Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường với sự điều tiết quản lý của nhà nước. Để quá những mong muốn chúng ta trình này đem lại những mong muốn chúng ta đặt ra đòi hỏi phải có những chiến lược và chính sách đúng đắn, đi đôi với việc thực hiện tốt nó trong từng thời kỳ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển. Vốn là nguồn lực đầu tiên và cơ bản cho sự phát triển và hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đa
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng quy mô & nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung, dài tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đô Lương - Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chuyển qua giai đoạn mới đưa đất nước phát triển với nhịp độ cao hơn để khắc phục tình trạng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. Vì lẽ đó để tránh khỏi tình trạng lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam không chỉ cần một lượng vốn lớn mà còn cần được đầu tư sử dụng vốn một cáchđúng đắn, có hiệu quả.
Phương châm chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước đối với công tác tín dụng của các ngân hàng thương mại phải là mở rộng cho vay tất cả các thành phần kinh tế, đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn chính đáng, phục vụ đường lối phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý của Nhà nước. Tăng cường cho vay trung dài hạn và xây dựng cơ bản góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi xuống mức độ hợp lý.
NHNN & PTNT Đô Lương – Nghệ An trải qua 15 năm xây dựng và đổi mới đã đóng góp hết sức tích cực vào nỗ lực của toàn ngành ngân hàng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy nhiên cho đến nay hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHNN & PTNT Đô Lương – Nghệ An vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại đòi hỏi có sự nghiên cứu giải quyết. Việc tìm ra các biện pháp để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn là hết sức quan trọng giúp ngân hàng phát triển bền vững đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trong tương lai, đóng góp vào công cuộc xây dựng kinh tế đất nước.
Từ việc nhận thức tầm quan trọng của tín dụng trung dài hạn đối với NHNN & PTNN Đô Lương – Nghệ An, hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và cũng đối với nền kinh tế nói riêng, qua thời gian thực tập, nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài tại NHNN & PTNT Đô Lương – Nghệ An” để làm đề tài cho mình.
Kết cấu bài viết được trình bày như sau:
Chương 1: Lý luận chung về tín dụng trung dài hạn.
Chương 2: Thực trạng công tác tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thân huyện Đô Lương tinhr Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHNN & PTNT Đô Lương – Nghệ An .
Với bài viết này, em rất mong đây sẽ là một ý kiến nhỏ bé góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác cho vay trung dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An .
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Trần Thị Lộc, các cô, chú trong phòng kinh doanh cùng toàn thể Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An trong quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
chương 1: Lý luận chung về tín dụng trung dài hạn.
1.1. Tín dụng – các loại hình tín dụng.
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản.
Tín dụng đã xuất hiện trong thời kỳ phong kiến, tự cấp tự túc. Khi đó, trong nền kinh tế đã có sự phân chia của cải. Phần lớn tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít địa chủ. Nông dân chiếm đại đa số nhưng không có tư liệu sản xuất họ phải làm thuê mà vẫn không đủ ăn. Để duy trì cuộc sống, họ phải đi vay. Giai cấp thống trị nắm trong tay tư liệu sản xuất đã thực hiện quá trình sản xuất và phát triển theo hướng có lợi cho họ, đó là nông dân vay nặng lãi. Lãi suất cho vay lên tới 200 – 300% năm và lãi suất này đã chiếm toàn bộ phần thặng dư. Tín dụng ra đời thời kỳ này lãi suất cao do sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Nhà nước chưa có sự điều tiết đối với quan hệ tín dụng nên người cho vay tự ấn định mức lãi suất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển nhiều loại hình sở hữu, có sự phân công lao động, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Người thiếu vốn cần vay để giải quyết nhu cầu, người thừa vốn lại muốn cho vay để tăng thêm lợi nhuận. Đây chính là tiền đề tạo ra quan hệ tín dụng.
Vậy tín dụng là gì?
Có quan niệm cho rằng “tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận”.
Tuy nhiên, sự phát triển và biến đổi là hết sức đa dạng và phonh phú. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, có rất nhiều cách thức loại hình của nghiệp vụ tín dụng. Việc đưa ra một khái niệm như thế sẽ là gò bó và không linh hoạt. Vì vậy khái niệm tín dụng chỉ nên đưa ra một cách đơn giản như sau:
“Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau một cách tạm thời dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và sự tin tưởng”.
Từ khái niệm trên. ta có thể hiểu tín dụng theo một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn của nhau giữa các chủ thể kinh tế. Vốn ở đây được hiểu theo nghĩa rộng trong đó bao hàm cả tiền và tài sản. Các chủ thể có thể là hai hoặc nhiều bên cùng tham gia vào hoạt động tín dụng - điều này giải thích khái niệm đồng tài trợ.
Thứ hai, vốn này chỉ được sử dụng một cách tạm thời nghĩa là có thời hạn. Thời hạn ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên và khi hết thời hạn này vốn phải được hoàn trả chủ sở hữu hoặc người cho vay.
Thứ ba, quan hệ tín dụng phải được dựa trên sự tin tưởng. Trên cơ sở có sự tin tưởng mà một bên sẽ đồng ý cho bên kia sử dụng vốn của mình trong một thời gian thoả thuận. Trường hợp cho vay không cần bảo đảm chính là đã được dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Nếu như bên cho vay không tin tưởng bên đi vay thì họ sẽ yêu cầu đảm bảo bằng tài sản có giá trị tương đương - đây là trường hợp cầm cố thế chấp bảo lãnh.
Trong quan hệ tín dụng có nhiều loại hình, chủ thể tham gia như: Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng và với mỗi loại chủ thể có thể phát sinh nhiều loại quan hệ tín dụng khác nhau như tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, tín dụng hợp tác xã, tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê bao.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một bên là Ngân hàng và một bên là phần còn lại của nền kinh tế – gồm tất cả các tổ chức kinh tế xã hội, Nhà nước, cá nhân dân cư.
Các tổ chức Ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách: Ngân hàng đóng vai trò là người đi vay khi nó nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng khác; ngân hàng đóng vai trò là người cho vay khi nó ứng vốn ra nền kinh tế.
Về tính chất phức tạp của hoạt động cho vay nên khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến cho vay mà ít khi đề cập đến mặt thứ hai đó là đi vay. trong khuôn khổ của chuyên đề, sinh viên thực hiện chỉ đề cập đến một khía cạnh trong tín dụng cho vay là cho vay trung dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là khoản cho vay có thời hạn phát sinh khi người vay có nhu cầu sử dụng vốn trong một thời gian dài. Tín dụng trung – dài hạn nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm máy mọc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doang nghiệp. Đôi khi nó cũng được sử dụng như một bộ phận của vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trên cơ sở khái niệm tín dụng trên đây, vậy thì một khoản như thế nào được coi là có hay không đạt được chất lượng tín dụng?.
Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vố cho vay của Ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ... để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hàon trả ngân hàng gốc và lãi trang trải chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn T-H-T’ như trên, ngân hàng sẽ thu hồi vốn gốc và có lãi còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể Ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vùa tạo ra được hiệu quả xã hội.
Trên cơ sở đó, khi cho vay, ngân hàng phải tính toán cân nhắc để vừa đảm bảo không vi phạm luật vừa giải quyết được đầu ra. Để thực hiện được điều này các Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Đây chính là các cơ sở chủ yếu cho việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Như vậy chất lượng được hình thành và đảm bảo từ hai phía: Ngân hàng và khách hàng.
Và như thế, hoạt động tín dụng sẽ mang lại hiệu quả khi mà nó càng ngày càng thực hiện được nhiều món vay có chất lượng cao, góp phần tích cực cho sự phát triển không chỉ riêng cho bản thân ngân hàng mà là cả sự phát triển của nênf kinh tế xã hội. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày càng cao thể hiện mức độ đóng góp của hoạt động ngân hàng đối với xã hội ngày càng lớn. Điều đó cũng có nghĩa hoạt động tín dụng hiệu quả khi nó đạt được sự tăng trưởng quy mô và nằm trong tầm quản lý của Ngân hàng để giữ ổn định chất lượng tín dụng. Trong cơ chế thị trường hiệu quả hoạt động tín dụng là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng mà trước hết là các tổ chức tín dụng là nơi trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
1.1.2. Các loại hình tín dụng.
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên, căn cứ vào một số các tiêu thức mà người ta có thể phân loại các loại hình như sau:
1.1.2.1. Phân loại theo mụch đích:
- Cho vay bất động sản là cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay nông nghiệp là cho vay để trang trải các kinh phí sản xuất như bón phân, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, lao động...
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vận dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải các khoản chi phí thông thường của đơi sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
1.1.2.2. Phân loại theo thời hạn.
Theo cách này tín dụng cho vay phân làm ba loại:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay trung hạn thường là cố định. Trước đây theo thời hạn của ngân hàng nhà nước thì thời hạn cho vay trung hạn là 1-3 năm. Tuy nhiên cho đến nay, để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay của các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại đã đưa thời hạn cuối cùng của vay trung hạn lên 5 năm giải quyết được hai vấn đề. Thứ nhất là đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp bởi lẽ đối với một số tài sản nhất định thời hạn sử dụng của chúng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Thứ hai là tránh tình trạng tiền cho vay của ngân hàng bị chuyển vào nợ quá hạn chỉ vì thể chế và quy định gây ra, trong khi doanh nghiệp vẫn làm ăn có lãi và có đầt đủ khả năng trả nợ. Còn đối với các nước trên thế giới, loại cho vay này có thời hạn lên tới 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất... Trong nông nghiệp, cho vay trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...
- Cho vay dài hạn là loại cho vay mà thời hạn của nó là dài hơn đối với cho vay trung hạn. Loại tín dụng này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn xây dựng xí nghiệp nhà máy mới, các dự án đầu tư phát triển như cơ sở hạ tầng.
1.1.2.3. Phân loại theo căn cứ đảm bảo.
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối với khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, thì khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường hợp nguươì vay vốn không có khả năng trả nợ.
1.1.2.4. Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay:
Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo hai cách. Cách thứ nhất là trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản tiền vay sẽ được trả làm nhiều lần theo nhiều kỳ nợ.
1.1.2.5. Phân loại theo hình thức giá tự có.
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản – loại này được áp dụng phổ biến dưới hình thức tài trờ thuê mua.
1.1.3. Các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là một loại trong số các loại hình tín dụng và nó được phân biệt với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thời hạn cho vay:
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng ngắn hạn là thời hạn cho vay. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận vay theo hai loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng như không quá 12 tháng.
- Cho vay dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn của ngân hàng cho vay. Trong đó:
* Thời hạn cho vay trung hạn là trên 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ theo quy định của từng ngân hàng.
* Thời hạn cho vay dài hạn là trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
Đối tượng cho vay:
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo, khôi phục, thay thế, đổi mới kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, đối tượng cho vay trung dài hạn là các công trình, hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng mua sắm, sửa chữa tài sản cố định,... của các đơn vị kinh tế, cơ bản luận chứng kinh tế kỹ thuật tốt, xác thực và bản tổng dự toán đã phê duyệt. Như vậy ngân hàng cho vay nhằm trang trải các chi phí về máy mọc thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế phát minh, chi phí nhân công, giá thuê, chuyển nhượng đất đai, giá trị các hợp đồng thuê, mua tài sản cố định trong khuôn khổ pháp luật, chi phí mua bảo hiểm tài sản cố định thuộc dự án đầu tư và các chi phí liên quan khác.
Nguyên tắc và điều kiện cho vay vốn.
Khách hàng muốn vay vốn ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc tín dụng cơ bản sau:
- Sử dụng vốn vay mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi vay trung dài hạn người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. các dự án, chương trình này phải thể hiện một cách đầy đủ, rõ ràng việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Để đảm bảo cho dự án được thực hiện cần có sự thông qua cho phép của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với các phương án cải tiến kỹ thuật, công nghệ , mở rộng sản xuất cần có sự kết hợp, thoả thuận chặt chẽ giữa ngân hàng và các nhà quản lý doanh nghiệp để tránh việc sử dụng vốn sai mục đích.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay dúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của chính phủ và ngân hàng nhà nước.
Trên cơ sở các nguyên tắc tín dụng cơ bản là mỗi ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc các quy định mang tính bắt buộc để có thể thực hiện vay vốn ngân hàng. Các đối tượng cho vay thường có thời hạn sử dụng lâu dài, thời hạn thu hồi vốn lâu theo mức độ hao mòn thực tế của tài sản đầu tư. Mức vốn đầu tư thường rất lớn theo giá trị của đối tượng vay vốn và như thế mức độ rủi ro sẽ cao. Theo quyết định 367/QĐNH1 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về “Ban hàng thể lệ tín dụng trung dài hạn” ngày 21/12/1997 đã quy định các điều kiện cho vay như sau:
- Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi, có vốn tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư.
- Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung và dài hnạ của ngân hàng.
- Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm tài sản hình thành bằng vốn vay tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
- Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện.
+ Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cơ quan có thẩm quyền cấp.
+ Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là nhập khẩu trực tiếp của nước ngoài thì phải có giấy phép nhập khẩu.
- Đối với các công trình dự án của các đơn vị kinh tế và đang hoạt động kinh doanh ổn định, đang có lãi thực sự, có xu hướng phát triển tốt phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Phải có vốn tối thiểu 30% tổng dự án đầu tư công trình.
Hiện nay theo quy định mới của chính phủ các đơn vị kinh tế nếu chứng minh được là mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không phải có tài sản thế chấp.
Quy trình cho vay:
Quy trình cho vay là tập hợp các thao tác, thủ tục mà cns bộ tín dụng phải làm khi thực hiện xem xét một khoản vay đối với người xin vay, quy trình tín dụng là các quy định của các cơ quan cấp trên quản lý ngân hàng ban hành, buộc ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng cho vay bao gồm các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn.
Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn.
Bước 3: Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Bước này chủ yếu gồm:
- Thẩm định tư cách pháp nhân, các giai đoạn phát triển.
- Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.
Bước 4: Thẩm định dự án đầu tư.
- Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư.
- Thẩm địng phương diện kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính.
Bước 5: Quyết định cho vay.
Bước 6: Kiểm soát vốn cho vay và thu nợ.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là mỗi quan hệ qua lại giữa ngân hàng và các chủ thể còn lại của nền kinh tế. Mối quan hệ này được đặt trong môi trường kinh tế xã hội nhất định. Vì vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và cho vay trung dài hạn nói riêng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố.
1.1.4.1. Nhân tố khách quan.
* Đạo đức người vay.
Đạo đức người vay được dánh giá trên hai khía cạnh là năng lực pháp lý và uy tín của người đó trên lĩnh vực vay nợ.
Năng lực pháp lý là những năng lực được quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay cần phải có. Một khách hàng được xem xét cho vay khi có đủ năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật.
Uy tín trên lĩnh vực vay nợ được hiểu như sự sẵn có và lòng quyết tâm trả nợ và thực hiện các điêủ khoản trong hợp đồng tín dụng. Uy tín được biểu hiện quan trọng nhất trong tín dụng là tính thật thà, liêm chính của một con người và khi thực hiện việc cho vay đối với các hãng kinh doanh hoặc cá nhân. Tuy nhiên việc đáng giá uy tín người vay chủ yếu dựa trên phán đoán trình độ và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng bởi vì đây là điều rất khó lượng hoá.
* Khả năng trả nợ của người vay.
đây là nhân tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. đối với ngân hàng điều quan trọng của việc thu hồi gốc và lãi phải từ lợi nhuận thu được từ kết quả thu được từ kết quả hoạt động kinh doanh chứ không phải là việc phát mại tài sản đảm bảo. Điều này được nhấn mạnh hơn bao giờ hết đối với các món vay trung và dài hạn, rủi ro cao hơn. Khi ngân hàng cho vay trung dài hạn, ngân hàng không chỉ là người cho vay mà còn là người bạn kề sát cánh ngay cả tình huống khó khăn nhất. Chính vì vậy khi xem xét đánh giá khách hàng, Ngân hàng phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố khả năng, năng lực của khách hàng. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào khả năng quản lý của nhà doanh nghiệp. Do vậy Ngân hàng phải tin chắc rằng doanh nghiệp được quản lý tốt trước khi chấp nhận một khoản vay. Các điều kiện kinh tế sự cạnh tranh và các yếu tố kỹ thuật có thể thay đổi sau khi thực hiện cho vay trung dài hạn dứt khoát dẫn tới những thay đỏi trong hoạt động của người vay. Việc quyết định xem xét những thay đổi đó là gì và cách nào để thực hiện chúng có hiệu quả là chức năng của người quản lý. Những nhà quản lý. Những nhà quản lý có thể thích ứng với một môi trường thay đổi, chấp nhận các tư tưởng và tiếp tục hoạt động mới. Khi đánh giá một đơn vị vay trung dài hạn các Ngân hàng nhấn mạnh nhiều đến các điều kiện trong ngành nghề sản xuất, vị thế cạnh tranh và tính ổn định của người vay. Các doanh nghiệp có nhiều thay đổi bất thường trong cho kỳ kinh doanh hoặc hoạt động khi lên xuống không phải là khách hàng có nhiều triển vọng.
Bên cạnh việc xem xét đánh giá khả năng quản lý điều hành của ban lãnh đạo, về môi trường và điều kiện kinh doanh thì việc đánh giá dự án vay vốn là hết sức quan trọng đặc biệt đối với cho vay trung dài hạn, Dự án có tính khả thi, có thể đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, sẽ là nguồn trả nợ gốc và lãi Ngân hàng hết sức dảm bảo. Để có thể xác định được điều này đòi hỏi công tác thẩm định dự án đầu tư cần phải được thực hiện một cách đầy đủ, hết sứa quan trọng và chính xác. Bởi vì điểm này sẽ góp phần quan trọng trong việc quyết định chất lượng món vay từ đó ảnh hưởng ddến chất lượng tín dụng.
Chính vì vậy các khoản cho vay kém chất lượng, các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và các tổn thất mặc dù là kết quả của nhiều nguyên nhân nhưng về cơ bản là kết quả cuả sự không sẵn lòng chi trả của người vay hay không có năng lực thực hiện lợi tức để giảm bớt dư nợ hoặc trả toàn bộ nợ theo thoả thuận.
* Tài khoản đảm bảo:
Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của Ngân hàng nhưng nó là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Để đảm bảo được thu hồi nợ, Ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng các phương pháp cho vay thích hợp. nếu khách hàng được đánh giá tốt các hợp đồng kinh doanh trong quá khứ và có triển vọng trong tương lai thì ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo. Ngược lại nếu khách hàng không đạt được các tiêu chuẩn đó thì để hạn chế rủi ro, ngân hàng buộc phải cho vay có bảo đảm.
Bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. trong kinh doanh cho vay, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với cho vay trung dài hạn để hình thành tài sản cố định. trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là khoản thu nhập cá nhân từ tiền luương, các khoản thu nhập tài chính như lãi cho vay, lãi chứng khoán và các khoản thu nhập khác.
Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay, như thấy rằng đâty không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất. tuy nhiên trên tực tế hiện nay ở Việt Nam các Ngân hàng xếp đảm bảo vào vị trí số một và thậm chí có nhiều trưoừng hợp được coi là tiêu chuẩn duy nhất. Chính tư duy này đã dẫn đến xuất hiện hàng loạt rủi ro trong cho vay của Ngân hàng. Mặc dù bảo đảm không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc nhưng không phải vì thế mà đặt thấp vị trí của nó.
trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp vì thế mọi dự toán rủi ro của Ngân hàng đều mang tính tương đối. trong môi trường kinh doanh như vậy, đảm bảo là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diến biến không thuận lợi cho môi trường kinh doanh.
Trên thực tế Ngân hàng thường cấp tín dụng không bảo đảm cho những khách hàng tốt đã được kiểm chứng qua một thời gian dài, các khách hàng còn lại cần phải có đảm bảo khi quyết định cấp tín dụng.
trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng có thể dùng tài sản cố định của công trình, dự án xin vay làm vật thế chấp. tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng đối với cho vay trung dài hạn tài sản đảm bảo càng không phải là điều kiện số một trong cho vay mà là khả năng sinh lợi của dự án.
1.1.4.2. Nhân tố chủ quan.
Các yếu tố thuộc về khả năng thực lực cửa Ngân hàng được coi là yếu tố quan trọng nhất quyết định tới sự thành công hay thất bại của Ngân hàng đó. Một Ngân hàng có sức mạnh , có thực lực riêng của mình sẽ tìm được cho mình một con đường đi đúng đắn, biện pháp thực hiện phù hợp có hiệu quả và như thế nó vấn có thể hoạt động tốt ngay cả trong điều kiện môi trường kinh tế không ổn định và lựa chọn những khách hàng làm ăn có hiệu quả.
Ta có thể đánh giá sức mạnh của một Ngân hàng qua các yếu tố sau:
Yếu tố vốn.
Một Ngân hàng cũng như một doanh nghiệp, muốn tiến hành sản xuất kinh doang phải có vốn. vốn tự có của Ngân hàng càng lớn thì Ngân hàng càng có nhiều khả năng thực hiện nhiều loại hoạt động dịch vụ,... tăng khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng khác, xác định chế tài chính khác đồng thời bảo đảm được an toàn.
Ngân hàng thương mại nằm trong hệ thống Ngân hàng, chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương và tuân thủ theo quy định của luật Ngân hàng. Một Ngân hàng chỉ được phép huy động số vốn gấp hai mươi lần số vốn tự có. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng càng lớn, khả năng được phép huy động vốn của Ngân hàng càng cao và Ngân hàng càng dễ dàng hơn trong hoạt động kinh doanh. Để có thể có nhiều vốn cho hoạt động kinh doanmh của mình, Ngân hàng cần có bộ phận huy động vốn, đặc biệt là huy động vốn trung dài hạn nếu huy động vốn trung dài hạn tốt. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc mơ rộng dư nợ tín dụng trung dài hạn nếu huy động vốn reung dài hạn chiếm phần nhỏ. Việc dùng tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn sẽ đẩy ngân hàng đến tình trạng rủi ro cao và việc làm này cũng hầu như bị luật nghiêm cấm.
Như thế, một Ngân hàng có bộ hận huy động vốn có hiệu quả, khả năng huy động vốn trung dài hạn cao sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh nói chung, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn nói riêng.
Yếu tố kỹ thuật.
yếu tố kỹ thuật được xem xét ở đây là kỹ thuật và thủ tục thẩm định đánh giá dự án đầu tư, công nghệ Ngân hàng. Đây là một yếu tố khá trọng yếu. vấn đề đặt ra ở đây là ngân hàng phải có phương pháp đánh giá thẩm định dự án đầu tư nhanh và hiệu quả, đảm bảo rằng dự án được dự án được duyệt là tốt, tạo điều kiện để không làm mất đi cơ hội kinh doanh của khách hàng.
Nếu xem xét trên khía cạnh kỹ thuật, một thực tế rõ ràng ở thời điểm này là các chi nhánh Ngân hàng ở thời điểm này là các chi nhánh Ngân hàng thương mại nươc ngoài và các ngân hàng thương mại cổ phần có ưu thế hơn hẳn Ngân hàng thương mại quốc doanh. Chính những thủ tục rườm rà phức tạp, lại không hiệu quả đã và đang làm cho chính các Ngân hàng mất dần đi khách hàng. Những khách hàng này thường là nhữn khách hàng tốt, có tiềm năng phát triển và có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn lớn. Điều này giải thích tại sao trong một số năm gần đây số lượng khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ngày càng tăng.
Yếu tố kỹ thuật của một Ngân hàng còn được xem trên khía cạnh công nghệ thiết bị hệ thống máy tính mà Ngân hàng đó đang sử dụng. Một Ngân hàng áp dụng công nghệ thiết bị hiện đại, có hệ thống máy tính nối mạng giữa các phòng ban, bộ phận trong Ngân hàng cũng như nối mạng với các trung tâm dữ kiện, Ngân hàng khác sẽ làm cho việc giao dịch giữa Ngân hàng với khách hàng, thông tin giữa các phòng ban, các Ngân hàng với nhau diễn ra nhanh hơn, chính xác và hiệu quả hơn.
Yếu tố con người:
Yếu tố con người đã đang và sẽ luôn dóng vai trò chủ chốt, quan trọng nhất trong việc đảm bảo hiệu quả tín dụng. Trong tất cả các phòng ban bộ phận, mức độ hiệu quả trong công việc phụ thuộc phần lớn vào tinh thần làm việc, mức độ hiểu biết trong lĩnh vực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các thành viên trong đó. Có thể cử trong bộ phận tín dụng, sự thiếu cẩn trọng, non kém trong nghề nghiệp hay sự sa sút trong đạo đức nghề nghiệp điều có thể gây ra những hậu quả khôn lường cho Ngân hàng. Có thể nọi sự sáng tạo trong lao động tinh thần trách nhiệm và ý thức luôn học hỏi của những nhân viên trong Ngân hàng sec đảm bảo tốt cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Sự đãi ngộ và khuyến khích trong lao động đới với nhân viên là một vấn đề cần hết sức quan tâm.
1.1.4.3. Nhân tố ngoại lai:
Những ảnh hưởng ngoại lai.
Có thể nói đối với hoạt động Ngân hàng, các yếu tố ngoại lai có những tác động rất lớn. Ngân hàng là một thực thể tham gia trong các mỗi quan hết sức phức tạp với các thực thể khác trong môi trường kinh tế. Mọi hành vi do các thực thể khác gây ra đều có những ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp, ở các cấp độ khác nhau tới Ngân hàng. Trong tập hợp các chủ thể gây ra các tác động lớn tới Ngân hàng, chúng ta có thể kể ra ở đây một số nhóm chính như sau: các cơ quan quản lý Nhà nước, các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức đánh giá Ngân hàng, các Ngân hàng thương mại trong nước và ngoài nước, các tầng lớp dân cư. Và dưới đây chúng ta sẽ xem xét những ảnh hưởng của nó tới hoạt động của Ngân hàng.
Bằng chức năng nhiệm vụ của mình là quản lý Nhà nước về kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện việc quản lý toàn nền kinh tế, trong đó có Ngân hàng, với chính sách tài chính quốc gia với những định hướng phát triển kinh tế quốc gia,... các cơ quan này có thể gây ra những ảnh hưởng tới hoạt động cũng như sự tồn tại của Ngân hàng.Có thể đơn cử việc thực hiện chính sách thắt chặt chi tiêu có thể gây ra sự sút giảm trong hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn quốc gia, nó lôi kéo việc tụt giảm số lượng các dịch vụ và quy mô hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hậu quả là việc giảm doanh số và lợi nhuận của các quốc gia. Cũng như vấn đề đảm bảo thành công chính sách tài chính quốc gia biện pháp quản lý ngoại hối hà khắc có thể được viện đến khiến đông cứng các hoạt động tài trợ nhập khẩu của Ngân hàng thương mại và nó là nguồn thu chủ yếu của nhiều Ngân hàng thương mại hiện nay. Việc thay đổi lãi suất hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các Ngân hàng theo chiều hướng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0278.doc