MỤC LỤC
CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng nhà nước.
NHTW : Ngân hàng trung ương.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
VRB : Ngân hàng liên doanh Việt – Nga.
BIDV : Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
VTB : Ngân hàng Ngoại thương Nga
TD : Tín dụng.
DN : Doanh nghiệp.
KTQD : Kinh tế quốc doanh.
KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh.
SXKD : Sản xuất kinh doanh.
NQH : Nợ quá hạn.
TGTC : Trung gian tài chính.
TCTD : Tổ chức tín dụng.
TDNH : Tín dụng ngân hàng.
DANH MỤC BẢNG
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng quy mô tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Liên Doanh Việt – Nga đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Một số chỉ tiêu hoạt động tại VRB (đơn vị: ngàn USD) 33
Bảng 2: Hoạt động huy động vốn 34
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn 35
Bảng 4: Tình hình dư nợ 40
Bảng 5: Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế. 41
Bảng 6: Chất lượng nợ vay 42
Bảng 7: Phân tích chỉ tiêu NQH ở VRB 43
Bảng 8: Vòng quay vốn tín dụng 45
Bảng 9: Thu nhập từ hoạt động tín dụng 45
Bảng 10: Hiệu suất sử dụng vốn của NH 46
Bảng 11:Chỉ tiêu mở rộng quy mô của VRB 52
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán...
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng có phạm vi rộng, tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đến các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh tế, tác động đến nhiều hoạt động khác. Chính vì vậy mà ngành Ngân hàng luôn phải tự đổi mới để phù hợp với xu thế thời đại, làm cho hoạt động của mình có hiệu quả nhất, tạo vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế về cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng tốt nhất, đổi mới dây chuyền công nghệ, đổi mới nhân lực. Ngày nay, việc sử dụng tín dụng đã trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế. Nó là chất dầu bôi tơn cho sự vận hành cỗ may kinh tế quốc gia. Đối với các NHTM, hoạt động tín dụng là lĩnh vực kinh doanh cơ bản bởi vì nó mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển, các NHTM phải không ngừng mở rộng gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng.
Bằng những kiến thức đã tiếp thu được và qua thực tiễn thực tập tại Ngân hàng Liên Doanh Việt – Nga, em quyết định chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng quy mô tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Liên Doanh Việt – Nga đến năm 2010" làm chuyên đề thực tập của mình.
Do kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, thời gian hạn chế, cho nên bài viết không tránh khỏi những sai sót . Vì vậy, em kính mong có được sự góp ý chân thành của cô hướng dẫn Vũ Thị Ngọc Phùng và các cô chú cán bộ công nhân viên trong cơ quan- nơi em thực tập để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I:
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.Tổng quan về tín dụng ngân hàng.
1.1. Khái niệm.
Khái niệm tín dụng Ngân hàng đã xuất hiện từ rất lâu, rộng khắp trên thế giới và ngay cả tại Việt Nam. Nó xuất phát từ gốc La tinh là CREDO có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm hay chính là lòng tin. Còn theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng biểu hiện một hay nhiều mối quan hệ vay mượn và hoàn trả. Theo cách hiểu này thì tín dụng là quan hệ vay vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một thời điểm xác định trong tương lai.
Có thể hiểu tổng quát: “Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng sau một thời gian nhất định và thu về một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”.
Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả được thể hiện như sau:
+ Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản…
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Thông thường, giá trị khi hoàn trả lớn hơn giá trị lúc cho vay, nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Trong thực tế cuộc sống quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa dạng và phong phú có đầy đủ các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng, ví dụ như:
+ Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện dưới hình thức Nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu kho bạc…
+ Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau thể hiện dưới hình thức mua bán chịu (tín dụng thương mại)
+ Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với công chúng thể hiện dưới hình thức phát hành các loại trái phiếu, bán hàng trả góp…
+ Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay, tài trợ, thuê mua…
+ Quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Các tổ chức Ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách:
(1) Ngân hàng đóng vai trò là người đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của Ngân hàng TW và các Ngân hàng khác.
(2) Ngân hàng đóng vai trò là người cho vay, bao gồm các chủ thể trong xã hội vay,được tài trợ, thuê, thuê mua…
1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt thì yếu tố uy tín được đặt lên hàng đầu. Ở đây, người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng này của tín dụng xuất phát từ tính chuyện nhượng tạm thời vì để thực hiện hành vi cấp tín dụng các ngân hàng phải tạo ra cho mình một nguồn vốn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định do đó để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay phải xác định được rõ thời gian cho vay trên cơ sở xem xét đến quá trình luôn chuyển vốn của đối tượng vay và tính chất vốn của ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay < chu kỳ luôn chuyển vốn của đối tượng vay thì khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ, sẽ gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay dài hơn chu kỳ luôn chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có nguồn để trả nợ. Như vậy, nếu ngân hàng định kỳ hạn nợ phù hợp với đối tượng vay thì khả năng trả nợ đúng hạn rất cao và ngược lại.
Tín dụng ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Đặc trưng này xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời, từ tính sở hữu về vốn, từ sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng đòi hỏi khi cấp tín dụng thì tín dụng phải được hoàn trả. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác, người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa vốn nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm... nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi.
Tài sản giao dịch trong quan hệ giao dịch tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê ( bất động sản và động sản).
Tín dụng ngân hàng là hoạt động mang tính tiềm ẩn rủi ro cao vì tín dụng không phải chỉ chịu tác động ảnh hưởng bởi người cho vay và người đi vay mà còn phụ thuộc vào môi trường hoạt động cho bản thân ngân hàng và khách hàng. Khi môi trường hoạt động thay đổi như: lạm phát, tăng trưởng kinh tế...sẽ tác động trực tiếp đến khách hàng của ngân hàng do đó tác động đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên các nguồn vốn là vốn tự có và vốn nhận tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác... Song tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thấp hơn các chi phí từ chủ thể khác.
Thứ hai, Tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn với người thiếu vốn vì tín dụng ngân hàng thu hút tập trụng mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đẩy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thu đợc lợi tức cho vay để duy trì và phát triển hoạt động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, mỗi ngân hàng phải có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí thấp nhất để kinh doanh. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, đâỷ nhanh tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba, Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- nông nghiệp-dịch vụ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất mở rộng hoạt động, mọi chu kì đều phải bắt đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền ( T...H...T’, T...T’). Do đó, để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tíên kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có nhiều vốn và kịp thời. Tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Mặt khác, vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn qui định.Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ đúng hạn nợ gốc và lãi. Chính quá trình này đã góp phần làm cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển cao.
Thứ tư, Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế thế giới, xu hướng quốc tế hoá và hội nhập hoá ngày càng được mở rộng theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong đó , đầu tư vốn ra nớc ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến giữa các nước. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng có đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tìên tệ, thông qua hoạt động tín dụng, sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thứ năm, TDNH là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, kỉêm soát tiền vào lưu thông qua kênh cung ứng tín dụng. Bởi vì, Ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Trong điều kịên cần mở rộng, thu hẹp khẳ năng cung ứng vốn sẽ tác động đến việc cấp tín dụng của ngân hàng. Khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu, TDNH góp phần thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế vì qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp vốn cho các doanh nghiệp. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
Thứ bẩy, TDNH là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho bản thân các ngân hàng. Trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng thờng tập trung vào hai loại hình chủ yếu là sử dụng vốn vào tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời. Song trên thực tế đại bộ phận vốn của các NHTM được đầu tư vào tài sản sinh lời mà lớn nhất qua kênh tín dụng. Chính hoạt động này đã tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của hệ thống các NHTM từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Thứ tám, TDNH góp phần tích cực vào việc phát triển công ty cổ phần. Để thành lập được công ty phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông góp và ngân hàng có thể là một cổ đông lớn. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc tăng thêm vốn có thể thông qua nhiều giải pháp trong đó việc huy động góp vốn thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu mới là hình thức phổ biến. Chính sự hoạt động của thị trường vốn, thị trường tìên tệ mà việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu mới có môi trường hoạt động và quyết đinh một phần không nhỏ đến chất lượng cổ phiếu. Ngân hàng với tư cách là một TGTC có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính và thực hịên phần lớn hoạt động của các tổ chức TGTC như: việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin, tham gia các nghiệp vụ bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá ( cổ phiếu, trái phiếu...) làm tăng tính lưu thông cho chúng từ đó tạo uy tín cho các công ty cổ phần đó.
Như vậy, TDNH có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế –xã hội của đất nước. Nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên để TDNH phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý Ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện cho cả người cho vay và ngời đi vay trong nền kinh tế.
2. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
2.1. Theo thời hạn tín dụng.
Căn cứ theo tiêu thức này, người ta chia Tín dụng thành 3 loại.
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng thường luôn dự tính được những biến động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng thấu chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao gồm các hình thức chủ yếu sau: tín dụng thực hiện theo dự án, tín dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn >5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng( đường xá, bến cảng, sân bay...) , cải tiến và mở rộng sản xuất với qui mô lớn.
Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lường trước những biến động có thể xảy ra. Nó bao gồm đầy đủ các loại hình trên.
2.2. Theo đối tượng tín dụng .
Căn cứ vào hình thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại đó là:
- Tín dụng vốn lưu động: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn ngắn thường <1 năm. Được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro thấp do nó phục vụ cho chu kì sản xuất kinh doanh nên Ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và dự báo bíên động xảy ra. Nó bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kì phiếu.
-Tín dụng vốn cố định: là hình thức đầu tư vốn của ngân hàng mà chi phí đầu tư gắn liền với TSCĐ, có nghĩa là đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới.
2.3. Theo mục đích sử dụng vốn.
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại.
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cấp tín dụng lấy đối tượng thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngân hàng để làm cơ sở cấp tín dụng như các nhà doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua việc phát hành thẻ tín dụng. Với hình thức cấp tín dụng này ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả và thu nhập của khách hàng mà ít quan tâm tới việc sử dụng khoản tín dụng có hiệu quả hay không do đó loại tín dụng này có mức độ rủi ro cao hơn.
2.4. Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng.
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại.
- Cho vay có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Hình thức này áp dụng đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lí để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Tuy nhiên, khách hàng vay không có bảo đảm sẽ được nhận khoản vay khi hội tụ đầy đủ các yếu tố sau:
+ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đúng hạn, đầy đủ cả gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khẳ năng hoàn trả nợ, hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với qui định của pháp luật.
+ Có khẳ năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hoạt động tín dụng, cam kết trả nợ trớc hạn nếu không thực hiện được các biện pháp đảm bảo bằng tài sản.
2.5. Theo phương pháp hoàn trả.
Dựa theo tiêu thức này tín dụng được chia 2 loại.
- Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Đối với loại cho vay này khách hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng ngân hàng được quyền thu lãi toàn bộ kì hạn trả nợ theo hợp đồng trừ trường hợp có những thoả thuận khác. Nó bao gồm: cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ, cho vay có nhiều kì hạn trả nợ cụ thể ( cho vay trả góp), cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn nợ cụ thể, mà việc trả nợ phụ thuộc váo khả năng tài chính của người đi vay.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: là loại cho vay mà ngân hàng có thể yêu cầu người đi vay tự nguyện trả nợ bất kì lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
2.6 Theo xuất xứ tín dụng .
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại.
- Cho vay trực tiếp: Là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc hàng hoá) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hoá ) đó, không cần thông qua một TGTC nào cả.
- Cho vay gián tiếp: Là hình thức cấp tín dụng thông qua một TGTC như NHTM hoặc TCTD khác bằng việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn thời hạn thanh toán. Đây là hình thức cấp tín dụng được áp dụng phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn.
3. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
3.1. Quan niệm về mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững và phát triển trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp đó phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất lượng các sản phẩm dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. Các doanh nghiệp luôn tự đổi mới về mọi mặt. Thay đổi mẫu mã sản phẩm, công nghệ, đảm bảo chất lượng để tạo lòng tin cho khách hàng.
Đối với ngân hàng cũng vậy, muốn tạo vị thế cạnh tranh thì phải không ngừng đổi mới. Khi nói đến mở rộng, người ta nghĩ ngay đến việc làm thế nào để tăng quy mô khối lượng,số lượng tức là nói tới sự tăng trưởng theo chiêù ngang.Vì vậy,ta có thể hiểu. Mở rộng tín dụng là sự đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về qui mô tín dụng hay nói cách khác đó là việc làm tăng tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của các NHTM.
Mở rộng tín dụng được thể hiện :
- Đối với khách hàng, tín dụng phải thoả mãn được tối đa yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng cung cấp, đa dạng hoá các hình thức và loại hình tín dụng cững như các loại dịch vụ bảo hành.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phải đáp ứng được các yêu cầu bức xúc về vốn kinh tế, là kênh dẫn vốn gián tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn các nguồn vốn tài chính, trợ giúp ngân sách Nhà nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Đối với ngân sách thương mại: Tín dụng luôn được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt và là hoạt động cơ bản trong toàn bộ hoạt động của các ngân hàng thương mại. Qua đó có thể rút ra:
+ Mở rộng tín dụng phản ánh khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vốn cho nền kinh tế, theo một cơ cấu hợp lý, phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội trong từng thời kỳ, qua đó nó cho thấy sự tăng trưởng và phát triển của tín dụng nói riêng và của ngân hàng thương mại nói chung trong quá trình cạnh tranh.
+ Mở rộng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như: Khả năng quản lý, trình độ cán bộ, nguồn vốn ngân hàng và khách quan như: Sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế chính sách của Nhà nước..., tốc độ phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi cơ cấu đầu tư cũng như môi trường pháp lý đều tác động dến mở rộng tín dụng.
+ Mở rộng tín dụng được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng hoá khách hàng, các loại hình dịch vụ ngân hàng, cũng như các đối tượng cho vay. Việc xây dựng được các mức lãi xuất hợp lý cũng như xác định các kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh cuả khách hàng đi đôi với việc cung cấp các loại hình bảo lãnh thích hợp cũng góp phần mở rộng tín dụng.
+ Phải đặt mở rộng tín dụng trong mối quan hệ với các chỉ tiêu tài chính khác. Quá trình phân tích đánh giá mở rộng tín dụng hiện đại sẽ tạo điều kiện tìm hiểu, chính xác các nguyên nhân tồn tại vướng mắc về mở rộng tín dụng. Từ đó giúp ngân hàng lựa chọn được các giải pháp thích hợp, để có thể thực hiện mở rộng tín dụng trong từng thời kỳ kinh tế, phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Mở rộng tín dụng đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng. Nói đến nâng cao chất lượng tức là tăng chiều sâu, các ngân hàng phải làm thế nào để tạo được uy tín với khách hàng, tìm hiểu kỹ về khách hàng mà mình cho vay, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả tăng trưởng dư nợ.
Chất lượng tín dụng thể hiện tập trung ở sự thoải mái yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn. Đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội theo đường lối đổi mới của đất nước và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của các NHTM.
Chất lượng tín dụng còn là sự kết tinh tổng hợp những thành quả hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định vững chắc của các Ngân hàng và nền kinh tế quốc dân.
3.2. Mối quan hệ giữa mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng:
Hội nhập kinh tế quốc tế thành công sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội như mở rộng thị trường, tận dụng những kinh nghiệm về quản lý, kế thừa những thành tựu khoa học của các nước đi trước, tăng khả năng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật công nghệ, nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với ngành ngân hàng tài chính, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng, đáp ứng nhu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với tổ chức quốc tế.
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra biện pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong các giao dịch tài chính quốc tế. Đồng thời các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay cụ thể hơn là sự tham gia tích cực hơn của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam buộc NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài, dự kiến sẽ áp dụng tại Việt Nam. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ là cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng kinh doanh. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách hàng hơn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Để tạo vị thế cạnh tranh các ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ. Mở rộng quy mô hoạt động đối với việc đảm bảo nâng cao chất lượng. Xét trên khía cạnh cho vay, việc mở rộng tín dụng là sự cần thiết, nhưng nếu chỉ mở rộng mà không nâng cao chất lượng thì sẽ không có hiệu quả, không chính xác. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ nhau. Khi mở rộng tín dụng tức là tăng khối lượng, đa dạng hoá các hình thức và các loại hình, khả năng đáp ứng ngày càng tăng về vốn cho nền kinh tế. Mở rộng tín dụng được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng hoá khách hàng. Song song với việc mở rộng thì nâng cao chất lượng là quan trọng, khi mở rộng tín dụng thì khối lượng khách hàng nhiều phải đảm bảo chất lượng, tìm hiểu thẩm định phải chính xác, đảm bảo an toàn vốn hạn chế rủi ro, không có nợ quá hạn, tăng trưởng dư nợ. Mở rộng hình thức tín dụng khối lượng khách hàng nhiều, mọi công việc đều phải làm nhanh nhưng vẫn đảm bảo chất lượng, hiệu quả.
3.3. Các chỉ tiêu phản ánh việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng:
3.3.1.Chỉ tiêu định tính:
Cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng nếu Ngân hàng có bảo vệ, có bãi gửi xe, có nhân viên trông xe không thu lệ phí thì Ngân hàng sẽ tạo được một ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp trong lòng khách hàng.
Nếu ngân hàng có sơ đồ làm việc của các phòng ban sẽ giúp khách hàng không bị bỡ ngỡ và đỡ tốn thời gian. Từ đó khách hàng sẽ có ấn tượng tốt về Ngân hàng.
Cách bố trí sắp sếp trong phòng làm việc của ngân hàng, trang phục của nhân viên, đặc biệt là thái độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu chất lượng tín dụng cao thì chắc chắn Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng mới.
Uy tín của ngân hàng cũng góp phần làm nên chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Như vậy, dựa vào các chỉ tiêu định tính có thể đánh giá được phần nào khả năng mở rộng qui mô tín dụng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
3.3.2. Các chỉ tiêu định lượng:
+ Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao bởi vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu.
Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, sự uy tín của Ngân hàng đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được gân hàng cần đẩy mạnh cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ khi so với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều nhất.
-Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối:
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối = tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng năm (t) - tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng năm (t-1).
-Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng tương đối:
Giá trị tăng trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối x 100%
Tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng năm (t-1)
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về tỷ trọng:
Tỷ trọng =
Tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng x 100%
Tổng dư nợ của hoạt động tín dụng
+ Tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 %
Tổng dư nợ
Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất._. lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề có khả năng mất vốn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì ngân hàng thương mại càng gặp khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp.
+ Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn
Tỷ lệ khách hàng
có nợ quá hạn
==
Số lượng khách hàng có nợ quá hạn
x100%
Tổng khách hàng vay vốn Ngân hàng
+ Vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Vòng quay vốn Doanh số thu nợ
=
tín dụng Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguốn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
+ Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem lại một khoản thu nhập cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo được độ an toàn của nguồn vốn cho vay.
Thu nhập từ Lãi từ hoạt động tín dụng
=
hoạt động tín dụng Tổng thu nhập
Ta thấy rằng nếu ngân hàng thương mại chỉ chú trọng vào việc giảm và duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp cũng không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng.
+Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn huy động là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.
Chỉ tiêu này có thể được biểu thị bằng công thức
Hiệu suất Tổng dư nợ
=
sử dụng vốn Tổng vốn huy động
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Sau đây có thể chia thành hai nhóm cơ bản sau:
4.1. Nhóm nhân tố khách quan:
+ Môi trường kinh tế
Để Ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động cho vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng là vô cùng cần thiết. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt hại cho Ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền, từ đó mà chất lượng tín dụng được nâng lên.
Ngoài ra cơ chế, chính sách của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực tiếp đến các khách hàng vay vốn của Ngân hàng .Nếu chính sách của Nhà nước (chính sách thuế, chính sách tiền tệ, XNK…) không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, làm cho các doanh nghiệp khó khăn trong SXKD nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Một trong những nhân tố có tác động lớn tới việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đó là chu kỳ phát triển kinh tế. Nếu thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh sẽ có nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, SXKD được mở rộng tăng được lợi nhuận, điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng cho vay và chất lượng tín dụng được nâng lên. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế bị suy thoái, SXKD bị đình trệ, quy mô sản xuất thu hẹp, thua lỗ kèo dài dẫn đến các khách hàng của Ngân hàng khó khăn trong việc trả nợ, chất lượng tín dụng bị giảm sút.
+ Môi trường xã hội
Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm là chủ yếu. Vì vậy, sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Uy tín của Ngân hàng trên thị trường tiền tệ cao sẽ thu hút được nhiều khách hàng, ngược lại khách hàng có uy tín, được Ngân hàng tín nhiệm tạo thuận lợi trong việc cấp tín dụng.
Trong xã hội có nhiều tuyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn XH như lừa đảo, làm ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
+Tình hình chính trị
Một quốc gia có sự ổn định về chính trị, không có chiến tranh thì đây là môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Chính trị ổn định thì nền kinh tế mới phát triển, bất cứ sự biến động nào về chính trị cũng dẫn tới xáo động lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Riêng đối với Ngân hàng nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động vốn, cho vay. Điều đó có nghĩa ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
+ Nhân tố pháp lý
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng.
Pháp luật là một bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách luật ban hành không phù hợp, không đồng bộ sẽ gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng. Ngoài ra nếu có hệ thống phát luật đồng bộ sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế do đó mà SXKD được tiến triển thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Nó còn là cơ sở để giải quyết mọi mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội
+ Ngoài ra việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng còn bị ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân khách quan khác như: Thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh… Vì đây là nguyên nhân làm cho nhiều khách hàng của Ngân hàng bị phá sản nhất là các khách hàng SXKD phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên.
4.2. Nhóm nhân tố chủ quan
Gồm các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình tín dụng…
+ Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của NHTM đó.
Hoạch định chính sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách
hàng, đảm bảo được khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành tốt luật pháp và đường lối chính sách của Nhà nước.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng rất nhiều rủi ro. Khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro thì có thể bị phá sản hoặc thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, khi hoạch định chính sách tín dụng phải luôn coi trọng việc đảm bảo an toàn vốn như là một mục tiêu mà chính sách đó phải dạt được. Do vậy, ta có thể nói rằng chất lượng tín dụng của Ngân hàng có tốt hay không nó còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng của Ngân hàng có đùng đắn hay không.
+ Công tác tổ chức Ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến toàn bộ CBCNV. Điều đó có nghĩa công tác tổ chức Ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này Ngân hàng đã làm cho guồng máy hoạt động của mình được uyển chuyển, nhịp nhàng, linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động Ngân hàng nên chú trọng mặt này để ngày càng hoàn thiện, phát triển và tạo điều kiện cho chất lượng tín dụng được nâng lên.
+ Thông tin tín dụng
Cho vay vốn không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải khách hàng nào cũng sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả, ngoài ra còn có những khách hàng chủ định lừa Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản (như dùng 1 tài sản để thế chấp vay vốn tại nhiều Ngân hàng với số tiền vay lớn hơn giá trị tài sản, thành lập các công ty "ma"…) gây rủi ro, tổn thất cho Ngân hàng .Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn tăng trưởng, đạt hiệu quả nhưng phải đảm bảo an toàn vốn thì phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời, chính xác các luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để xem xét, phân tích nhằm tìm ra những cơ hội tốt trong kinh doanh cũng như để đề phòng những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của mỗi Ngân hàng.
Trên thương trường cùng với nhiều đối thủ cạnh tranh, người nào nắm bắt được nhiều thông tin nhanh nhất, chính xác nhất thì nắm được đa phần thắng. Rõ ràng việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực có chọn lọc, xử lý thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
+ Trình độ cán bộ Ngân hàng
Nhân tố con người là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động. Thực tế cho thấy, một trong những vấn đề có tính quyết định đến chất lượng tín dụng cao hay thấp là phụ thuộc khá nhiều từ việc hoạch định các chủ trương, chính sách tới việc thẩm định các dự án, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, thu hồi nợ… của Ngân hàng và trong đó con người là nhân tố không thể thiếu.
Một Ngân hàng có đội ngũ CBCNV được đào tạo với chất lượng tốt, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao thì việc quản lý, thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng sẽ trở nên có hệ thống và đạt được kết quả cao. Hơn nữa, nó còn giúp cho Ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra do trình độ của cán bộ, nhờ đó mà chất lượng tín dụng luôn được đảm bảo.
+ Vấn đề kiểm tra, kiểm soát, thanh tra
Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì dễ dẫn đến sụp đổ và phá sản của mỗi NHTM.
Một trong những nghiệp vụ hoạt động nhằm mục đích giúp cho Ngân hàng tránh được rủi ro trên là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay) mà còn được thực hiện với bản thân Ngân hàng như kiểm tra quá trình thực hiện cho vay xem đã đúng quy trình chưa. Kiên quyết loại trừ những cán bộ mất phẩm chất, tiêu cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng cũng đồng thời là Ngân hàng phải kịp thời ngăn chặn, phát hiện được những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng cũng như bảo vệ được tài sản, cán bộ, uy tín của Ngân hàng. Muốn vậy phải bố trí cán bộ có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra giám sát là vấn đề mà không một Ngân hàng nào được coi nhẹ.
+ Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi ngành ngân hàng phải được trang bị đầy đủ các công nghệ thiết bị hiện đại, phù hợp với nhu cầu của xã hội và phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về các mặt dịch vụ với chi phí cả hai bên đều chấp nhận được. Mặt khác, các trang thiết bị này cũng giúp cho các nhà quản trị ngân hàng kịp thời nắm bắt được mọi diễn biến của thị trường, các dự báo về khả năng phát triển kinh tế và mọi hoạt động tín dụng để đưa ra được những chiến lược, những quyết sách phù hợp với tình hình thực tế, nhằm thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Như vậy, trang thiết bị và không ngừng đổi mới công nghệ cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng.
5. Kinh nghiệm và bài học rút ra ở một số NHTM.
5.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, đây là một cơ hội cũng như thách thức lớn cho đất nước đông dân nhất thế giới này. Ngành Ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế này trong đó tín dụng là lĩnh vực mà có các điều kiện đang chín muồi.
Tín dụng phát triển nhanh ở Trung Quốc từ năm 1998, chính phủ khuyến khích hoạt động này bằng chính sách tài chính chủ động và chính sách tiền tệ nới lỏng, NHTW đã ban hành nhiều chính sách tạo hành lang pháp lí cho hoạt động này. Kết quả là cuối năm 1997 các khoản tín dụng đạt 5733 tỷ NDT, và đến năm 2001 con số này là 10773 tỷ NDT, tức gấp gần 2 lần so với năm 1997. Tuy nhiên việc phát triển tín dụng đó không tránh khỏi những khó khăn.
5.2. Bài học cho Việt Nam.
Cải thiện dịch vụ tín dụng không những giúp các Ngân hàng trong việc tránh các thách thức từ đối thủ cạnh tranh mà còn là chìa khóa thúc đẩy tiêu dùng trong nước, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế. Có thể thấy việc hỗ trợ của Chính phủ một cách mạnh tay như nới lỏng các quy định, tạo hành lang pháp lý vững chắc, các chủ trương kích cầu chống giảm phát để thúc đẩy kinh tế là nhưng điều kiện thuận lợi về mặt khách quan cho các Ngân hàng phát triển. Các NHTM ở Trung Quốc cung thực hiện việc đa dạng hóa trong hoạt dộng tín dụng phòng tránh rủi ro. Một mặt họ bám sát vào các chủ trương, chính sách của Nhà nước để tài trợ nhu cầu của nền kinh tế, mặt khác chú trọng đến các chiến lược phát triển dài hạn, các biện pháp ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại trong việc quản lý khách hàng.
Tuy vậy cũng phải thừa nhận rằng rủi ro trong lĩnh vực tín dụng chưa thể hiện đầy đủ ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam hiện nay, đa số các khoản vay là trong dài hạn nên khả năng trả nợ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Do đó NHNN cần đưa ra các quy định chặt chẽ hơn trong việc cấp các khoản tín dụng, thành lập hệ thống đánh giá chất lượng tín dụng toàn quốc.
Trên đây là một số phân tích về thực trạng tín dụng của các NHTM ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể vận dụng để phát triển nghiệp vụ này.
Tất nhiên sẽ có những khó khăn khách quan của hai nền kinh tế láng giềng này mà đòi hỏi sự phối hợp của các cấp, các ban ngành hữu quan, NHNN… trong việc giải quyết nhằm đưa tín dụng trở thành một nghiệp vụ sinh lời lớn cho ngân hàng, phục vụ tốt nhất nhu cầu vay vốn từ đó phát triển kinh tế đất nước.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH VIỆT – NGA.
1. Tổng quan về Ngân hàng liên doanh Việt – Nga.
1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển.
Ngày 19/11/2006, Ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB) chính thức tổ chức lễ khai trương và đi vào hoạt động. VRR ra đời là kết quả của sự hợp tác về mặt kinh tế giữa Chính phủ và Ngân hàng Trung Ương của hai nước, mở ra cơ hội hợp tác giữa hai nền kinh tế, hai hệ thống tài chính. VRB được vinh dự đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Liên Bang Nga Vladimir V.Putin đến thăm nhân ngày khai trương.
Tên đầy đủ: Ngân hàng Liên doanh Việt – Nga.
Tên giao dịch quốc tế: Vietnam – Russia Joint Venture Bank.
Tên viết tắt: VRB.
Giấy phép thành lập và hoạt động số 11/GP – NHNN do NHNN cấp ngày 30/10/2006.
Địa chỉ: 85 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam.
VRB là liên doanh giữa hai Ngân hàng hàng đầu của hai nước là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - đóng góp 51% vốn điều lệ và Ngân hàng Ngoại thương Nga (VTB) - đóng góp 49% vốn điều lệ.
Hệ thống mạng lưới: Bên cạnh Hội sở chính ở Hà Nội, VRB đã khai trương hoạt động Chi nhánh tại Vũng Tàu vào tháng 3/2007. Chi nhánh VRB tại TP. Hồ Chí Minh cũng đã đi vào hoạt động trong quý IV/2007 theo đúng kế hoạch phát triển mạng lưới VRB. Dự kiến giữa năm 2008, VRB sẽ triển khai thành lập Ngân hàng con tại Matxcova, Liên Bang Nga. Kế hoạch của VRB là thiết lập một mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch cả nội địa và quốc tế, trong nước tại các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, thương mại ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Hải Phòng và ở nước ngoài tại Nga, Ucraina, Ba Lan… cũng như một số công ty trực thuộc như công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính…
1.2. Mục tiêu hoạt động.
Là ngân hàng hàng đầu trong việc tài trợ cho hoạt động trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai nước Việt – Nga; là cầu nối thông thương, hỗ trợ xúc tiến thương mại và đầu tư giữa hai nước.
Là công cụ để hoàn thành nhiệm vụ chính trị hai Nhà Nước giao phó.
Là NHTM kinh doanh đa năng theo mô hình ngân hàng hiện đại với nguyên tắc phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả và hội nhập. Chỉ số an toàn vốn tối thiểu đạt 8%, đáp ứng đầy đủ các chỉ số an toàn trong hoạt động ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Thu thập về hoạt động dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ tư vấn) và đầu tư tài chính chiếm không thấp hơn 40% thu nhập.
1.3. Đặc thù của VRB:
a. Ưu thế:
có được sự ủng hộ của Chính phủ và NHTW 2 nước.
VRB có được sự hỗ trợ to lớn của 2 ngân hàng hàng đầu của 2 nước trên các lĩnh vực:
BIDV
VTB
- Nền khách hàng:
Hỗ trợ VRB tiếp cận khách hàng có nhu cầu xúc tiến thương mại, đầu tư sang Nga và thị trường Đông Âu.
- Mạng lưới chi nhánh, hệ thống thanh toán:
88 chi nhánh cấp 1, 5 công ty trực thuộc, 4 công ty liên doanh, hơn 1000 ngân hàng đại lý tại các châu lục.
- Khả năng quản trị điều hành, công nghệ, nguồn nhân lực có trình độ.
- Nền khách hàng:
Hỗ trợ VRB tiếp cận khách hàng có nhu cầu xúc tiến thương mại, đầu tư sang Việt Nam.
- Mạng lưới chi nhánh, hệ thống thanh toán:
54 chi nhánh cấp 1, 5 văn phòng đại diện tại nước ngoài và nhiều công ty con, ngân hàng đại lý tại Châu Á, Châu Âu.
- Khả năng quản trị điều hành, công nghệ và nguồn nhân lực có trình độ
Vị thế VRB:
+ Thông quan VRB, Chính phủ 2 nước có thể tập trung nguồn vốn ưu đãi, cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân 2 nước.
+ VRB là cầu nối trong việc trực tiếp tiếp thị, thu xếp đồng tài trợ cho các dự án đầu tư và nhu cầu trao đổi thương mại của 2 nước.
+ VRB là cầu nối trong hoạt động thanh toán, chuyển tiền kiều hối thông qua hệ thống 2 ngân hàng mẹ.
+ VRB là cầu nối tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, khơi thông nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp.
Đội ngũ cán bộ của VRB:
+ Am hiểu cả hai thị trường Việt Nam và Nga.
+ Trẻ, năng động và chuyên nghiệp, sẵn sàng hỗ trợ tích cực khách hàng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng.
b. Giải quyết các vấn đề tồn tại trong quan hệ thương mại - đầu tư giữa 2 nước:
Khác phục đáng kể tình trạng thiếu thông tin về thị trường, doanh nghiệp 2 nước. Tăng cường mức độ tín nhiệm, hiểu biết của đối tác 2 bên cả về phía ngân hàng và doanh nghiệp.
Tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách đầu tư, đặc biệt là tài trợ tín dụng ra ngoài lãnh thổ,
Xoá bỏ sự khác biệt về chuẩn mực, chính sách trong hoạt động tài chính, tiền tệ của mỗi nước và mỗi ngân hàng.
=> Trên cơ sở đó, đề xuất cơ chế để thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư giữa 2 nước.
c. Đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng:
Dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn, sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng.
Thủ tục nhanh gọn, thuận tiện do tận dụng cơ chế phối hợp của 3 ngân hàng
Giao dịch an toàn, chi phí hợp lý.
1.4. Các sản phẩm:
- Hoạt động tín dụng.
- Thanh toán quốc tế.
- Huy động vốn.
- Sản phẩm, dịch vụ khác:
+ Thẻ
+ Dịch vụ tư vấn, hỗ trợ thông tin xúc tiến thương mại và đầu tư.
+Dich vụ ủy thác đầu tư…
Tín dụng
* Sản phẩm
-Tín dụng doanh nghiệp:
+ Tài trợ Xuất nhập khẩu,dự án đầu tư.
+ Tái cơ cấu tài chính.
+ Cho vau bổ sung vốn lưu đông,cho vay khác.
Tín dụng cá nhân.
* Cơ chế phối hợp và phương thức cấp tín dụng :
Cơ chế phối hợp:
Đối với doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu hàng hóa đầu tư sang Nga :
BIDV
(2)
(3)
Doanh nghiệp
(1)
VRB
(3’) (3)
Đối tác
(2) (3)
VTB
(1) Doanh nghiệp đề xuất nhu cầu vay vốn để tài trợ xuất nhập khẩu hoặc đầu tư với VRB
(2) VTB phối hợp:
+ Chia sẻ thông tin về thị trường Nga; thẩm định dự án tại Nga, năng lực hoạt đông của đối tác tại Nga
+ Chia sẻ, hỗ trợ bảo đảm tín dụng bằng : Mở L/C, bảo lãnh thanh toán … cho đối tác tại Nga
BIDV phối hợp :
+ Thẩm định, chia sẻ thông tin khách hàng, thực hiện đồng tài trợ.
(3’) VRB giải ngân đến đối tác thông qua :
(3) - BIDV và hệ thông ngân hàng đại lý của BIDV tại Nga.
(3) – Mạng lưới và hệ thống của VTB.
- Đối với doanh nghiệp Nga, công đồng doanh nghiệp Việt, người Việt có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa, đầu tư vào Việt Nam:
BIDV
(2)
(3)
Doanh nghiệp
(1)
VTB
(3’) (3)
Đối tác
(2) (3)
VRB
Doanh nghiệp đề xuất nhu cầu vay vốn tài trợ xuất nhập khẩu, đầu tư sang Việt Nam với VTB.
BIDV, VRB hỗ trợ:
Chia sẻ thông tin về thị trường, khách hàng phối hợp thẩm định về đối tác và dự án đầu tư tại Việt Nam
Hỗ trợ và bảo đảm tín dụng cho đối tác tại Việt Nam bằng: mở L/C, bảo lãnh thanh toán…
(3’) VTB cho vay dựa trên cơ sở nắm bắt rõ thông tin về đối tác, thị trường Việt Nam và có những biện pháp hỗ trợ, bảo đảm từ BIDV và VRB.
(3)Vốn vay được đưa đến đối tác thông qua mạng lưới, hệ thống thanh toán tại BIDV và VRB
Phương thức cấp tín dụng.
- Cấp tín dụng trực tiếp.
- Đồng tài trợ.
- Hợp đồng khung cơ chế cấp tín dụng, hạn mức tín dụng cho khách hàng.
* Tiện ích:
- Chi phí vốn vay hợp lý do:
+Nắm bắt và đánh giá đúng năng lực khách hàng, đôI tác khách hàng và thị trường.
+ Thủ tục nhanh gọn, thuận tiện do tận dụng được cơ chế phối hợp trong thẩm định, xét duyệt.
+ Tận dụng mức chênh lệch lãi suất thấp.
Thanh toán quốc tế:
*Sản phẩm:
- Tài trợ xuất nhập khẩu
+Tư vấn, phát hành thư tín dụng.
+Xác nhận thư tín dụng.
+Chiết khấu bộ chứng từ.
+Nhờ thu.
-Bảo lãnh:
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
+ Bảo lãnh thanh toán.
+ Bảo lãnh dự thầu.
+ Bảo lãnh vay vốn.
-Chuyển tiền:
+ Chuyển tiền đi.
+ Chuyển tiền đến.
- Kiều hối:
+ Qua mạng lưới, hệ thống thanh toán của 3 ngân hàng.
+ Qua Western Union.
* Cơ chế phối hợp:
- Phối hợp về thông tin:
+ VRB sẽ phối hợp với BIDV và VTB để tìm hiểu và tiếp nhận sự chia sẻ thông tin về các ngân hàng đại lý và khách hàng, phục vụ cho các giao dịch tai Việt Nam và Nga.
-Phối hợp về khách hàng:
+ VRB tiếp cận các khách hàng tại Việt Nam có nhu cầu thanh toán với Nga và các nước Đông Âu thông qua sự hỗ trợ của BIDV.
+ VRB sẽ là ngân hàng đại lý chính của VTB trong hoạt động thanh toán giữa các khách hàng của VTB trên thế giới với các đối tác tại Việt Nam.
- Phối hợp về mạng lưới Ngân hàng đại lý:
+ VRB sử dụng các ngân hàng đại lý của BIDV để thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế.
+ VRB sẽ được BIDV và VTB cho phép sự dụng hạn mức của 2 ngân hàng tại mạng lưới ngân hàng đại lý để xác nhận L/C, bảo lãnh, chiết khấu.
-BIDV cam kết cung cấp các dịch vụ thanh toán:
+ Dich vụ thanh toán nội địa:
Thông qua mạng lưới online > 200 điểm giao dịch của BIDV ở Việt Nam .
Quan hệ trực tiếp tài khoản giữa BIDV và VRB.
Thanh toán giữa hệ thống BIDV – VRB tức thì, nhanh chóng và thuận tiện.
Hệ thống tài khoản VRB sẽ được kết nối với hệ thống tài khoản của BIDV.
+ Các dịch vụ thanh toán quốc tế.
* Các tiện ích:
- Thủ tục, thời gian nhanh chóng, thuận tiện, tức thì do tân dụng được mạng lưới, hệ thống thanh toán tập trung của 3 ngân hàng.
-Tiết kiệm chi phí do có các quan hệ trực tiếp VRB – BIDV và VRB – VTB ( tài khoản Nostro )
- Khách hàng chuyển kiều hối không cần tài khoản tại Ngân hàng, có thể nhận tiền tại bất kỳ điểm giao dịch của VTB, BIDV và VRB.
c. Sản phẩm dịc vụ khác:
* Sản phẩm
- Thẻ: Thẻ nội địa, thẻ quốc tế ( đại lý thẻ Visa )
- Séc.
- Dich vụ tư vấn, dịch vụ ủy thác đầu tư.
- Hombanking, Internetbanking, phonebanking.
- Các sản phẩm phi tín dụng khác ( bancassurance, cho thuê két sắt,…)
* Tiện ích:
- Khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ thẻ cùng một lúc tại hệ thống của 3 ngân hàng VRB, BIDV, VTB ( tại Việt Nam và Nga) thông qua hệ thống thẻ quốc té và mạng lưới, hệ thống thanh toán của 3 ngân hàng.
- Chi phí hợp lý thủ tục đơn giản thuận tiện.
1.5.Cam kết của VRB hướng tới khách hàng:
- Đem lại sự tiện lợi để khách hàng tiếp cận với nguồn vốn, sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng: + Thủ tục nhanh gọn, thuận tiện;
+Giao dịch an toàn, chi phí hợp lý
-Luôn hướng tới mục tiêu gia tăng giá trị, thành công của khách hàng.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh và thực trạng hoạt động tín dụng ở Ngân hàng liên doanh Việt-Nga.
Trước những diễn biến bất lợi của nền kinh tế trong nước và thế giới, sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của VRB. Mặc dù vậy VRB vẫn đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng, đảm bảo sự ổn định và an toàn hệ thống. Năm 2008, VRB đã đạt được một số kết quả khả quan, cụ thể như sau:
Bảng 1: Một số chỉ tiêu hoạt động tại VRB (đơn vị: ngàn USD)
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
TH so với KH năm 2008
% tăng trưởng so với năm 2007
KH năm 2008
TH 31/12/2008
Tổng tài sản
217,478
350,000
362,702
104%
68%
HĐV từ các TCTD, TCTC
89,865
79,980
175,237
219%
95%
HĐV từ dân cư & TCKT
93,153
186,620
118,418
63%
27%
Dư nợ tín dụng
38,771
150,000
150,737
100%
289%
Trích dự phòng rủi ro
229
800
738
92.25%
222%
Lợi nhuận sau thuế
927
1,600
2,912
182%
214%
(Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008 của VRB)
Tính đến hết ngày 31/12/2008, các chỉ tiêu cơ bản trong hoạt động kinh doanh của VRB như sau:
Tổng tài sản của VRB: đạt gần 363 triệu USD hoàn thành đạt 104% kế hoạch năm 2008, tăng trưởng 68% so với thời điểm 31/12/2007.
Vốn điều lệ: 62,5 triệu USD hoàn thành 100% kế hoạch năm 2008, tăng 108% so với thời điểm 31/12/2007
Huy động vốn: tiền gửi, tiền vay các TCTD đạt 175 triệu USD hoàn thành 219% kế hoạch năm 2008, tăng 95% so với 31/12/2007. Tiền gửi dân cư và tổ chức kinh tế đạt 118,5 triệu USD hoàn thành 63% kế hoạch năm 2008, tăng trưởng 27% so với 31/12/2007.
Dư nợ tín dụng: đạt 150,7 triệu USD, hoàn thành 100% kế hoạch năm 2008, tăng trưởng 289% so với năm 2007.
Lợi nhuận sau thuế: 2,9 triệu USD đạt 182% kế hoạch năm 2008.
Lợi nhuận sau thuế bình quân/người : 18.000 USD
2.1. Tình hình huy động vốn.
Xuất phát từ nguyên tắc của ngân hàng là “ đi vay để cho vay” nên Ban giám đốc Ngân hàng luôn coi trọng hoạt động huy động vốn dưới mọi hình thức nhằm đảm bảo nguồn vốn tăng liên tục và ổn định, đáp ứng vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bằng việc không ngừng mở rộng mạng lới giao dịch qua các quĩ tiết kiệm, thực hiện qui trình giao dịch tiết kiệm trên máy tính đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nên thời gian qua hoạt động huy động vốn của Ngân hàng đã đạt được những thành công nhất định.
Bảng 2: Hoạt động huy động vốn
(Đơn vị: Ngàn USD)
Thời điểm
Chỉ tiêu
Năm 2007
Thực hiện 31/12/2008
Tỷ trọng
Theo đối tượng
184,000
293,655
100%
-Huy động vốn của TCTD
175,237
59.67%
-Huy động vốn từ TCKT&Dân cư trong đó:
90.000
118,418
40.33%
+Huy động vốn từ TCKT
85,844
80,926
68.34%
+Huy động vốn từ dân cư
7,310
37,492
31.66%
Tiền gửi theo kỳ hạn
184,000
293,655
100%
-TG Không kỳ hạn
12,375
12,439
4.24%
-TG có kỳ hạn
171,625
281,216
95.76%
Tiền gửi theo loại tiền
184,000
293,655
100%
-TG VND
147,312
128,732
43.84%
-TG Ngoại tệ
37,000
164,923
56.16%
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009)
Đến hết ngày 31/12/2008, tổng nguồn vốn huy động đạt 293,6 triệu USD, tương đương gần 5000 tỷ đồng. Trong đó
-Về cơ cấu nguồn: Nguồn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư đạt 118,3 triệu USD, tăng 27% so với đầu năm,chiếm 40.33%, nguồn vốn huy động từ TCTD chiếm 59.67%. Tiền gửi không kỳ hạn chiếm 4.24%, tiền gửi có kỳ hạn chiếm 95.76%. Tiền gửi VND chiếm 43.84%, tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm 56.16%.
Nguồn vốn ngày một ổn định vững chắc: Cơ cấu nguồn vốn huy động từ TCKT chiếm 69%, tuy nhiên nguồn vốn huy động từ Dân cư có sự tăng trưởng mạnh mẽ (398%), dù trong bối cảnh cạnh tranh về lãi suất gay gắt do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt.
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn
STT
Chỉ tiêu
Đến 31/12/2007
Đến 31/12/2008
1
Tỷ trọng nguồn vốn dân cư/ Tổng nguồn vốn huy động
7.85%
30.79%
2
Tỷ trọng nguồn VND/ Tổng nguồn vốn huy động
64.92%
80.2%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2008 VRB)
-Cơ cấu tỷ trọng các loại vốn huy động được cải thiện hợp lý: Tỷ trọng huy động vốn dân cư/ Tổng HĐV là 30.79%, cải thiện rất tích cực so với năm 2007 (7.85%), là nguồn vốn cơ bản mà VRB cần duy trì.
-Tỷ trọng huy động vốn VND/ Tổng nguồn vốn khoảng 80.2%, có sự chuyển biến rõ rệt so với cơ cấu VND/USD trong năm 2007(64%), giúp cho VRB có khả năng luân chuyển linh hoạt loại tiền tệ để đề phòng rủi ro về tỷ giá và lãi suất.
-Về hoạt động liên ngân hàng: Doanh số nhận gửi và gửi trên thị trường liên ngân hàng khá hơn đã đem lại nguồn thu đáng kể cho VRB, tuy nhiên lại chưa đem lại mức lợi nhuận mong muốn do ảnh hưởng từ những biến động bất thường của thị trường liên ngân hàng. Trong quí II và III /2008 có khi lãi suất trên thị trường II lên đến 30%/năm. Tuy nhiên, để bù đắp nguồn VND thiếu hụt cho nhu cầu tín dụng, VRB đã cố gắng cân đối đáp ứng nhu cầu nguồn VND cho toàn hệ thống, đảm bào chênh lệch lãi suất đầu vào- đầu ra ở mức tối thiểu 1.5% đến 2%.
-Linh hoạt sử dụng các nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (SWAP), chủ động điều chỉnh trạng thái ngoại tệ trong bối cảnh VND khan hiếm với lãi suất cao, tận dụng tối đa lợi thế về nguồn USD dồi dào, nhằm tận dụng chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền, thu lợi nhuận và đảm bảo cân đối nguồn vốn cho VRB.
-Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: thực hiện kinh doanh chủ yếu trên cơ sở nguồn vốn mua của các TCKT, mặc dù hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn hạn chế, số lượng khách hàng thực hiện giao dịch chửa nhiều, hoạt động tự doanh chưa sôi động nhưng đã mang lại kết quả tốt, góp phần hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của VRB năm 2008.
Có thể thấy vốn huy động là một điểm mạnh của Ngân hàng. Mặc dù mới được thành lập và đối mặt với nhiều tổ chức tín dụng cạnh ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2129.doc