Tài liệu Giải pháp mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Ba Đình: ... Ebook Giải pháp mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Ba Đình
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới để đi đến một xã hội phát triển, văn minh và đoàn kết hữu nghị hơn. Mỗi quốc gia nằm trong dòng chảy đó không còn cách nào khác là phải có hướng đi riêng phù hợp với đặc thù quốc gia mình với mục đích phát triển kinh tế đạt kết quả cao mà không ảnh hưởng đến chính trị xã hội.
Việt Nam đang trong thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước. Với mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta từ kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong sự đổi mới này khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh (KTNQD) đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đưa nền kinh tế đất nước đi lên. KTNQD đã tạo ra của cải vật chất, phân phối lưu thông và dịch vụ đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước. Để KTNQD có thể phát huy được hết tiềm năng của mình nhà nước cần có những chính sách khuyến khích đầu tư phát triển hợp lý đối với khu vực kinh tế này.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã và đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Điều này đòi hỏi các thành phần kinh tế phải phát huy hết tiềm năng nội lực của mình.
Trải qua một thời gian dài, vai trò của khu vực KTNQD ngày càng được đánh giá cao thể hiện qua sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan. Tuy nhiên trong thực tế khu vực KTNQD còn gặp nhiều khó khăn cần được tháo gỡ như năng lực quản lý, trình độ công nhân viên, máy móc thiết bị lạc hậu và khó khăn nhất là vấn đề mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự bất cập trên một phần do các thành viên trong khu vực KTNQD chưa có đủ uy tín để đặt quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng và các chính sách hỗ trợ của của nhà nước còn hạn chế vì vậy tốc độ phát triển của khu vực này chưa đạt hiệu quả tối ưu.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính cần phải có những thay đổi trong hoạt động để phù hợp với tình hình. Trong thời kỳ hiện nay các Ngân hàng luôn cố gắng đa dạng hoá các hình thức cho vay, đa dạng hóa khách hàng với mục đích mở rộng cho vay nhằm kiếm lợi nhuận.. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD là một trong những mục tiêu mà các Ngân hàng đang hướng tới. Bởi vì mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD vừa là phục vụ lợi ích của doanh nghiệp đồng thời cũng là tìm kiếm lợi nhuận cho ngân hàng nó trở thành một vấn đề mà mọi ngân hàng thương mại Viêt Nam cần phải quan tâm.
Một trong những nguồn cung cấp vốn cho khu vực KTNQD là hệ thống Ngân hàng thương mại nhưng hiện nay dư nợ của khu vực này có tăng nhưng ở mức khiêm tốn mà hầu hết tập chung vào các doanh nghiệp, tổng công ty lớn là rất nhỏ, bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp vay vốn làm ăn nhưng lại không đạt hiệu quả gây mất niềm tin cho ngân hàng ảnh hưởng đến ngân hàng khi đư ra quyết định cấp tín dụng cho các doanh nghiệp.
Với tốc độ phát triển như hiện nay, nguồn vốn huy động của Ngân hàng luôn dư thừa trong khi đó các doanh nghiệp thì đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, để giải quyết mâu thuẫn này thì một mặt cần có sự quan tâm của chính phủ nhằm đưa ra những hỗ trợ phù hợp kịp thời cho các doanh nghiệp, mặt khác cần có các giải pháp từ phía các tổ chức tín dụng cụ thể là các ngân hàng thương mạị cần cung cấp nguồn vốn tín dụng đảm bảo để đáp ứng nhu cầu về vốn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong khu vực KTNQD phát triển hơn.
Sau quá trình học tập và được trang bị kiến thức về ngân hàng tại trường ĐHKTQD và qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng Công thương Ba đình’’
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với phương pháp so sánh, đánh giá thực tiễn nhằm đưa ra giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng Công thương (NHCT) Ba Đình.
Bố cục của bài gồm 3 chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Ba Đình
Chưong III: Giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Ba Đình
Chương I:
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng trung gian tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu quan trọng đối với nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân và một phần đối với nhà nước (Tỉnh, Thành phố). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến ngân hàng để nhận một lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho chính phủ là nguồn tài chính quan trọng trong để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ vì đây là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng trở thành động lực phát triển kinh tế.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong những năm gần đây thường xuyên đổi mới nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế năng động và sự điều chỉnh của pháp luật. Xét về mặt hình thức, tuy vẫn là những nghiệp vụ cơ bản như nhận tiền gửi, cho vay, chi trả hộ nhưng ngân hàng đã mở rộng cả về quy mô, do vậy các NHTM ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Điều này được minh họa thông qua các chức năng của NHTM sau đây:
1.1.2.1. Chức năng trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đó là: Cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập; do đó họ là những người cần bổ sung vốn, loại cá nhân và tổ chức thứ hai là những người thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa và do đó họ có tiền để tiết kiệm.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan trọng trong việc điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn khi họ có nhu cầu bổ sung vốn. Cụ thể, NHTM thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua các phương thức huy động vốn khác nhau với những thời hạn khác nhau nhằm tập trung một lượng vốn để đáp ứng nhu cầu của các thành phần kinh tế. Chính việc điều chuyển này mà các NHTM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Qua đó, NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ việc đi vay để cho vay, NHTM có nguồn thu chủ lực không những đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi để duy trì bộ máy hoạt động, đảm bảo cho sự phát triển không ngừng cho bản thân ngành ngân hàng.
1.1.2.2. Chức năng tạo phương tiện thanh toán.
Trong quá trình kinh doanh tiền tệ các chủ ngân hàng đã phát hành ra giấy chứng nhận tiền gửi, tín phiếu được khách hàng sử dụng để chi trả các khoản nợ. Vì vậy vàng được chuyển đổi ra tiền giấy và được các ngân hàng đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng để thay thế cho tiền vàng hoặc bạc. Sáng kiến này được xã hội chấp nhận và đây chính là phát minh có giá trị nhất trong lịch sử hoạt động tiền tệ. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức duy nhất đó là Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Trung ương. Từ dó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận.
+ Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông
+ Thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng,
+Thứ ba là tiền gửi trên các khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tiết kiệm thanh toán của khách hàng tăng lên khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán ( tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống NHTM cũng tham ra tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
1.1.2.3. Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa, dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó ngày càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý sử dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không những giữa các ngân hàng trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thành lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Do thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay, đầu tư và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ những chức năng của NHTM ta thấy chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau. Khi NHTM là trung gian tín dụng thì NHTM sẽ huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau, có thể huy động từ các tổ chức kinh tế, huy động vốn từ dân cư thông qua các hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu… Qua đó ngân hàng sẽ tập trung được một lượng vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế khác nhau và khi họ chưa có nhu cầu sử dụng hoặc chưa đến thời hạn thanh toán. Ngân hàng sẽ sử dụng chúng để cho vay đối với những người có nhu cầu vay vốn. Khi các bên có nhu cầu chi trả, thanh toán Ngân hàng sẽ đứng ra làm trung gian thanh toán. Như vậy, giữa các chức năng của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi vai trò trung gian thanh toán làm tốt, khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng và sẽ gửi tiền nhiều vào ngân hàng nhờ thanh toán hộ. Như thế vốn ngân hàng huy động được sẽ tăng lên, ngân hàng có thêm vốn để đáp ứng nhu cầu đi vay và chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng lại càng phát huy.
Với chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, hệ thống các NHTM đã tăng khối lượng tiền lên gấp bội thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản. Điều này đã làm cho các chức năng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tất cả các chức năng trên của NHTM đều đáng lưu tâm. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ khác nhau, hoàn cảnh khác nhau của nền kinh tế mà người ta chú trọng đến một chức năng cơ bản của hệ thống NHTM. Với mục tiêu ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì chức năng tạo tiền được lưu tâm hàng đầu. Với mục tiêu huy động vốn cho đầu tư phát triển thì chức năng nhận tiền gửi để cho vay của ngân hàng được chú trọng phát huy hơn cả. NHTM còn là trung gian thanh toán thỏa mãn nhu cầu thanh toán, giao dịch trong nền kinh tế hàng hóa.
1.1.3. Vai trò của NHTM.
1.1.3.1. NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại hay tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng đều cần phải có vốn, bởi vốn là giá trị của các tài sản xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Chính vì vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra của cải vật chất và những tiến bộ xã hội nên nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, dù hoạt động ở lĩnh vực nào thì vốn cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả hoạt động của nó. Trong lĩnh vực thương nghiệp vốn làm tăng khả năng dự trữ hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng góp phần thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Trong lĩnh vực tài chính, vốn giúp chính phủ cải thiện được tình hình thiếu vốn của Ngân sách vì thu nhập của Nhà nước không phải lúc nào cũng đủ để bù đắp chi phí. Bên cạnh đó, cùng với việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, vốn sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, đồng thời nó tạo ra quá trình đào thải đối với những doanh nghiệp mà nguồn vốn tích lũy thấp, sử dụng vốn kém hiệu quả, sản xuất nhỏ, lạc hậu không đủ sức cạnh tranh.
Từ những lý do trên, ta thấy vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng nguồn vốn đó lấy từ đâu? ai là người cung ứng vốn cho nền kinh tế? Thực tế ở nước ta cho thấy, do thị trường chứng khoán chưa phát triển nên NHTM đóng vai trò là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng đã tạo ra khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực. Đồng thời, khi thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tư vấn, hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp đã góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. NHTM còn đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ dự án, các chương trình xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước và hỗ trợ các chương trình dự án tạo việc làm cho người lao động, tạo điều kiện nâng cao mức sống của họ.
Nhưng không phải chỉ có những nước chưa có thị trường chứng khoán hoặc thị trường chứng khoán chưa phát triển mà ngay tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì ngân hàng vẫn là một tác nhân quan trọng trong vấn đề cung cấp vốn vì không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để tham gia thị trường chứng khoán. Hơn nữa, thị trường chứng khoán hoạt động thì NHTM vẫn có vai trò như là một chiếc cầu nối giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Ngoài ra khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán NHTM còn góp phần giám sát kỷ luật tài chính quốc gia trong quá trình triển khai các hoạt động tiền tệ – tín dụng.
1.1.3.2. NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng TW là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế – tài chính vĩ mô của Chính phủ. Chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà Ngân hàng TW thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế, thông qua sự thúc đẩy mức tăng giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Do đó sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương đối với khối lượng tiền trong lưu thông là rất cần thiết sao cho phù hợp với những diễn biến của nền kinh tế để góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định, kiềm chế được tốc độ gia tăng của lạm phát. Muốn điều tiết được khối lượng tiền tệ này, Ngân hàng Trung ương phải thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián tiệp như: lãi suất cơ bản, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, hoạt động của thị trường mở... Nhưng phần lớn các công cụ thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ của Ngân hàng TW chỉ được thực thi có hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM. Đó là việc chấp hành quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt, đến việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
NHTM chịu sự quản lý của nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng TW nên khi thực hiện các nghiệp vụ của mình NHTM đều phải tuân theo các quy chế, văn bản do Ngân hàng TW ban hành.
Từ chức năng, vai trò của NHTM ta thấy NHTM thực chất là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, là một tổ chức trung gian tài chính với chức năng nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng do phát hành với một ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận.Như vậy, ban đàu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ,với nhiều ưu thế dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến nhà nước tập trung quyền lực phát hành in tiền giấy vào một tổ chức hoặc Bộ tài chính hoặc Ngân hàng TW,từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng nhân thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại thì tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận.Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (M0), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.Ngân hàng cho vay số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên,khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ.Do đó bằng việc cho vay hay tạo tín dụng, các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán ( tham gia tạo ra M1).
Huy động ngân hàng tập chung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn dỗi trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn hiện có của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Nhận tiền gửi:
Người ta gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích: Để bảo quản, để sử dụng dịch vụ chi trả hộ và để có thu nhập... Dựa trên mục đích của người gửi tiền, tiền gửi được phân chia thành hai dạng cơ bản; Tiền gửi giao dịchvà tiền gửi phi giao dịch
+ Tiền gửi giao dịch nhằm mục đích để thanh toán, nó gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu dùng của dân cư. Tiền gửi giao dịch gồm tiền có thể phát séc, uỷ nhiệm htu, uỷ nhiệm chi….
+ Tiền gửi phi giao dịch là tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, tiết kiệm dân cư. Đây là những khoản tiền không thanh toán, tạm thời nhàn rỗi,hiệu suất sử dụng cao vì nó tương đối ổn định nhưng lãi suất cao hơn tiền gửi giao dịch .
Ngân hàng đã huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
Nguồn vay mượn ngân hàng TW hoặc các ngân hàng khác nhằm bù đắp dự trữ thiếu hụt đảm bảo thanh toán khi cần thiết,ngoài ra ngân hàng còn huy động từ các nguồn khác
- Hoạt động cho vay
Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế cho vay đối với những người bán.Sau đó là bước chuyển chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng; trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình vì họ đã cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
Tài trợ dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của các ngân hàng bao gồm các khoản cho vay có thời hạn dưới một năm.
Cho vay trung và dài hạn áp dụng cho những dự án sản xuất kinh doanh,chương trình phát triển kinh tế xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, cho vay trung và dài hạn là khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm.Xu hướng hiện nay nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng trung dài hạn ngày càng gia tăng. Vì vậy các NHTM đang cố gắng tìm mọi biện pháp nhằm mở rộng loại hình tín dụng này
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như cung ứng các dịch vụ ra thị trường thì doanh nghiệp luôn phải cần đến những nguồn vốn ổn định. Nhưng không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đảm bảo được điều đó, vì vậy thiếu vốn bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành vay vốn để kinh doanh, bên cạnh những chủ thể thiếu vốn thì trong nền kinh tế cũng có những chủ thể lại thừa vốn đang tìm kiếm cơ hội để đầu tư, lúc này có một tổ chức ra đời làm cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên cũng như cho xã hội đó chính là tổ chức ngân hàng. Thông qua hoạt động ngân hàng vốn sẽ được chuyển từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, và ngân hàng là người trả công, với vai trò là người dẫn vốn bằng phân tích chênh lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay, đây là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng, trong đó phần mang lợi nhuận cho ngân hàng chủ yếu là lợi nhuận từ việc cho vay, hay nói cách khác đó là từ hoạt động tín dụng ngân hàng mang lại. Đây được coi là nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, chỉ khi nào ngân hàng thực hiện tốt công việc này thì ngân hàng mới có thể phát triển và tồn tại được. Theo định nghĩa chung thì tín dụng là quan hệ vay mượn bao gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn với chủ thể là ngân hàng thương mại thì tín dụng chỉ mang ý nghĩa là hoạt động cho vay của NHTM.Còn theo quan điểm của Các Mác thì tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, theo quan điểm này thì tín dụng có đặc trưng cơ bản là tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin .
Theo quan điểm của nhà kinh tế học hiện đại thì tín dụng là quan hệ giữa người đi vay và người cho vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của vốn tín dụng được thể hiện dưới hình thái tiền tệ hoẵc hàng hoá. Qua đây ta thấy rằng quan hệ tín dụng chỉ dựa vào lòng tin, chỉ trên cơ sở lòng tin thì quan hệ tín dụng mới được thực hiện, và họ cũng cho rằng tín dung mang tính tạm thời, hoàn trả cả gốc và lãi.
Điều 49: “Tổ chức tín dụng đựoc cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh và các hình thức giấy tờ có giá khác theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước”
Cùng với tốc độ phát triển của thị trường với trình độ khoa học ngày càng cao đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, do vậy tín dụng ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng và nó đã khắc phục được những hạn chế của các hình thức trước đây, đáp ứng được nhu cầu phát triển của kinh tế, chính vì vậy đối với sự phát triển của mỗi quốc gia thì không thể thiếu tín dụng ngân hàng.
Cấp tín dụng có các nguyên tắc nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời: Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi
- Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận với ngân hàng
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả
1.2.2. Phân loại tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động rất phức tạp vì vậy ứng với mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có cách phân loaị khác nhau
1.2.2.1. Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân như sau
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: Từ 12 tháng đến 60 tháng
- Tín dụng dài hạn: Trên 60 tháng và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.2.2.2. Phân loại theo hình thức
Theo cách phân loại này thì tín dụng bao gồm các loại sau đây:
+ Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.Về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức hỗ trợ trái quyền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi xuất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng.
+ Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình.Mặc dù không phải xuất tiền ra,xong ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê: Là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận. Sau một thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
+ Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định
1.2.2.3. Phân loại theo rủi ro tín dụng
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng phải nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới mười thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng theo cách phân loại này bao gồm:
+ Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
+ Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng chì hoãn nộp báo cáo tài chính.
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo giá trị lớn.
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì.
1.2.2.4. Phân loại theo phương pháp cho vay
+ Tín dụng trực tiếp: Là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực tiếp trả nợ vay cho Ngân hàng.
+ Tín dụng gián tiếp: Là loại tín dụng được thực hiện thông qua người thứ ba
1.2.2.5. Phân loại theo hình thái giá trị
+ Tịn dụng bằng tiền: Là loại tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị là tiền
+ Tín dụng tài sản: Là loại tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị là tài sản
1.2.2.6. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
+ Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải trả cả gốc và lãi theo định kỳ
+ Tín dụng trả một lần: Là loại tín dụng mà trả cả gốc và lãi được thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
1.2.2.7. Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
Theo tài sản đảm bảo, tín dụng đựoc phân chia thành: tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng cầm cố tài sản, thế chấp tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của ngưòi nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thưòng xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của ngưòi vay. Các khoản cho vay theo chỉ định của Chính Phủ, không cần tài sản đảm bảo, các khoản cho vay với các đơn vị tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc các khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể giám sát việc bán hàng cũng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu của ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
1.2.2.8. Phân loại khác
+ Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp)
+ Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định )
+ Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng)
Cách phân loại này cho thấy tính chất đa dạng hoặc chuyên môn trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
1.3. Kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường
1.3.1. Kinh tế ngoài quốc doanh và xu hướng phát triển của nó trong nền kinh tế thị trường
1.3.1.1. Khái niệm kinh tế ngoài quốc doanh
Trong xu thế phát triển của thế giới ngày càng mạnh mẽ thì việc đổi mới cơ cấu kinh tế là một trong những biện pháp sử ._.dụng nhiều nhất của các quốc gia, Việt nam cũng không là ngoại lệ
Ngay từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định đường lối chính cho sự phát triển kinh tế, cụ thể là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN .
Tuỳ những quốc gia khác nhau số lượng thành phần kinh tế khác nhau nhưng tựu chung lại chúng đều thuộc một trong hai khu vực kinh tế đó là kinh tế nhà nước hay còn gọi ( kinh tế quốc doanh).Và khu vực kinh tế phi nhà nước ( khu vực kinh tế ngoài quốc doanh )
Hai khu vực kinh tế này được phân chia dựa trên hai hình thức sở hữu :
Sở hữu nhà nước và sở hữu phi nhà nước.
+ Trong sở hữu nhà nước thì sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể chiếm đa số,như vậy KTNQD là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất là chủ yếu.Không có sở hữu nhà nước hoặc nhà nước góp vốn trong thành phần kinh tế này.
KTNQD tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau,như kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể… KTNQD ở nước ta tồn tại dưới những hình thức sau
- Kinh tế hợp tác xã mà nòng cốt là các hợp tác xã: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất,kinh tế hợp tác xã được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phát triển theo nguyên tác tự nguyện và bình đẳngcùng có lợi quản lý dân chủ, các hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của các xã viên phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần. Kinh tế hợp tác cùng với kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân
- Kinh tế cá thể: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, tồn tại ở phạm vi tương đối lớn, được phát triển trong nhiều nghành nghề ở cả thành thị và nông thôn không hạn chế kinh doanh,nó có thể tồn tại độc lập, hoặc có thể tham gia vào loại hình hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh nghiệp lớn dưới nhiều hình thức.Con đường đi vào hợp tác xã của họ phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không gò ép và cùng có lợi
- Kinh tế tư bản tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn,Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi góp vốn của mình
+ Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn mức vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản cũng có một hình thức kinh tế song song cùng tồn tại, đó là hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể kinh tế trong nước cũng như với nước ngoài. Như vậy bên cạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh thì kinh tế ngoài quốc doanh đã được đảng và nhà nước công nhận và tạo điều kiện phát triển với nhiều hình thức hoạt động khác nhau.Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế việt nam
1.3.1.2. Đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh
Một trong những thành tựu hết sức quan trọng của khu vực KTNQD đó là khu vực này hoạt động hầu hết trong các lĩnh vực của kinh tế chỉ trừ một số lĩnh vực độc quyền đó là an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước
Hầu hết các chủ thể trong khu vực KTNQD tham gia vào các nghành nông lâm thuỷ sản và các ngành cung cấp dịch vụ, một số tham gia vào lĩnh vực khoa học, công nghệ giáo dục, hiện nay khu vực này tập chung nhiều vào lĩnh vực thông tin vì nó hứa hẹn sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn. Khu vực này hiện đang cung cấp 50% GDP trong các nghành nghề,và tỷ trọng này ngày càng gia tăng và có xu hường ngày càng phát triển mạnh và có hiệu quả. Trong qua trình phát triển kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điểm như sau
+ Xét theo loại hình kinh tế, KTNQD hoạt động dưói nhiều hình thức khác nhau, rất đa dạng và phong phú như kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư nhân và hình thức liên doanh liên kết.Các hình thức này vừa mang đặc điểm chung của thành phần KTNQD nhưng đồng thời nó cũng mang những đặc điểm riêng, đặc điểm này do lịch sử phát triển của từng loại hình kinh tế ở nước ta quyết định, hơn nữa với mỗi hình thức tồn tại khác nhau sẽ có những điều kiện,yêu cầu đòi hỏi khác nhau về vốn tín dụng ngân hàng.Vì thế khi xây dựng chính sách tín dụng, chính sách lãi xuất,chính sách khách hàng, ngân hàng không thể đồng nhất họ về một nhóm.Nhóm khách hàng thuộc khối KTNQD mà ngân hàng cần nắm đặc điểm riêng của từng loại khách hàng để xây dựng các chính sách cho phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngân hàng và khách hàng khi lập và duy trì mối quan hệ. “ như chính sách cho vay đối với khách hàng cá thể sẽ khác với chính sách cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, các hợp tác xã. Nếu như ngân hàng không nắm được các đặc điểm này mà đồng nhất thành phần KTNQD trong việc xây dựng chính sách tín dụng của mình thì không những việc mở rộng cho vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn mà chất lượng tín dụng cung cấp cho khách hàng cũng không được đảm bảo.
Kinh tế ngoài quốc doanh có những hạn chế về vốn và khả năng tích luỹ, do sự tồn tại của khu vực kinh tế này chỉ mới đựơc công nhận gần 20 năm và đang hoạt động trong môi trường pháp luật mới tạo dựng còn nhièu vướng mắc trong quá trình phát triển. Mặc dù trong những năm gần đây Đảng và nhà nước khuyến khích tạo điiêù kiện cho khu vực này nhưng nhìn chung tập trung vốn của khu vực này chưa cao.Nguyên nhân do nhiều yếu tố tác động.
- Thứ nhất: Là do quy mô hoạt động của các đơn vị kinh tế này còn nhỏ kỹ thuật và công nghệ sản xuất lạc hậu, hàng hoá sản xuất giá thành cao và kém tính cạnh tranh
-Thứ hai: Quy mô vốn và lao động nhỏ,cùng với khả năng quản lý, khả năng tiếp cận công nghệ còn hạn hẹp đã dẫn đến các thiết bị mà các doanh nghiệp đang dùng là thiết bị cũ đã qua sử dụng và bị hao mòn theo thời gian dân tới khả năng để sản xuất các sản phẩm với mẫu mã chất lượng là không có, chi phí sản xuất do vậy cũng rất cao. Theo số liệu điều tra của viện nghiên cứu kinh tế thì chỉ có khoảng 24% doanh nghiệp và 21%Công ty sủ dụng công nghệ tương đối hiện đại, 36,3% doanh nghiệp và 18,6% công ty sử dụng công nghệ cổ truyền 35,5 % doanh nghiệp và 61,5% công ty kết hợp cả công nghệ hiện đại và công nghệ cổ truyền.
Qua sự thống kê của viện nghiên cứu kinh tế đã cho thấy trình độ sản xuất của các doanh nghiệp là còn đang thấp, công nghệ lạc hậu làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và đã gây khó khăn cho khu vực kinh tế này trong việc mở rộng thị phần.
Chính vì vậy đổi mới công nghệ nhằm sản xuất được những hàng hoá có tính cạnh tranh cao đang là nhu cầu càn thiết của KTNQ, để đạt được yêu cầu như mong muốn, tự bản thân các doanh nghiệp phải xoay sở, phải nâng cao nguồn tài chính cho mình,có những đề án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhằm thu hút vốn đầu tư có như vậy khu vực KTNQD mới có thể cạnh tranh đứng vững trên thị trường, do vậy để khắc phục những hạn chế về vốn, công nghệ khu vực KTNQD rất cần sự hỗ trợ của các NHTM,vì vậy NHTM cần phải nắm được những khó khăn của khu vực kinh tế này để mở rộng tín dụng kịp thời. Tuy nhiên cũng thấy rằng đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng mà ngân hàng cung cấp,nếu ngân hàng cho vay mà không trọng tâm thì không những tháo gỡ được khó khăn mà còn có thể gây ra ảnh hưởng rất sấu đến khu vực kinh tế này và cả chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy, cùng với việc mở rộng tín dụng thì các ngân hàng cũng cần phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD.Bên cạnh khả năng tài chính cò hạn hẹp thì đội ngũ lao động khu vực KTNQD cũng là vấn đề cần quan tâm bởi số lượng và chât lượng lao động còn ít và kém,doanh nghiệp có lao động dưới 10 người vào khoảng 48% tổng số các doanh nghiệp, doanh nghiệp có từ 10- 50 người chiếm khoảng 37%, từ 50-200 người khoảng 9% còn lại là doanh nghiệp có số lao động 200 người trở lên. Đội ngũ lao động khu vực KTNQD nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung đều có kỹ năng và tay nghề còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong thời gian vừa qua khu vực KTNQD cũng đã đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế. Chúng ta phải thừa nhận rằng do tính đa dạng về hình thức tồn tại nên hoạt động của khu vực KTNQD tương đối rộng, nó có mặt hầu hết các lĩnh vực các nghành nghề kinh tế đặc biệt là trong nghành thương mại. Trong quá trình hoạt động cũng gặp nhiều phiền toái từ các cơ quan chức năng mặc dù đã giảm đi nhiều nhưng đối với kinh tế ngoài quốc doanh về thủ tục hành chính dường như vẫn gặp rắc rối và khó tháo gỡ.
Khu vực KTNQD tập chung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng là những thành phố trực thuộc TW khá phát triển nhưng đồng thời cũng lại có sự cạnh tranh rất khắc nghiệt giữa nhiều sản phẩm cùng chủng loại. Đặc điểm này sẽ là căn cứ để NHTM quyết định hướng mở rộng cho vay khu vực KTNQD để vừa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp vừa góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế của đất nước.
- Thứ ba: Trình độ quản lý rất thấp trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài.Có rất nhiều người đứng ra thành lập công ty cho riêng mình, tự mình điều hành và quản lý. Tuy vậy còn thực trạng là nhiều người đứng đầu các công ty,các doanh nghiệp có trình độ hiểu biết kinh tế trình độ quản lý con người còn yếu kém. Điều đó dẫn tới các doanh nghiệp khi tham gia thị trường mắc nhiều sai phạm và không phát triển hay hoạt động không có hiệu quả. Hơn nữa do việc thực hiện pháp lệnh tài chính và thống kê của nhà nước trong các DNNQD chưa nghiêm túc dẫn tới việc chứng thực năng lực kinh doanh cũng như năng lực tài chính của họ còn gặp nhiều khó khăn. Điều ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mở rộng cho vay của NHTM nếu năng lực kinh doanh kém, tài chính không rõ ràng của người vay thì với bất kỳ một quyết định cho vay nào cũng rất mạo hiểm có thể dẫn đến rủi ro và ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.Mặc trong quá trình phát triển kinh doanh của mình có nhiều hạn chế nhưng cũng phải khẳng định rằng hạn chế đó một phần cũng bắt nguồn từ mô hình kinh tế cũ ở đó thành phần KTNQD không có điều kiện để phát triển.Với chủ trương của đảng và nhà nước khu vực KTNQD ngày càng có điều kiện mở rộng và phát triển vì thế mà những hạn chế đó sẽ mất dần đi và để làm được điều đó thì khu vực kinh tế này cần sự hỗ trợ rất lớn của các NHTM
1.3.1.3. Vai trò của khu vực KTNQD
Việc thực hiện cơ chế thị trường đã làm cho nền kinh tế nước ta trở nên sôi động hơn, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, Việt nam đã trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới,là môi trường hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư.Chính vì vậy KTNQD đóng vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
Khu vực KTNQD góp phần tối đa hoá nguồn lực của đất nước,tạo việc làm thu hút lao động,giảm tỷ lệ thất nghiệp đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước,tăng thu cho ngân sách nhà nước chính nhờ đó mà hiện tại khu vực này đóng góp khoảng hơn 40% GDP của toàn bộ nền kinh tế .Trong khi đó số việc làm mới tại khu vực kinh tế nhà nươc lại tăng không đáng kể .Bên cạnh việc giải quyết việc làm cho dân cư thì khu vưc KTNQD sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong nền kinh tế bỏ sức bỏ vốn, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc phát triển kinh tế khu vực KTNQD góp phần nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong xã hội,nâng cao trình độ hiểu biết của người lao động.
Ngoài việc đóng góp trên thì việc phát triển khu vực KTNQD cũng đã hoàn thiện hơn cho bộ máy quản lý nhà nước và làm đồng bộ hơn hệ thống văn bản pháp luật. Sự phát triển của KTNQD có tác dụng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa kinh tế nhà nước với KTNQD.
Trên đây là những vai trò quan trọng mà khu vực KTNQD mang lại cho nền kinh tế cũng như cho xã hội, với sự phát triển như hiện nay thì trong tương lai không xa khu vực này sẽ mang lại nhiều kết quả tốt đẹp hơn.
1.3.1.4. Những vấn đề về vốn đối với sự phát triển khu vực KTNQD
Đây là những vấn đề nan giải của khu vực KTNQD bởi khả năng huy động vốn tự do của khu vực này còn hạn chế rất nhiều. Bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vốn là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình thành lập doanh nghiệp cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có vốn để mua máy móc trang thiết bị, thuê lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì vậy nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp phải huy động từ nguồn khác nhau. Hiện nay trên thực tế thì việc tiếp xúc với tín dụng là rát khó khăn phải cần đến tài sản đảm bảo, phải có phương án kinh doanh hợp lý mới có thể nhận được sự giúp đỡ của ngân hàng,và đây cũng là những nguyên nhân chính mà các daonh nghiệp đang phải đói phó.
1.4. Tín dụng Ngân hàng đối với KTNQD
1.4.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KTNQD
Hoạt động kinh tế luôn đòi hỏi vốn để duy trì. Trong cơ chế cạnh tranh như hiện nay khi mà các đơn vị kinh tế đang dần phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì khu vực KTNQD cũng đang nỗ lực hết mình để cung cấp ra thị trường những sản phẩm ngày càng phong phú và chất lượng hơn, chính vì thế yêu cầu về vốn của khu vực này phải nhiều hơn bởi vì vốn là điều kiện quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, do đó tín dụng ngân hàng ngày càng quan trọng hơn cần thiết hơn đặc biệt là các doanh nghiệp NQD, hoạt động cho vay của ngân hàng giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều sử dụng vốn vay để tiến hành sản xuất và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì vậy mà doanh nghiệp phải cố gắng sử dụng vốn có hiệu quả nhất để bù đắp lại phần lãi xuất mà doanh nghiệp phải trả cho ngân hàng, đồng thời đem lại thu nhập cho bản thân doanh nghiệp, nguồn vay từ ngân hàng là động lực để doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất làm ăn có hiệu quả
Mặt khác Ngân hàng cùng được coi là một doanh nghiệp, vì lợi thế là mục tiêu quan trọng mà ngân hàng rất quan tâm, việc mở rộng sản xuất kinh daonh là yêu cầu của bất kỳ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển
- Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển KTNQD.Ngày nay trong nền kinh tế thị trường bất cứ một chủ thể nào khi muốn đầu tư đều nghĩ đến mục đích sinh lời, chính vì vậy những người có vốn nhàn rỗi họ săn sàng cho vay để kiếm lời và những người thiếu vốn thì sẵn sàng vay để đầu tư mở rộng sản xuất, với tư cách là trung gian dẫn vốn ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó.
- Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTNQD
- Tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế và không đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp.
Qua đây thấy rằng tín dụng ngân hàng làm thay đổi cung cầu hàng hoá và làm thay đổi cơ cấu nghành nghề kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện trong việc tiếp cận vốn nứoc ngoài: bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp cho vay bằng tiển, bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi mua thiết bị trả chậm, tạo điều kiện kinh doanh cho các nhà kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
- Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh doanh và đầu tư có hiệu quả: Để tiếp cận tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng trước hết doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu quả .
Khi cấp tín dụng một dự án thì trước đó quá trình thẩm định khắt khe của ngân hàng thấy được tính hiệu quả khả thi của nó, chính tín dụng đã có khả năng loại trừ các dự án không khả thi, điều này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn nâng cao khả năng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh.Muốn tăng trưởng và phát triển thì việc tạo ra hình ảnh và vị thế của doanh nghiệp là không thể thiếu, vì vậy các doanh nghiệp đang có xu hướng tìm cách liên doanh liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện mình mà đặc biệt là hạn chế về vốn ngày càng được các doanh nghiệp ngày càng quan tâm hơn.
1.4.2. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với KTNQD
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ một sản phẩm nào muốn được khách hàng chấp nhận đều phải thoả mãn về chất lượng giá cả, mẫu mã và sự phục vụ, các yếu tố này có sự khăng khít với nhau. Trong đó chất lượng tín dụng là yếu tố quan trọng nhất, khi chất lượng của sản phẩm được nâ ng lên trong điều kiện hợp lý thì sẽ làm cho khách hàng hài lòng khi mỏ rộng hoạt động sản xuất của mình, đối với nhà kinh doanh Ngân hàng cũng vậy họ luôn phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, bởi vì chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng quyết định mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay.
Vậy chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng, là một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường. Qua đây ta cũng có thể hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của người vay tiền phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự phát triển của ngân hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện dưói giác độ sau đây
+ Đối với khách hàng: hoạt động tín dụng của ngân hàng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng,thủ tục đơn giản thuận tiện chính xác an toàn của sản phẩm dịch vụ,sẽ mở rộng được nhiều khách hàng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
+ Đối với NHTM; chất lượng tín dụng là sự phù hợp giữu hoạt động tín dụng và năng lực ngân hàng, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường và hiệu quả của đồng vốn bỏ ra, chất lượng tín dụng thể hiện ở việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức hợp lý và tăng nhanh lợi nhuận từ hoạt động cho vay.
+ Đối với sự phát triển kinh tế; hoạt động tín dụng có chất lượng phải đáp ứng được yêu cầu của sản phẩm và lưu thông hàng hoá góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác mọi nguồn lực kinh tế thúc đẩy quá trinh tích tụ và tập chung sản xuất.
Như vậy chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của NHTM trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
1.4.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
* Tỷ lệ nợ quá hạn: Trong quan hệ tín dụng khả năng trả nợ của người vay là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành lên chất lượng tín dụng, khi một khoản cho vay không được trả đúng hạn như cam kết mà không có lý do chính đáng thì sẽ vi phạm nguyên tắc tín dụng và bị chuyển thành nợ quá hạn. Song nếu có một NHTM có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ khó khăn trong kinh doanh vì có nguy cơ mất vốn dẫn tới khả năng mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập.
Các tỷ lệ
Nợ quá hạn / tổng dư nợ
nợ quá hạn/ tổng tài sản
Tuy nhiện hiện nay tỷ lệ nợ quá hạn /tổng dư nợ được sử dụng nhiều hơn, tỷlệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng ngày càng cao
+ Tỷ lệ thanh toán do bán tài sản của người đi vay
+ Trong quan hệ tín dụng, nguồn trả nợ cho ngân hàng được lấy từ phần thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào sau một quá trình kinh doanh cũng đạt dược kết quả như mong muốn.
Tỷ lệ thanh toán nợ do án tài sản của người đi vay = (số tiền thu nợ do KH bán tài sản / tổng doanh số thu nợ) 100%
tỷ lệ này được tính theo định kỳ
+ Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
+ Chỉ tiêu này được tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng
Vòng quay vốn TD= doanh số thu nợ /dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín dụng hệ số này mà càng cao chứng tỏ trình độ quản lý sử dụng vốn càng có hiệu quả
Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu khác, tuy nhiên trong các chỉ tiêu trên thì chỉ tính nợ quá hạn là phương pháp phổ biến nhất và đơn giản nhất
1.4.4. Sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD
Do định hướng phát triển của cac nghành kinh tế của đảng và nhà nước và qua những kết quả mà khu vực kinh tế này đã đạt được. Thị trường tín dụng khu vưc KTNQD đang tỏ ra có nhiều tiềm năng phát triển cùng với sự phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đối với khu vực KTNQD vốn vẫn đang là vấn đề bức xúc nhưng họ cũng đang dần tiếp cận nguồn vốn này và các NHTM đang cố gắng hết sức để đáp ứng tốt hơn mong muốn của khu vực này.
Như vậy việc mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực KTNQD là một vấn đề rất quan trong và càn thiết cho nền kinh tế mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng giúp KTNQD khẳng định vi trí của mình trong sự phát triển kinh tế. Khi đã đựợc đáp ứng đầy đủ về vốn KTNQD sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh vươn lên chiếm lĩnh ở nhiều nghành nghề mà kinh tế ngoài quốc doanh khó có thể làm tốt để khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế
Đối với NHTM mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD tạo điều kiện để các ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán, khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tạo điều kiện tăng vòng quay vốn tín dụng với một lượng tiền không đổi. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng đói với KTNQD sẽ đáp ứng nhu càu về vốn ngày càng tăng.
Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD giúp ngân hàng đa dạng khách hàng, là cơ hội để các ngân hàng có thể củng cố vững chắc hơn.
1.4.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng và nâng cao chất lương tín dụng của NHTM đối với KTNQD
1.4.5.1 Nhóm nhân tố khách quan
* Nhân tố xã hội
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, sự tín nhiệm là cầu nối giữa ngân hàng với khách hàng. KH càng có lòng tin thì việc tiếp cận với nguồn tín dụng của ngân hàng càng dễ dàng, và ngược lại ngân hàng càng có uy tín thì sẽ thu được nhiều KH tham gia giao dịch với NH, chính vì vậy lòng tin cũng là cơ sở để mở rộng tín dụng ngân hàng
* Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý bao gồm tín đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật ban hành, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành luật và trình độ dân trí. Luật pháp có nhệm vụ tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho các tổ chức có thể yên tâm tham gia vào nền kinh tế và cũng tạo cơ sở cho các NHTM yên tâm khi cung cấp TD cho KH.chỉ trong điều kiện các chu thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới dem lại lợi ích cho cả hai phía, và lúc này chất lượng tín dụng mới được đảm bảo và quy mô tín dụng mới được mở rộng
* Yếu tố kinh tế
Nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi đó các quá trình sản xuát kinh doanh trong nền kinh tế nói chungvà của các DN NQD nói riêng cũng sẽ gặp thuận lợi, vì thế quy mô và chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao. Ngược lại khi mà nền kinh tế không phát triển có nhiều sự biến động thì gây khó khăn cho hoạt động của các DN đặc biệt là khu vực KTNQD khu vực không có sự hỗ trợ của nhà nước lúc này các khoản tín dụng mà NH cung cấp cũng đang trong tình trạng mang nhiều rủi ro, nợ quá hạn sẽ tăng lên và quy mô về tín dụng sẽ bị giảm sút.
1.4.5.2 Nhân tố chủ quan
* Về phía khách hàng
Nếu các chủ thể kinh tế trong khu vực KTNQD làm ăn có hiệu quả y tín thì chắc chắn nhu cầu tín dụng của họ sẽ được ngân hàng đáp ứng đầy đủ, ngược lại nếu làm ăn thua lỗ không khả thi ngân hàg không thể tiếp tục cho khách hàng đó vay nữa.Chính vì vậy để nâng cao chất lượng tín dụng thì sự nỗ lực hoạt động kinh doanh có hiệu quả và uy tín của khách hàng cũng là một nhân tố rất quan trọng tác động đến quy mô và chất lượng tín dụng
* Về phía ngân hàng thương mại
Chính sách tín dụng là kim chỉ nan cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. nếu một chính sách tín dụng đứng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán những rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Thông qua đó có thể đánh giá các NHTM có được chính sách tín dụng hợp lý hay không + + + Thông tin tín dụng: để hoạt động tín dụng thực sự có chất lượng thì cần phải nắm rõ các thông tin tín dụng chính xác, kịp thời. Nếu thông tin tín dụng càng chính xác thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao, ngoài ra ngân hàng có nhiều thông tin và có thể đưa ra lời khuyên hữu ích làm cho khách hàng tin tưởng hơn nhue vậy sẽ mở rộng được quy mô tín dụng
+ Công tác tổ chức của ngân hàng: Đây là yếu tố không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay, nhưng nếu công tác tổ chức của ngân hàng không khoa học, có sự chồng chéo thì việc thực hiện các hoạt động tín dụng của phòng tín dụng sẽ hoạt động không tốt
+ Quy trình tín dụng: Bao gồm các quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định của từng khâu, sự phối hợp đúng đắn giữa các bước trong quá trình đó đảm bảo tốt sự luân chuyển đúng kế hoạch. Do đó làm hài lòng khách hàng như vậy không những nâng cao được chất lượng tín dụng mà còn mở rộng nó.
+Tình hình huy động vốn: Đặc trưng nhất của nghành ngân hàng là “Đi vay để cho vay”. Vì vậy muốn mở rộng tín dụng thì ngân hàng phải luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của khách hàng, chính vì vậy mà ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề huy động vốn trong hoạt động của mình.Châta lượng nhận sự Thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp, tin học,ngoại ngữ … Trách nhiệm với công việc, vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng.Dưói con mắt của Khách hàng, Cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng , phong cách giao tiếp của cán bộ tín dụng tạo niềm tin và sự hài lòng của khách hàng cũng là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng, nhưng trình độ nghiệp vụ là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nghiệp vụ chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay.Hơn nữa những hiểu biết mang tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiên công việc tốt hơn đặc biệt là khâu thẩm định .
Ngoài Các nhân tố trên thì trang thiết bị cũng là một trong những yếu tố gây ảnh hướng tới chất lượng cho vay, nếu trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ nhanh tróng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào việc quản lý khách hàng, ngoài ra hình thức cua rtrang thiết bị của ngân hàng có thể đánh giá vào thị giác của khách hàng, tạo tâm lý tin tưởng. Đây cụng là yếu tố để thu hút khách hàng đên với ngân hàng.
Chương II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KTNQD TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
2.1. Tổng quan về Ngân hàng Công thương Ba đình
2.1.1. Khái quát về ngân hàng Công thương Ba đình
Là thành viên của Ngân hàng Công thương Việt nam. Ngân hàng Công thương Ba đình được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1959.Ngân hàng đã có quan hệ đại lý với trên 400 ngân hàng tai hơn 40 nước và khu vực, là thành viên của hệ thống tài chính viễn thông liên ngân hàng nên Ngân hàng Công thương Ba đình có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và dịch vụ ngân hàng quốc tế một cách nhanh chóng và hiệu quả
Ngân hàng Công thương Ba đình trực thuộc Ngân hàng Hà Nội. Địa điểm đặt tại phố Đội Cấn Hà Nội,nay là 142 Phố Đội Cấn. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng là vừa xây dựng cơ sổ vật chất, vừa củng cố tổ chức. Hoạt động dưới hình thức cung ứng cấp phát theo chỉ tiêu kế hoạch được giao, số lượng lúc đó có trên 10 nguời, mục tiêu hoạt động của Ngân hàng lúc đó mang tính bao cấp, phục vụ không lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động theo mô hình quản lý một cấp, mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho tới năm 1987.
Ngày 1/7/1988 thực hiện nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ). Nghành Ngân hàng đã chuyển hoạt động từ cơ chế hành chính kế hoạch hoá sang hạch toán kinh tế kinh doanh theo hệ thống quản lý ngân hàng hai cấp ( NHNN- NHTM) lấy lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng Thương Mại Quốc doanh lần lượt ra đời. Trong hoàn cảnh chuyển đổi đó Ngân hàng Ba đình cũng được chuyển đổi thành một chi nhánh ngân hàng Thương mại quốc doanh vói tên chi nhánh Ngân hàng Công thương quận Ba đình trực thuộc Ngân hàng TW Thành phố Hà nội. Hoạt động kinh doanh mang tính kinh doanh thực sự, thông qua việc đổi mới phong cách giao tiép, phục vụ, lấy lợi nhuận làm muc tiêu kinh doanh,cùng với việc đa dạng hoá loại hình kinh doanh dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường đưa thêm các sản phẩm mới vào kinh doanh, lúc này Ngân hàng Công thương Ba đình hoạt động theo mô hình quản lý Ngân hàng Công thương ba cấp (TW- TP- Quận). Với mô hình quản lý này, trong những năm đầu thành lập tháng 7 năm 1988 đến tháng 3 năm 1993)hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba đình kém hiệu quả, không phát huy đựơc thế mạnh và ưu thế của một chi nhánh Ngân hàng thương mại trên đia bàn thủ đô, do hoạt động kinh doanh phụ thuộc hoàn toàn vào Ngân hàng thành phố Hà nội, cùng với những khó khăn thử thách của những năm đầu chuyển đổi mô hình kinh tế theo đường lối mới của đảng. Trước những khó khăn vướng mắc từ mô hình tổ chưc quản lý, cũng như từ cơ chế, bắt đàu từ 1/4/1993 Ngân hàng Công thương Việt nam thực hiện thí điểm mô hinh Ngân hàng Công thương hai cấp (cấp TW- Quận) xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng Công thương Thành phố Hà nội, cùng với sự đổi mới và tăng cường tổ chức cán bộ trẻ có năng lực thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Ba đình đã có sức bật mới, hoạt động kinh doanh theo mô hình một NHTM đa năng, có đầy đủ năng lực, uy tín để tham gia cạnh tranh một cách tích cực trên thị trường và không ngừng tự đổi mỏi, hoàn thiện mình để thích nghi với các môi trường kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường.
Kể từ khi chuyển đổi mô hình quản lý mới cho đến nay, hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba đình không ngừng phát triển theo định hướng”ổn định, an toàn hiệu quả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0331.doc