Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

Tài liệu Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm: ... Ebook Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Cùng với xu thế mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương nói riêng ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó được coi là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế, và thương mại giữa các nước trên thế giới. Tuy nhiên thanh toán quốc tế là hoạt động rất phức tạp, bởi các chủ thể tham gia có sự cách biệt về địa giới cũng như chế độ chính trị, kinh tế xã hội. Do đó, các bên tham gia luôn quan tâm đến việc tìm ra phương thức thanh toán có hiệu quả nhất, tức là có ít rủi ro nhất đối với cả người mua lẫn người bán. Và phương thức tín dụng chứng từ được các chủ thể chọn trong thanh toán quốc tế bởi nó hội tụ được các yêu cầu từ cả hai phía người nhập khẩu và người xuất khẩu. Với những ưu điểm vượt trội của mình, phương thức tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ biến trong hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên đây là phương thức thanh toán phức tạp, đa dạng nên để hiểu và sử dụng tốt phương thức này là việc không đơn giản. Qua quá trình thực tập về nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, em đã được tìm hiểu và nắm bắt được phần nào về nghiệp vụ này. Em nhận thấy rằng trong những năm qua, ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã không ngừng đổi mới và nâng cao các nghiệp vụ thanh toán của mình để phục vụ tốt cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu của khách hàng. Cùng với chính sách kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng, thông thoáng của Chính phủ, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển. Do đó, hình thức thanh toán tín dụng chứng từ ngày càng được phát triển và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên việc mở rộng hình thức thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ còn gặp phải không ít khó khăn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh chung của cả ngân hàng. Do vậy em đã chọn dề tài: “Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Với nhận thức còn hạn chế và thực tế còn ít nên đề tài còn nhiều khiếm khuyết. Vậy em kính mong được sự tham gia chỉ dẫn của giáo viên hướng dẫn cũng như tập thể bộ môn, Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm góp ý kiến cho đề tài của em có được những vấn đề xác thực nhất. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1.1 Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (Thư tín dụng – Letter of Credit) Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT) Trong xu thế hội nhập hiện nay, bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới. Quan hệ quốc tế giữa các nước bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá – xã hội, khoa học kỹ thuật, du lịch... trong đó quan hệ kinh tế (mà chủ yếu là ngoại thương) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến những nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt động TTQT, trong đó ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên. Vậy, thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác; hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. Như vậy, TTQT phục vụ cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và phi kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế, giữa hai lĩnh vực hoạt động này thường giao thoa với nhau, không có một ranh giới rõ rệt. Hơn nữa, do hoạt động TTQT được hình thành trên cơ sở hoạt động ngoại thương và phục vụ chủ yếu cho hoạt động ngoại thương, chính vì vậy, trong các qui chế về thanh toán và thực tế tại các ngân hàng thương mại (NHTM), người ta thường phân hoạt động TTQT thành hai lĩnh vực rõ ràng: thanh toán trong ngoại thương (thanh toán mậu dịch) và thanh toán phi ngoại thương (thanh toán phi mậu dịch). Về cơ bản, TTQT phát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế, là khâu cuối cùng của quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức và cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà XNK cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau, mà phải thông qua NHTM với mạng lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Thay mặt khách hàng thực hiện dịch vụ TTQT, các ngân hàng trở thành cầu nối trung gian thanh toán giữa bên mua và bên bán. Ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế luôn cần đến sự tham gia, hỗ trợ về kỹ thuật nghiệp vụ và tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp các phương án lựa chọn phương thức TTQT, tài trợ xuất nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên mua bán, thông qua đó thúc đẩy ngoại thương phát triển và mở rộng các quan hệ với các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, trong hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phẩn Công Thương Việt Nam (NHTMCP CTVN), thanh toán quốc tế được hiểu là quá trình thực hiện các nghiệp vụ như: chuyển tiền, thanh toán thẻ, nhờ thu, thanh toán L/C và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác bằng ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCT VN, giữa NHCT với các tổ chức tài chính khác ở trong và ngoài nước thông qua mạng IBS (hệ thống nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của NHCT VN), mạng SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication – mạng tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu) hoặc các hệ thống khác. Đặc điểm của thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại TTQT phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó phần lớn phục vụ cho các giao dịch trong lĩnh vực ngoại thương. Thanh toán là khâu quan trọng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, cụ thể, khi hoạt động thanh toán diễn ra đồng nghĩa với việc đảm bảo chắc chắn kết thúc một phần hoặc toàn bộ giá trị của quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Nếu công tác TTQT được tổ chức tốt thì giá trị của hàng hoá trao đổi, dịch vụ thực hiện giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển. TTQT trở thành một nhân tố quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện quan hệ kin tế quốc tế ngày càng được mở rộng. Các bên tham gia phải lựa chọn đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và thời gian thanh toán Khi tiến hành hoạt động TTQT, cần phải xác định 5 vấn đề quan trọng, đó là: đồng tiền, phương tiện, địa điểm, thời gian và phương thức thanh toán. Lựa chọn đồng tiền nào là một vấn đề quan trọng, vì không phải bất kỳ đồng tiền của nước nào cũng có khả năng thực hiện TTQT, mà đồng tiền đó phải là đồng tiền mạnh, được các nước thừa nhận thực hiện trong hoạt động TTQT, tiếp đến lựa chọn đồng tiền nào để phù hợp với nội dung cụ thể của hoạt động TTQT nhằm mang lại hiệu quả (thanh toán nhanh, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, đáp ứng được lợi ích của các bên...). Do vậy, khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng, hay các dịch vụ, các bên đàm phán thường thống nhất về đồng tiền được dùng trong giao dịch là đồng tiền của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hay nước thứ ba. Gặp nhiều rủi ro do chịu sự chi phối của nhiều yếu tố Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gặp nhiều rủi ro do sự biến động của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do sự khác biệt về luật pháp, cơ chế chính sách, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng thanh toán của con nợ... Do vậy nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính quốc tế ra đời như là một yếu tố không thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động TTQT. Có thể khẳng định, TTQT là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động thương mại liên hoàn của một nền kinh tế mở và gắn kết chặt chẽ với các giao dịch thương mại quốc tế. TTQT là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua chi trả lẫn nhau, thông qua đó, toàn bộ hoặc một phần giá trị của hàng hoá và dịch vụ trao đổi được thực hiện. TTQT đã góp phần chủ yếu để tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy nhanh quá trình giao thương hàng hoá quốc tế. Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng Ngày nay, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ trong nước, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển, trong đó TTQT là mảng hoạt động có vai trò quan trọng đối với mỗi ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng. Thứ nhất, TTQT là nghiệp vụ bổ sung, hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động TTQT sẽ tăng cường hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tài trợ thương mại và các hoạt động ngân hàng quốc tế khác. Thứ hai, hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng về các dịch vụ tài chính có liên quan tới TTQT. Trên cơ sở đó tăng doanh thu, nâng cao uy tín cho ngân hàng và tạo dựng niềm tin cho khách hàng. Điều đó không chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động mà còn là một ưu thế tạo nên sức cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường. TTQT là một nghiệp vụ phức tạp, trong đó ngân hàng không chỉ là trung gian tạo nên sự tin tưởng giữa người mua và người bán thông qua quan hệ của mình với các ngân hàng khác mà các ngân hàng cần phải đẩy mạnh công tác tư vấn, giúp khách hàng lựa chọn phương thức thanh toán hiệu quả nhất. Quá trình thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận đủ tiền, người mua nhận được hàng hoá đúng số lượng, chất lượng và thời gian sẽ chứng tỏ được khả năng của ngân hàng trong hoạt động của mình. Thứ ba, TTQT còn tạo điều kiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Các ngân hàng sẽ áp dụng công nghệ tiên tiến để hoạt động TTQT được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác, nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở rộng quy mô và mạng lưới ngân hàng. Thứ tư, hoạt động TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ TTQT, ngân hàng có thể thu được nguồn vốn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT với các ngân hàng dưới hình thức các khoản ký quỹ chờ thanh toán. Thứ sáu, hoạt động TTQT cũng làm tăng cường mối quan hệ đối ngoại của ngân hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng, nâng cao uy tín trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng. 1.1.1 Khái niệm chung về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Phương thức tín dụng chứng từ là một trong những hình thức thanh toán quốc tế được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế. Đó là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và điều kiện đề ra trong thư tín dụng. Thư tín dụng (Letter of credit - L/C) là một chứng thư trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung L/C. Chính vì vậy, người ta còn gọi phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là thanh toán L/C. Theo điều 2 UCP 600: “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ, cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: + Người mua (người xin mở L/C, người nhập khẩu): là người tiếp nhận hàng hoá, dịch vụ. Tại Việt Nam, theo Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về Quản lý ngoại hối, Luật thương mại 1997, Nghị định số 57/1998 về vấn đề XNK trong thời kỳ mới, quy định người yêu cầu mở L/C là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam có giấy phép kinh doanh nhập khẩu hàng hoá phải phù hợp với chính sách của Nhà nước và các quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan đến vay trả nợ nước ngoài. Theo quy chế mở thư tín dụng hàng trả chậm được ban hành theo Quyết định số 207 ngày 1/7/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đối tượng được ngân hàng mở L/C trả chậm là: người yêu cầu mở L/C có thể uỷ quyền cho một người khác, người đó là ngân hàng thương mại ở nước người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài phát hành L/C quá cảnh. - Quyền lợi và nghĩa vụ của người mua: lập bộ hồ sơ yêu cầu mở L/C trên cơ sở các điều khoản trong hợp đồng thương mại và gửi đến ngân hàng yêu cầu mở L/C. Tiếp nhận bộ chứng từ hàng xuất khẩu và thanh toán tiền cho ngân hàng, sử dụng bộ chứng từ hàng xuất khẩu để nhận hàng. - Vai trò: Là một trong các bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt động thanh toán. + Người bán (người hưởng lợi, người xuất khẩu): là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ. - Quyền lợi và nghĩa vụ của người bán: gửi hàng theo như hợp đồng, lập bộ chứng từ hàng xuất khẩu theo các điều kiện và điều khoản của L/C nhận được, lập hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền, gửi bộ chứng từ và hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền đó cho ngân hàng thông báo để chuyển đến ngân hàng phát hành L/C. Được thanh toán tiền hàng khi ngân hàng mở L/C xác nhận là bộ chứng từ hợp lệ. - Vai trò: Là một trong các bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt động thanh toán. + Ngân hàng mở L/C (Opening Bank): là ngân hàng được hai bên người mua và người bán thỏa thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế, nếu không quy định trong hợp đồng thì người mua có quyền lựa chọn. - Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: căn cứ vào hồ sơ xin mở L/C của người mua để lập L/C, sau đó thông báo và gửi bản gốc L/C cho người bán, thông thường việc thông báo và gửi L/C cho người bán phải thông qua một ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu, không loại trừ trường hợp ngân hàng mở L/C thông báo và gửi trực tiếp L/C cho người bán. Sửa đổi, bổ sung L/C theo yêu cầu bằng văn bản của người bán, người mua nếu có sự đồng ý của cả hai bên. Kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất khẩu người bán gửi đến, nếu bộ chứng từ đó phù hợp với những điều kiện và điều khoản của L/C thì tiến hành thanh toán tiền hàng cho người bán hoặc ký chấp nhận hối phiếu do người bán lập ra, sau đó sẽ lập lệnh đòi tiền người mua, nếu bộ chứng từ không phù hợp thì từ chối thanh toán, hoặc từ chối ký chấp nhận hối phiếu và thông báo cho ngân hàng thông báo biết những điểm không phù hợp đó. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C hoặc sửa đổi L/C và thu phí dịch vụ thanh toán. Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào hoàn cảnh bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn… nếu L/C đến đúng lúc đó, ngân hàng không chịu trách nhiệm thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu đó, trừ khi đã có những qui định dự phòng. - Vai trò: là trung gian thanh toán, đồng thời là người đảm bảo thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu nếu nó phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. + Ngân hàng thông báo (Advising Bank): thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu. - Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Khi nhận được điện thông báo (hoặc thư) của ngân hàng mở L/C, tiến hành kiểm tra mẫu điện (hoặc mẫu chữ ký được ủy quyền trên thư), nếu phù hợp thì chuyển điện thông báo (hoặc thư) và bản gốc L/C cho người bán. Ngân hàng thông báo chỉ có nghĩa vụ chuyển nguyên văn bức điện (hoặc thư) và L/C đến cho người bán mà không có nghĩa vụ phải dịch ra tiếng địa phương, ngân hàng không chịu trách nhiệm với bất kỳ sai sót nào trong việc dịch ra tiếng địa phương bức điện (hoặc thư) và L/C này. Khi nhận được bộ chứng từ hàng xuất khẩu từ người bán và hối phiếu (hoặc lệnh đòi tiền) do người bán lập ra thì chuyển ngay cho ngân hàng mở L/C, ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do chậm trễ hoặc mất mát bộ chứng từ trên đường đến ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh được mình đã gửi nguyên vẹn và đứng hạn bộ chứng từ đó qua bưu điện. Ngân hàng thông báo được hưởng một khoản phí thông báo. + Ngân hàng trả tiền (Paying Bank): Là ngân hàng mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm. Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như ngân hàng mở L/C khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến. + Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của nó. Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu ngân hàng khác xác nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mình. Muốn xác nhận, ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí cao và đôi khi còn phải đặt trước, mức đặt tiền trước có thể đạt tới 100% trị giá của thư tín dụng. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, còn có thể có các ngân hàng khác tham gia vào phương thức thanh toán L/C như ngân hàng chấp nhận (Accepting bank), ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank), ngân hàng hoàn tiền (Reimbursing bank)... 1.1.2 Nội dung cần kiểm tra thư tín dụng Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C + Số hiệu: Mỗi thư tín dụng có số hiệu riêng của nó nhằm tạo thuận tiện trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán. Số hiệu này cũng được dùng để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán. + Địa điểm mở L/C: là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó. + Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã qui định trong hợp đồng không. Tên, địa chỉ của người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ được chia làm hai loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng. Các thương nhân bao gồm những người nhập khẩu là người yêu cầu mở L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C. Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng trả tiền... Số tiền của thư tín dụng Số tiền của L/C được ghi bằng số và chữ, thống nhất với nhau. Không thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền bằng số và chữ mâu thuẫn nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đồng Đôla nhưng trên thế giới có nhiều loại đồng Đôla như: Đôla Mỹ, Đôla Úc... Theo bản "Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ 1993" qui định thì những từ "khoảng chừng", "độ khoảng" hoặc những từ ngữ tương tự được dùng để chỉ mức độ số tiền của thư tín dụng, nên hiểu là cho phép xê dịch hơn kém không quá 10% tổng số tiền đó. Ngoài ra, bản qui tắc còn qui định "trừ khi thư tín dụng qui định số lượng hàng giao không được hơn kém, còn lại thì sẽ được phép có một khoản dung sai trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả luôn luôn không được vượt quá số tiền của thư tín dụng. Không được áp dụng dung sai này khi thư tín dụng qui định số lượng tính bằng đơn vị bao, kiện đã được nói rõ hoặc tính bằng đơn vị chiếc". Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những qui định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hạn hiệu lực L/C. Cần phải chú ý, có nước qui định nếu thời hạn hiệu lực L/C dưới 3 tháng, thì phí thông báo L/C chỉ phải chịu là 0,1%; còn trên 3 tháng đến 6 tháng thì là 0,2%. Vì vậy cần phải xác định một thời hạn hiệu lực của L/C cho hợp lý, có nghĩa nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu, vừa không gây khó khăn cho việc xuất trình chứng từ của người nhập khẩu. Việc xác định này cần thoả mãn các nguyên tắc sau đây: + Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. + Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng thời gian hợp lí, không được trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu bằng tổng số của từng ngày cần có để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở ngân hàng thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập. Nếu hàng xuất là mặt hàng phức tạp, phải điều động từ xa và phải tái chế biến lại trước khi giao, nếu thời điểm giao hàng xuất là hàng sản phẩm công nghiệp thì không cần thiết đòi hỏi số ngày chuẩn bị quá lớn. + Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng thời gian hợp lý. Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến cơ quan của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ, số ngày vận chuyển chứng từ đến ngân hàng mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ chứng từ tại ngân hàng thông báo… Thời hạn trả tiền của L/C là thời hạn trả tiền ngay hoặc trả tiền sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay, hoặc có thể là nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền có kỳ hạn. Song điều quan trọng là những hối phiếu có kỳ hạn phải đựơc xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C. Thời hạn giao hàng cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng và thời hạn hiệu lực của L/C có quan hệ chặt chẽ. Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, qui cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu... cũng được ghi trong thư tín dụng. 1.1.3 Phân loại thư tín dụng Căn cứ vào tính chất thông dụng của thư tín dụng, người ta phân ra: Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C) Là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không phải báo trước cho người hưởng lợi biết (việc đó phải diễn ra trước khi thư tín dụng được thanh toán). Như vậy loại thư tín dụng có thể huỷ ngang thuộc loại cam kết không bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý. Đứng trên giác độ quyền lợi của người bán, loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho họ, do đó ngày nay trong thương mại quốc tế nó ít được sử dụng. Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( Irrevocable L/C ) Đây là loại thư tín dụng mà sau khi nó đã được mở ra thì mọi việc liên quan tới sửa đổi bổ sung hoặc huỷ bỏ, ngân hàng mở chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên có liên quan. Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi về những nội dung cần sửa đổi trong thư tín dụng thì ngân hàng mở không được phép thực hiện theo yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở. Do đó, quyền lợi của người bán được đảm bảo. Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại được áp dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế ngày nay. Theo qui định trong bản “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”: Nếu không có ghi chú đặc biệt gì khác về loại thư tín dụng muốn mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang. Thư tín dụng có xác nhận (Confirming L/C) Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác xác nhận trả tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng đó. Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi cho nên loại thư tín dụng này được coi là đảm bảo quyền lợi cho người bán. Tuy nhiên, cũng cần lưu là để có sự xác nhận như vậy phải thanh toán một khoản phí (phí xác nhận) nhất định đối với ngân hàng xác nhận. Trên thực tế, nhu cầu xác nhận thư tín dụng này phụ thuộc nhiều yếu tố song chủ yếu tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của ngân hàng mở thư tín dụng. Ngoài ra còn có một số loại L/C đặc biệt: Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C) Là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ: ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng thông báo (hoặc ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người hưởng một số tiền nhất định trước khi giao hàng. Số tiền ứng trước được thực hiện theo yêu cầu của người mở L/C. Rủi ro trong thanh toán L/C có điều khoản đỏ là số tiền ứng trước có thể bị sử dụng sai mục đích, chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình có thể không phù hợp hoặc người xuất khẩu không hoàn thành được việc sản xuất hàng hóa mà cũng không hoàn lại được tiền ứng trước cho ngân hàng… Hiện nay, Red Clause được sử dụng khá rộng rãi trong thanh toán XNK, nhất là với hàng hóa nông sản, lâm sản có thời vụ như lúa, gạo, cà phê, hạt điều… Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C) Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền được phép trả một phần hay toàn bộ số tiền của thư tín dụng cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Một thư tín dụng muốn được chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của ngân hàng mở và trên thư tín dụng phải ghi “có thể chuyển nhượng được”. Lưu ý việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện một lần cho thư tín dụng đó. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C) Là loại thư tín dụng không thể hủy ngang mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực lại tự động có giá trị như cũ và được tiếp tục sử dụng một cách tuần hoàn trong một thời gian nhất định cho đến khi tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. Thư tín dụng tuần hoàn cần được chỉ rõ ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và giá trị mỗi lần đó. Đồng thời, cũng phải qui định rõ số dư của hạn ngạch L/C dùng chưa hết lần trước được hay không được cộng vào hạn ngạch L/C sử dụng lần kế tiếp. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C) Khi người hưởng nhận được một L/C (L/C gốc) không phải L/C chuyển nhượng song không thể tự mình cung cấp hàng hóa, khi đó họ có thể thỏa thuận với ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai (L/C giáp lưng) với nội dung tương tự cho người cung cấp hàng hóa. Điều khác biệt cơ bản và quan trọng nhất so với L/C chuyển nhượng là L/C gốc và L/C giáp lưng hoàn toàn độc lập với nhau. Loại thư tín dụng này thường được sử dụng nhiều trong phương thức giao dịch mua bán qua trung gian, chuyển khẩu. Việc vận hành quá trình thanh toán theo loại thư tín dụng này nói chung khá phức tạp, đặc biệt là những điều kiện về thời hạn, về bộ chứng từ… Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C) Là loại thư tín dụng chỉ có giá trị hiệu lực khi thư tín dụng của bên đối tác cũng đã được mở ra. Trong hai thư tín dụng có liên quan sẽ có một thư tín dụng được mở trước, nó thường được ghi như sau: “Tín dụng này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở ra một thư tín dụng đối ứng cho người mở tín dụng này…” Đồng thời, bên mở tín dụng đối ứng cũng sẽ ghi: “Tín dụng này đối ứng với thư tín dụng số… mở ngày… tại ngân hàng… ” và thông báo kịp thời cho bên đối tác biết. Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred L/C ) Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở sẽ thanh toán dần dần giá trị thư tín dụng cho người hưởng lợi theo tiến trình chuyển giao hàng hoá của họ với bên mua. Loại thư tín dụng này thích ứng với các hợp đồng giao hàng nhiều lần. Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C) Là loại thư tín dụng được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho người mua. Người mua yêu cầu người bán thông qua ngân hàng phục vụ mình mở thư tín dụng dự phòng cho bên mua hưởng. Trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng thương mại đã ký kết gây thiệt hại cho họ thì ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng sẽ thanh toán tiền đền bù những thiệt hại đó. 1.1.4 Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ Quy trình thanh toán L/C theo UCP – 600 UCP 600 có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. So với 49 điều khoản của UCP 500 thì 39 điều khoản của UCP 600 thể hiện những bổ sung và sửa đổi nhằm đáp ứng sự phát triển không ngừng của thực tiễn. Có ít nhất 4 thành viên tham gia vào quá trình thanh toán thư tín dụng: Người mua, là nhà nhập khẩu, người đề nghị mở L/C Người bán, là nhà xuất khẩu Ngân hàng thanh toán – Ngân hàng mở L/C Ngân hàng thụ hưởng – Ngân hàng thông báo (2) (6) NH thông báo L/C NH mở L/C (3) (10) (7) (5) (1) (8) (9) (4) (4) Người xuất khẩu Người nhập khẩu Người nhập khẩu yêu cầu Ngân hàng phát hành mở L/C. Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng phát hành sẽ lập một L/C và gửi cho ngân hàng đại lí của mình ở nước người xuất khẩu (Ngân hàng thông báo) để yêu cầu ngân hàng này thông báo L/C cho người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của L/C và thông báo cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị sửa đổi L/C. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của thư tín dụng, ký phát hối phiếu và xuất trình hối phiếu cùng bộ chứng từ cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng khác theo qui định của L/C để đòi tiền ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo có trách nhiệm đối chiếu hối phiếu và chứng từ theo các điều khoản qui định trong L/C và gửi chúng tới cho ngân hàng phát hành L/C. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì tiến hành thanh toán hoặc kí chấp nhận thanh toán. Nếu không phù hợp thì xin ý kiến của người nhập khẩu. Ngân hàng thông báo hoàn trả tiền cho người xuất khẩu. Ngân._. hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu. Người nhập khẩu nhận chứng từ để đi nhận hàng. Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn tiền lại cho ngân hàng mở thư tín dụng hoặc kí chấp nhận thanh toán, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. Quy trình thanh toán L/C theo tập quán của ngân hàng thương mại VN (2) (5) L/C NH thông báo L/C NH mở L/C (8) (3) (1) (8) (5) (6) (9) (7) (4) Người xuất khẩu Người nhập khẩu Người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phát hành (NHPH) mở L/C. NHPH sẽ lập một L/C, thông báo L/C cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu sẽ tiến hành giao hàng nếu chấp nhận thư tín dụng, nếu không thì đề nghị sửa đổi L/C. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của thư tín dụng, xuất trình chứng từ qua ngân hàng thông báo đòi tiền NHPH L/C. Ngân hàng thông báo kiểm tra bộ chứng từ và chuyển cho NHPH. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ và thông báo cho người nhập khẩu. Người mua kiểm tra lần nữa, nếu thấy phù hợp thì chấp nhận thanh toán. Ngân hàng phát hành chấp nhận thanh toán (hoặc trả tiền) cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo. Người mua hoàn trả tiền cho ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để nhận hàng. Tóm lại, về cơ bản quy trình nghiệp vụ thanh toán theo tập quán của Việt Nam hay theo tập quán của các nước đều phù hợp với thông lệ quốc tế và tính đặc thù của từng quốc gia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ phát triển mạnh mẽ. 1.1.5 Sự khác biệt của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Sự khác biệt giữa thanh toán tín dụng chứng từ với các phương thức thanh toán khác được thể hiện rõ nét ở những ưu, nhược điểm của phương thức thanh toán này, ngoài những khác biệt rõ nét như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đảm bảo công bằng cho người xuất khẩu và người nhập khẩu hơn các phương thức khác, phạm vi áp dụng rộng hơn nhưng ngược lại lại phức tạp và tốn kém cho người xuất khẩu và người nhập khẩu hơn các phương thức thanh toán khác, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ bắt buộc có sự tham gia của bên thứ ba là ngân hàng. Cụ thể là: Đối với nhà nhập khẩu + Lợi ích: Chắc chắn nhà xuất khẩu phải đáp ứng qui định của L/C, người mua sẽ chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C để đi nhận hàng. Người mua được sự trợ giúp của ngân hàng tỷ trọng trong việc đảm bảo các điều kiện của L/C được tuân thủ, dễ dàng được ngân hàng tài trợ về vốn. Được các điều khoản của UCP 600 bảo vệ. + Bất lợi: Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên buộc phải thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về phía người mua khi người bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả tạo. Đối với nhà xuất khẩu + Lợi ích: Nhà xuất khẩu được đảm bảo thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C và nhận được thanh toán nhanh nhất. Được ngân hàng giúp đỡ, tư vấn, giảm thiểu được các rủi ro. Ngoài ra bên bán có thể sử dụng L/C như là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, vay vốn ngân hàng bằng thế chấp bộ chứng từ, bán bộ chứng từ cho ngân hàng… + Bất lợi: Chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được những qui định của L/C nên việc thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Đối với ngân hàng + Lợi ích: Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng cũng được thu nhập khá lớn từ khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng… + Bất lợi: Bị ràng buộc bởi trách nhiệm của mình đối với hai bên người mua và người bán với tư cách là một thành viên tham gia vào phương thức thanh toán. 1.2 Mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 1.2.1 Khái niệm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế Mở rộng hoạt động TTQT thực chất chính là mở rộng thị phần TTQT và số lượng cũng như chất lượng sản phẩm dịch vụ TTQT mà ngân hàng cung ứng. Xét trên giác độ chung thì: Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm lĩnh, bao gồm địa bàn hoạt động và số lượng khách hàng. Thị phần = Doanh số bán hàng của doanh nghiệp Tổng doanh số của thị trường Hay Thị phần = Số SP bán ra của doanh nghiệp Tổng SP tiêu thụ của thị trường Thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp so với tổng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Để giành giật mục tiêu thị phần trước đối thủ, doanh nghiệp thường phải có chính sách giá phù hợp, thông qua mức giảm giá cần thiết, nhất là khi bắt đầu thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh đó, ta còn có khái niệm về Thị phần tương đối (Relative market share) Thị phần tương đối = Doanh số bán hàng của doanh nghiệp Doanh số bán hàng của đối thủ Hay Thị phần tương đối = Số SP bán ra của doanh nghiệp Số SP bán ra của đối thủ cạnh tranh Nếu thị phần tương đối nhỏ hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh thuộc về đối thủ. Nếu thị phần tương đối lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp. Nếu thị phần tương đối bằng 1 thì lợi thế cạnh tranh của các bên là như nhau. Với khái niệm trên, ta thấy rằng ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh các sản phẩm đặc biệt là tiền tệ và các dịch vụ về tiền tệ. TTQT là một trong những loại hình dịch vụ của ngân hàng hay nói cách khác đó chính là sản phẩm của ngân hàng. 1.2.2 Các tiêu chí phản ánh việc mở rộng TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ Hoạt động TTQT của một NHTM nếu chia theo lĩnh vực hoạt động có thể chia thành: thanh toán hàng xuất khẩu, thanh toán hàng nhập khẩu. Vì vậy, khi xét đến thị phần TTQT của một ngân hàng, cần phân tích một số các chỉ tiêu cơ bản sau: Thị phần hoạt động TTQT Thị phần TTQT = Doanh số TTQT của NHTM Doanh số TTQT của hệ thống NH Ngày nay, hầu hết các giao dịch TTQT đều được thực hiện qua hệ thống các NHTM nên có thể coi doanh số TTQT của hệ thống NH thể hiện toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu của một quốc gia. Vậy chỉ tiêu trên có thể tính toán theo công thức sau: Thị phần TTQT = Doanh số TT XNK của NHTM Kim ngạch XNK của quốc gia Với khái niệm trên thấy rằng thị phần TTQT của một NHTM sẽ cho biết trong tổng số kim ngạch XNK của một quốc gia thì tỷ lệ thanh toán XNK qua ngân hàng đó là bao nhiêu. Qua đó thấy được mức độ chiếm lĩnh thị trường của ngân hàng đó về các dịch vụ thanh toán. Thị phần thanh toán hàng XK Thị phần TT hàng XK = Doanh số TT hàng XK của NHTM Doanh số TT hàng XK của HTNH Cũng với lý luận như trên, chỉ tiêu trên có thể viết thành: Thị phần TT hàng XK = Doanh số TT hàng XK của NHTM Kim ngạch XK của quốc gia Thị phần thanh toán hàng nhập khẩu Thị phần TT hàng NK = Doanh số TT hàng NK của NHTM Doanh số TT hàng NK của HTNH Hay Thị phần TT hàng NK = Doanh số TT hàng NK của NHTM Kim ngạch NK của quốc gia Ta cũng cần xét đến chỉ tiêu về thị phần tương đối tức thị phần thanh toán XNK của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Thị phần tương đối TT XNK = Doanh số TT XNK của NHTM Doanh số TT XNK của NH đối thủ Thị phần tương đối TT XK = Doanh số TT XK của NHTM Doanh số TT XK của NH đối thủ Thị phần tương đối TT NK = Doanh số TT NK của NHTM Doanh số TT NK của NH đối thủ Các chỉ tiêu này sẽ giúp nhận biết lợi thế cạnh tranh của ngân hàng mình so với các ngân hàng đối thủ. Trên thực tế, kim ngạch XNK của một quốc gia trong năm là một số xác định, mà số các NHTM tham gia hoạt động TTQT thì ngày càng tăng nên việc tăng thị phần tuyệt đối của các NHTM có giới hạn. Chính vì lý do này nên khi phân tích, đánh giá về thị phần TTQT của một NHTM thì bên cạnh các chỉ tiêu tuyệt đối ta cần so sánh giữa thị phần của ngân hàng mình với thị phần của các ngân hàng là đối thủ cạnh tranh tức là đánh giá các chỉ tiêu thị phần tương đối. 1.2.3 Sự kết hợp giữa mở rộng thị phần và nâng cao chất lượng hoạt động TTQT của ngân hàng thương mại Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động TTQT đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM, bất kỳ một NHTM nào dù mới bắt đầu tham gia thị trường hay đã hoạt động trong lĩnh vực TTQT đều có xu hướng đẩy mạnh phát triển mảng dịch vụ này để duy trì và mở rộng thị phần của ngân hàng mình. Tuy nhiên, tổng thị phần TTQT của cả hệ thống ngân hàng là số xác định (100%) mà số lượng các NHTM thực hiện dịch vụ TTQT ngày càng gia tăng nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay, dẫn đến việc mở rộng thị phần TTQT của các NHTM có giới hạn. Điều này sẽ dẫn đến mức độ cạnh tranh để giành thị phần giữa các NHTM sẽ diễn ra ngày càng gay go, quyết liệt. Các NHTM sẽ áp dụng nhiều biện pháp, đưa ra nhiều chính sách để thu hút các khách hàng thanh toán XNK để tăng doanh số hoạt động TTQT. Vấn đề đặt ra đối với các NHTM là nếu các ngân hàng chỉ quan tâm đến việc đưa ra các chính sách để thu hút lôi kéo khách hàng nhằm tăng doanh số, mà không chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ, hạn chế rủi ro trong thanh toán thì các chính sách này cũng trở nên không hiệu quả. Bởi suy cho cùng, bản chất của việc tìm ra các giải pháp để duy trì và mở rộng thị phần của một NHTM là nhằm mang lại lợi nhuận ngày càng cao cho ngân hàng. Chính vì vậy, khi phân tích đánh giá để đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng thị phần TTQT của NHTM phải có sự kết hợp giữa nhóm chỉ tiêu phản ánh thị phần của ngân hàng và nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động TTQT của ngân hàng đó. Cụ thể, ta cần phải phân tích thêm một số chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động TTQT như sau: Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm về doanh số của hoạt động TTQT Chỉ tiêu này phản ánh một phần hiệu quả của hoạt động TTQT, còn phải dùng thêm một số chỉ tiêu khác để đo lường vì còn phụ thuộc vào yếu tố đầu vào. Doanh thu từ hoạt động TTQT Khi thực hiện nghiệp vụ TTQT, ngân hàng sẽ thu được một khoản phí nhất định theo bảng phí dịch vụ của NHTM. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động TTQT, phí thu được càng cao thì hiệu quả hoạt động TTQT càng lớn, càng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Tốc độ gia tăng về công nghệ Đánh giá về trình độ công nghệ được sử dụng trong hoạt động TTQT, đây là chỉ tiêu tương đối quan trọng, là cơ sở để phát triển sản phẩm dịch vụ mới tiên tiến và tiện ích, chất lượng sản phẩm dịch vụ, đẩy nhanh tốc độ xử lý nghiệp vụ TTQT. Công nghệ hiện đại sẽ giúp cho quá trình thanh toán nhanh chóng, chính xác an toàn, giảm chi phí trung gian, tăng năng suất, tăng hiệu quả quản lý, đáp ứng yêu cầu của khách hàng và tăng thu nhập cho ngân hàng. Mức độ đa dạng của sản phẩm hoạt động TTQT Số lượng các hoạt động TTQT, số lượng sản phẩm dịch vụ trong từng nghiệp vụ cụ thể, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, tăng thêm thu nhập của ngân hàng qua thu các phí dịch vụ, phí thanh toán. Tỷ trọng của từng phương thức TTQT Chỉ tiêu này sẽ giúp ta nhận biết được trong toàn bộ các phương thức thanh toán thì phương thức nào được khách hàng sử dụng nhiều nhất, phương thức nào ngân hàng có chất lượng phục vụ tốt nhất. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra các tư vấn hợp lý cho khách hàng khi lựa chọn phương thức thanh toán cho giao dịch của mình cũng như thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng mình để từ đó tăng doanh số thanh toán và mở rộng được thị phần của ngân hàng. Tỷ trọng doanh số TTTQ theo từng khu vực, đặc biệt là các khu vực có kim ngạch XNK cao Khi phân tích theo chỉ tiêu này sẽ giúp ta xác định được những chi nhánh nào trong hệ thống ngân hàng mình có hoạt động mạnh về TTQT để có được những đầu tư đúng hướng cho từng chi nhánh cụ thể. Chất lượng của hoạt động TTQT Đánh giá về chất lượng sản phẩm dịch vụ TTQT, mức độ sai sót, mức độ áp dụng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, quy trình trong TTQT, mức độ rủi ro trong kinh doanh đối ngoại. Các chỉ tiêu doanh thu và tỷ trọng Doanh thu TTQT Tỷ lệ Dthu TTQT so tổng TNhậpNH = x 100 Tổng thu nhập Chỉ tiêu này cho biết trong tổng thu nhập của ngân hàng thì doanh thu do hoạt động TTQT chiếm bao nhiêu phần trăm. Doanh thu TTQT Tỷ lệ Dthu TTQT so với DThuDV = x 100 Doanh thu dịch vụ Chỉ tiêu này cho biết trong tổng doanh thu về dịch vụ của ngân hàng thì doanh thu do hoạt động TTQT chiếm bao nhiêu phần trăm. Nói tóm lại, các tiêu chí trên đều hướng tới các mục tiêu: Thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng về thanh toán quốc tế: đáp ứng nhu cầu khách hàng về các hình thức L/C, số lượng, chất lượng, qui mô, thời gian trong hoạt động TTQT. Thu hút tối đa khách hàng cho hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng. Nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng đối với khách hàng và các đối tác nước ngoài… 1.2.4 Các nhân tố tác động đến việc mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT của NHTM nhưng có thể phân thành hai nhóm nhân tố cơ bản là nhóm nhân tố khách quan và nhóm nhân tố chủ quan. Các nhân tố khách quan Sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng là điều kiện đầu tiên tác động trực tiếp đến hoạt động TTQT của các NHTM. Các hoạt động thanh toán XNK của các NHTM có diễn ra, phát triển được hay không đều phải dựa trên các giao dịch XNK giữa quốc gia đó với các quốc gia khác. Do đó, nó phụ thuộc vào các nhân tố sau: Các chính sách vĩ mô của Nhà nước Đây là một nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh XNK. + Chính sách thuế: các chính sách thuế của Nhà nước có ảnh hưởng rất to lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động XNK. Thông qua việc áp dụng mức thuế cao hay thấp đối với mặt hàng XNK nào đó, sẽ hạn chế hay khuyến khích sản xuất hay nhập khẩu mặt hàng đó. Do đó sẽ tác động đến hoạt động TTQT của các ngân hàng. + Chính sách kinh tế đối ngoại: việc đưa ra các định hướng mang tính chiến lược như bảo hộ mậu dịch hay tự do hoá mậu dịch có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của các doanh nghiệp, từ đó dẫn đến sự sôi động hay trầm lắng của hoạt động TTQT. Lựa chọn chính sách đối ngoại của quốc gia nếu thiên về xu hướng bảo hộ mậu dịch sẽ gây khó khăn, cản trở hoạt động ngoại thương, ngược lại nếu thiên về xu hướng tự do hoá mậu dịch sẽ tạo điều kiện cho ngoại thương phát triển, qua đó thúc đẩy hoạt động TTQT phát triển. + Chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước thực hiện quản lý ngoại hối thông qua việc đưa ra các chính sách nhằm kiểm soát luồng vận động của ngoại hối và các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào tình hình cụ thể và những biến động trên thị trường mà Nhà nước sẽ áp dụng các chính sách quản lý ngoại hối tự do hay thắt chặt nhằm hướng sự vận động của hoạt động ngoại hối đi vào ổn định theo chủ trương của Nhà nước. Hoạt động TTQT liên quan đến sự vận động luồng tiền tệ ra, vào quốc gia, do đó chịu sự quản lý ngoại hối của quốc gia. Sự phát triển của các doanh nghiệp XNK Khi các doanh nghiệp XNK ngày càng được mở rộng cả về mặt hàng kinh doanh, đối tác và bạn hàng thì doanh số kinh doanh XNK của doanh nghiệp sẽ ngày một tăng dẫn đến kim ngạch XNK của một quốc gia tăng, làm tiền đề để các NHTM mở rộng hoạt động thanh toán XNK của mình.. Sự thay đổi kinh tế, chế độ chính trị của các nước bạn hàng Hoạt động TTQT là hoạt động diễn ra giữa các quốc gia khác nhau. Do đó, nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Mỗi sự biến động về các chế độ đó của nước bạn hàng sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết đã thoả thuận giữa các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tự do hoá thương mại, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến quá trình thanh toán XNK. Các nhân tố chủ quan Đây chính là các điều kiện từ bản thân NHTM. Ta có thể kể đến một số điều kiện chủ yếu sau: Mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động TTQT của NHTM Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ Trung ương đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ động cho chi nhánh sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian thanh toán nhanh chóng là tác nhân thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì quyền lợi của họ được đảm bảo. Số lượng và chất lượng khách hàng của ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là nhân tố quyết định đến sự sống còn của NHTM nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Nếu ngân hàng có thể thu hút lượng lớn khách hàng thường xuyên có hoạt động kinh doanh XNK thì sẽ tạo điều kiện rất tốt để hoạt động TTQT phát triển, mở rộng thị phần của ngân hàng mình. Trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng Để phát triển được hoạt động TTQT, mở rộng thị phần của ngân hàng mình thì một yếu tố quan trọng mà bất cứ NHTM nào cũng phải quan tâm. Đó chính là chất lượng nguồn nhân lực. Để thực hiện công việc trôi chảy, gây thiệt hại đáng tiếc cho ngân hàng, đòi hỏi cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ làm nghiệp vụ TTQT nói riêng phải có chuyên môn cao, am hiểu các quy tắc, thông lệ quốc tế, có trình độ ngoại ngữ giỏi để tiếp cận với những tài liệu của nước ngoài, tích luỹ thêm kiến thức nghiệp vụ. Ngoài ra, các cán bộ làm nghiệp vụ TTQT cũng phải có trình độ tin học nhất định đáp ứng đươc yêu cầu của công việc. Uy tín của NHTM trong nước và quốc tế Một ngân hàng có uy tín lớn là ngân hàng có hoạt động đa dạng và phong phú cả về quy mô lẫn chất lượng, điều này sẽ thu hút một lượng lớn khách hàng đến với ngân hàng. Không những thế, một ngân hàng có uy tín sẽ dễ dàng mở rộng được thị trường trong nước và quốc tế. Ngân hàng có uy tín trên trường quốc tế, sẽ rất thuận lợi khi thực hiện các nghiệp vụ mang tính bảo lãnh thanh toán cho khách hàng trong nước, đồng thời các đối tác nước ngoài sẽ tin tưởng lựa chọn ngân hàng để giao dịch. Đặc biệt trong hoạt động TTQT, nếu NHTM có uy tín sẽ được các NHTM khác chọn làm ngân hàng đại lý. Nhờ đó, NHTM không chỉ thu thêm được các khoản phí mà còn có thể thu hút thêm được khách hàng và tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng xuất khẩu. Mạng lưới ngân hàng đại lý Ngân hàng đại lý của một NHTM giải quyết công việc ngay tại một nước, địa phương trong khi NHTM chưa có chi nhánh tại nước, địa phương đó. Mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp trên thế giới giúp cho việc giao dịch và thanh toán ra nước ngoài được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, thông qua ngân hàng đại lý, ngân hàng lại có điều kiện thực hiện các dịch vụ uỷ thác của ngân hàng đại lý để mở rộng hoạt động TTQT. Một ngân hàng có các ngân hàng đại lý ở nhiều nước trên thế giới và có mối quan hệ tốt sẽ thuận tiện trong việc liên lạc, tra soát các giao dịch TTQT. Các khách hàng có hoạt động TTQT ngày càng có xu hướng mở rộng đối tác làm ăn ra ngoài thị trường truyền thống vì vậy sẽ có nhiều thương vụ với các đối tác mới ở các nước trên thế giới. Việc xúc tiến thiết lập thêm các ngân hàng đại lý trên thế giới giúp ngân hàng đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng. Nhờ việc thiết lập các quan hệ mới, các giao dịch thanh toán sẽ về thẳng ngân hàng mà không qua trung gian giúp khách hàng được thanh toán ngay, tiết kiệm giảm phí, không bị lỡ những thương vụ làm ăn quan trọng, nhờ đó đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của khách hàng. Công nghệ ngân hàng Trong thời đại ngày nay, công nghệ ngân hàng là yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động của một ngân hàng. Vì vậy, mỗi NHTM đều tạo dựng cho mình một hệ thống công nghệ hiện đại, phù hợp và đặc biệt quan tâm tới đổi mới công nghệ để đáp ứng tiêu chí hoạt động TTQT là phải nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ của mỗi hoạt động luôn phải dựa trên công nghệ hiện đang áp dụng, ngược lại công nghệ ngân hàng cũng cần phảỉ được cải tiến đồng bộ với việc thay đổi, đổi mới quy trình nghiệp vụ. Công nghệ ngân hàng và những quy định trong quy trình nghiệp vụ là 2 yếu tố song hành, có tác động qua lại trong sự thay đổi của từng yếu tố. Trong hoạt động TTQT, công nghệ ngân hàng hiện đại, tốc độ xử lý nhanh sẽ giúp ngân hàng có thể thực hiện được một cách chính xác các thao tác, đẩy nhanh tốc độ của từng khâu trong quá trình thanh toán, phục vụ khách hàng một cách có hiệu quả nhất, cung cấp cho khách hàng dịch vụ có chất lượng tốt, từ đó nâng cao uy tín giúp ngân hàng có điều kiện phát triển hoạt động TTQT, mở rộng thị phần của ngân hàng mình. Các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động TTQT Các hoạt động kinh doanh khác như hoạt động tín dụng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ… là các hoạt động có tác dụng bổ trợ, thúc đẩy cho hoạt động TTQT của NHTM. Phát triển nghiệp vụ này là nền tảng hỗ trợ cho sự phát triển nghiệp vụ kia và ngược lại. Đồng thời các hoạt động này cũng là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, tạo nên sức cạnh tranh của ngân hàng. Các chính sách của Ngân hàng Các chính sách của ngân hàng như chính sách khách hàng, chính sách phát triển dịch vụ, chính sách đối ngoại của ngân hàng… có ảnh hưởng lớn đến hoạt động TTQT. Các chính sách đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng. CHƯƠNGII THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 2.1 Tổng quan về Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm 2.1.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển Trước những năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là hệ thống ngân hàng một cấp, ngân hàng vừa là ngân hàng nhà nước vừa là ngân hàng thương mại, có nghĩa là vừa làm công tác quản lý, điều tiết, vừa làm nhiệm vụ kinh doanh. Nhận thấy sự không hiệu quả trong hoạt động của mô hình này, Nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, cho phép chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã được tách ra khỏi ngân hàng nhà nước và thành lập vào ngày 14/11/1990. Ngày 8/2/1991, 69 chi nhánh của ngân hàng Công Thương Việt Nam được thành lập. Ngày 27/3/1993, 77 chi nhánh trên cả nước đã được thành lập và thành lập lại, trong đó có chi nhánh ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm (NHCT HK) là một chi nhánh của ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hoàn Kiếm – Hà Nội. Trước tháng 3/1988, NHCT HK thuộc về NHCT thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ chính được giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán, đồng thời vừa đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa bàn quận Hoàn kiếm. Nhưng kể từ sau khi chỉ thị số 218/CT ban hành ngày 13/7/1987 của hội đồng quản trị, thực hiện Điều lệ của ngân hàng Công Thương Việt Nam (NHCT VN), ngày 26/3/1988, NHCT HK chính thức tách ra khỏi NHCT thành phố Hà nội để trở thành NHCT HK như ngày nay. Ngân hàng nằm ở trung tâm của quận Hoàn Kiếm, là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của Hà Nội. Tại đây có mật độ dân cư đông đúc với thu nhập bình quân đầu người cao, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, các hộ kinh doanh cá thể, đây cũng là nơi có lượng khách du lịch quốc tế lớn. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng có không ít thử thách và khó khăn do môi trường hoạt đông kinh doanh phức tạp, canh tranh gay gắt, nhất là trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang đổi mới và từng bước hội nhập như hiện nay. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngân hàng đã từng bước khắc phục và vượt qua khó khăn, tạo lập niềm tin và uy tín với khách hàng, khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong toàn hệ thống. Với những thành công đã đạt được trong thời gian qua, NHCT HK sẽ không ngừng tăng trưởng và phát triển để trở thành cánh chim đầu đàn trong hệ thống các ngân hàng thương mại. NHCT HK với chức năng là một ngân hàng thương mại với hoạt động chính là huy động vốn bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ của các tổ chức kinh tế, tầng lớp dân cư trên địa bàn quận và các vùng phụ cận. Thực hiện việc cấp phát vốn tiền tệ bằng VND và ngoại tệ thông qua nghiệp vụ cho vay vốn theo thể lệ tín dụng hiện hành đối với các tổ chức kinh tế và dân cư, bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, góp phần tạo môi trường vốn cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, NHCT HK còn tổ chức dịch vụ thanh toán quốc tế, chuyển tiền, chi trả kiêu hối, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử, thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và tài trợ thương mại... NHCT HK là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào NHCT VN, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dich tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Trải qua quá trình hoạt động gần 20 năm, NHCT HK đã hoà nhập vào hoạt động chung của cả hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Với mục tiêu kinh doanh: “Kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”, chi nhánh NHCT HK luôn coi hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm hiệu quả tín dụng của ngân hàng. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Tháng 1/2004, NHTMCP CT chi nhánh HK thực hiện quyết định số 154/QĐ – HĐQT – NHCT của hội đồng quản trị NHCT VN ban hành ngày 20/10/2003 về việc chuyển mới mô hình tổ chức của chi nhánh NHCT HK theo dự án hiện đại hoá NHCT. Theo đó NHCT HK cơ cấu lại mô hình tổ chức với 11 phòng ban trực thuộc ban giám đốc và các phòng giao dịch, các quỹ tiết kiệm và các điểm giao dịch. Đến ngày 1/5/2005, NHCT VN ra quết định số 106 chuyển phòng kiểm tra nội bộ chi nhánh về trực thuộc bộ máy kiểm tra kiểm soát nội bộ của NHCT VN. Ngày 06/04/2006, Tổng giám đốc NHCT VN ban hành quyết định số 704/QĐ – NHCT về việc ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng ban tại chi nhánh NHCT. Theo quyết định này thì giám đốc chi nhánh sẽ cụ thể hoá chức năng nhiệm vụ cho các phòng ban tại chi nhánh căn cứ theo các quy định mới về chức năng nhiệm vụ của NHCT VN bao gồm 11 phòng ban chính. Các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm và điểm giao dịch tại chi nhánh thực hiện chức năng nhiệm vụ theo qui chế tổ chức và hoạt động riêng. Sơ đồ tổ chức của NHCT HK Phã gi¸m ®èc 4 Phã gi¸m ®èc 3 Phã gi¸m ®èc 2 Phã gi¸m ®èc 1 P. Qu¶n lý rñi do P. Kh¸ch hµng c¸ nh©n P. Tµi trî th­¬ng m¹i P. Th«ng tin ®iÖn to¸n P. kh¸ch hµng sè 2 P. Kh¸ch hµng sè 1 P. KiÓm tra néi bé P. TiÒn tÖ kho quü P. Tæng hîp P. kÕ to¸n P. Tæ chøc hµnh chÝnh Gi¸m ®èc Chức năng các phòng ban chính + Giám đốc và Ban điều hành: Bao quát và đề ra các quyết định đối với mọi hoạt động của ngân hàng, có trách nhiệm chi tiết hoá các văn bản chính sách tiền tệ của Đảng và Nhà nước, thực hiện các văn bản đó phù hợp với tình hình kinh tế. + Phòng khách hàng số 1 (Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn): Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp lớn. + Phòng khách hàng số 2 (Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ): Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Phòng khách hàng cá nhân: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân. + Phòng quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt dộng ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT VN. + Phòng kiểm tra nội bộ: Trưởng phòng được gọi là kiểm tra trưởng, việc bổ nhiệm trưởng, phó phòng đều do Tổng giám đốc của NHCT VN ra quyết định, điều này cho thấy tầm quan trọng của phòng. Phòng gồm các cán bộ có năng lực toàn diện về công tác của ngân hàng và kinh doanh qua thực tế nhiều năm, có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát nội bộ mọi hoạt động nghiệp vụ các phòng trong năm qua. Phòng được chia thành nhiều bộ phận kiểm tra: Tín dụng, Kế toán, Kho quỹ, Tiết kiệm… Hàng tháng, hàng quý đề ra các chương trình kiểm tra phát hiện các sai sót, tồn tại có thể gây thiệt hại đến tài sản của ngân hàng, kiến nghị để bổ sung sửa đổi cho đầy đủ. Xem xét, xử lý các đơn thư phản ánh của khách hàng của cán bộ công nhân viên. Kiểm tra, xác minh sự việc do đài báo phản ánh trình Giám đốc để có biện pháp xử lý, giải quyết. + Phòng kế toán: Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng; các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng qui định của nhà nước và NHCT VN. Thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm ngân hàng. Phòng gồm 2 bộ phận: Kế toán giao dịch và Kế toán tài chính. Nguyên tắc của phòng kế toán: Đảm bảo an toàn, bí mật tuyệt đối tài sản khách hàng. + Phòng tài trợ thương mại ._. ro mà các doanh nghiệp XNK của Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển vọng XNK của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ biến các kỹ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới... Đặc biệt trong những lớp học này có thể mời các chuyên gia nước ngoài về thanh toán quốc tế giảng dạy, để cán bộ và nhân viên ngân hàng trong các bộ phận có liên quan đến thanh toán quốc tế có điều kiện để trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ. Cử cán bộ đi học nước ngoài chuyên về lĩnh vực TTQT, tìm hiểu những thông tin về TTQT mà trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Tranh thủ lớp tập huấn, đào tạo do NHTMCP CTVN tổ chức, các lớp đào tạo do các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế tài trợ. Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên phân tích các nhược điểm, các vụ việc liên quan làm khách hàng phàn nàn, từ đó tìm ra cách khắc phục. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá trình độ cán bộ để thực hiện đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực cho cán bộ làm công tác TTQT. NHCT chi nhánh HK cũng cần có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn, hoàn thành suất sắc công việc được giao và có nhiều sáng tạo. Có chế độ kỷ luật với những cán bộ không hoàn thành công việc được giao, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú ý đến nguồn nhân lực bổ sung, thay thế. Ngân hàng có thể thông qua các trường đại học để lựa chọn các sinh viên có khả năng, năng lực đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng, cũng có thể tổ chức các cuộc tuyển chọn, hoặc thông qua NHTMCP CTVN thực hiện các cuộc điều chuyển nhân sự để lựa chọn nhân viên đáp ứng yêu cầu của công việc. 3.2.2 Đầu tư đổi mới cơ sở vật chất cũng như hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Cơ sở vật chất là phương tiện để ngân hàng thực hiện các hoạt động, cung cấp dịch vụ. Cơ sở vật chất bao gồm nhà cửa, thiết bị máy móc, phương tiện đi lại, phương tiện thông tin... Sản phẩm dịch vụ cũng như các sản phẩm nói chung, chất lượng của nó phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất, thiết bị. Một ngân hàng với trụ sở khang trang, rộng rãi sẽ tạo niềm tin, ấn tượng tốt cho khách hàng, cho đối tác, đặc biệt là khách hàng và đối tác nước ngoài. Một ngân hàng với hệ thống thông tin, truyền tin kịp thời, an toàn, chính xác là hết sức cần thiết và ảnh hưởng rất lớn đền chất lượng dịch vụ. Đặc trưng quan trọng của hoạt động ngân hàng chủ yếu liên quan đến tiền tệ, thực hiện dịch vụ chủ yếu là trung gian cho khách hàng, trong các hoạt động liên quan đến nhiều khách hàng, đối tác nên yêu cầu kịp thời, an toàn, chính xác rất cao. Đặc biệt là hoạt động TTQT, ngân hàng với vai trò là cầu nối giữa khách hàng là đối tác nước ngoài với khách hàng là đối tác trong nước, là những người cách xa nhau về địa lý, khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán, thói quen làm lại càng cần thiết hơn. Do đó ngân hàng cần thiết phải đầu tư đổi mới cơ sở vật chất theo hướng tiếp cận các công nghệ mới, hiện đại. Ngân hàng có thể thực hiện theo các hướng: + Trích và lập quĩ đầu tư phát triển, sử dụng các quĩ này một cách hợp lý, hiệu quả như đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị, trang bị thêm các thiết bị hiện đại, đủ công suất, thích hợp với chương trình phần mềm giao dịch, đảm bảo xử lý thông tin thông suốt ngay cả trong những tình huống phức tạp vào giờ cao điểm. Đầu tư mới, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin đúng hướng, đồng bộ, hiệu quả, có tính thống nhất; xây dựng các bộ tiêu chuẩn đạt trình độ quốc tế trong việc quản lý và kiểm soát chất lượng hệ thống công nghệ thông tin (CNTT); tăng cường chất lượng quản trị, điều hành hệ thống CNTT; phát triển nguồn nhân lực CNTT. Cố gắng phấn đấu xây dựng NHCT chi nhánh HK trở thành một NHTM hàng đầu trong công tác áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ tự động hoá 100% các giao dịch với khách hàng; hỗ trợ và phát triển các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; hỗ trợ kịp thời và chính xác trong chỉ đạo, quản lý – điều hành, quản trị rủi ro. + Đẩy mạnh các phong trào thi đua nghiên cứu, áp dụng các sáng kiến về công nghệ trong hoạt động ngân hàng. Có các khuyến khích vật chất cho những cán bộ, công nhân viên có thành tích trong việc sáng kiến, áp dụng các công nghệ ngân hàng mới. Hình thành đội ngũ nhân lực CNTT của chi nhánh đảm bảo đủ về lượng – mạnh về chất. + Mạnh dạn ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới trên thế giới để nâng cao hiệu quả thanh toán. Đồng thời với việc hiện đại hoá công nghệ thì ngân hàng cũng cần phải đảm bảo an toàn về công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng để giữ vững uy tín của ngân hàng trên thị trường. 3.2.3 Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các hình thức L/C Đối với ngân hàng, chất lượng sản phẩm là đảm bảo đối với khách hàng về khả năng chi trả, thực hiện thanh toán không sai sót, đảm bảo an toàn thanh toán cho khách hàng, tốc độ thanh toán nhanh. Để nâng cao chất lượng thanh toán, NHCT chi nhánh HK cần không ngừng hoàn thiện quy trình thanh toán và cải tiến kỹ thuật để đảm bảo an toàn và tốc độ thanh toán cho ngân hàng và khách hàng. Đồng thời, ngân hàng cũng cần mở rộng mối quan hệ nhằm thu thập thông tin của khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập, trước cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về sử dụng các sản phẩm mới, NHCT HK cần nhanh chóng xây dựng một chiến lược đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ liên quan đến thanh toán xuất nhập khẩu, nghiên cứu và khẩn trương triển khai các loại hình tài trợ xuất nhập khẩu như bao thanh toán... Việc đa dạng hoá loại hình dịch vụ không chỉ giúp NHCT HK thu hút khách hàng, mà còn giảm thiểu rủi ro do sức ép cạnh tranh tăng lên khi mà số lượng các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại nước ta ngày càng nhiều hơn, những ngân hàng này có tiềm lực rất lớn về tài chính và khả năng cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên điều quan trọng và cần quan tâm đó là khách hàng có sử dụng các dịch vụ hay không. Hầu hết các khách hàng còn lạ lẫm và không có bộ phận chuyên trách về các dịch vụ này nên nhu cầu từ phía khách hàng gần như không có. Vì vậy để việc áp dụng các hình thức L/C có hiệu quả, ngân hàng ngoài việc phải hoàn thiện các hình thức L/C mà còn phải tạo cho khách hàng cảm giác tin tưởng và dễ hiểu về sản phẩm của mình, từ đó thu hút khách hàng đến với các dịch vụ của mình. 3.2.4 Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh Hiểu biết đối thủ cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để hoạch định chính sách đối phó có hiệu quả, vì thế nên có biện pháp phân tích đối thủ cạnh tranh, tránh việc thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách tự phát. Bằng việc thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về đối thủ cạnh tranh thị trường trong nước cũng như thị trường trong khu vực và thị trường quốc tế để có thể biết được các ngân hàng, những tổ chức tài chính nào mới ra đời, từ đó nghiên cứu phân tích chính sách kinh doanh, thực trạng tình hình khả năng tài chính của họ, tìm ra ưu nhược điểm của họ, nhằm có những nhận định hay đánh giá kịp thời về đối thủ cạnh tranh đó. Việc thường xuyên có những phân tích đối thủ cạnh tranh sẽ giúp ngân hàng biết được sản phẩm, chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng của họ, học hỏi được kinh nghiệm cũng như cách thức tiến hành công việc của họ, từ đó đề ra những biện pháp phát triển, có kế hoạch hoạt động kinh doanh phù hợp và kịp thời. 3.2.5 Tăng cường hoạt động Marketing Như đã biết, một đặc trưng quan trọng của hoạt động của ngân hàng là quan hệ lâu dài với khách hàng. Mặt khác, các sản phẩm dịch vụ của hoạt động ngân hàng mang tính dịch vụ, phi vật chất, chất lượng của các sản phẩm phụ thuộc lớn vào thái độ của khách hàng đối với sản phẩm đó. Do vậy, quan hệ tốt với khách hàng, với đối tác là cơ sở của hoạt động ngân hàng. Để xây dựng quan hệ tốt với khách hàng, đối tác hiện nay NHCT HK đã có nhiều nỗ lực, hoạt động thiết thực nhưng chưa có đồng bộ, chưa mang tính hệ thống và chưa có chiến lược lâu dài. Vì vậy, NHCT HK có thể tập trung vào một số hướng sau đây: + Đưa phong cách phục vụ khách hàng lịch sự, trung thực, tận tình, chu đáo trở thành một nét văn hoá đặc trưng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, cũng như trong hoạt động kinh doanh chung của NHCT HK. Để thực hiện điều này, ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp có hiệu quả, cụ thể là từng bước tiến tới đồng phục cho toàn bộ cán bộ, nhân viên ngân hàng; tổ chức các lớp tập huấn về giao tiếp khách hàng, giải quyết một cách lịch sự các tình huống khó xảy ra trong hoạt động ngân hàng; thường xuyên đẩy mạnh hoạt động thi đua lập thành tích trong quan hệ giao tiếp khách hàng. Có khuyến khích vật chất cho các cán bộ, công nhân viên lập thành tích tốt trong quan hệ giao tiếp khách hàng như trả lại tiền thừa cho khách, thu hút khách hàng mới, mở rộng quan hệ đối tác. + Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo. Để xây dựng hình ảnh tốt trong mắt khách hàng và đối tác, đặc biệt là các khách hàng và đối tác nước ngoài là những người có ngôn ngữ, phong tục tập quán khác so với mình, ngân hàng cần phải đẩy mạnh hoạt động thông tin quảng cáo. Ngân hàng có thể tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá với toàn ngành, các hoạt động văn hoá, thể thao tổ chức trên địa bàn quận... Đây là hoạt động dễ thực hiện, có thể sử dụng khả năng hiện có như đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngân hàng, sự ủng hộ của công chúng nên giải pháp này rất thiết thực. + Đẩy mạnh các biện pháp cạnh tranh về giá và các tiện ích kèm theo. Cạnh tranh về giá là biện pháp cạnh tranh hiệu quả và thiết thực nhất đang được áp dụng rộng rãi trong hoạt động kinh doanh nói chung, trong hoạt động ngân hàng nói riêng. Để thực hiện giải pháp này, trên cơ sở khung giá dịch vụ do NHCT HK đưa ra, ngân hàng tiết kiệm tối đa các chi phí thực hiện dịch vụ nhằm giảm tối thiểu đến mức có thể giá dịch vụ. Bên cạnh giá dịch vụ thì các tiện ích kèm theo cũng có tác động rất lớn trong việc thu hút khách hàng như: ngân hàng nên tổ chức các cuộc tập huấn chung cho khách hàng trong việc thực hiện các thủ tục TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ; in sao các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành hoạt động TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ; tư vấn cho khách hàng trong hoạt động ký kết hợp đồng thương mại quốc tế, nhằm tạo quan hệ tốt với khách hàng, hạn chế những rủi ro đối với khách hàng và gián tiếp là những rủi ro của ngân hàng. 3.2.6 Mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý Ngân hàng đại lý là các ngân hàng thực hiện chức năng thông báo, thanh toán, thực hiện các chỉ thị của ngân hàng mở L/C ở nước ngoài, các ngân hàng này là mắt xích quan trọng trong chu trình TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ. Ngân hàng đại lý cũng có thể là ngân hàng mở L/C trong quan hệ thanh toán giữa bên mua và bên bán, khi đó qua quen biết các ngân hàng nước ngoài cũng có thể lựa chọn ngân hàng mình làm ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng thanh toán cho họ, qua đó mở rộng được hoạt động đồng thời mở rộng quan hệ với các khách hàng và đối tác nước ngoài. Để làm được điều này, ngân hàng có thể thông qua mạng lưới ngân hàng đại lý của NHTMCP CTVN, hoặc thông qua trực tiếp các ngân hàng đại lý từng quen biết... Do vậy trong thời gian tới NHCT HK cần tiếp tục củng cố mạng lưới ngân hàng đại lý hiện có, tích cực và chủ động mở rộng thêm mạng lưới ngân hàng đại lý sang thị trường mới mà các doanh nghiệp của Việt Nam bắt đầu có quan hệ làm ăn buôn bán, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống đại lý cần phải mở rộng ra cả các công ty tài chính, các công ty bao thanh toán. Bộ phận ngân hàng đại lý cần phải cập nhật thông tin của các tổ chức tài chính trên thế giới, căn cứ vào uy tín nội địa của họ, thị trường hoạt động để đánh giá, cho điểm và thiết lập hạn mức giao dịch với các tổ chức tài chính đó. Đây sẽ là nguồn thông tin quan trọng giúp bộ phận thanh toán hạn chế và lường trước các rủi ro sẽ có thể xảy ra khi tiến hành giao dịch với các tổ chức tài chính này. Thông qua hệ thống các ngân hàng đại lý để giới thiệu về hoạt động và vị trí của NHCT HK đến khách hàng ở các nước. Qua đó, chi nhánh Hoàn Kiếm có thể mở rộng hoạt động thanh toán ra nước ngoài. 3.2.7 Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn khách hàng đối với hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ Một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế, tồn tại trong việc phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức này: kinh nghiệm về kinh doanh ngoại thương, sự am hiểu về thông lệ và tập quán quốc tế trong kinh doanh quốc tế và TTQT của các đơn vị này còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn khách hàng và việc tư vấn này phải thể hiện bằng văn bản vì làm như vậy sẽ đảm bảo tính pháp lý trong giao dịch giữa các thanh toán viên của ngân hàng với khách hàng, tăng cường độ tin cậy của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn. Đối với đơn vị nhập khẩu: Người nhập khẩu thường gây ra rủi ro cho ngân hàng phát hành khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi ích chính đáng cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, các cán bộ cần tư vấn cho những vấn đề sau: + Tư vấn cho đơn vị nhập khẩu nên mở loại L/C nào: Đối với những khách hàng là đơn vị nhập khẩu mày móc thiết bị giá trị lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu tiền đặt cọc, thanh toán viên có thể tư vấn cho họ sử dụng L/C dự phòng, vì đây là hình thức mà người nhập khẩu được đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà xuất khẩu, đồng thời người nhập khẩu còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu. Đối với đơn vị nhập khẩu hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều lần, nên khuyên họ sử dụng L/C tuần hoàn, đây là phương thức giúp cho khách hàng tránh được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như các thủ tục có liên quan. Đối với khách hàng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công, sau đó xuất hàng sang nước cung cấp nguyên liệu, thanh toán viên có thể tư vấn sử dụng loại L/C đối ứng, hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người xuất khẩu giá trị nguyên liệu nhập cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên liệu đó. Trong trường hợp này việc sử dụng L/C đối ứng đem lại ưu việt hơn hẳn sử dụng L/C không huỷ ngang bởi lẽ sau khi nhập và thanh toán giá trị nguyên liệu, các sản phẩm sản xuất ra không được phía đối tác đồng ý nhập lại và người gia công sẽ gặp phải rủi ro lớn do hàng hoá mang tính đặc thù khó có thể bán được. + Công việc tư vấn cho đơn vị trong việc đưa ra các điều khoản vào L/C, không nên đưa ra quá nhiều điều khoản vào vì dễ dẫn đến sai sót. Trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, khi sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình. Đối với các đơn vị xuất khẩu: Các đơn vị xuất khẩu hay gây rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro đó, ngân hàng có thể tư vấn cho những vấn đề như sau: + Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu người mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho bên bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở L/C có xác nhận vì phí xác nhận cao và bên nhập khẩu phải kí quĩ tại ngân hàng mở, nếu có khó khăn đối với người nhập khẩu, họ có thể không thực hiện hợp đồng thương mại. + Cán bộ ngân hàng cần giúp cho đơn vị xuất khẩu tìm hiểu kĩ các điều khoản và điều kiện trong L/C, tránh những sai sót về chứng từ để có thể làm cho ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán. Các thanh toán viên nên tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là cách thức có lợi hơn cả vì tiền được thu nhanh hơn, tạo điều kiện tăng vòng quay của vốn nhanh. + Nên tư vấn cho đơn vị trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuân lợi hơn. Tư vấn cho đơn vị các điều kiện bất lợi của L/C như thời hạn giao hàng muộn nhất, thời hạn hiệu lực của L/C... + Các cán bộ làm công tác TTQT cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót, xem xét kỹ những lí do từ chối mà ngân hàng mở L/C đưa ra có hợp lí không. Tư vấn cho doanh nghiệp trong trường hợp giải quyết hàng hoá khi bị từ chối, hàng hoá đã bị chuyển ra nước ngoài, vì vậy doanh nghiệp phải có các biện pháp khẩn cấp để hạn chế tối đa thiệt hại. Trong trường hợp đó, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp liên hệ với ngân hàng đại lý nước ngoài nhờ họ giữ hộ hàng hoá hoặc tìm cách tiêu thụ hàng hóa hộ. Ngoài ra, ngân hàng còn nên tư vấn cho doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp giữa họ với bên mua nước ngoài. 3.2.8 Nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra kiểm toán nội bộ để phòng ngừa rủi ro Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế về lĩnh vực ngân hàng hiện nay, hoạt động TTQT ngày càng đa dạng và phức tạp hơn, rủi ro ngày càng nhiều hơn. Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra, kiểm soát nội bộ để phòng ngừa rủi ro. Thực tế hiện nay cho thấy bộ phận kiểm tra, kiểm soát về hoạt động TTQT của NHCT HK còn yếu, phần lớn cán bộ kiển tra không có nghiệp vụ TTQT. Vì vậy, công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động này trong thời gian qua chưa thực sự mang lại hiệu quả. Trong thời gian tới NHCT HK cần có kế hoạch đào tạo toàn diện các mặt nghiệp vụ và đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ TTQT cho các cán bộ kiểm tra, kiểm soát để công tác này thực sự phát huy tác dụng. Cán bộ trước khi được sắp xếp vào công tác kiểm tra phải có thời gian được phân công làm công tác TTQT, cọ sát và nắm bắt thực tế. Chỉ khi được trang bị một lượng kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực TTQT thì bộ phận kiểm tra, kiểm soát mới mạnh dạn xây dựng chương trình kiểm toán cho hoạt động này. Khi đó mức độ sai sót sẽ giảm đi và hiệu quả của hoạt động TTQT sẽ được nâng lên. Cần xây dựng kế hoạch và quy trình kiểm tra hoạt động TTQT một cách thường xuyên như kiểm tra việc chấp hành các quy chế, quy trình TTQT; phát hiện các sai sót trong xử lý quy trình nghiệp vụ nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ phải ngày một nâng dần về chất, phát triển về lực nhằm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, thật sự trở thành công cụ quản lý có hiệu quả của Ban lãnh đạo NHCT HK. 3.2.9 Tập trung nghiên cứu, phân tích các yếu tố biến động của môi trường kinh doanh để có các chiến lược và biện pháp cụ thể thích nghi với môi trường thị trường Hoạt động ngân hàng là một hoạt động chịu tác động lớn bởi sự biến động của môi trường thị trường, và những tác động này mang tính chất lan truyền nhanh với tốc độ chóng mặt. Chẳng hạn, một sự sụp đổ của một hãng kinh doanh lớn là khách hàng lớn của ngân hàng, sẽ kéo theo sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh không chỉ của ngân hàng mà còn của các khách hàng khác của ngân hàng khác. Từ đó gây ra dây chuyền sụp đổ nhanh chóng của hệ thống ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần thiết phải nghiên cứu môi trường thị trường để có thể có các quyết định đúng đắn, kịp thời. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước, Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng Nhà nước đóng vai trò quản lý vĩ mô trong nền kinh tế, các chính sách kinh tế của Nhà nước tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia nói chung và hoạt động TTQT nói riêng. Từ khi UCP 600 có hiệu lực tại Việt Nam, tất cả các NHTM nước ta đều áp dụng vào giao dịch TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm hoà nhập vào mạng lưới TTQT. Thực tế cho thấy tất cả các nước có hoạt động TTQT đã áp dụng UCP 600, họ đều có những văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 600. Vì vậy đề nghị trong thời gian tới Nhà nước sớm xây dựng những văn bản pháp luật hướng dẫn để các ngân hàng có thể ổn định, phát triển, và nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời còn là cơ sở giải quyết những tranh chấp thương mại xảy ra. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu Để đẩy mạnh xuất khẩu, hoàn thiện nhập khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho việc phát triển hoạt động TTQT nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động XNK theo hướng: + Hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp XNK theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế để quản lý tốt và khuyến khích hoạt động XNK. + Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp XNK. Thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi trực tiếp giữa Chính phủ, các Bộ và các doanh nghiệp nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động XNK. Nhà nước sớm xây dựng chiến lược, kế hoạch và các phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng bước. Nhà nước cần có thông tin kịp thời, chính xác về thị trường thế giới, bởi thiếu thông tin thị trường thế giới, các doanh nghiệp sẽ không dự đoán chính xác xu hướng thị trường, kinh doanh có thể thua lỗ. + Điều chỉnh cơ chế quản lý XNK thông qua việc áp dụng đa dạng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng nới lỏng, mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đầy kinh doanh XNK phát triển. Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Thương mại thực hiện có hiệu quả sâu hơn chính sách thương mại phát triển theo hướng khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân TTQT. Song hành với việc đa dạng hoá thị trường, sản phẩm và đối tác, cần phải đa dạng hoá các công cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu cũng phải được coi trọng như: ưu tiên lãi suất theo cơ chế tỷ giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng, cước phí vận tải, bảo hiểm, giá điện nước, giá xăng dầu... + Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, XNK hàng hoá và dịch vụ. Khai thác triệt để có hiệu quả những tiềm năng sẵn có về tài nguyên, sức lao động, phấn đấu giảm giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao. Mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, duy trì mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội phát triển và xâm nhập các thị trường có tiềm năng như Trung quốc, Nhật bản, Mỹ, Hàn Quốc... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện các cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, WTO. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. 3.3.2 Kiến nghị với Ngâng hàng Công Thương Việt Nam Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần theo hướng làm sao cho quy trình, thủ tục thực hiện quá trình thanh toán được đơn giản hơn, nhanh gọn, chính xác và vẫn thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác thanh toán, tăng khả năng cạnh tranh của các chi nhánh; đơn giản hóa các khâu nghiệp vụ, giảm tối đa các yêu cầu chứng từ đối với khách hàng, bởi càng nhiều giấy tờ thì việc kiểm tra càng mất thời gian. Đồng thời giảm được chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh được với NHTM khác. Đổi mới công nghệ ngân hàng Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống NHTMCP CTVN là một đòi hỏi bức thiết. Công nghệ thanh toán là yếu tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao chất lượng thanh toán, giảm chi phí và góp phần vào việc xây dựng một hệ thống tiên tiến, hội nhập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, phát triển TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và TTQT nói chung không thể không gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới kiến nghị lên NHTMCP CT VN một số vấn đề sau: + Xây dựng các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và các dịch vụ ngân hàng, trong đó có TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ như phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu. + Xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng, chính xác. + Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị điều hành: quản lý tài chính, quản lý rủi ro, quản lý quan hệ khách hàng, quản lý toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nguồn nhân lực của ngân hàng liên quan đến công tác TTQT. + Chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác TTQT. Các chương trình này phải tạo ra các mẫu điện phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước và các ngân hàng đại lý trên thế giới. + Từng bước triển khai dự án xây dựng ngân hàng điện tử, nối mạng giao dịch với các khách hàng, trước mắt là với các khách hàng lớn. Tăng cường quan hệ đại lý quốc tế Mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài kể cả số lượng lẫn chất lượng cũng là một đòi hỏi rất quan trọng. Việc xây dựng mối quan hệ với nhiều ngân hàng sẽ giúp NHTMCP CTVN tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, do đó đẩy nhanh tốc độ giao dịch. Xây dựng quan hệ đại lý với phương châm uy tín, hiệu quả đảm bảo hai bên cùng có lợi. Vì vậy trong thời gian tới NHTMCP CTVN cần chú trọng mở rộng và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng, đặc biệt ở những thị trường XNK quan trọng của Việt Nam như: Nhật bản, Mĩ... Có chính sách khen thưởng kịp thời NHTMCP CTVN cần điều chỉnh các chính sách tiền lương, khen thưởng, trợ cấp hợp lý nhằm khuyến khích động viên những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác nhằm khích lệ những cán bộ cống hiến vì sự nghiệp phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó là việc xử phạt nghiêm minh đối với trường hợp vi phạm đến qui định của ngân hàng, để có sự tiến bộ của cán bộ công nhân viên trong thời gian tới. KẾT LUẬN Trước xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá như hiện nay, nền kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và những vận hội mới cho các quốc gia trên con đường từng bước đi lên của mình. Việt Nam cũng trong hoàn cảnh này, vì vậy quan hệ đối ngoại đang là vấn đề đặt lên hàng đầu trong chính sách của nước ta. Các doanh nghiệp từ đây càng có nhiều cơ hội đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó các ngân hàng có điều kiện thực hiện các dịch vụ của mình rộng rãi hơn, do đó thu nhập sẽ tăng lên làm cho nền kinh tế đất nước phát triển đi lên. Trong bối cảnh đó, hoạt động thanh toán quốc tế đã trở thành một trong những mảng hoạt động dịch vụ lớn, mang lại nhiều lợi ích cho các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, đây cũng là một loại hình dịch vụ bị cạnh tranh rất lớn, đặc biệt khi Việt nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Việc tìm kiếm giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế của NHCT HK đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Với chuyên đề "Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Hoàn Kiếm" em đã tập trung phân tích thực trạng tình hình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng với mục đích đưa ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Việc mở rộng thanh toán quốc tế của NHCT HK có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp phát triển NHCT HK nói riêng mà với cả hệ thống NHCT VN nói chung và sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam ngày càng phát triển, đưa đất nước ngày càng hội nhập sâu với khu vực và thế giới. Em mong rằng, với tầm hiểu biết ít ỏi của mình cũng đóng góp một phần nào đó cho quá trình mở rộng và phát triển của ngân hàng và quá trình đi lên của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – NXB Tài chính Kế toán ngân hàng – NXB thống kê 2005 Ngân hàng thương mại – Reed Edwardk – TP HCM Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic.S.Mishkin Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Giáo trình Thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Học Viện Ngân Hàng Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Đinh Xuân Trình – Trường Đại học Ngoại Thương Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung Ương – Lê Vinh Danh – NXB Chính trị Quốc Gia Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHCT HK Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT HK. Các tạp chí Ngân hàng, thời báo Ngân hàng, tạp chí thị trường tài chính tiền tệ, tạp chí Con số và sự kiện các năm 2007, 2008, 2009. websize NHCT VN: www.vietinbank.vn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT NGUYÊN VĂN TTQT Thanh toán quốc tế NHCT VN Ngân hàng Công Thương Việt Nam NHCT HK Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước XNK Xuất nhập khẩu VietinBank Ngân hàng Công Thương Việt Nam VietcomBank Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam BIDV Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Môc lôc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25571.doc
Tài liệu liên quan