau để cung cấp một chi tiết. Họ có thể sử dụng sự đe doạ về các hợp đồng làm ăn như là vũ khí để thoả thuận mua bán.
4.1.4. Sức ép về giá của người cung cấp
Người cung cấp được coi là sự đe doạ với Công ty khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho Công ty lên, ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty. Các Công ty thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư thiết bị, nguồn lao động và tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm.
- Số lượng tổ chức cung cấp ít, người mua khó lựa chọn cơ sở cung cấp
- Sản phẩm Công ty cần mua có rất ít loại sản phẩm có thể thay thế được
Ví dụ, Công ty Xerox với tư cách là người phát minh ra máy phô tô coppy, đã có sự độc quyền 25 năm trong việc sản xuất máy này. Người mua phụ thuộc vào Xerox bởi vì họ là người cung cấp duy nhất. Lợi thế này mang lại cho Xerox cơ hội nâng giá cao hơn mức giá sẽ được định ra trong những điều kiện cạnh tranh, như mức giá phổ biến trong ngành hiện nay.
Một ví dụ khác, trong ngành hàng không, một thời gian dài các nghiệp đoàn của phi công và thợ máy là cơ sở cung cấp lao động cho ngành đã tạo được những sức ép lớn. Do các hợp đồng thoả thuận về lao động và về các điều kiện ngăn chặn được đình công mà lao động không nằm trong các nghiệp đoàn không được coi là lao động thay thế khả thi. Các nghiệp đoàn đã sử dụng lợi thế này để đưa ra các yếu tố sách về nâng mức lương cả phi công và thợ máy lên cao hơn mức có thể đạt được trong điều kiện cạnh tranh. Tình trạng này đã được duy trì cho đến đầu những năm 80, khi hậu quả của chi phí hoạt động quá cao đã đẩy nhiều công ty đến chỗ phá sản. Các Công ty khác đã lợi dụng nguy cơ của sự phá sản để phá bỏ hợp đồng lao động và giảm mức tiền công của thợ máy và phi công.
4.1.5. Sự cạnh tranh giữa các Công ty đang hoạt động ._.trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các Công ty trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe doạ cho các Công ty. Nếu sự cạnh tranh này là yếu các Công ty có cơ hội để nâng giá nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt sẽ dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt về giá cả, có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của các Công ty. Sự cạnh tranh giữa các Công ty trong ngành thường chịu sự tác động tổng hợp của 3 yếu tố: Cơ cấu ngành, mức độ của cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
- Cơ cấu cạnh tranh ngành: Đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các Công ty trong ngành. Có thể phân biệt 2 loại cơ cấu chính. Thứ nhất, ngành phân tán, bao gồm số lượng lớn các Công ty có quy mô vừa và nhỏ, không có Công ty nào chi phối toàn ngành, như ngành sản xuất lương thực trong nông nghiệp, ngành kinh doanh khách sạn, du lịch. Thứ 2, ngành hợp nhất, bao gồm số lượng ít, các Công ty có quy mô lớn hoặc trường hợp đặc biệt, chỉ có một công ty độc quyền, như ngành sản xuất ô tô, sản xuất điện. Cũng cần chú ý rằng mức độ phân tán hoặc hợp nhất của các ngành không giống nhau.
Đặc trưng của những ngành phân tán là: Các công ty nhỏ bé, không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó mức lợi nhuận của Công ty phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí hoạt động, nhưng về mặt này các công ty có nhiều mặt hạn chế, do quy mô nhỏ, sản phẩm của công ty thường phải chịu tỷ lệ lớn hơn chi phí về marketing hoặc chi phí nghiên cứu và phát triển để tạo sự khác biệt hoá về sản phẩm.
Đặc trưng của những ngành hợp nhất là các Công ty hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có nghĩa là các hoạt động cạnh tranh của một Công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận của công ty khác trong ngành. Ví dụ, một hãng ô tô chào hàng với phương thức bán ưu đãi về tài chính lập tức gây tác động tiêu cực đến doanh số bán và lợi nhuận của các Công ty khác, buộc những công ty này phải có ưu đãi tương tự nhằm bảo vệ thị trường của họ. Như vậy, trong ngành hợp nhất, hoạt động mang tính cạnh tranh của một công ty tác động trực tiếp đến thị trường của đối thủ cạnh tranh và buộc chúng phải đối phó lại. Hiệu quả là sự xoáy chôn ốc tăng lên về mức độ của cạnh tranh, làm giảm dần mức lợ nhuận của ngành. Do đó phải điều rõ ràng là trong ngành hợp nhất, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các công ty và khả năng sảy ra chiến tranh về giá cả tạo ra sự đe doạ chủ yếu. Các Công ty cố gắng làm giảm hậu quả của sự đe doạ này bằng cách theo sau các mức giá được định bởi các Công ty đầu đàn trong ngành. Việc này gọi là hình thức thoả thuận ngầm, bởi vì thoả thuận một cách rõ ràng là trái pháp luật. Do đó, đứng trước nguy cơ đe dọa của cuộc chíên tranh giá cả, các Công ty trong ngành hợp nhất có xu hướng cạnh tranh về chất lượng hoặc mẫu mã của sản phẩm và việc né tránh các cuộc chiến tranh giá cả chín là xu hướng đặc trưng của ngành hợp nhất.
- Mức độ yêu cầu: Tình trạng về cầu trong ngành cũng là một yếu tố tác động mạnh đến sự cạnh tranh. Tăng nhu cầu tạo ra cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm dịu bớt sự cạnh tranh. Cầu tăng lên khi trên thị trường có thêm người tiêu dùng mới, hoặc tăng sức mua của những người tiêu dùng hiện tại. Các công ty có thể tăng doanh thu mà khong làm ảnh hưởng đến thị trường của các công ty khác. Như vậy, việc tăng cầu đưa đến cơ hội mở rộng hoạt động cho các công ty.
Ngược lại, cầu giảm khi có người tiêu dùng rời bỏ thị trường của ngành, hoặc sức mua của những người tiêu dùng hiện tại giảm. Khi đó sự cạnh tranh giữa các công ty trở nên mạnh mẽ hơn, một công ty chỉ có thể đạt tới sự tăng trưởng bằng cách lấy đi thị phần của những công ty khác. Sự biến động của mức cầu phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của ngành, mối quan hệ này chúng ta sẽ có dịp nghiên cứu ở phần sau:
Những trở ngại ra khỏi ngành: Những trở ngại ra khỏi ngành đe doạ khi cầu đang có xu hướng giảm. Nếu như những trở ngại này rất khó vượt qua thì các công ty có thể bị buộc chặt vào nhau, mặc dù hoạt động kinh doanh không có hứa hẹn gì tốt đẹp cả, và nó sẽ làm cho sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Các trở ngại chính ra khỏi ngành thường là: Thứ nhất, các máy móc thiết bị khó có thể sử dụng vào ngành khác, do vậy công ty không thể bán được, nếu công ty muốn ra khỏi ngành buộc phải bỏ đi toàn bộ tài sản này. Thứ hai, những chi phí cố định rất lớn khi ra khỏi ngành, như trả lương cho công nhân khi chưa hết hợp đồng. Thứ 3, đó là sự gắn bó về tình cảm đối với ngành, như những công ty thuộc gia đình, dòng họ.
Ví dụ: Việc giảm nhu cầu về thép trên toàn thế giới vào cuối những năm 70 đã làm cho công ty luyện thép bị thiệt hại nặng nề. Nhưng các công ty không thể ra khỏi ngành được vì chi phí này rất cao, làm cho sự cạnh tranh giữa các công ty trở lên quyết liệt
Bảng tổng hợp tình hình nội bộ công ty
Các chức năng trong chuỗi giá trị
Mức độ quan trọng với ngành
Mức độ tác động
Tính chất tác động
Điểm số
1
2
3
4
5
Liệt kê các thành phần trong chuỗi giá trị
Phân loại mức độ quan trọng(từ 0 đến 3)
Phân loại mức độ tác động (từ 0 đến 3)
Xác định tính chất tác động tích cực(+)
tiêu cực(-)
Nhân trị số (cột 2) với (cột 3) và đặt dấu (-) vào kết quả
*Mức độ quan trọng của yếu tố đối với ngành: cao = 3l , trung bình = 2, thấp = 1.
*Mức độ tác động đối với công ty: nhiều = 3, trung bình = 2, ít = 1, không tác động = 0
*Tính chất tác động tốt = (+), xấu = (-)
4.2. Mô hình phân loại thứ tự ưu tiên.
Lãnh đạo công ty cần phải xác định rõ cơ hội nào cần theo đuổi và các biện pháp nào cần thực hiện nhằm tránh các nguy cơ chính. Do nguồn lực có hạn công ty không thể khai thác hết mọi cơ hội và cũng không thể cùng một thời gian khắc phục hết mọi nguy cơ tiềm ẩn. Có thể sử dụng phương pháp mô hình để phân loại thứ tự ưu tiên khác nhau để khai thác cơ hội hoặc khắc phục nguy cơ.
Sử dụng ma trận cơ hội để phân loại cơ hội theo thứ tự ưu tiên trên cơ sở xác định mức độ tác động của một cơ hội đối với công ty và xác suất mà công ty có thể tranh thủ được cơ hội đó. Nếu xác suất mà công ty có thể tranh thủ cơ hội tính toán được và tác động tài chính của cơ hội đó có thể dự báo được thì có thể lập được ma trận cơ hội như sau:
Tác động của
cơ hội
Xác suất để công
Ty tranh thủ cơ hội
Cao
Trung bình
Thấp
Cao
Trung bình
Thấp
Trung bình
Ưu tiên cao
Thấp
Ma trận nguy cơ tương tự như ma trận cơ hội, chỉ khác là nó có thêm một cột về mức độ tác động. Cột này phản ánh các nguy cơ có thể làm công ty sụp đổ hoàn toàn, như nguy cơ phá sản.
Tác động của
Nguy cơ
Xác suất sảy
ra nguy cơ
Hiểm nghèo
Nghiêm trọng
Trung bình
Nhẹ
Cao
Trung bình
Thấp
Mức cao
Mức khẩn cấp
Mức nhẹ
Mức trung bình
Nguy cơ ở mức khẩn cấp thường do lãnh đạo tối cao xử lý. Các công ty ít khi có đủ thời gian để thu thập nhiều thông tin bổ sung về nguy cơ khẩn cấp, vì thông thường phải có biện pháp tức thì, để tránh các nguy cơ đó ngay sau khi nhận ra chúng. Đối với nguy cơ ở mức cao công ty còn có thời gian để thu thập các thông tin bổ sung. Đối với các nguy cơ ở mức thấp hơn thường chỉ cần theo dõi, tích luỹ thông tin để sử dụng khi cần thiết.
Cũng cần chú ý là nguy cơ của một công ty có thể là vấn đề không đáng quan tâm đối với các công ty khác. Ví dụ, khi chính phủ đưa ra quy định mới về mức độ cho phép số lượng chất ô nhiễm của nhà máy. Đối với những công ty có phương tiện sản xuất tương đối cũ, lạc hậu thì các quy định trên là nguy hiểm, nếu như phí tổn cần thiết để thoả mãn các quy định đó đe doạ khả năng tồn tại của công ty. Còn đối với những công ty có phương tiện mới, hiện đại, thoả mãn các quy định của chính phủ thì các quy định này không phải là vấn đề đáng quan tâm.
Ma trận SWOT (mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và nguy cơ)
Để phân tích một cách tổng hợp các mặt mạnh, mặt yếu với các cơ hội và nguy cơ có thể sử dụng ma trận SWOT.
Ma trận SWOT
Cơ hội (O)
Nguy cơ(T)
Mặt mạnh
Phối hợp
S/O
Phối hợp
S/T
Mặt yếu
Phối hợp
W/O
Phối hợp
W/T
S(Strengths): Các mặt mạnh
O (ổpptunitíe): Các cơ hội
T (Theats): Các nguy cơ
W (Weaknesses): Các mặt yếu
Để xây dựng ma trận SWOT , trước tiên cần kể ra các mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và nguy cơ được xác lập bằng ma trận phân loại theo thứ tự ưu tiên. Tiếp đó tiến hành so sánh một cách có hệ thống từng cấp tương ứng giữa các yếu tố để tạo ra cấp phối hợp. Có bốn nhóm phối hợp cơ bản, tương ứng với các nhóm này là các phương án chiến lược cần được xem xét.
Phối hợp S/O thu được từ sự kết hợp giữa các mặt mạnh chủ yếu với các cơ hội của công ty, cần chú ý đến việc sử dụng các mặt mạnh để đối phó các nguy cơ.
Phối hợp W/O là sự kết hợp giữa các mặt yếu của công ty với các cơ hội. Sự kết hợp này mở ra cho công ty khả năng vượt qua mặt yếu bằng tranh thủ các cơ hội.
Phối hợp W/T là sự kết hợp giữa các mặt yếu và nguy cơ của công ty. Sự kết hợp này đặt ra yêu cầu công ty cần phảI tìm các biện pháp để giảm bớt mặt yếu và tránh được nguy cơ bằng cách đề ra các chiến lược phòng thủ. Điều cần chú ý là các cách phối hợp trên không nên cứng nhắc, có thể đưa ra những chiến lược phối hợp một cách tổng hợp cả các mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và nguy cơ, làm cho công ty vừa có thể phát huy được mặt mạnh, tận dụng được cơ hội lại vừa có thể khắc phục được mặt yếu và hạn chế được nguy cơ.
5.SẢN XUẤT THỨC ĂN GIA SÚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Đất nước ta, nông nghiệp đóng góp một phần hết sức to lớn vào đời sống kinh tế xã hội .Trong những năm gần đây với chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp – nâng cao tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiêp Việt Nam, thì sản xuất thức ăn chăn nuụi đã trở thành một khâu quan trọng không thể thiếu trong quá trình chuyển đổi .
Trước đây trong nền nông nghiệp lạc hậu, thức ăn chủ yếu cho vật nuôi là các phế phẩm thừa trong sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Vì thế mà hiệu quả cuả sản xuất chăn nuôi là rất thấp. Ngày nay bằng những nghiên cứu khoa học ,chúng ta đã biết để có hiệu quả cao trong sản xuất chăn nuôi thì cần phải cung cấp cho vật nuôi những chất dinh dưỡng cần thiết cho từng giai đoạn phát triển của chúng, và để đáp ứng được những nhu cầu cần thiết đó cho vật nuôi thì thức ăn từ sản phẩm thừa trong trồng trọt là không đủ. Và ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi đã ra đời để giải đáp cho câu hỏi của quá trình phát triển đó. Thức ăn chăn nuụi sản xuất công nghiệp có đầy đủ các dưỡng chất để vật nuôi phát triển, với từng thời kỳ phỏt triển của vật nuôi thỡ lại có các loại thức ăn phù hợp.Trong những năm qua sản xuất thức ăn chăn nuụi đã đưa năng xuất của nghành chăn nuôi Việt Nam lên một tầm cao mới. Cú thể nhận thấy dễ dàng sự phỏt triển đú của ngành chăn nuụi thụng qua đời sống của nhõn dõn (Cỏc mặt hàng như thịt lợn, thịt bũ, thịt gà, cỏc sản phẩm chế biến như sữa tươi … luụn đỏp ứng được nhu cầu của nhõn dõn). Việc tỷ trọng của nghành chăn nuôi Việt Nam tăng vẫn còn chậm trong những năm qua nguyên nhân là môt số dịch bệnh lớn đã làm suy giảm nghiêm trọng nghành chăn nuôi, mặt khác thị trường thức ăn chăn nuụi còn chưa thực sự phát triển kịp với đòi hỏi của đất nươc. Tuy nhiên với tình hình biến đổi hết sức sôi động hiên nay của thị trường sản xuất thức ăn chăn nuụi (khoảng hơn 200 nhà máy sản xuất trên thị trường) có thể hứa hẹn một tương lai tươi sáng đối với nghành chăn nuôi nước ta.
Mặt khác lĩnh vực sản xuất thưc ăn chăn nuụi hàng năm còn đóng góp trực tiếp khoảng 6 nghìn tỷ đồng vào GNP cuả cả nước. Giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Ngoài ra, sự phát triển sôi động của lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuụi trong những năm qua cũng góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và phát triển của các ngành phụ trợ như sản xuất bao bì, giao thông vận tải.
Có thể nói sản xuất thức ăn chăn nuụi đã đóng góp một phần công sức không hề nhỏ bé vào quá trình chuyển mình của đất nước trước ngưỡng của của thời đại.
6.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG TIÊU THỤ THỨC ĂN GIA SÚC.
- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận chuyển hàng hoỏ của cỏc doanh nghiệp. Khi cơ sở hạ tầng giao thụng thuận lợi việc vận chuyển hàng tới địa bàn tiờu thụ sẽ dễ dàng và kịp thời hơn, cũn nếu cơ sở hạ tầng giao thụng yếu kộm thỡ ngược lại.
- Điều kiện tự nhiờn: Khi điều kiện tự nhiờn thuận lợi người chăn nuụi sẽ chăn nuụi nhiều hơn bởi họ kỳ vọng cao vào tương lai, từ đú hàng hoỏ sẽ bỏn chạy hơn. Ngược lại khi điều kiện tự nhiờn khụng thuận lợi, bệnh dịch hay sảy ra người chăn nuụi sẽ lo sợ thua lỗ vỡ thế hàng hoỏ sẽ khú tiờu thụ.
- Lợi nhuận của người chăn nuụi cũng là một ảnh hưởng khụng nhỏ đến khả năng tiờu thụ sản phẩm của cỏc doanh nghiệp. Khi người chăn nuụi nhận thấy việc sử dụng thức ăn chăn nuụi cụng nghiệp trong chăn nuụi là cú hiệu quả thỡ họ sẽ sử dụng nhiều hơn và ngược lại.
- Nhận thức của người chăn nuụi cũng là một nhõn tố ảnh hưởng tới khả năng tiờu thụ hàng hoỏ của cỏc doanh nghiệp. Những vựng nhận thức của người dõn thấp họ sẽ chỉ quen với việc sử dụng phương thức chăn nuụi truyền thống, và việc thuyết phục họ chuyển sang dựng thức ăn chăn nuụi cụng nghiệp vào chăn nuụi là rất khú khăn. Ngược lại, những vựng cú dõn trớ cao, người chăn nuụi sẽ hiểu được việc ỏp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuụi là rất cần thiết và họ sẽ dễ dàng chấp nhận sản phẩm của cỏc doanh nghiệp nếu nú đem lại hiệu quả.
- Cỏc chớnh sỏch khuyến nụng cũng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiờu thụ sản phẩm của cỏc hóng sản xuất thức ăn chăn nuụi. Khi Chớnh phủ cú những chớnh sỏch khuyến nụng, người chăn nuụi sẽ cú nhiều vốn hơn để đầu tư vào chuồng trại, giống và thức ăn. Như vậy họ sẽ sử dụng nhiều thức ăn chăn nuụi hơn và cỏc doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiờu thụ sản phẩm của mỡnh hơn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY TNHH TM VIC
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2005
I. TỔNG QUAN VỀ NGHÀNH CHĂN NUÔI VÀ SẢN XUẤT THỨC ĂN chăn nuụi TẠI VIỆT NAM.
1.Tổng quan về ngành chăn nuôi
Trong lịch sử ,nền nông nghiệp nước ta vốn đã là nền nông nghiệp trồng lúa nước, chăn nuôi chưa được chỳ trọng phát triển như là môt ngành sản xuất độc lập, mà mới được coi là một hoạt động sản xuất phụ nhằm hỗ trợ cho ngành trồng trọt. Mục đích chính của chăn nuôi lấy thịt, trứng, sữakhông được người sản xuất nhắc đến mà người ta chỉ hướng muc tiêu về cung cấp sức kéo làm đất và cung cấp phân bón cho cây trồng .
Sau ngày hoà bình thống nhất đất nước, nền kinh tế bước vào giâi đoạn phục hồi và phát triển-vị trí và vai trò của ngành chăn nuôi đã dược nhìn nhận và đánh giá đúng với mục tiêu phấn đấu đưa chăn nuôi thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Nhờ đó, ngành chăn nuôi ở nước ta đã có bước chuyển biến tích cực so với năm 1975. Gía trị sản xuất ngành chăn nuôi (tính theo giá cố định năm 1994) năm 2000 tăng gấp 3,93 lần trong khi đó giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 3,08 lần.
Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong
giá trị sản xuất nông nghiệp.
Đơn vị: %
Năm
Ngành chăn nuôi
Ngành trồng trọt
1975
4,62
95,38
2000
19,7
80,3
Nguồn: Giáo trình Kinh tế nông nghiệp
Điều đáng ghi nhận là, trước đây chăn nuôi trâu, bò chủ yếu để lấy sức kéo, thì đến nay đang chuyển sang mục tiêu là chăn nuôi lấy thit, sữa, theo mô hình chăn nuôi theo phương thức công nghiệp đã phát triển mạnh. Năm 2004 cả nước có 2.869.802 con trâu, 1.558.360 con bò, 26.143.727 con lợn, 218.152.800 con gia cầm(1) (1) Số liệu Tổng cục thống kê 1/8/2004
. Nhìn chung đàn vật nuôi không chỉ phát triển về số lượng mà đã có sự biến đổi tích cực trong việc đưa các giống mới có năng xuất chất lượng cao, sản xuất theo phương thức thâm canh, xoá bỏ dần phương thức chăn nuôi tự nhiên theo kiểu tận dụng.
2.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI VIỆT NAM
Năm 1989 cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuụi đầu tiên của Viêt Nam ra đời, đó là công ty liên doanh GUIOMARCH-VCN của trung tâm nghiên cứu Thụy Phương Hà Nội trực thuộc Viện chăn nuôi liên doanh với CH Pháp. Đến nay cả nước đã có trên 200 nhà máy sản xuất thứ ăn chăn nuụi, hàng năm cho ra đời hàng chăm nghìn tấn thức ăn chăn nuụi góp phần thúc đẩy phương thức chăn nuôi công nghiệp phát triển mạnh trong những năm gần đây. Đóng góp trực tiếp hàng nghìn tỷ đồng vào GNP
2.1.Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi.
2.1.1 Nhóm các yếu tố chính sách.
- Yếu tố luật pháp: Bất kỳ một ngành nghề nào cũng cần một khung pháp lý. Hành lang pháp lý có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của ngành. Hiện nay hành lang pháp lý đang là một vấn đề của ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi ở nước ta hiện nay. Ví dụ: “Nghị định 15 Chính phủ ra đời năm 1996 thỡ giỏm đốc Sở có thể ra quyết định đỡnh chỉ sản xuất DN làm ăn sai quy định so với chất lượng đó cụng bố. Thế nhưng, Pháp lệnh xử lý hành chớnh ra đời năm 2002 thỡ Chỏnh thanh tra chuyên ngành là người quyết định. Nói vậy, nhưng các Sở NN-PTNT có thanh tra chuyên ngành vẫn cũn là ước mơ”. Như vậy ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay giống như một sân chơi mà chưa có luật rõ dàng. Mà kết cục một chò chơi không luật thì ai cũng biết đó là vô cùng hỗn loạn. Như vậy để cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển thành một ngành độc lập xứng đáng là đòn bẩy đưa ngành chăn nuôi Việt Nam lên thành trở một ngành sản xuất hàng hoá lớn thì cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật doanh nghiệp,luật cạnh tranh…nói chung và các luật sử lý của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nói riêng.
- Các chính sách phát nông nghiệp nông thôn: Có thể nói các chính phát triển nông nghiệp nông thôn có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá trình phát triển của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Việc định hướng của Đảng và Nhà nước cho phát triển ngành chăn nuôi thành một ngành sản xuất chính, độc lập mang tính công nghiệp cao thì song song với nó cũng cần một ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi được quy hoạch phát triển xứng tầm là đòn bẩy cho ngành chăn nuôi phát triển. Mặt khác các chính sách khuyến nông cũng ảnh hưởng mạnh đến ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ví dụ, Năm 2006 dự tính cho khuyến nông là 110 tỷ(website Bộ nụng nghiệp). Như vậy người chăn nuôi sẽ được vay vốn ưu đãi, có tiền để đầu tư vào thức ăn và giống. Có thể nhận ngay ra lợi ích của các doanh nghiệp chăn nuôi qua chương trình khuyến nông này.
- Các chính sách tài chính: Chớnh sỏch tài chớnh tỏc động đến ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi thể hiện rừ dàng nhất qua đầu tư phỏt triển và chi trợ cấp. Việc đầu tư cho xõy dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là cơ sở hạ tầng nụng nghiệp nụng thụn sẽ giỳp cho cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi dễ dàng hơn trong việc tiờu thụ sản phẩm. Mặt khỏc sự trợ cấp của nhà nước đối với cỏc doanh nghiệp cũng là rất cần thiết trong một số trường hợp.
- Chớnh sỏch ngoại thương: Cũng như nhiều ngành kinh tế khỏc, ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi cũng chịu sự tỏc động của chớnh sỏch ngoại thương của chớnh phủ. Việc bảo hộ hay khụng bảo hộ của nhà nước với ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi trong nước cú ảnh hưởng tới tương lai của ngành. Ngoài ra, cỏc nguyờn liệu sản xuất thức ăn chăn nuụi hiện nay của cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi ở nước ta chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài vỡ thế chớnh sỏch ngoại thương của chớnh phủ cú ảnh hương rất lớn đến đầu vào của sản xuất thức ăn chăn nuụi trong nước.
- Chớnh sỏch cụng nghiệp và cụng nghiệp hoỏ: Tỏc dụng, vai trũ của cụng nghiệp hoỏ đối với việc phỏt triển kinh tế núi chung bao gồm quỏ trỡnh đụ thị hoỏ, thỳc đẩy cỏc mối liờn kết trong kinh tế, là con đường cơ bản nõng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Cũn đối với riờng ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi thỡ cụng nghiệp và cụng nghiệp hoỏ tỏc động trực tiếp trong hai chớnh sỏch đú là: Chớnh sỏch phỏt triển cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ - chớnh sỏch này sẽ giỳp đa phần cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi trong nước (đa phần la cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ) đứng vững và phỏt triển. Chớnh sỏch phỏt triển chăn nuụi (theo hướng cụng nghiệp chủ yếu theo hỡnh thức trang trại với quy mụ phự hợp, hỡnh thành cỏc vựng sản xuất hàng hoỏ tập trung, an toàn dịch bệnh)-chớnh sỏch này sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu sản phẩm của ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi từ đú đũi hỏi cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi phải cú sự chuẩn bị sẵn sàng cho bước chuyển mỡnh. Mặt khỏc việc khuyến khớch ỏp dụng cụng nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn cụng nghiệp, thỳ y và kiểm tra chất lượng sản phẩm sẽ là điều kiện thuận lợi để cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi đổi mới cụng nghệ, đưa vào cỏc sản phẩm mới, nõng cao năng xuất…
2.1.2 Ảnh hưởng của quỏ trỡnh hội nhập
- Ảnh hưởng đến đầu vào: Việc gia nhập vào khối thương mại tự do thế giới WTO và quỏ trỡnh hội nhập AFTA là điều kiện để cỏc doanh nghiệp nhập khẩu những cụng nghệ sản xuất mới với giỏ thành ưu đói. Mặt khỏc sau khi gia nhập WTO trong tương lai thỡ giỏ của cỏc nguyờn liệu đầu vào sẽ giảm xuống giỳp cỏc doanh nghiệp sản xuất giảm được chi phớ đầu vào, tăng đầu tư, nõng cao lợi nhuận. Năm 2013, thuế của tất cả cỏc mặt hàng nụng sản sẽ giảm xuống dưới 5%. Đõy là điều kiện rất thuận lợi cho cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi giảm chi phớ sản xuất bởi cỏc nguyờn liệu chớnh để sản xuất thức ăn chăn nuụi của cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi Việt Nam hiện nay như: đậu tương, bột cỏ, bột thịt… chủ yếu là nhập từ nước ngoài ( Trung Quốc, Argentina, Hoa Kỳ, Ấn Độ..) .
- Ảnh hưởng đến đầu ra: Quỏ trỡnh hội nhập sẽ giỳp cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia sỳc trong nước được tiếp cận với cỏc thị trường lớn với hàng trăm triệu khỏch hàng. Tuy nhiờn, cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi trong nước cũng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của cỏc cụng ty nước ngoài với tiềm lực tài chớnh và cụng nghệ hơn hẳn. Cú thể núi đõy vừa là thỏch thức vừa là cơ hội đối với ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi.
2.1.3 Sự phỏt triển của quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ nụng thụn
- Ảnh hưởng về tổng cầu: Cụng nghiệp hoỏ nụng thụn trong những năm qua đó ghi nhận rất nhiều thành tựu. Cơ sở hạ tầng liờn tục được nõng cấp, thu nhập của người dõn gia tăng đỏng kể, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhõn dõn được cải thiện, dõn trớ được nõng cao. Từ đú cú thể thấy điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi phỏt triển. Việc thu nhập của người dõn nụng thụn tăng lờn sẽ giỳp họ cú điều kiện sử dụng đầu tư vào giống vật nuụi và thức ăn chăn nuụi, mặt khỏc dõn trớ được nõng lờn người dõn sẽ hiểu được cần phải từ bỏ phương thức chăn nuụi truyền thống là sử dụng cỏc phế phẩm thừa trong sản xuất và sinh hoạt nụng nghiệp, ỏp dụng phương phỏp chăn nuụi bằng sản phẩm thức ăn chăn nuụi cụng nghiệp. Như vậy, cú thể dự bỏo sự gia tăng của tổng cầu thức ăn chăn nuụi trong thời gian tới là rất lớn.
- Ảnh hưởng tới cơ cấu sản phẩm: Cựng với quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ nụng thụn thỡ phương thức chăn nuụi trong nụng nghiệp cũng dần chuyển sang hỡnh thức chăn nuụi cụng nghiệp – chăn nuụi theo trang trại lớn, vừa và nhỏ. Từ đú cú thể thấy cơ cấu sản phẩm của cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi sẽ phải dần chuyển từ sản phẩm thức ăn đậm đặc (thức ăn được cho vật nuụi ăn cựng với cỏc phế phẩm trong sản xuất và sinh hoạt trong nụng nghiệp) như hiện nay sang sản phẩm thức ăn chăn nuụi hỗn hợp (cho vật nuụi ăn trực tiếp khụng cần phụ phẩm).
2.1.4 Một số yếu tố cơ bản khỏc
- Cỏc dịch vụ thỳ y: Trước đõy cỏc dịch vụ thỳ y như: thuốc thỳ y, cỏc y bỏc sỹ chuyờn khoa thỳ y…. là rất hiếm và chủ yếu chỉ tập trung ở cỏc vựng đồng bằng gần cỏc đụ thị lớn như Hà Nội, Hải Phũng (Đồng bằng Sụng Hồng), Thành phố Hồ Chớ Minh (Đồng bằng Sụng Cửu Long). Vỡ vậy, việc chăm súc sức khoẻ cho vật nuụi là rất hạn chế đối với cỏc địa phương khỏc. Trong khi đú cỏc loại gia sỳc lớn như: Trõu, Bũ, Dờ… lại chủ yếu được nuụi ở cỏc vựng cao nguyờn và trung du miền nỳi. Tuy nhiờn với sự quan tõm của Đảng và Nhà nước trong những năm qua dịch vụ thỳ y ở cỏc tỉnh miền nỳi trung du phớa Bắc và cỏc tỉnh Tõy Nguyờn, Trung bộ đó phỏt triển mạnh mẽ đỏp ứng được phần nào nhu cầu chăm súc cho vật nuụi. Như vậy rủi ro trong chăn nuụi sẽ được giảm đi, từ đú cỏc hộ chăn nuụi sẽ mạnh dạn đầu tư vào chăn nuụi dẫn đến sự phỏt triển tất yếu của ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi.
- Cỏc yếu tố về thiờn tai: Trong một vài năm vừa qua cỏc đại dịch lớn đó làm ảnh hưởng khụng nhỏ đến ngành chăn nuụi Việt Nam (lở mồm long múng, cỳm gia cầm), điều này đó ảnh hưởng khụng nhỏ đến cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi, thậm chớ cú những doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phỏ sản do khụng thể tiờu thụ sản phẩm. Vỡ vậy để bảo vệ cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi cũn non trẻ trong nước- để xứng tầm là đũn bẩy cho chăn nuụi Việt Nam đi lờn cụng nghiệp, thỡ Đảng và Nhà nước cần cú biện phỏp hỗ trợ cho cỏc doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuụi.
2.2.Đôi nét về ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay
*Tiềm năng cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi.
- Trờn lónh thổ Việt Nam tồn tại nhiều hệ thống canh tỏc đa dạng, cho nên nguồn thức ăn gia súc cũng rất phong phú. Hệ thống canh tác lúa nước và hệ thống canh tác cây trồng cạn là 2 hệ thống chính sản xuất các nguồn thức ăn giàu tinh bột. Với trên 30 triệu tấn thóc từ hệ thống canh tác cây lúa nước, hàng năm đó cú gần 4,5 triệu tấn cỏm và tấm vốn là nguồn thức ăn năng lượng cổ truyền cung cấp cho đàn lợn và gia cầm. Hệ thống canh tác cây trồng cạn trồng các loại hoa màu như ngô, sắn, khoai lang, khoai sọ, kê,...Ngô là loại cây trồng lâu đời hiện có nhiều khả năng về mở rộng diện tích gieo trồng và tăng năng suất. Đầu thế kỷ 20 các nước Đông Dương đó từng xuất khẩu ngụ qua Phỏp làm thức ăn gia súc, thời gian 10 năm qua diện tích trồng ngô tăng gần gấp 2 lần, hiện đó đạt xấp xỉ 700.000 ha. Việc sử dụng rộng rói cỏc giống ngụ lai, với 6 vựng ngụ tập trung, cựng với sắn và khoai lang, chăn nuôi sẽ có cơ sở thức ăn mới khả dĩ tạo được bước ngoặt chuyển từ chăn nuôi tự túc sang chăn nuôi hàng hoá. Hệ thống canh tác cây trồng cạn, không chỉ sản xuất nguồn thức ăn giàu tinh bột mà cũn sản xuất đậu đỗ, đậu tương, lạc, vừng, bông. Hạt cây có dầu ngắn ngày là nguồn thức ăn giàu protein đa dạng của chăn nuôi. Hệ thống canh tác cây công nghiệp dài ngày có liên quan đến nguồn thức ăn giàu protein cũn cú dừa và cao su. Việt Nam hiện đó cú 500.000 ha trồng dừa và trờn 400.000 ha cao su (Niờn giỏm thống kờ, 2000).
Trong hệ thống canh tỏc cõy cụng nghiệp cũn phải đề cập đến cây mía. Cây mía đó từng trồng ở Việt Nam từ lõu đời, hiện nay sản xuất mía đường đang được khuyến khích phát triển. Các vùng trồng mía tập trung ở Duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long sẽ là chỗ dựa lớn của chăn nuôi về thức ăn thô xanh và rỉ đường.
Hệ thống canh tác vườn ao có năng suất rất cao, tạo ra nguồn rau xanh đủ loại thích hợp với mọi mùa vụ. Việt Nam có 1 triệu km2 lónh hải, 314.000 ha mặt nước và 56.000 ha đầm hồ. Với tài nguyên mặt nước như vậy, chăn nuôi lại có thêm nguồn thức ăn dạng thực vật thủy sinh trong đó đáng giá nhất là nguồn thức ăn protein động vật. Để vượt qua sự hạn chế về đất, người nông dân Việt Nam cần cù và sáng tạo đó tớch luỹ được nhiều kỹ thuật phong phú về tăng vụ, gối vụ, trồng xen. Do kết quả của quá trỡnh lao động và sáng tạo này mà vừa tăng được nguồn lương thực, thực phẩm cho người vừa tạo cho chăn nuôi nhiều nguồn lớn về phụ phẩm làm thức ăn gia súc. Ước tính hàng năm có 25 triệu tấn rơm và gần 10 triệu tấn thân cây ngô già, ngọn mía, dây lang, dây lạc, cây đậu tương.v.v. Với việc mở rộng các nhà máy chế biến hoa quả, sẽ lại có thêm nguồn phụ phẩm lớn làm thức ăn gia súc có giá trị như bó dứa, bó cam chanh... Thiờn nhiờn Việt Nam thuận lợi cho việc sản xuất thức ăn gia súc, nhưng hỡnh như bao giờ cũng vậy, cùng với thuận lợi đồng thời cũng có những khó khăn phải khắc phục ở công đoạn sau thu hoạch và bảo quản. Khai thác và sử dụng có hiệu quả cao các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ của hệ thống canh tác đa dạng nói trên là nhiệm vụ to lớn của những người làm công tác nghiên cứu cũng như những người làm công tác quản lý. Việt Nam không có những cánh đồng cỏ bát ngát và tương đối bằng phẳng như các nước khác. Cỏ tự nhiên mọc trên cỏc trảng cỏ ở trung du và miền nỳi, cũn ở đồng bằng cỏ mọc ở ven đê, ven bói cỏc con sụng lớn, dọc bờ ruộng, đường đi và trong các ruộng màu. Các trảng cỏ tự nhiên vốn hỡnh thành từ đất rừng do kết quả của quá trỡnh lõu dài khai thỏc khụng hợp lý đất đồi núi (thói quen đốt nương làm rẫy). Có tài liệu cho biết, đất có trảng cỏ Việt Nam ước tính 5.026.400 ha. Một đặc điểm lớn trên các trảng cỏ và bói cỏ tự nhiờn là rất hiếm cỏ họ đậu, chỉ có hoà thảo thân bũ, tầm thấp chiếm vị trớ độc tôn.
Lượng dự trữ chất hữu cơ trong đất thấp, các trảng cỏ dốc ở các độ dốc khác nhau, lại bị rửa trôi mạnh nên năng suất cỏ tự nhiên thấp.
Qui luật chung là đầu vụ mưa cỏ tự nhiên phát triển mạnh nhưng rồi chóng ra hoa và đến cuối vụ mưa, phát triển chậm và ngừng phát triển trong vụ khụ hanh.
Trảng cỏ tự nhiên ở trung du miền núi chưa được tận dụng hết vỡ liờn quan đến độ dốc, nguồn nước cho gia súc uống, phân bố dân cư thưa (35 người/km2) trái lại vùng đồng bằng (635 người/km2), cỏ tự nhiên được tận dụng triệt để bằng biện pháp vừa chăn thả vừa thu cắt cho ăn tại chuồng.
Do có ưu thế về điều kiện khí hậu mà cỏ trồng có tiềm năng năng suất cao, nhất là đối với cỏ voi và cỏ ghi-nê. Có những hộ chăn nuôi bũ sữa trồng cỏ voi thõm canh, một năm thu hoạch 9-10 lứa với tổng lượng sinh khối trờn 300 tấn /ha.
Do đất canh tác rất hạn hẹp (bỡnh quõn diện tớch đất trên đầu người Việt Nam đứng thứ 128 trong tổng số gần 200 nước trên thế giới), phụ phẩm làm thức ăn gia súc phong phú, quy mô chăn nuôi cũn nhỏ, cho nờn diện tớch cỏ trồng không đáng kể, chủ yếu phân bố lẻ tẻ ở các vành đai chăn nuôi bũ sữa.
Đối với nhiều nước nguồn thức ăn phốt pho dễ tiêu thường đắt tiền. Việt Nam có trữ lượng lớn về phân lân. Đó cú những đề án xây dựng cơ sở sản xuất phốt phát khử flo làm thức ăn gia súc không những đủ tiêu dùng trong nước mà cũn thừa để trao đổi với các nước khác. Có thể nói nước ta có tiềm năng lớn về nguồn phốt phát và nguồn can xi cho gia súc.
*Cơ hội và thách thức.
Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập ngành sản xuất thức ăn chăn nuụi cũng giống như bao ngành khác đều đứng trước những cơ hội và thách thức c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3044.doc