Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Citibank Việt Nam

Mục lục Danh mục bảng biểu Bảng 1 Cơ cấu thu nhập của Citigroup phân theo sản phẩm và lãnh thổ 30 Bảng 2 Kết quả kinh doanh của Citibank Việt Nam qua các năm 41 Bảng 3 Mô hình tổ chức của Citibank Việt Nam 43 Bảng 4 Dư nợ tín dụng qua các năm của Citibank Việt Nam 56 Bảng 5 Doanh thu theo sản phẩm của Citibank Việt Nam năm 2005 57 Bảng 6 Dư nợ tín dụng phân chia theo thời hạn tín dụng 59 Bảng 7 Cơ cấu tín dụng năm 2006 phân theo khách hàng 64 Bảng 8 Lãi suất cho vay danh nghĩa tại một s

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1996 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Citibank Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố NHTM ở Việt Nam 66 Lời mở đầu Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập không ngừng và đặc biệt là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trươc những cơ hội và thách thức to lớn. Như bộ trưởng Trương Đình Tuyển từng nói “ vận nước đang lên”, tất cả các chủ thể trong nền kinh tế phải nỗ lực không ngừng để khẳng định và nâng cao tính cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập với kinh tế quốc tế. Đứng trước vận hội mới của đất nước, nhu cầu về vốn để các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế đang thực sự trở nên cấp thiết. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế cần thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ điều chuyển, dẫn vốn trong nền kinh tế cần hoạt động, đảm bảo nguồn vốn được sử dụng hiệu quả thông qua công cụ tài trợ chủ yếu và hữu hiệu là tín dụng ngân hàng. Hơn nữa trong thời gian thực tập tại ngân hàng Citibank Việt Nam em nhận thấy hoạt động cấp tín dụng đối với thị trường Việt Nam còn khá hạn chế, chưa thực sự tương xứng với tầm vóc và tiềm lực cùa ngân hàng. Vì những lí do đó mà em lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam” để đi sâu nghiên cứu các thành tựu cũng như những hạn chế của hoạt động tín dụng của ngân hàng Citibank Việt Nam và nguyên nhân của những hạn chế đó, qua đó đề xuất một sô giải pháp để mở rộng hoạt động tín dụng. Ngoài phẩn mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1 Tín dụng ngân hàng – Những vấn đề cơ bản Chương 2 Thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam Chương 3 Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam Chương 1: Tín dụng ngân hàng _ những vấn đề cơ bản Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng có thể được hiểu là mối quan hệ vay mượn sử dụng vốn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và tin tưởng. Từ khái niệm này có thể thấy bốn đặc điểm cơ bản của tín dụng là: Ở đây chỉ có sự vận động của quyền sử dụng từ người này sang người kia chứ không có sự vận động của quyền sở hữu. Người đi vay sẽ được sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định sau đó phải hoàn trả lại người cho vay Việc cho vay này dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Người vay sau một khoảng thời gian nhất định sẽ hoàn trả cho người cho vay. Thông thường số tiền trả lại sẽ lớn hơn số tiền được vay ban đầu. Phần dôi ra đó chính là chi phí cho việc sử dụng vốn và được gọi là tiền lãi. Sự tin tưởng chính là cơ sở bắt nguồn cho các quan hệ tín dụng phát sinh trong nền kinh tế. Người có vốn sẽ chỉ cho vay khi và chỉ khi người đó tin rằng người vay sẽ hoàn trả cho mình. Trong một quan hệ tín dụng luôn có ít nhất hai chủ thể: người vay và người cho vay. Tín dụng ra đời từ rất sớm phát sinh từ nhu cầu cuộc sống và nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong cả quá trình tồn tại của mình, tín dụng đã chứng minh vai trò thiếu yếu quan trọng của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là: Đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, đảm bảo sự ổn định và liên tục của các quá trình sản xuất kinh doanh: Hoạt động sản xuất kinh doanh bản thân nó mang tính chu kỳ. Với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau thì chu kì của nó cũng ngắn dài khác nhau. Ở những thời điểm cao điểm của quá trình sản xuất kinh doanh thì nhu cầu vốn là rất lớn, nhưng lại có những thời điểm của quá trình đó thì nhu cầu về vốn lại rất thấp. Do đó trong tổng thể của cả một nền kinh tế sẽ luôn xảy ra tình trạng có nơi tạm thời dư thừa vốn nhưng lại có nơi thiếu vốn. Tín dụng đã tạo ra kênh lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tạm thời tới nơi thiếu vốn tạm thời, chính vì vậy đã đảm bảo cho các quá trình kinh tế diễn ra liên tục và ổn định Thúc đẩy sự mở rộng và phát triển của nền kinh tế: Ngoài tác dụng đem lại sự ổn định cho các quá trình sản xuất để duy trì sự ổn định của các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng và từ đó mang lại sự phát triển chung của cả nền kinh tế, tín dụng còn có tác dụng thúc đẩy mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, khi sản xuất kinh doanh phát đạt, nhu cầu thị trường cao, lúc này người chủ kinh doanh sẽ phải nghĩ đến mở rộng hoạt động sản xuất, khi đó cần có một khoản vốn lớn để đầu tư nhà xưởng thiết bị chẳng hạn. Lúc này tín dụng đã mang đến cho người chủ kinh doanh một nguồn vốn đủ để mở rộng sản xuất nắm bắt cơ hội kinh doanh. Nền kinh tế nhờ thế cũng sẽ phát triển mạnh mẽ hơn. Tín dụng là công cụ để tài trợ cho những ngành kém phát triển và ngành mũi nhọn: Nền kinh tế muốn phát triển nhanh thì phải có những nguồn tín dụng để hỗ trợ cho những ngành mũi nhọn, đầu tư cơ sở vật chất, đẩy nhanh tốc độ phát triển của ngành đó, từ đó kéo theo sự phát triển của những ngành phụ trợ đem lại sức bật cho nền kinh tế. Bên cạnh đó cũng có những ngành phát triển kém tỷ lệ sinh lời không cao nhưng cần duy trì để đảm bảo sự an toàn cho nền kinh tế, chẳng hạn như ngành nông nghiệp, tín dụng sẽ là công cụ hữu hiệu để giữ vững và thúc đẩy các ngành đó phát triển. Tín dụng ngân hàng ở đây có sự khác biệt so với khái niệm tín dụng nêu ở trên, cụ thể hóa sự tham gia của ngân hàng vào quan hệ tín dụng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa một bên là ngân hàng với vai trò là người cho vay và một bên là các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế. Chủ thể khác có thể là các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính khác trong đó có thể là một ngân hàng khác, các tổ chức, hiệp hội, Nhà nước… Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng thì: “ Hoạt động tín dụng là việc các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh và các nghiệp vụ khác”. Có thể khái quát mô hình tín dụng ngân hàng như sau Cho vay Ngân hàng (người cho vay) Người vay Thanh toán gốc + lãi Ngân hàng với chức năng là trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên chủ thể cho vay chủ yếu là tiền vốn, nhưng bên cạnh đó để đáp ứng yêu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng đối tượng cho vay của ngân hàng cũng có thể là tài sản như trong nghiệp vụ cho thuê tài chính. Tín dụng ngân hàng có hai đặc trưng cơ bản Thực hiện hoạt động tín dụng, trong quan hệ đó ngân hàng sẽ chịu nhiều rủi ro hơn khách hàng. Đó là các rủi ro như rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đọng vốn gây ra những tổn thất cho ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn và cho vay những nguồn vốn đó. Sự không cân bằng giữa nguồn vốn vào (nguồn huy động) và nguồn vốn ra (sử dụng vốn của ngân hàng) chính là nguyên nhân của những rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Các yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng và cả những yếu tố từ bên ngoài có thể gây ảnh hưởng tới sự mất cân bằng của nguồn vốn. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các Ngân hàng Thương mại sử dụng chủ yếu là nguồn vốn huy động để cho vay, hầu như không phải là nguồn vốn chủ sở hữu. Khác với các loại hình doanh nghiệp khác tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại thường rất thấp. Chủ thể tham gia trong một quan hệ tín dụng Một quan hệ tín dụng luôn có ít nhất 2 chủ thể, người vay và người cho vay (ngân hàng)- đây là quan hệ tín dụng truyền thống. Hiện nay trong quan hệ tín dụng có thể có nhiều hơn 2 chủ thể tham gia. Chẳng hạn trong trường hợp tín dụng có sự bảo lãnh thì có đến 3 chủ thể: Người đi vay, người cho vay và người bảo lãnh. Ngoài ra bên cho vay có thể nhiều hơn 1 người như trong quan hệ cho vay đồng tài trợ, hay đối với các quan hệ tín dụng thông qua tổ hội nhóm thì bên vay sẽ không chỉ là một người. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng huy động vốn và sử dụng nguồn vốn đó phân phối tới các nơi thiếu vốn trong nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ và dịch vụ của mình. Vì vậy hoạt động tín dụng được thực hiện bởi ngân hàng có tác dụng thúc đẩy rất lớn trong nền kinh tế. Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện: Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn hiệu quả cho nền kinh tế: Do ngân hàng có thể huy động, tích tụ tập trung được một lượng vốn lớn, vì vậy mà có khả năng phân phối nguồn vốn hiệu quả hay đáp ứng được các nhu cầu đa dạng về vốn trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế: Ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì vậy ngân hàng luôn có đội ngũ chuyên gia kinh tế để xem xét các khoản tài trợ tín dụng nhằm đảm bảo rằng nguồn vốn của họ sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng hiệu quả với tỷ lệ rủi ro thấp. Hệ quả là nguồn vốn được phân phối đúng đắn đem lại tỷ suất sinh lời cao từ nguồn vốn. Bên cạnh đó với sự tư vấn của các chuyên gia ngân hàng, những người đi vay sẽ có phương án sử dụng vốn rõ ràng, hiệu quả chính vì thế đã giảm thiểu rủi ro của việc mất vốn. Nhờ vậy, nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn và lành mạnh hơn. Tín dụng ngân hàng sẽ mang lại nguồn vốn cho những ngành công cộng và những ngành kém phát triển: Đối với những ngành quan trọng kém phát triển hay những ngành công cộng yêu cầu nguồn vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm thì tín dụng ngân hàng thực sự là một cứu cánh. Với nguồn vốn lớn của mình, các ngân hàng có thể trực tiếp cho vay hoặc cho vay gián tiếp qua chính phủ để tài trợ cho việc mua máy móc, thiết bị hay đầu tư vào những công trình công cộng, do vậy đảm bảo được sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Điều này được thể hiện rõ rệt nhất trong ngân hàng thương mại truyền thống, tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng trong tổng lợi nhuận thường lớn hơn 60% vì thế các ngân hàng truyền thống được coi là độc canh tín dụng. Trong mô hình ngân hàng hiện đại, tuy tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Vì vậy mảng hoạt động tín dụng luôn là một mảng hoạt động lớn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng còn là công cụ quan trọng của Nhà nước để điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Nhà nước thông qua công cụ tín dụng ngân hàng sẽ điều chỉnh thu hẹp hay mở rộng tổng cung tiền trong lưu thông, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế, đảm bảo phát triển của nền kinh tế. Quy trình của hoạt động tín dụng trong Ngân hàng Thương mại Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ra quyết định cho vay, giải ngân và thanh lí hợp đồng tín dụng. Hầu hết các ngân hàng đều tự thiết kế riêng cho mìng một quy trình tín dụng cụ thể tuy nhiên luôn phải đảm bảo 3 bước cơ bản: Thẩm định trước khi cho vay Kiểm tra giám sát trong khi cho vay Kiểm tra giám sát và thu hồi nợ sau khi cho vay Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có các tác dụng sau đây: Quy trình tín dụng làm cơ sở co việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc thiết lập hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính Quy trình tín dụng chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng Một quy trình tín dụng căn bản sẽ được thực hiện như sau Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu tiên của quá trình tín dụng, nó được thực hiện ngay sau khi cán bộ tiếp xuc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Lập hồ sơ tín dụng là khâu quan trọng vì đó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực hiện các bước tiếp sau, đặc biệt là phân tích và ra quyết định cho vay. Nếu ở khâu này càng khai thác được nhiều thông tin càng có cơ sở đầy đủ cho việc đưa ra quyết định chính xác. Đối với từng khách hàng và từng loại tín dụng, ngân hàng sẽ hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung thì bộ hồ sơ tín dụng nào cũng cần đảm bảo phải có đầy đủ các thông tin sau: Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hàng vi của khách hàng Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng Thông tin về đảm bảo tín dụng Sau đó ngân hàng sẽ kiểm tra tính xác thực của các thông tin dựa vào các biện pháp nghiệp vụ của mình. Phân tích tín dụng Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn cả gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những rủi ro và dự kiến các biện pháp để hạn phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Ngân hàng sẽ thẩm định tình hình kinh doanh của khách hàng thông qua việc thẩm định tài chính khách hàng, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp, đồng thời phân tích môi trường vĩ mô và triển vọng của ngành mà doanh nghiệp hoạt động để có cái nhìn tổng thể về khách hàng. Tiếp đến ngân hàng cũng phân tích thẩm định dự án đầu tư hay phương án sản xuất kinh doanh trực tiếp sử dụng vốn ngân hàng cấp để xét tính hiệu quả, khả năng thu hồi vốn đảm bảo việc trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cũng xem xét lợi ích của ngân hàng nếu đồng ý cấp tín dụng, liệu lợi nhuận từ nó có đủ bù đắp chi phí và rủi ro ngân hàng phải gánh chịu, liệu rằng việc cho vay như vậy đã đem lại hiệu quả tốt nhất có thể chưa, có khoản đầu tư khác hiệu quả hơn không tại cùng thời điểm đó. Từ những cân nhắc như vậy ngân hàng sẽ quyết định xem có cho vay hay không đối với từng món vay. Quyết định và kí hợp đồng tín dụng Quyết định tín dụng là khâu quan trọng quyết định xem ngân hàng sẽ cho vay hay từ chối yêu cầu vay vốn của khác hàng. Khâu này ảnh hưởng lớn tới các khâu, ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Có thể coi đây là khâu mắt xích nối tiếp tất cả các khâu trước với những khâu sau, các khâu trước đã cung cấp tư liệu cho việc quyết định, khi đã quyết định thì sẽ ảnh hưởng tới việc có tiếp tục các khâu tiếp theo hay không. Để đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, các ngân hàng thường áp dụng 2 nguyên tắc: Thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở của việc quyết định (các bước trước). Trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những người có năng lực phân tích và phán quyết. Thực hiện 2 nguyên tắc này để đảm bảo tính chính xác và tính trách nhiêm đối với từng quyết định được đưa ra. Giải ngân Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Trong khâu này, phải kết hợp việc giải ngân và theo dõi tình hình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích, hiệu quả ra sao. Nguyên tắc giải ngân là luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải ngân cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng. Giám sát tín dụng Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng để đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng mục đích cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Ngân hàng sẽ giám sát thông qua: tài khoản của khách hàng; báo cáo tài chính định kỳ, việc trả lãi của khách hàng, đến cơ sở sản xuất kinh doanh, kiểm soát tài sản đảm bảo và qua các thông tin thu thập từ các nguồn khác. Thanh lý hợp đồng tín dụng Đây là khâu kết thúc của cả quy trình tín dụng. Khâu này bao gồm việc thu nợ cả gốc và lãi; tái xét hợp đồng tín dụng; thanh lý hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sẽ thu nợ của khách hàng theo đúng như các điều khoản đã kí kết trong hợp đồng tín dụng: theo từng kì (một tháng, hai tháng, một quý hay nửa năm) hoặc thu lại gốc một lần vào cuối kì hạn tín dụng. Nếu nhận thấy khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng có thể xem xét hoặc gian hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thu hồi vốn sau đó. Trong quá trình giải ngân, ngân hàng tái xét hợp đồng tín dụng thực chất để đánh giá chất lượng tín dụng và phát hiện rủi ro để có hướng xử lý kịp thời. Khi hết thời hạn hợp đồng tín dụng và khách hàng đã hoàn trả toàn bộ gốc lãi thì ngân hàng và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, hoàn lại cho khách hàng tài sản đảm bảo nếu có và lưu hồ sơ khách hàng vào kho lưu trữ. Phân loại các loại hình tín dụng của Ngân hàng thương mại Tín dụng ngân hàng cùng với sự phát triển của nhu cầu khách hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú. Có thể phân chia các loại hinh tín dụng theo các tiêu chí khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu. Trên thực tế có 3 cách phân chia phổ biến Theo hình thức tài trợ tín dụng Cho vay: Là hình thức ngân hàng giao quyền sử dụng một khoản tiền cho khách hàng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi của khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định. Đây là một trong những phương thức đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng. Trong cho vay bao gồm các phương thức cho vay khác nhau: Thấu chi: Áp dụng đối với khách hàng có tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Trong phương thức này, khách hàng được phép chi trội sô với số dư tài khoản thanh toán tại ngân hàng đến một giới hạn nhất định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Phần chi vượt so với sô dư tiền gửi thanh toán của khách hàng sẽ được chuyển thành khoản vay ngân hàng của khách hàng. Tùy theo mối quan hệ khách hàng – ngân hàng, khả năng tài chính của khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định hạn mức thấu chi cho từng khách hàng khác nhau. Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định, nghĩa là trong khoảng thời gian đó, khi khách hàng có nhu cầu về vốn có thể đến vay ngân hàng cho đến khi hết hạn mức đã thoản thuận. Hạn mức tín dụng thích hợp với khách hàng có nhu cầu vốn phát sinh liên tục theo chu trình sản xuất của mình. Việc cho vay theo hạn mức sẽ giảm thiểu chi phí và thời gian vay vốn, đồng thời đảm bảo tránh lãng phí vốn (vay một khoản lớn vào một lần) Cho vay luân chuyển là hình thức ngân hàng cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Khi nhập hàng hóa vào để đảm bảo sự liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể gặp trường hợp thiếu vốn để thanh toán cho lượng hàng hóa nhập vào, cho vay luân chuyển như một cách ứng trước cho doanh nghiệp, khi doanh nghiệp bán được hàng hóa hay thành phẩm sẽ trả nợ cho ngân hàng. Cho vay luân chuyển được ngân hàng áp dụng đối với các daong nghiệp có chu kỳ tiêu thụ đều đặn, ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trực tiếp từng lần: Đây là một hình thức cho vay tương đối phổ biến trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Loại cho vay này thường áp dụng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có đủ điều kiện cấp hạn mức thấu chi hoặc do nhu cầu vay lớn. Thông thường những khách hàng này hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn chủ sở hữu, vốn vay từ ngân hàng sẽ chỉ tham gia vào một trong các khâu của quá trình sản xuất. Bên cạnh đó khi những doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất cũng sẽ được ngân hàng cung cấp loại hình cho vay từng lần. Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các trung gian. Loại hình này áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán... khi đó cho vay qua trun gian tiết kiệm thời gian, chi phi đồng thời giảm thiểu rủi ro của việc mất vốn. Cho vay trực tiếp có hai hướng: +Cho vay thông qua hội sở chính của doanh nghiệp hay thông qua các tổ đội nhóm. Trong những trường hợp này, hội sở chính của doanh nghiệp hay các tổ đội nhóm sẽ đứng ra là đại diện cho bên vay, khi đó tiền vay sẽ được phát cho các chi nhánh, các thành viên thuộc tổ hội nhóm; đến kỳ trả nợ thì bên đại diện sẽ có trách nhiệm thu hồi và hoàn trả cho ngân hàng. +Cho vay thông qua những nguời bán lẻ các đầu vào của quá trình sản xuất. Khi đó những người bán lẻ sẽ mang hóa đơn chứng từ tới ngân hàng thanh toán, sau đó ngân hàng sẽ thu nợ từ khách hàng Cho vay trả góp: đây là hình thức cho vay mà khách hàng được phép thanh toán gốc làm nhiều lần trong kỳ trong thời hạn tín dụng. Việc chia gốc làm nhiều lần sẽ nâng cao khả năng trả nợ của khách hàng. Cho vay trả góp hiện nay được áp dụng tương đối phổ biến. Khoản vay của khách hàng thường được phân chia làm nhiều kì trả nợ: hàng 1 tháng, hàng 2 tháng, hàng quý, hàng nửa năm… Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là chứng từ nhận nợ được hình thành trong quá trình lưu thông hàng hóa. Thương phiếu cho phép người cầm nó có quyền đòi người có tên trên thương phiếu một khoản tiền đúng bằng khoản tiền ghi trong thương phiếu sau một khoảng thời gian nhất định. Người cầm thương phiếu khi có nhu cầu về vốn trước khi thương phiếu được thanh toán sẽ bán đi, đây chính là việc chiết khấu thương phiếu. Nếu người bán hay người nắm giữ thương phiếu đến bán lại cho ngân hàng tức là ngân hàng sẽ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu. Ngân hàng sẽ mua giá thấp hơn so với giá trị của thương phiếu, khoản chênh lệch đó gọi là chi phí chiết khấu. Đến hạn, ngân hàng sẽ đòi nợ người có tên trên thương phiếu, hoặc truy đòi đối với những người ký tên trên thương phiếu (trong trường hợp ký hậu) Bảo lãnh: Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện thay cho khách hàng của mình (bên được bảo lãnh) các nghĩa vụ tài chính khi bên được bảo lãnh không thực hiện được các nghĩa vụ đã cam kết. Khi đó, ngân hàng sẽ sử dụng số tiền kí quỹ hay tài sản đảm bảo của khách hàng để thay khách hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính đó. Thông thường trong bảo lãnh số tiền kí quỹ sẽ thấp hơn nghĩa vụ tài chính cam kết vì vậy ngân hàng thường phải xuất vốn ra để trả nợ cho bên nhận bảo lãnh, phần ngân hàng xuất thêm sẽ trở thành khoản vay của bên được bảo lãnh. Bảo lãnh thông qua uy tín ngân hàng tạo điều kiện cho bên bảo lãnh nhận được những cơ hội kinh doanh, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Cho thuê (tín dụng thuê mua): Cho thuê là việc ngân hàng sẽ mua tài sản, sau đó cho thuê lại trong một khoảng thời gian nhất định theo như những thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Nghiệp vụ cho thuế bắt nguồn từ nhu cầu mua sắm những tài sản cố định giá trị lớn của khách hàng. Khi khách hàng không có đủ vốn hoặc không thể vay ngân hàng, khách hàng đó sẽ đề xuất lên ngân hàng. Nếu xét thấy tình hình kinh doanh của khách hàng tốt và có khả năng sẽ thu hồi vốn, ngân hàng sẽ bỏ vốn ra mua tài sản đó và cho khách hàng thuê lại. Hợp đồng cho thuê sẽ kết thúc khi ngân hàng thu được gốc và lãi. Hết thời gian thuê tài sản đó được coi như đã khấu hao hết, thông thường ngân hàng sẽ ưu tiên bán lại cho khách hàng đó với giá thấp. Phân loại theo sự đảm bảo tín dụng: Nếu theo tiêu chí phân chia này, tín dụng sẽ bao gồm hai loại Tín dụng có tài sản đảm bảo: Với loại hình tín dụng này, khách hàng khi vay vốn phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Ngân hàng sẽ xác định giá trị tài sản, đánh giá tính thanh khoản của tài sản đó và yêu cầu khách hàng kí các cam kết cần thiết. Ngân hàng sẽ dựa vào phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng và gía trị của tài sản để quyết định số tiền cho vay. Trong trường hợp khách hàng đến hạn không trả được nơ, ngân hàng sẽ có thể bán tài sản đó đi để thu hồi nợ. Tín dụng không có tài sản đảm bảo (tín chấp): Ngân hàng cho vay không dựa trên bất kì tài sản bảo đảm nào mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Do đó ngân hàng chỉ cho vay tín không có tài sản đảm bảo cho những khách hàng lớn, có uy tín trên thị trường, có khả năng tài chính mạnh mẽ và có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Đối với những Ngân hàng Thương mại Nhà nước thì loại hình tín dụng này còn cấp cho những khách hàng theo chỉ định của Chính phủ không cần có tài sản thế chấp. Phân loại theo thời hạn tín dụng Thời hạn tín dụng là khoảng thời gian từ khi bắt đầu phát khoản vay đầu tiên đến khi ngân hàng thu được cả gốc và lãi. Tùy theo thời hạn tín dụng ngắn hay dài, có thể phân chia chúng làm 3 loại: Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình tín dụng có thời hạn ít hơn 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn ngân hàng tài trợ cho: + Nhà nước: Ngân hàng thương mại sẽ tài trợ cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách Nhà nước bằng việc mua tín phiếu kho bạc + Các tổ chức tài chính khác: ngân hàng cho các tổ chức tài chính khác vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. + Các doanh nghiệp: Nhằm tài trợ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, cho vay xuất nhập khẩu và nhu cầu thanh toán. + Cá nhân: đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng (thấu chi) Tín dụng trung hạn: Là loại hình tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Ngân hàng cung cấp loại hình tín dụng này cho khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân để tài trợ cho những nhu cầu mua sắm lớn, mở rộng sản xuất… Tín dụng dài hạn: Đây là loại hình tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Đối tượng của loại hình tín dụng này bao gồm Nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp. Nhà nước sẽ vay vốn ngân hàng thông qua việc bán các trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình… cho ngân hàng để có vốn đầu tư vào các công trình công cộng, các ngành và vùng kinh tế trọng điểm khuyến khích phát triển. Các tổ chức, doanh nghiệp yêu cầu sử dụng tín dụng dài hạn để đầu tư vào các công trình lớn, trang thiết bị hiện đại mang tính chiến lược trong kế hoạch phát triển của mình. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn: Cho vay tài trợ dự án: Đối tượng khách hàng của hình thức tín dụng này là Chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp. Để có thể vay vốn, khách hàng sẽ phải lập một dự án chi tiết đầy đủ về các mặt: triển khai, hiệu quả, thời gian, chi phí theo từng giai đoạn… Ngân hàng sẽ dựa vào bản kế hoạch này để thẩm định hiệu quả, tính thực tế của dự án và dựa vào những thông tin khác về ngành lĩnh vực mà dự án tham gia họat động để quyết định xem có cho vay hay không. Thông thường những khoản vay này là những khoản tín dụng trung và dài hạn. Cho vay tiêu dùng: Đối tượng khách hàng của loại hình tín dụng này là các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của họ. Ngân hàng sẽ xem xét tình hình thu nhập và chi tiêu của khách hàng để ra quyết định cho vay; nhưng khi có sự đảm bảo của các nhà phân phối thì ngân hàng sẽ thẩm định về uy tín và tiềm lực tài chính của nhà phân phối đó để ra quyết định. Các quy định và chính sách tín dụng ngân hàng Hệ thống ngân hàng tạo ra mạch máu lưu thông tiền tệ và vốn quan trọng trong nền kinh tế, nền kinh tế không thể hoạt động và phát triển nhịp nhàng nếu thiếu đi mạch máu đó. Bên cạnh đó ngân hàng lại nắm giữ lượng tiền huy động rất lớn từ dân cư, nếu xảy ra sự sụp đổ của một ngân hàng hay của cả hệ thống ngân hàng sẽ kéo theo hàng loạt những hệ quả vô cùng nghiêm trọng. Do vậy, đối với hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, Nhà nước và các cơ quan quản lý bao giờ cũng đưa ra những quy định chặt chẽ để đảm bảo sự an toàn cho hệ thống ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng các quy định được đưa ra nhằm đảm bảo phân tán rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Sử dụng nguyên lý quan trọng trong kinh tế “Không bao giờ để tất cả trứng vào một giỏ”, các nhà quản lý quy định tỷ lệ số tiền cho vay trên vốn chủ sở hữu lớn nhất của một ngân hàng đối với một khách hàng. Như vậy sẽ tránh tình trạng tập trung quá nhiều vào một khách hàng, giảm hậu quả nếu rủi ro xảy ra đối với khách hàng đó. Hiện nay tỷ lệ này được Ngân hàng Nhà nước quy định là 15% đối với toàn bộ ngân hàng thuộc hệ thống. Đối với loại hình cho vay có tài sản đảm bảo, các nhà quản lý cũng đưa ra các quy định về tỷ lệ lớn nhất của giá trị món vay trên giá trị tài sản đảm bảo, vì thế mà các ngân hàng sẽ giảm thiểu khả năng không thu hồi được vốn khi đem bán những tài sản này để thu nợ. Ở nước ta, đối với từng loại tài sản phụ thuộc vào sự ổn định giá, tính thanh khoản của mỗi loại, Ngân hàng Nhà nước đưa ra các tỷ lệ khác nhau. Chẳng hạn như với tiền kí quỹ là 100% nhưng với những tài sản khác thì tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản kí quỹ cao nhất là 70%. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra các quy định để hướng dẫn cụ thể trong việc theo dõi các khoản nợ, trích lập dự phòng và chuyển nợ quá hạn, theo đó các Ngân hàng Thương mại và Ngâ hàng Nhà nước có thể theo dõi tình hình tín dụng cụ thể của mỗi ngân hàng. Tất cả các quy định trên được nêu rất rõ và chi tiết trong các NĐ 493, NĐ 122. Ngoài ra còn rất nhiều những quy định khác nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng ngân hàng được ghi rõ trong luật tổ chức tín dụng, các nghị định và thông tư của Chính phủ, của Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Đối với từng ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có mục đích hoạt động về sinh lời, an toàn hay mở rộng kinh doanh khác nhau sẽ đưa ra các chính sách tín dụng khác nhau dựa trên các quy định chung. Các chính sách tín dụng ngoài việc kiểm soát, định hướng hoạt động tín dụng theo mục đích của ngân hàng còn là để hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ tín dụng. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng Để đánh giá hiệu quả tín dụng, các ngân hàng đã xây dựng hệ thống các chỉ tiêu để phản ánh quy mô, chất lượng và lợi nhuận mà hoạt động đó đem lại. Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng Chỉ tiêu dư nợ tín dụng Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng = Dư nợ tín dụng năm sau – Dư nợ tín dụng năm trước Dư nợ tín dụng năm trước Chỉ tiêu này cho phép đánh giá về tốc độ mở rộng quy mô hoạt động tín dụng của ngân hàng sau từng năm. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ dư nợ tăng càng nhanh, tuy nhiên nếu dư nợ tăng quá nhanh thì sẽ gây áp lực về huy động vốn và đặt ra câu hỏi về chất lượng tín dụng Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng Chỉ tiêu dư nợ tín dụng có tài sản đảm bảo (TSĐB) Tỷ lệ dư nợ tín dung có TSBĐ = Dư nợ tín dụng có TSBĐ Tổng dư nợ tín dụng TSĐB là nguồn trả nợ thứ hai cho ngân hàng do đó đối với những khỏan tín dụng có tài sản đảm bảo thì tính an toàn của khoản nợ được tăng lên, khả năng thu hồi vốn._. vay của ngân hàng là cao. Tuy nhiên, để thu hồi vốn ngân hàng sẽ phải bỏ ra chi phí thanh lý tài sản, chưa kể về sự bảo toàn giá trị của tài sản, do đó có tài sản đảm bảo chưa chắc là loại bỏ khả năng mất vốn của ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng thường phải cân nhắc khi lựa chọn tài sản đảm bảo cho nguồn vốn cho vay của mình. Chỉ tiêu về nợ quá hạn: Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (số 493/2005/QĐ- NHNN), các khoản nợ mà khách hàng không trả được cho ngân hàng khi đến hạn ghi trong hợp đồng tín dụng, khoản nợ này có thể là một phần hoặc tòan bộ gốc, lãi hau cả gốc và lãi. Những khỏan nợ quá hạn thường có rủi ro cao. Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ tín dụng quá hạn Tổng dư nợ Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh độ an toàn tín dụng cũng như chất lượng hoạt động tín dụng. Khi ngân hàng có quá nhiều khỏan tín dụng quá hạn, phản ánh chất lượng tín dụng và trình độ của cán bộ tín dụng của ngân hàng có vấn đề. Ngân hàng gặp phải nguy cơ mất vốn và có thể dẫn đến những hậu quả lớn hơn như phá sản. Vì thế, các ngân hàng luôn cố gắng giảm chỉ tiêu này tới mức thấp nhất và luôn đưa ra sẵn các phương pháp xử lý nợ quá hạn trong chính sách tín dụng của mình. Tỷ lệ nợ khó đòi: Theo quy định 493, nợ khó đòi là khỏan nợ đã quá một kỳ gia hạn nợ. Những khỏan nợ này thường rất rủi ro. Có thêm chỉ tiêu này có thể đánh giá chi tiết hơn về chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng = Thu nhập từ hoạt động tín dụng Tổng thu nhập Chỉ tiêu này cho thấy cơ cấu thu nhập của ngân hàng. Ở những ngân hàng truyền thống, hoạt động tín dụng là chủ yếu thường là trên 50% do đó tỷ lệ này thường thấp. Đối với những ngân hàng hiện đại thì tỷ lệ này lại thường không cao do các dịch vụ tư vấn, kinh doanh ngoại tệ lại là những hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lợi vốn tín dụng Chỉ tiêu về tỷ lệ mất vốn Mức sinh lời vốn tín dụng = Thu nhập từ hoạt động tín dụng Tổng dư nợ bình quân Mức sinh lời vốn tín dụng phản ánh trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. Chỉ tiêu này cho biết từ một đồng vốn cho vay sẽ tạo ra mấy đồng thu nhập. Khi tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hiệu quả tín dụng của ngân hàng càng tốt. Tỷ lệ mất vốn: Tỷ lệ mất vốn = Số vốn bị mất do xóa nợ trong kì Dư nợ bình quân cùng kì Chỉ tiêu này cho biết những khoản nợ mà đã được ngân hàng thực sự không thu được vốn của ngân hàng (xóa nợ). Những khỏan nợ này làm tăng chi phí cho ngân hàng và làm giảm hiệu quả tín dụng. Tỷ lệ này càng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng càng thấp. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Những nhân tố từ phía ngân hàng Ngân hàng là chủ thể cung cấp dịch vụ cho các khách hàng trong nền kinh tế. Do vậy ngân hàng có tác động trực tiếp và quyết định nhất đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng: Chiến lược kinh doanh: Ngân hàng Thương mại trong hoạt động tín dụng với mục đích cung cấp các sản phẩm để tài trợ và thoả mãn nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế, trên cơ sở đó tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Đối với ngân hàng mà chiến lược nghiêng về phía lợi nhuận, thì sẽ không ngừng thúc đẩy tăng trưởng dư nợ, mở rộng hoạt động tín dụng để đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Đối với ngân hàng mà chiến lược kinh doanh là đảm bảo an toàn hoạt động, thì chất lượng tín dụng mới là điều ngân hàng quan tâm dù lợi nhuận thu được có thể sẽ thấp hơn. Do đó chiến lược kinh doanh là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, đến phương hướng phát triển và mục đích của hoạt động tín dụng. Chính sách của ngân hàng: Hoạt động tín dụng luôn hàm chứa rủi ro. Chính sách của ngân hàng với việc quản lý những rủi ro đó cũng là yếu tố quan trọng tác động tới việc cung cấp tín dụng cho khách hàng. Thật vậy, với ngân hàng mà cách nhìn nhận về rủi ro khắt khe hơn thì rõ ràng việc cấp tín dụng sẽ rất dè dặt và cho những đối tượng khách hàng có uy tín tốt, có tình hình tài chính lành mạnh và hiệu quả. Tài sản đảm bảo là cơ sở để đảm bảo cho các giao dịch tín dụng thành công, đảm bảo khách hàng sẽ trả nợ hoặc đảm bảo ngân hàng sẽ thu được nợ. Nhưng để định giá, giữ tài sản đảm bảo và thanh lý tài sản khi cần thu nợ là một quá trình phức tạp. Nếu chính sách của ngân hàng là có hay không chấp nhận tài sản đảm bảo (khác tiền ký quỹ và giấy tờ có giá) cũng sẽ ảnh hưởng tới quy mô và chất lượng cấp tín dụng của ngân hàng. Thông tin tín dụng: Thông tin đóng vai trò quan trọng và xuyên suốt trong mọi hoạt động. Thông tin tín dụng bao gồm mọi thông tin về khách hàng, về ngành và về môi trường kinh tế pháp lý mà trong đó khách hàng đang hoạt động. Với bước rất đầu tiên đó là tìm kiếm khách hàng, hệ thống thông tin về các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế là cơ sở để ngân hàng khoanh vùng và tiếp cận tới những khách hàng tiềm năng của mình. Khi ra quyết định tín dụng, những thông tin về tình hình kinh doanh của khách hàng, triển vọng phát triển của ngành và môi trường pháp lý là những thông tin không thể thiếu. Ngay cả sau khi cho vay, ngân hàng vẫn phải thu thập thông tin để biết xem khách hàng của mình có sử dụng vốn đúng mục đích hay có sử dụng hiệu quả hay không. Vì thế có thể nói thông tin tín dụng quyết định đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Quy trình phân tích tín dụng: Để đưa ra quyết định cho vay hay không ngân hàng phải có quá trình nghiên cứu và phân tích khách hàng _ quá trình phân tích tín dụng. Quá trình đó phải thực hiện theo từng bước tuần tự. Nếu ngân hàng xây dựng cho mình một quy trình tín dụng rõ ràng, rành mạch sẽ đảm bảo cho quá trình phân tích diễn ra nhanh chóng, giảm những nhầm lẫn thiếu sót và tạo cơ sở cho việc kiểm tra kiểm sóat dễ dàng nhanh chóng. Do đó, với ngân hàng đã xây dựng cho mình quy trình tín dụng tốt sẽ dễ dàng cho họat động của các nhân viên và nâng cao hiệu quả tín dụng. Đội ngũ nhân viên: Như tất cả các mảng hoạt động khác, trong mảng hoạt động tín dụng yếu tố con người luôn có vai trò chủ chốt. Tất cả các quy trình, quy định, chính sách tín dụng là do con người đặt ra và thực hiện, đó là những cán bộ tín dụng. Những cán bộ đó sẽ vừa phân tích vừa đưa ra quyết định cho vay và cũng đồng thời theo dõi các khoản vay. Vì thế trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ tín dụng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mạng lưới hoạt động của ngân hàng: Ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng khắp có cơ hội tiếp xúc với nhiều khách hàng hơn, được biết đến nhiều hơn, thuận tiện hơn trong việc cung cấp các dịch vụ và theo dõi hoạt động kinh doanh của khách hàng. Công nghệ ngân hàng: Cơ sở công nghệ hiện đại tạo thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng. Hơn nữa, ngân hàng có cơ sở công nghệ hiện đại không chỉ giúp cho các cán bộ ngân hàng tiết kiệm thời gian và công sức mà còn thúc đẩy nâng cao chất lượng công việc về tính chính xác và nhanh chóng. Những nhân tố từ phía khách hàng Chiến lược kinh doanh của khách hàng: Đây là yếu tố quan trọng trong việc xem xét doanh nghiệp của ngân hàng. Khi doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh, chiến lược sử dụng vốn có khả năng hiện thực hóa và hiệu quả là sự đảm bảo việc doanh nghiệp sử dụng vốn ngân hàng đúng mục đích vay và đảm bảo cho khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Nếu chiến lược kinh doanh không rõ ràng và có dấu hiệu thay đổi nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng đó. Khả năng tài chính của khách hàng: Các báo cáo tài chính cho phép ngân hàng biết được kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong quá khứ từ đó là cơ sở cho việc dự đoán đến kết quả hoạt động trong tương lai của khách hàng đó. Khả năng tài chính của khách hàng cũng phản ánh khả năng trả nợ cho ngân hàng. Vì thế nó cũng ảnh hưởng lớn tới các quyết định tín dụng của ngân hàng. Trình độ tổ chức quản lý, trình độ của cán bộ công nhân viên quyết định đến khả năng phát triển của doanh nghiệp. Ngân hàng xem xét các yếu tố đó trong khi đưa ra chính sách tín dụng cho khách hàng. Sự thiện chí của khách hàng trong quan hệ tín dụng: Thể hiện thiện chí vay vốn và mong muốn trả nợ sẽ là yếu tố quan trọng đối với quyết định cho vay vốn Những nhân tố từ phía môi trường vĩ mô Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố: tốc độ phát triển, sự ổn định của kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, sức cạnh tranh của các ngành kinh tế… Những yếu tố đó ảnh hưởng trực tiếp tới triển vọng phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tức là ảnh hưởng trực tiếp tới các khách hàng của ngân hàng và bản thân các ngân hàng. Đối với hoạt động tín dụng, khi môi trường kinh tế có những biến đổi bất lợi các ngân hàng thường thay đổi chính sách tín dụng theo hướng cẩn trọng và dè dặt: thu hẹp quy mô tín dụng và đưa ra các quy định tín dụng khắt khe hơn. Sự quản lý của các cơ quan nhà nước Các cơ quan quản lý Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý hành chính đối với các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế để đảm bảo các chủ thể hoạt động theo đúng pháp luật. Khi có sự tham gia tích cực và hiệu quả của các cơ quan này, nền kinh tế sẽ phát triển lành mạnh, các doanh nghiệp có xu hướng kinh doanh theo đúng pháp luật. Do đó, các ngân hàng sẽ an tâm chủ động hỗ trợ các khách hàng kinh vay vốn kể cả đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, với các chương trình phát triển kinh tế lớn, Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhờ thế mà các ngân hàng cũng tin tưởng hơn khi cấp tín dụng. Hơn nữa, sự hướng dẫn chỉ đạo của các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ có tác dụng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Môi trường pháp lý Bản thân các ngân hàng và khách hàng –những doanh nghiệp trong nền kinh tế chịu sự quản lý của pháp luật. Nếu có hành lang pháp lý hoàn thiện sẽ là cơ sở tốt cho sự phát triển của ngân hàng và các doanh nghiệp, và như vậy sẽ ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng và quy mô của hoạt động tín dụng Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam Khái quát về chi nhánh Citibank Việt Nam Khái quát chung về Citibank Việt Nam Giới thiệu chung về tập đoàn Citigroup: Citibank _ nay được gọi là Citigroup _ được thành lập vào năm 1812 với tên gọi là Citi Bank of New York. Trong suốt quá trình phát triển, Citigroup đã được đổi tên nhiều lần. Sau khi sát nhập với The First National City Bank vào năm 1962, tên gọi đã được chuyển thành First National City Bank. Mốc quan trọng mang tính bước ngoặt trong hoạt động Citigroup là vào năm 1968, ngân hàng First National City Bank đã chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình tập đoàn. Khi đó First National City Bank với các chức năng của mình là ngân hàng đa quốc gia đã trở thành một chi nhánh của tập đoàn First National City Corporation. Đến năm 1976, tập đoàn đã sát nhập với Travelers Group tên của tập đoàn chính thức được đổi thành Citigroup Inc. Hiện nay với tổng tài sản ước tính lên đến hơn 1.5 nghìn tỷ USD (lớn nhất toàn cầu), Citigroup đã trở thành một trong các tổ chức tài chính uy tín và lớn nhất thế giới. Năm 2005, Citigroup tiếp tục là tập đoàn tài chính có lợi nhuận cao nhất trên toàn thế giới. Không chỉ trong lĩnh vực tài chính mà ngay cả khi so sánh với các lĩnh vực khác, Citigroup cũng là tập đoàn thành công nhất nước Mỹ theo tạp chí Forbes bình chọn. Cho đến thời điểm ngày 31/12/2006 vốn chủ sở hữu của Citibank 118,8 tỷ USD (trong đó tổng tài sản sinh lời là 1494 tỷ USD), lợi nhuận năm 2006 Citibank là 34,5 tỷ USD, doanh thu: 111 tỷ USD, , nắm giữ hơn 250 triệu tài khoản khách hàng và số nhân viên trên toàn cầu là: 280.000 người. Cơ cấu thu nhập của Citigroup được thể hiện ở bảng dưới đây: Bảng 1 Cơ cấu thu nhập của Citigroup phân theo sản phẩm và lãnh thổ Theo sản phẩm SP ngân hàng bán lẻ: 53% SP ngân hàng bán buôn: 34% SP quản lý tài sản: 6% Hoạt động đầu tư: 7% Theo vùng lãnh thổ Mỹ: 57% Châu Âu: 8% Châu Á: 14% Nhật: 6% Mexico: 10% Châu Mĩ Latinh: 5% Bảng 1 thể hiện cơ cấu đóng góp thu nhập của Citigroup và đã chỉ ra vai trò quan trọng của thị trường Châu á đối với “người khổng lồ” Citigroup, chiếm đến 14% của 24.6 tỷ USD. Có được điều đó là do Citigroup đã sớm quan tâm tới thị trường Châu á. Citibank là ngân hàng Mỹ đầu tiên tiến hành các hoạt động kinh doanh ở Châu Á, bắt đầu vào năm 1902 với chỉ có hơn 500 nhân viên tại 6 quốc gia. Từ đó đến nay, sau hơn 100 năm hoạt động tại thị trường Châu Á, Citibank đã có hơn 30000 nhân viên trên toàn Châu á với hơn 11 triệu tài khoản và doanh thu bình quân hàng năm đạt 4 tỷ USD. Citibank đã trở thành ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng lớn nhất Châu Á với hơn 260 chi nhánh và văn phòng tại 25 nước Châu Á. Tại Châu á, ngân hàng vùng là Citibank Singapore - tức là ngân hàng phụ trách tất cả các Citibank ở Châu á trừ Citibank Hồng Kông và Citibank Nhật Bản. Các hoạt động của các Citibank khác trong Châu á đều phải tuân theo các chính sách, tiêu chuẩn và cả hệ thống thông tin do Citibank Singapore đưa ra, đồng thời luôn phải báo cáo với Ngân hàng vùng này. Giới thiệu về Citibank Việt Nam Citibank Việt Nam nằm trong hệ thống Citibank tại châu Á do đó cũng chịu sự quản lý và giám sát của ngân hàng vùng là Citibank Singapore. Hiện nay, Citibank Việt Nam có 2 chi nhánh đặt tại Hà Nội (Citibank Hà Nội) và Thành phố Hồ Chí Minh (Citibank HCM). Tại các chi nhánh này có các bộ phận tương đối giống nhau, không có sự khác biệt nhiều về chức năng. Tuy nhiên do đặc điểm là ngân hàng doanh nghiệp nên khách hàng của Citibank là các tổng công ty có trụ sở chính chủ yếu tại Hà Nội nên bộ phận Marketing tại chi nhánh Hà Nội có phần phức tạp hơn. Nhìn chung, hoạt động của hai chi nhánh Hà Nội và Hồ Chí Minh luôn có sự phối hợp chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau dưới sự lãnh đạo của ban lãnh đạo của Citibank Việt Nam nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Citibank đã từng có chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), khi đó còn là Sài Gòn, từ tháng 9 năm 1972 và đã hoạt động được gần 3 năm thì đóng cửa vào tháng 4 năm 1975 - thời điểm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Đến năm 1993 cùng với sự mở cửa của Chính phủ Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Citibank mới quay trở lại Việt nam thông qua việc mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, ban đầu chỉ có 4 nhân viên và sau đó mở văn phòng đại diện tại TP HCM vào đầu năm 1994. Văn phòng tại Hà Nội chuyển thành chi nhánh vào năm 1995 (theo giấy phép số 13/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 19/12/1994, thời hạn hoạt động là 20 năm. Địa chỉ: 17 Ngô Quyền, Hà Nội) và trở thành ngân hàng đầu tiên của Mỹ có tư cách là một chi nhánh ngân hàng chính thức tại Việt Nam và cũng là ngân hàng đầu tiên của Mỹ đi vào hoạt động tại TP HCM từ năm 1998 sau khi được cấp giấy phép hoạt động. (theo giấy phép số 35/NH-GPCN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 22/12/1997, thời hạn hoạt động là 20 năm. Địa chỉ: 15 Sun Wah Building-115 Nguyễn Huệ , TP HCM). Ở Việt Nam, Citibank là một ngân hàng nớc ngoài lớn nhất về mặt tài sản và chỉ đứng thứ năm sau 4 ngân hàng thương mại quốc gia thuộc sự quản lý của Nhà nước. Nói một cách lạc quan, tài sản của Citibank tại Việt Nam chiếm xấp xỉ 9% tài sản của Vietcombank. Nhìn từ một khía cạnh khác thì thị phần của Citibank và thị phần của tất cả ngân hàng nước ngoài là rất nhỏ. Citibank có mạng lưới chi nhánh đại lý rộng khắp Việt Nam với hơn 800 chi nhánh đại lý trên toàn quốc (đang phấn đấu nâng lên 1600 chi nhánh đại lý trong những năm tới) thông qua 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 2 hệ thống Ngân hàng cổ phần và hệ thống Tiết kiệm Bưu điện, bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội, và Hệ thống Tiết kiệm Bưu điện. Citibank Việt Nam cung cấp khá đầy đủ các dịch vụ ngân hàng thương mại đa dạng bao gồm dịch vụ cho vay ngắn hạn và trung hạn, quản lý tiền mặt, tài trợ và dịch vụ thương mại, giao dịch ngoại hối, tài trợ dự án và cơ cấu tài trợ thương mại, tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp, ... cho khách hàng là các công ty đa quốc gia có hoạt động tại Việt nam, các Tổng công ty nhà nước và các tổ chức tài chính . Đối tượng khách hàng của Citibank Việt Nam Citibank Việt Nam với đặc điểm là Ngân hàng bán buôn (Corporate and Investment banking) nên đối tượng khách hàng mà Citibank hướng tới đó là Chính phủ, các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp co vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức tài chính tại Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, Citibank đã thiết lập được những mối quan hệ tốt đẹp với những khách hàng là những tổng công ty lớn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: tổng công ty điện lực (EVN), tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), tổng công ty công nghiệp đóng tàu (Vinashin) và rất nhiều các công ty lớn khác. Bên cạnh đó, Citibank cũng có những khách hàng thường xuyên là các chi nhánh của các công ty đa quốc gia như Coca Cola, Level. Sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, hàng loạt các công ty nước ngoài sẽ mở chi nhánh tại Việt Nam, hàng loạt các doanh nghiệp FDI được thành lập, đây sẽ là một lượng khách hàng khổng lồ mà Citibank Việt Nam đang hướng tới. Sản phẩm và dịch vụ của Citibank Việt Nam Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho các hoạt động thương mại: Citigroup cung cấp những dịch vụ trọn gói cho các hoạt động thương mại quốc tế. Citibank sẽ giúp khách hàng của mình trong việc thăm dò thị trường mới, tư vấn các điều khoản và điều kiện liên quan tới thương mại theo chuẩn mực quốc tế, khi khách hàng lựa chọn thị trường Việt Nam để buôn bán thì Citibank sẽ giúp mở Tín dụng thư và cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu và xuất khẩu. Với việc Việt Nam gia nhập WTO gần đây, Citigroup đã chuẩn bị để trợ giúp các công ty Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Các sản phẩm liên quan tới hoạt động thương mại của Citibank bao gồm Tín dụng thư nhập khẩu (Import L/C): Cung cấp thư tín dụng cho nhu cầu nhập khẩu của khách hàng và tư vấn cho khách hàng về các điều khoản trong thư tín dụng để khách hàng có các lợi ích nhiều nhất. Chứng từ nhập khẩu (Import Bills): Kiểm tra đối chiếu các chứng từ nhập khẩu bằng hệ thống vi tính chuyên nghiệp cao với UCP và các thông lệ Ngân hàng Quốc tế trước khi thực hiện việc thanh toán theo yêu cầu của tín dụng thư. Bảo lãnh Nhận hàng (Shipping guarantee): Khi hàng hoá cập cảng trước khi chứng từ tới, Citibank phát hành “Bảo lãnh Nhận hàng” cho phép khách hàng nhận hàng hoá ngay, tránh các chi phí lưu kho, lưu bãi. Vay Nhập khẩu (Import loan): Hỗ trợ khách hàng bằng cách cho vay nhập khẩu để tiến hành thanh toán cho nhà xuất khẩu, do đó khách hàng có thể nhận hàng hoá ngay. Thông báo tín dụng thư xuất khẩu (Export L/C Advising): Tư vấn cho khách hàng về các điều kiện và điều khoản Thư tín dụng tránh các sai sót trong thư tín dụng. Xác nhận thư tín dụng xuất khẩu (Export L/C Confirmation): Citibank cung cấp dịch vụ xác nhận thư tín dụng của khách hàng. Do là ngân hàng toàn cầu và uy tín, Citibank có lợi thế lớn trong các ngân hàng cung cấp dịch vụ này tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là khi hàng hóa được xuất đến những thị trường chưa quen thuộc. Nhờ thu /Chiết khấu thư tín dụng xuất khẩu (Export L/C Collection/ Negotiation / Discount): Đây là những dịch vụ trên chứng từ xuất khẩu của khách hàng trong trường hợp khách hàng xuất khẩu hàng hoá và là bên hưởng lợi của thư tín dụng. Với việc kiểm tra nhanh chóng và chính xác, Citibank có thể chiết khấu tới 100% giá trị hàng hoá nếu khách hàng yêu cầu. Tài trợ trước xuất khẩu (Pre-Export Financing): Sản phẩm tài trợ trước xuất khẩu này giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam có vốn ngay sau khi ký hợp đồng mua bán, điều này giúp khách hàng có thể giảm được mức vốn lưu động yêu cầu và có số quay vòng vốn nhanh hơn. Tài trợ các khoản phải thu/Chiết khấu hoá đơn (Receivable Finance/Invoice Discount): Đây là một giải pháp mới của Citigroup, cho phép khách hàng bán cho Citibank các khoản phải thu ngắn hạn và qua đó tăng cường khả năng quay vòng vốn và giảm thiểu rủi ro vốn có trong việc thanh toán bằng hình thức ghi sổ (TTR) với các đối tác trong và ngoài nước của khách hàng. Bảo lãnh Ngân hàng (Bank Guarantee): Cung cấp đầy đủ các loại hình bảo lãnh Ngân hàng như: bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, bảo lãnh thanh toán và vay vốn, Citibank có thể phát hành thư bảo lãnh với thời gian ngắn kịp với yêu cầu của khách hàng. Thanh toán nhờ thu (Collection): Ngoài việc sử dụng thư tín dụng các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu quốc tế còn có thể thực hiện bằng hình thức thanh toán nhờ thu. Việc thanh toán được thực hiện bằng hình thức chuyển tiền giữa các công ty với nhau thông qua Ngân hàng Tài trợ nội thương (Domestic Trade Financing): Citibank có thể tài trợ cho các giao dịch thương mại mua bán hàng trong nước. Nhờ những dịch vụ cung cấp cho các khách hàng khi buôn bán giao thương với thị trường Việt Nam, các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng được thúc đẩy và phát triển, đặc biệt là trong một số ngành quan trọng như xuất khẩu gạo, thủy hải sản và may mặc vai trò của Citibank đã được khẳng định là quan trọng, có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp. Dịch vụ quản lý tiền mặt Citibank là Ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý tiền mặt hàng đầu tại Việt Nam cho các công ty Đa quốc gia tại Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay Citibank Việt Nam có hơn 800 điểm giao dịch trực tuyến trên cả nước, thông qua mạng lưới kết nối với 4 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 2 hệ thống Ngân hàng cổ phần và hệ thống Tiết kiệm Bưu điện. Bên cạnh đó, Citibank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp cho khách hàng dịch vụ ngân hàng điện tử (1996) qua đó khách hàng có thể tự thực hiện giao dịch trên mạng trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra và giao dịch của khách hàng. Citibank cũng là ngân hàng nước ngoài đầu tiên tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng (IBPS _ hệ thống thanh toán điện tử của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho đồng Việt Nam) chính vì vậy không hề có sự bất tiện hay khác biệt cho khách hàng khi thực hiện những giao dịch nội địa. Các dịch vụ cụ thể như sau: Nhờ thu: Nhờ có mạng lưới điểm giao dịch rộng khắp, Citigroup cung cấp cho khách hàng phương pháp quản lý các khoản thu trong tài khoản của mình nhanh chóng và đơn giản. Thông qua các sản phẩm như: sản phẩm thu nhanh (SpeedCollect), sản phẩm thu tiền tại văn phòng (Cash pick-up), dịch vụ đối chiếu hoá đơn tự động (Auto invoice reconciliation), giải pháp tài khoản ảo (Virtual Account), Nộp tiền theo lô (Bulk Cash Deposit), mã vạch (Barcoding)…, Citibank sẽ thay mặt khách hàng thu tiền từ những đại lý, khách hàng, giúp giảm thời gian chi phí cho khách hàng. Thanh toán: Thanh toán nội địa: Citibank có các dịch vụ thanh toán bằng đồng USD và VND, và bằng nhiều hình thức như: séc, chuyển khoản hay bằng tiền mặt. Thanh toán quốc tế: Citigroup với mạng lưới chi nhánh toàn cầu trên 101 quốc gia và vùng lãnh thổ, được ghi nhận là Ngân hàng hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Hệ thống thanh toán toàn cầu của Citigroup giúp khách hàng thực hiện việc thanh toán bằng gần 140 đồng tiền khác nhau. Quản lý Thanh khoản và Đầu tư: Dịch vụ quản lý thanh khoản của Citibank bao gồm các sản phẩm như: Single Account Structure, Zero Balance/ Connentration Account, Time Deposit và nhiều dịch vụ đầu tư với lợi nhuận cao và linh hoạt. Cùng với dịch vụ Ngân hàng Điện tử của Citibank-CitiDirect khách hàng có thể thực hiện việc đầu tư trực tuyến với mức lãi suất cạnh tranh. Nhắc đến dịch vụ quản lý tiền mặt của Citibank không thể không kể đến hai giao dịch nổi tiếng: Citibank được Công ty Vietnam Brewery ủy nhiệm nhờ thu tại thị trường nông thôn đang phát triển. Ủy nhiệm này được trao giải thưởng cho sản phẩm nhờ thu thành công SpeedCollect của Citibank. Vietnam Airlines đã chọn Citibank để thiết kế và thực hiện giải pháp quản lý tiền mặt toàn cầu. Điều đó góp phần đưa 3 thị trường thương mại chính là Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật thêm vào hệ thống quản lý tiền mặt của Citibank (thị trường này đã bao gồm Hong Kong, các nước vùng Bắc Mỹ, Philippines và Hoa Kỳ), qua đó đưa tỷ lệ nhờ thu toàn cầu của Citibank lên khoảng 70%. Nhờ những sản phẩm quản lý ngân quỹ hoàn hảo, Citibank đã liên tiếp nhận được các giải thưởng là ngân hàng có dịch vụ quản lý ngân quỹ tốt nhất Việt Nam (2005, 2006) Kinh doanh ngoại hối (Treasury) Năm 2006, Citigroup một lần nữa được ghi nhận là Ngân hàng kinh doanh tiền tệ tốt nhất Việt Nam. Dẫn đầu trong lĩnh vực kinh doanh vốn và ngoại tệ, Citigroup đuợc Asiamoney bình chọn là Ngân hàng cung cấp các dịch vụ kinh doanh tiền tệ tốt nhất Vệt Nam, bao gồm các dịch vụ mới về kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ kinh doanh tiền tệ cơ bản. Citibank là ngân hàng nước ngoài lớn nhất trong thị trường kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam, chiếm 5,53% thị phần (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam-Khối lượng kinh doanh ngoại tệ 6 tháng đầu năm 2006), và đứng thứ 4 trong thị trường cùng với các Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn. Citibank là Ngân hàng đầu tiên cung cấp giao diện kinh doanh ngoại hối điện tử (CitiTreasury Online Trading) cho các Ngân hàng trong nước (tháng 6 năm 2002). Hiện có 6 ngân hàng trong nước đã tích cực sử dụng CitiTreasury Online Trading với khối lượng giao dịch hàng năm khoảng 500 triệu USD. Citibank cũng đứng ở vị trí hàng đầu trong thị trường nội tệ liên ngân hàng. Dịch vụ về chứng khoán Citibank cung cấp các dich vụ lưu kí chứng khoán. Citibank có vai trò ngày càng tăng trong thị trường cổ phiếu Citibank là nhà cung cấp lớn nhất các sản phẩm phái sinh cổ phiếu cho khoảng 30% các công ty niêm yết và số lượng khách hàng đang tăng lên khi số lượng công ty niêm yết trên thị trường trong nước ngày càng nhiều. Citibank đã tổ chức hội nghị tìm hiểu về thị trường Việt Nam vào tháng 4 năm 2006 được hơn 30 nhà đầu tư quốc tế và rất nhiều các công ty niêm yết trong nước tham gia. Do sự tăng cường trong việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Việt Nam, Citibank cũng tích cực giúp đỡ đưa một số doanh nghiệp của Việt Nam tiếp cận với thị trường cổ phiếu quốc tế. Các nhà đầu tư quốc tế đang rất quan tâm đến trái phiếu và cổ phiếu của Việt Nam (do Chính phủ và doanh nghiệp phát hành), Citibank đã cung cấp những giải pháp và các sản phẩm tiếp cận thị trường cho cổ phiếu và trái phiếu cho rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2006 Citigroup tiếp tục dẫn đầu thị trường các sản phẩm lãi suất cố định và sản phẩm phái sinh Citibank là ngân hàng nước ngoài dẫn đầu trên thị trường sơ cấp trái phiếu Chính phủ Việt Nam,tổng khối lượng trái phiếu mà Citigroup nhận bảo lãnh chiếm tới 14,9% tổng giá trị của thị trường sơ cấp (có 25 công ty đăng ký tham gia) trong 9 tháng đầu năm 2006 (Nguồn: Công ty chứng khoán Citigroup & Vietcombank) Là một trong 2 thành viên đứng đầu quản lý trong đợt Việt Nam phát hành trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên ra thị trường Quốc tế. Nhìn chung, các sản phẩm chính của Citibank là cho vay ngắn hạn và truiung hạn, các sản phẩm tiền tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, tài trợ thương mại, ngoại hối, tài trợ dự án, tư vấn công ty và dịch vụ ngân hàng điện tử (electronic banking). Kết quả hoạt động của Citibank Trong suốt các năm vừa qua, Citibank đã đạt được kết quả kinh doanh rất đáng tự hào. Citibank làm ăn có lãi và mức lợi nhuận là khá cao. Đến năm 2006, Citibank lại tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao và đạt được những thành tựu đáng kể. Lợi nhuận trước thuế Citibank đạt được năm 2006 tăng 3.3% so với năm 2005, lợi nhuận sau thuế đã tăng 6.1% so với năm 2005. Rõ ràng tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế gần gấp đôi tốc độ tăng của lợi nhuận trước thuế chứng tỏ những nỗ lực giảm chi phí của Citibank đã đạt được hiệu quả tốt. Năm 2003 2004 2005 2006 Lợi nhuận trước thuế 62098 66112 68863 71189 Lợi nhuận sau thuế 39968 41835 43391 46018 Bảng 2 Kết quả kinh doanh của Citibank Việt Nam qua các năm Bộ phận kinh doanh tiền tệ của Citibank tiếp tục là bộ phận kinh doanh hiệu quả nhất và đem lại những phần thưởng cho Citibank về các dịch vụ ngoại hối, các sản phẩm phái sinh. Không chỉ với những sản phẩm cũ, bộ phận này cũng đã sáng tạo ra những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Những giải thưởng mà bộ phận này mang lại cho Citibank trong năm 2006 phải kể đến: Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam về các dịch vụ ngoại hối nói chung, 2006 Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam về các sản phẩm ngoại hối sáng tạo và các sản phẩm tài chính có cấu trúc đặc biệt, 2006 Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam các dịch vụ môi giới ngoại tệ cho khách hàng châu Á, 2006 Các bộ phận khác của Citibank cũng hoạt động rất hiệu quả. Vì thế mà trong những năm gần đây ngân hàng Citibank luôn đạt được kết quả tốt và giành được các giải thưởng: Giải thưởng Rồng Vàng cho Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất tại Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2002 Giải thưởng Rồng Vàng cho Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất tại Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2003 Giải thưởng Rồng Vàng cho Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất tại Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 2004 Giải thưởng Rồng Vàng cho Ngân hàng có dịch vụ tốt nhất tại Việt Nam, và Ngân hàng quản lý tiền mặt tốt nhất tại Việt Nam, Thời báo kinh tế Việt Nam, 2005 Ngân hàng tốt nhất châu Á về các nghiên cứu kinh tế vĩ mô Mô hình tổ chức của Citibank Việt Nam Bảng 3 Mô hình tổ chức của Citibank Việt Nam Cấu trúc tổ chức của Citibank có rất nhiều điểm khác biệt so với các ngân hàng Việt Nam. Có thể nói Citibank gồm ba bộ phận: bộ phận Front offfice (FO), Back office (BO) và CitiService hay còn gọi là Middle office - được coi là bộ phận nối kết của FO và BO. Bộ phận FO Khu vực FO là khu vực giao dịch trực tiếp với khách hàng để tìm ra các hợp đồng cho Citibank. Thành phần chính của FO là bộ phận Maketing. Maketing (Phòng Tín dụng và quan hệ khách hàng) Bộ phận Maketing của Citibank được tổ chức có rất nhiều điểm khác biệt với ._.m cho khách hàng khó tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng bởi bản thân khách hàng thiếu vốn. Khả năng huy động vốn của ngân hàng: Do ngân hàng Citibank là ngân hàng bán buôn, khách hàng chủ yếu của ngân hàng chỉ là những doanh nghiệp do đó tiền gửi của khách hàng tại Citibank chủ yếu là vốn ngắn hạn _ tiền gửi thanh toán. Do đó, khi sử dụng nguồn vốn này để cho vay, ngân hàng sẽ phải quản lý chặt chẽ để tránh gặp phải rủi ro thanh khoản. Theo yêu cầu của ngân hàng, các khách hàng phải nộp báo cáo tài chính thường xuyên. Các cán bộ ngân hàng là những chuyên gia về tài chính nên dễ dàng phát hiện ra những kẽ hở và đòi hỏi sự giải thích của khách hàng. Đây cũng sẽ là một yếu tố gây khó khăn làm cho các doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Tại Citibank, nguồn nhân lực hiện nay còn ít, một cán bộ cùng một lúc phải thực hiện nhiều việc. Trong mảng hoạt động tín dụng hiện nay chỉ có một phòng Credit Admin (quản lý tín dụng) với 2 người để phân tích các điều kiện tín dụng khách hàng, còn các quy trình tín dụng khác được thực hiện kết hợp với các bộ phận khác. Khi đưa ra quyết định tín dụng, tùy theo quy mô của hợp đồng tín dụng, hội đồng tín dụng sẽ gồm cả những cán bộ tín dụng vùng từ những nước khác nhau đến Việt Nam. Nên đôi khi các cán bộ khó có thể đến tận nơi các công trình thi công để kiểm soát. Do đó Citibank khó có thể mở rộng khách hàng và quy mô tín dụng trong thời gian ngắn. Các văn bản tài liệu tín dụng hiện nay tại Citibank đều bằng tiếng Anh gây khó khăn cho khách hàng. Chưa kể các văn bản pháp luật, hợp đồng cần được dịch theo chuẩn quy định do đó là những văn bản đòi hỏi độ chính xác. Vì thế khối lượng công việc cho một hợp đồng tín dụng lớn hơn hẳn so với các ngân hàng thương mại khác. * Từ phía khách hàng: Thông tin khách hàng: Hàng quý, khách hàng gửi thông tin đến ngân hàng là những báo cáo chưa kiểm toán khó đảm bảo tính chính xác. Các nhân viên của các doanh nghiệp đôi khi không đủ trình độ giải thích với ngân hàng các nghi ngờ. Sự xắp xếp phân công trách nhiệm trong nội bộ khách hàng không rõ ràng, khi cần giải quyết công việc thường mất nhiều thời gian. Thái độ thiếu trách nhiệm của nhân viên làm cản trở công việc khiến ngân hàng khó có lòng tin để đặt quan hệ với khách hàng đặc biệt là quan hệ tín dụng. *Từ phía môi trường kinh tế chung Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhưng không ổn định lại ẩn chứa nhiều rủi ro. Trong hoạt động của nền kinh tế còn hiện tượng sử dụng vốn không hiệu quả đọng vốn hay vốn bị phân phối dàn trải thiếu tập trung. Hơn nữa, Việt Nam hiện nợ nần rất nhiều nước và Chính phủ. Do vậy Citibank còn dè dặt đối với những khách hàng là doanh nghiệp Việt Nam. *Từ phía các chính sách và môi trường pháp lý Luật đầu tư nước ngoài đã đưa vào thực hiện nhưng trong thực tế đôi khi gặp khó khăn trong khâu thực hiện. Chính sách thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại thị trường Việt Nam. Đó cũng là những nguyên nhân của chính sách hạn chế tín dụng của Citibank Việt Nam. Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam Định hướng hoạt động kinh của ngân hàng Citibank Việt Nam Năm tài chính 2006 kết thúc, Citibank đã đạt được những kết quả tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đã được ghi nhận bằng những khen thưởng như giải thưởng Rồng vàng, giải thưởng ngân hàng có dịch vụ tốt nhất Việt Nam. Sang năm 2007 Việt nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Với lợi thế là ngân hàng toàn cầu có uy tín, đây thật sự là cơ hội cho những phát triển vượt bậc của Citibank Việt Nam. Vì vậy trong năm 2007, ngân hàng Citibank sẽ tiếp tục phấn đấu đạt được thành tích cao hơn năm 2006, cụ thể là: Doanh thu năm 2007 sẽ đạt khoảng 280 triệu USD, tăng 12% so với năm 2006. Dư nợ tín dụng tăng 9% Thu nhập từ hoạt động tài trợ thương mại sẽ tăng 25% Quản lý tiền mặt: Tăng trưởng dựa trên khách hàng hiện tại tăng 25% Để có được những chỉ tiêu đã đặt ra, ngân hàng Citibank đã đưa ra mục tiêu của ngân hàng bao gồm: Ngân hàng Citibank tiếp tục cố gắng duy trì và phát huy là ngân hàng nước ngoài tốt nhất tại Việt Nam. Đây là mục tiêu của ngân hàng. Tiếp tục phát huy những lợi thế mạnh mẽ của mình trong các dịch vụ như quản lý tiền mặt hay buôn bán ngoại tệ và cung cấp các sản phẩm phái sinh Mở rộng các hoạt động như tín dụng ngân hàng Phương hướng hoạt động cụ thể cho từng mảng hoạt động như sau Dịch vụ quản lý tiền mặt Với những ưu việt sẵn có của sản phẩm quản lý tiền mặt của Citibank, cùng với sự tràn vào thị trường Việt Nam của các công ty FDI, năm 2007 Citibank sẽ tiếp tục duy trì, thúc đẩy quan hệ tốt với những khách hàng vốn có và tìm kiếm mở rộng các khách hàng mới. Ngân hàng sẽ đầu tư nghiên cứu để hoàn thiện các sản phẩm tiền mặt đã có, đưa ra thêm những sản phẩm mới để đáp ứng đầy đủ và tốt hơn các nhu cầu khác nhau của từng đối tượng khách hàng, từng loại hình hoạt động hay cơ cấu tổ chức khác nhau. Dịch vụ chứng khoán Hiện nay thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn tăng trưởng phát triển và từng bước ổn định. Nhu cầu về dịch vụ chứng khoán của khách hàng đang ngày càng nhiều và đa dạng không chỉ từ những khách hàng trong nước mà còn nhu cầu từ những nhà đầu tư nước ngoài. Ngân hàng Citibank Việt Nam đang từng bước tham gia vào mảng dịch vụ này. Với lợi thế Citigroup là tập đoàn có uy tín và kinh nghiệm trong dịch vụ chứng khoán, Citibank Việt Nam sẽ mở rộng hoạt động chứng khoán, hướng tới việc thành lập công ty chứng khoán, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển nhanh chóng và lành mạnh. Công tác khách hàng và các dịch vụ ngân hàng Bộ phận quan hệ khách hàng Marketing và Citiservice trong suốt thời gian qua đã liên tục thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc và tìm kiếm khách hàng cho Citibank, đóng góp đáng kể vào kết quả kinh doanh của ngân hàng và sự hài lòng của khách hàng cũng như hình ảnh của ngân hàng trên thị trường tài chính Việt Nam. Để đạt được các mục tiêu đề ra, năm 2007 bộ phận quan hệ khách hàng sẽ: Thực hiện chính sách phân chia khách hàng theo các tiêu chí cụ thể phù hợp với từng loại sản phẩm của ngân hàng. Chẳng hạn với các dịch vụ thu tiền Cash pick up sẽ phân chia và tập trung vào những doanh nghiệp có đại lý, cơ sở phân phối hay khách hàng rải rác trên toàn quốc có nhu cầu lớn đối với dịch vụ thu tiền và quản lý tiền. Đưa ra những biện pháp để tiếp cận và phát triển quan hệ với những nhóm khách hàng mới. Tiếp tục quảng bá các tiện ích các dịch vụ mà ngân hàng có thể đem lại cho khách hàng Tăng cường phát triển các dịch vụ ngân hàng dựa trên nên các dịch vụ hiện đại theo xu hướng phát triển chung của thị trường tài chính Việt Nam. Đặc biệt là các dịch vụ dựa trên ngân hàng điện tử Citi-Direct đem lại cho khách hàng những tiện ích tốt nhất. Công nghệ ngân hàng Ngân hàng tiếp tục hoàn thiện công nghệ ngân hàng. Đưa ra các giải pháp nhằm rút ngắn thời gian hoặc loại bỏ thực hiện các thao tác, tiết kiệm thời gian, chi phí và nhân công, tăng độ chính xác cho các giao dịch của ngân hàng. Tăng khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng của ngân hàng. Trong đó phải kể đến việc đưa vào hoạt động hệ thống mã hóa lệnh Bar code mà ngân hàng sẽ áp dụng rộng rãi vào năm 2007. Khi đó khách hàng muốn đặt lệnh sẽ thực hiện theo mẫu quy chuẩn của ngân hàng và gửi lệnh đó về ngân hàng. Cán bộ ngân hàng chỉ cần scan giấy lệnh đó và lệnh sẽ được tự động nhập vào hệ thống, vì thế tránh các sai sót do thao tác bằng tay. Ngân hàng tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các lĩnh vực như thanh toán, xử lý và quản lý thông tin, quản lý khách hàng, điều hành… Chú trọng phát triển các dịch vụ tiện ích, trang bị đồng bộ các thiết bị và công nghệ tiên tiến trong hoạt động. Hoạt động bảo lãnh Dịch vụ bảo lãnh đã được đưa vào và phục vụ khách hàng tại Citibank từ năm 1996. Với hơn 10 năm kinh nghiệm, Ngân hàng đã đạt được những kết quả vững chắc, có cơ sở để tạo đà cho việc đạt được những bước tiến xa hơn trong hoạt động bảo lãnh. Từ những chiến lược phát triển của mình và những nhu cầu của khách hàng trong nền kinh tế ngày càng tăng, Citibank đã đưa ra kế hoạch phát triển cho hoạt động bảo lãnh như sau: Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu nhập của ngân hàng sẽ được nâng cao dần, tạo cơ sở cho việc cơ cấu lại thu nhập giữa hoạt động bảo lãnh và các hoạt động dịch vụ. Đa dạng hóa các hình thức bảo lãnh, mở rộng đối tượng bảo lãnh. Ngân hàng tiếp tục nâng cao chất lượng của các loại hình bảo lãnh đã có và triển khai thêm một số loại hình bảo lãnh mới. Triển khai hiệu quả các chiến lược và chính sách Marketing để thu hút thêm khách hàng mới bên cạnh những khách hàng truyền thống hiện có tại Ngân hàng. Hoàn thiện và trang bị thêm cơ sở vật chất không chỉ nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động bảo lãnh mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhanh nhất với chất lượng tốt nhất. Đặc biệt sắp tới Citibank sẽ triển khai nghiệp vụ Phát triển và hoàn thiện dịch vụ ngân hàng cá nhân Citibank Việt Nam đã khẳng định được vị trí là ngân hàng đại lý hàng đầu trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ ngân hàng cá nhân mảng hoạt động này gần như chưa được phát triển, nguyên nhân là do chiến lược, chính sách phát triển và những chuẩn mực đánh giá khắt khe của Citigroup tại thị trường Việt Nam trong thời gian trước đây. Trong vài năm trở lại đây đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng và từng bước ổn định của Việt Nam đã khiến Citigroup điều chỉnh chính sách. Ngân hàng Ciibank đã từng bước tiếp cận với đối tượng khách hàng cá nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong thơi gian tới, ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh các chương trình tín dụng theo nhóm, Citibank sẽ nhanh chóng xây dựng các chuẩn mực đánh giá rủi ro cho thị trường khách hàng cá nhân dành riêng cho Việt Nam. Đó chính là cơ sở để Citibank từng bước thâm nhập và là nền tảng vững chắc cho sự phát triển mảng dịch vụ khách hàng cá nhân. Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Về cơ chế chính sách Xây dựng chính sách tín dụng cho thị trường Việt Nam Thị trường Việt Nam là một thị trường mới nổi, nền kinh tế đang trên đà phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước chuẩn bị sẵn sàng để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, đã phát triển về thế và lực. Bên cạnh đó luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam đang ngày càng tăng. Vì vậy Citigroup hoàn toàn có lý do để thay đổi cái nhìn về thị trường cũng như doanh nghiệp Việt Nam, nâng cao mức độ tín nhiệm của thị trường Việt Nam. Thực tế là những đánh giá gần đây vào khoảng cuối năm 2006 của tổ chức tín nhiệm uy tín Moody’s đã đánh giá mức độ tín nhiệm của thị trường Việt Nam đã tăng lên một bậc, thể hiện sự công nhận của quốc tế đối với những thành tựu mà Việt Nam đạt được. Với việc mở cửa dần theo lộ trình hội nhập mà Việt Nam đã cam kết với tổ chức thương mại thế giới WTO, thị trường tài chính là một trong các lĩnh vực được mở cửa đầu tiên; do đó các tổ chức tài chính đặc biệt là các ngân hàng có uy tín trên thế giới cũng đang chuẩn bị nhanh chóng gia nhập thị trường Việt Nam đầy tiềm năng. Dự đoán trong thời gian tới cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam sẽ là rất khắc nghiệt không chỉ đối với các ngân hàng thương mại Việt nam mà cả các ngân hàng toàn cầu. Ngay cả hiện nay, ngân hàng HSBC (cùng với Citibank là một trong năm ngân hàng uy tín nhất toàn cầu) đã có mặt ở Việt Nam với chiến lược kinh doanh khá cởi mở. Ngoài ra, thị trường Việt Nam có đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất riêng nên để Citibank có thể thâm nhập sâu và rộng đòi hỏi cần xây dựng một chính sách tín dụng riêng cho thị trường Việt Nam sao cho phù hợp nhất đảm bảo mở rộng và nâng cao hoạt động tín dụng. Như đã nhận xét ở phần trên về những hạn chế của hoạt động tín dụng của Citibank Việt Nam: về sản phẩm, về khách hàng, về giá cả tín dụng… Nguyên nhân do Citibank trong khi đánh giá mức độ rủi ro của hoạt động cho vay trong nước là quá cao, lại xếp hạng rủi ro công ty ngang bằng rủi ro của đất nước (phương pháp xác định chung của Citigroup).Với việc xây dựng chính sách tín dụng cụ thể cho Việt Nam: đánh giá các doanh nghiệp với góc nhìn là ngân hàng tại Việt Nam, Citibank Việt Nam có thể đánh giá đầy đủ và chính xác hơn về doanh nghiệp Việt Nam vì thế có được chiến lược cởi mở hơn. Như thế, Citibank Việt Nam sẽ có thể từng bước mở rộng đối tượng khách hàng, cung cấp cho họ đa dạng sản phẩm tín dụng, nâng cao dư nợ tín dụng và thu nhập từ hoạt động tín dụng cho ngân hàng. Bên cạnh đó, Citibank cũng cần phải xây dựng các chính sách đảm bảo tín dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và đối phó với các rủi ro tín dụng. Chính sách khách hàng Để mở rộng hoạt động tín dụng, Citibank cần thiết cần đa dạng hoá đối tượng khách hàng. Nếu trước đây, khách hàng có quan hệ tín dụng với Citibank chỉ là Chính phủ, các tổng công ty và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì bây giờ Citibank cũng sẽ hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhóm khách hàng này có đặc điểm là rất linh hoạt với những biến động của thị trường. Trong số đó có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn rất hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh, được quản lý chặt chẽ và không có những trì trệ, vướng mắc như ở những doanh nghiệp lớn hoặc những doanh nghiệp Nhà nước. Đây sẽ là mảng khách hàng không nhỏ, hứa hẹn sẽ đem lại cho ngân hàng lợi nhuận đáng kể từ việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này. Tiếp theo khi ngân hàng đã mở rộng quy mô hoạt động, ngân hàng cần hướng tới khách hàng cá nhân, đây cũng sẽ là một mảng thị trường “màu mỡ” khi mà thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng đặc biệt là tại những thành phố lớn. Chính sách sản phẩm Cùng với việc đa dạng hóa khách hàng mục tiêu, Citibank cũng cần phải đa dạng hóa sản phẩm tín dụng cung cấp cho thị trường Việt Nam. Bằng việc thu thập thông tin và nắm rõ thị trường, Citibank Việt Nam cần từng bước triển khai thêm các sản phẩm mới hoặc phát huy những sản phẩm đã có mà chưa được sử dụng rộng rãi. Trong thời gian tới đây, việc mở rộng hoạt động tín dụng cần làm từng bước vì thế chỉ đưa thêm một số sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của thị trường, mở rộng những sử dụng những sản phẩm tín dụng cũ cần thiết phải xây dựng chính sách khách hàng thích hợp nhất với từng sản phẩm và những quy định cho việc áp dụng. Đặc biệt thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn phát triển bùng nổ, nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài về các chứng khoán Việt Nam đang tăng lên đáng kể, vì thế Citibank cần nhanh chóng phát triển và hoàn thiện dịch vụ bảo lãnh phát hành trong thời gian tới đây. Chính sách giá tín dụng Gía của khoản tín dụng là tiền khách hàng trả cho ngân hàng để có quyền sử dụng số vốn đó trong thời gian nhất định, đó chính là tiền lãi. Xét theo mặt bằng chung, lãi suất danh nghĩa tín dụng trung bình cho các hợp đồng tín dụng của Citibank là 15.17%, đây là giá quá đắt khi so với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó Citibank cần từng bước làm giảm giá tín dụng: Huy động vốn từ tiền gửi có kỳ hạn: Citibank có lợi thế có ngân hàng mẹ có chi nhánh toàn cầu, như vậy dễ dàng huy động vốn từ thị trường quốc tế, đặc biệt là khi thị trường Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao. Đó là nguồn tiền dài hạn với chi phí thấp hơn bổ sung cho hoạt động tín dụng của Citibank. Đây cũng là cơ sở cho việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Từng bước giảm chi phí hoạt động và các chi phí tín dụng liên quan. Chẳng hạn khi cần phân tích ngành cho mục đích phân tích khách hàng thì có thể sử dụng một bản phân tích ngành cho tất cả các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Khi giảm giá tín dụng sẽ nâng cao tính cạnh tranh cho hoạt động tín dụng của Citibank, mở rộng khách hàng có khả năng tiếp cận vốn vay. Chính sách nhân viên Hiện nay lực lượng nhân viên tại Citibank còn ít so với khối lượng công việc, thông thường một người sẽ phải đảm nhiệm rất nhiều công việc. Trong thời gian tới khi mở rộng hoạt động tín dụng, Citibank cần tuyển dụng và đào tạo thêm nhân viên để đảm bảo đáp ứng khối lượng công việc. Chính sách ngân hàng cá nhân Citibank đã bắt đầu từng bước vào mảng hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng cá nhân. Như đã nói ở trên, thị trường Việt Nam có những đặc trưng riêng nên mặc dù mảng hoạt động này của Citigroup cũng là một mảng hoạt động hiệu quả, Citibank Việt Nam vẫn cần xây dựng chính sách và chiến lược phát triển rõ ràng để tạo cơ sở vững chắc phát triển cho mọi hoạt động của ngân hàng. Khi dịch vụ ngân hàng cá nhân được triển khai rộng rãi sẽ là cơ sở để ngân hàng để huy động và mở rộng hoạt động tín dụng. Chính sách Marketing Hoạt động Marketing của Citibank hiện nay còn rất hạn chế: chủ yếu là Marketing trực tiếp, số lượng người biết đến ngân hàng còn ít và khá mù mờ về các dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng cần tăng cường hoạt động Marketing và quan hệ công chúng để được biết đến nhiều hơn. Cần có những bản giới thiệu qua các dịch vụ ngân hàng để với những khách hàng quan tâm không nhất thiết phải gặp những người thuộc ngân hàng mới có được thông tin. Đặc biệt nên xây dựng trang web riêng bằng tiếng Việt cho khách hàng Việt Nam thay vì vẫn dùng trang web của Citigroup bằng tiếng Việt gây khó khăn cho khách hàng khi tiếp xúc với Citibank. Về công tác điều hành, quản trị kiểm soát Xây dựng quy trình tín dụng rõ ràng rành mạch Cần xây dựng quy trình tín dụng để đảm bảo cho hoạt động tín dụng được diễn ra chính xác, nhanh chóng và dễ dàng thực hiện. Việc xây dựng quy trình tín dụng rõ ràng sẽ quy định trách nhiệm của từng cán bộ, tăng khả năng kiểm soát tín dụng, nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, và kiểm tra chất lượng Cần có sự tham gia thường xuyên hơn của bộ phận kiểm soát nội bộ để đảm hoạt động tín dụng được thực hiện theo đúng các quy trình tín dụng. Điều này là vô cùng quan trọng khi mà Citibank mở rộng hoạt động tín dụng, các hợp đồng nhiều và thường xuyên sẽ làm cho nhân viên có thể lơi là và bỏ qua một vài bước trong khi phân tích và đưa ra quyết định tín dụng, sẽ có thể ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Thường xuyên kiểm tra định kỳ và thường xuyên Cần kiểm tra tổng thể hoạt động tín dụng định kỳ và thường xuyên. Thay vì hiện nay theo phương pháp là hàng năm mỗi nhân viên bắt buộc phải nghỉ 2 tuần liên tục, trong thời gian đó sẽ có người làm thay và qua đó kiểm tra luôn các công việc, như vậy sẽ có thể là muộn khi mà phát hiện ra sai sót, cần có sự kiểm tra chéo nhau và liên tục để đảm bảo giảm thiểu sai sót. Hàng quý nên có báo cáo tổng thể các quan hệ tín dụng được thực hiện trong quý. Về các giải pháp nghiệp vụ Như đã phân tích ở trên việc xây dựng chương trình tín dụng riêng cho thị trường Việt Nam là cần thiết và quan trọng để mở rộng hoạt động tín dụng cả về chất và về lượng. Tài sản đảm bảo Nếu chỉ dựa trên tín chấp là chủ yếu thì thực sự có rất ít doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chí đánh giá của Citibank, và loại hình cho vay này có rủi ro khá lớn đặc biệt tại thì trường Việt Nam khi mà chưa có nhiều tập đoàn và doanh nghiệp đủ lớn có uy tín trên thị trường quốc tế.. Ngân hàng cần xây dựng các quy định cụ thể đối với tài sản đảm bảo là cơ sở cho việc tăng số lượng và chất lượng các hợp đồng tín có tài sản đảm bảo. Các quy định về tài sản đảm bảo sẽ bao gồm: Về đánh giá giá trị tài sản đảm bảo: Hiện nay do chưa có đủ cán bộ và cũng không có cán bộ có khả năng định giá giá trị tài sản. Vì thế ngân hàng nên thuê một cơ quan đánh giá có uy tín như Vinacontrol chẳng hạn. Như vậy sẽ đảm bảo tính chính xác khách quan khi đánh giá. Bên cạnh đó việc mở rộng loại hình tín dụng có tài sản đảm bảo nghĩa là sẽ thường xuyên Citibank có nhu cầu thuê một tổ chức đánh giá tài sản, vì thế Citibank nên kí hợp đồng lâu dài với cơ quan định giá có uy tín, vừa để giảm chi phí và thời gian cho vay vừa đảm bảo chất lượng của việc định gía do bản thân tổ chức định giá sẽ phải giữ uy tín với Citibank. Về tính pháp lý hợp lệ của tài sản đảm bảo: Cần đưa ra những bước kiểm tra tính hợp pháp của tài sản đảm bảo để tránh có thiếu sót trong quá trình kiểm tra. Như vậy để chắc chắn là tài sản đó thuộc quyền sở hữu của khách hàng, không có sự tranh chấp về tài sản và tài sản đó không bị đem thế chấp cho ngân hàng khác. Về biện pháp quản lý tài sản trong thời hạn tín dụng: Citibank sẽ không thể giữ tài sản đảm bảo trong thời gian tín dụng do thiếu về cơ sở vật chất, kho bãi, nên thông thường khách hàng sẽ chỉ thế chấp còn vẫn giữ tài sản đó. Để đảm bảo giá trị của tài sản, ngân hàng nên yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm giá trị tài sản. Về biện pháp xử lý tài sản đảm bảo: Nếu trong trường hợp ngân hàng cần bán tài sản để thu nợ vì vậy ngân hàng cần đề ra các giải pháp thanh lý tài sản hiệu quả ngay từ đầu hoặc lựa chọn tài sản đảm bảo có tính thanh khỏan cao dễ bán ra ngoài thị trường. Hoàn thiện các chỉ tiêu đánh giá Để đánh giá tình hình tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp khách hàng, Citibank sẽ dựa trên các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp để tính toán các chỉ tiêu cần thiết. Những chỉ tiêu được tính toán sẽ là cơ sở để ngân hàng chấm điểm tín dụng và đánh giá rủi ro đối với việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt cần quan tâm đến chỉ tiêu khả năng thanh toán của khách hàng vì những chỉ tiêu đó cho biết chính xác nhất khách hàng có thể thanh toán cho ngân hàng. Ngân hàng nên xây dựng các chỉ tiêu sao cho phù hợp với các đối tượng khách hàng khác nhau. Chẳng hạn với chỉ tiêu thanh toán lãi vay được tính toán như sau: Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) (Lãi vay + Nợ dài hạn đến hạn phải trả) Chỉ tiêu trên chưa thực sự phù hợp khi đánh giá khả năng thanh toán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đặc điểm những doanh nghiệp này thường ít có nợ dài hạn trong khi những khỏan vay chủ yếu của những doanh nghiệp này là nợ ngắn hạn. Do đó trong thời gian tới ngân hàng cần nghiên cứu và hoàn thiện các chỉ tiêu đánh giá phù hợp. Thu thập thông tin Ngân hàng cần hoàn thện hệ thống thông tin khách hàng để tìm kiếm phát hiện những khách hàng tiềm năng, những nhu cầu của khách hàng để tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời kì tới. Hơn nữa thông tin khách hàng đầy đủ sẽ là cơ sở cho việc ngân hàng đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn chính xác. Trong quá trình cho vay, ngân hàng cần thường xuyên cập nhất thông tin về khách hàng để có thể phát hiện sớm và giải quyết những yếu kém của khách hàng và khả năng không thu hồi vốn của ngân hàng. Đánh giá doanh nghiệp đầy đủ hơn Từ trước đến nay việc đánh giá doanh nghiệp chỉ dựa trên các chỉ tiêu tài chính. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn vào những chỉ tiêu đó chưa thể đánh giá một cách đầy đủ về doanh nghiệp. Cần phải xem xét cả những yếu tố khác như: trình độ của cán bộ công nhân viên, trình độ và tầm nhìn của nhà quản lý, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp… Đó cũng là những yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó những yếu tố như hình ảnh của doanh nghiệp, sự độc quyền của doanh nghiệp, những lợi thế kinh doanh, sự bảo hộ của Nhà nước hay là nhu cầu quá lớn của thị trường… Ví dụ như doanh nghiệp ngành điện là ngành độc quyền, có sự hỗ trợ của Nhà nước và trong mọi điều kiện của thị trường thì nhu cầu về điện vẫn rất lớn. Đây là một lợi thế vô cùng lớn của ngành điện và là khách hàng rất tiềm năng của ngân hàng. Một số giải pháp khác Một số kiến nghị Kiến nghị đối với các doanh nghiệp Để các doanh nghiệp có thể vay được vốn từ ngân hàng để đáp ứng cho các kế hoạch kinh doanh của mình, các doanh nghiệp nên thực hiện những vấn đề sau: Cần có phương pháp hạch toán rõ ràng đầy đủ: Hạch toán doanh nghiệp theo những quy chuẩn đã được đề ra và thống nhất là cơ sở cho việc tính toán chính xác các chỉ tiêu tài chính. Ngân hàng sẽ dựa trên những chỉ tiêu đó để tính toán và đưa ra quyết định cho vay hay không. Các chỉ tiêu tài chính chính xác vừa khẳng định khả năng tài chính của doanh nghiệp vừa khẳng định khả năng quản lý của doanh nghiệp, là bước khởi đầu tốt cho quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp cũng không nên cố gắng đưa ra các chỉ tiêu tốt nhưng không phù hợp với thực tế hoạt động. Các cán bộ ngân hàng đặc biệt là những cán bộ tín dụng là những chuyên gia về tài chính, những con số doanh nghiệp cung cấp sẽ được các cán bộ này xử lý và đánh giá theo một quy trình chặt chẽ, vì thế việc thay đổi số liệu sẽ rất dễ bị phát hiện và gây mất lòng tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Các biện pháp sử dụng tiền vay hợp lý: Việc vay vốn đồng nghĩa với việc phải trả lại sau một khỏang thời gian. Do đó trước khi vay vốn doanh nghiệp cần có kế hoạch sử dụng vốn chi tiết, đầy đủ đảm bảo việc sử dụng vốn hiệu quả, đảm bảo khả năng trả gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn. Việc đưa ra một kế hoạch chi tiết, hiệu quả sẽ thể hiện nhu cầu vay vốn đúng đắn, trình độ quản lý và tầm nhìn của lãnh đạo doanh nghiệp. Đó cũng là những yếu tố được ngân hàng xem xét trong việc đưa ra quyết định cho vay. Cần tôn trọng các cam kết trong hợp đồng tín dụng: Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với một ngân hàng hay với các ngân hàng khác nhau sẽ là một quá trình liên tục cần thiết và được ghi chép đầy đủ. Các ngân hàng lại có mối quan hệ với nhau và có sự trao đổi thông tin. Vì thế, để giữ được quan hệ tốt đẹp với các ngân hàng cần tôn trọng tất cả các quy định trong mọi giao dịch, đó sẽ là cơ sở cho sự ủng hộ và đồng hành của ngân hàng với hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thể hiện thiện chí của việc vay và trả nợ với ngân hàng: Trong việc tiếp xúc với ngân hàng, thiện chí của khách hàng trong việc vay và trả nợ sẽ được ngân hàng ghi nhận và xem xét trong quyết định cho vay. Yếu tố này tưởng như không đáng kể khi xem xét cho vay những thực tế là dù doanh nghiệp có làm ăn tốt nhưng lại có dấu hiệu chây ỳ không muốn trả nợ thì rất khó có thể vay vốn của ngân hàng. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý hệ thống các ngân hàng thương mại, do đó: Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể các quyết định, chỉ đạo của cơ quản lý cho các ngân hàng thương mại, tránh sự nhầm lẫn, xung đột trong việc thực thi. Khoảng thời gian từ lúc ban hành một quyết định, quy định đến khi có sự thay đổi chúng cần được kéo dài hơn. Việc thay đổi liên tục sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc đầu tư thời gian tiền bạc để đào tạo cho cán bộ, hơn nữa trong hoạt động cũng sẽ dễ gây ra sai sót. Đảm bảo cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác cho các ngân hàng thành viên để các Ngân hàng Thương mại nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng Cần sớm đưa quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp tư nhân (tại Việt Nam thì đó chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Mặc dù quỹ đã được thành lập nhưng chưa thực sự hoạt động hiệu quả. Nguyên nhân chính là do nguồn vốn chính của quỹ này chủ yếu do các Ngân hàng Thương mại đóng góp, như vậy là có thể coi chính các ngân hàng bỏ tiền ra để đảm bảo cho chính hoạt động cho vay của mình, vì thế không ngân hàng nào muôn đóng góp. Thời gian tới cần có phương thức để mở rộng nguồn này thông qua trích một phần từ thuế và một phần từ quỹ dự trữ. Cần nâng cao năng lực quản lý và điều hành đối với các ngân hàng Thương mại. Như thế, sẽ đảm bảo tính an toàn và lành mạnh cho hoạt động của toàn hệ thống và của nền kinh tế. Kiến nghị đối với Chính phủ Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý. Tín dụng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng cũng phải một hành lang pháp lý chặt chẽ, chuẩn mực là cơ sở quan trọng cho sự mở rộng và phát triển. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phải hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đối tượng khách hàng của ngân hàng. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bền vững và lành mạnh, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động. Hành lang pháp lý rõ ràng còn tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý kiểm soát và ngăn chặn những vi phạm của doanh nghiệp. Như vậy sẽ giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. KẾT LUẬN Tín dụng ngân hàng là chức năng kinh tế quan trọng bậc nhất của các ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ đối với sự phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể kinh tế mở rộng quy mô, đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao tính cạnh tranh, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Do đó em lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam”, tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau: +Các vấn đề cơ bản của hoat động tín dụng và các nhân tố tác động tới hoạt động tín dụng +Thực tế hoạt động tín dụng tại Citibank: Những quy định và thực trạng hoạt động. Đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân của sự hạn chế trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Citibank Việt Nam. +Đề xuất một số giải pháp để mở rộng hoạt động tín dụng tại ngân hàng Citibank Việt Nam để tương xứng với tầm vóc và tiềm lực tài chính của ngân hàng. Với kinh nghiệm lâu năm kế thừa từ Citigroup, với uy tín trên toàn cầu, với khả năng tài chính và công nghệ ngân hàng hiện đại và với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, Citibank Việt Nam khi quan tâm và mở rộng hoạt động tín dụng đối với thị trường Việt Nam sẽ đem lại những hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp Việt Nam khẳng định chỗ đứng trong nền kinh tế thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình : “Quản trị ngân hàng thương mại” – Peter Rose, NXB Tài Chính 2001. Giáo trình “Lý thuyết tài chính tiền tệ” – PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, NXB Thống Kê, 2002 Giáo trình “Ngân hàng thương mại” – PGS.TS Phan Thị Thu Hà, NXB Thống kê 2004 Giáo trình “ Tài chính doanh nghiệp” – PSG.TS Lưu Thị Hương, NXB Giáo dục 2002. Branch Operation Memorandum cho sản phẩm tín dụng và thư tín dụng _ Citibank Việt Nam Quy trình hoạt động tín dụng của ngân hàng Citibank Việt Nam Luật các tổ chức tín dụng_ Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Báo cáo thường niên của ngân hàng Citibank Việt Nam (2004-2006 Tạp chí ngân hàng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9724.doc