Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Ninh Bình

Lời mở đầu Ngân hàng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, ngay từ khi ra đời đã có vai trò hết sức to lớn là thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngân hàng chính là nơi tích tụ, tập trung và thu hút mọi tiềm năng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, có tác dụng khuyến khích, hỗ trợ sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, n

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên thực tế trong những năm gần đây cho thấy ngân hàng chưa hoàn thành tốt vai trò của mình đối với nền kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Quy mô tín dụng ngoài quốc doanh mới chiếm một phần rất nhỏ bé trong tổng dư nợ, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Trong khi đây là khu vực năng động nhất, đóng góp vào GDP ngày càng lớn, có số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, nhất kể từ khi luật doanh nghiệp ra đời. Sự tăng lên về số lượng cũng như tỷ trọng đóng góp trong GDP là kết quả của những đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế này, được bắt đầu từ năm 1986, lần đầu tiên được nêu lên trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Không những thừa nhận sự tồn tại của kinh tế ngoài quốc doanh mà đã có những biện pháp tích cực để hỗ trợ, khuyến khích tạo điều kiện để khu vực này phát triển. Tuy nhiên ra đời càng nhiều, càng phát triển thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng đối mặt với tình trạng thiếu vốn trầm trọng, nhiều doanh nghiệp đã phá sản vì thiếu vốn, số còn lại phần nhiều hoạt động cầm chừng quy mô nhỏ bé...Trong khi tại các ngân hàng vốn huy động về bị ứ đọng không cho vay ra được, để tránh lỗ lãi suất huy động các ngân hàng phải đầu tư vào trái phiếu Chính phủ hoặc điều chuyển về ngân hàng nhà nước. Vấn đề đặt ra là cần có giải pháp nào kéo doanh nghiệp ngoài quốc doanh - một đối tác rất cần vốn và ngân hàng - một trung gian tài chính đang xảy ra tình trạng ứ đọng vốn, xích lại gần nhau cùng đem lại lợi ích thiết thực cho nhau. Trước thực tế đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình, em đã hướng sự quan tâm tìm hiểu của mình vào hoạt động tín dụng (cho vay) của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là hướng đi mới trong hoạt động tín dụng đối với Chi nhánh, nhưng cũng chính vì vậy hoạt động tín dụng còn nhiều vướng mắc, bất cập cần tìm hướng giải quyết. Với lý do đó em chọn đề tài: “Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình”. Đề tài này nhằm đưa những giải pháp tổng quát để mở rộng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, giải quyết tốt khâu sử dụng vốn của ngân hàng một cách an toàn và hiều quả. Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chương 2: Thực trạng tín dụng ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình. Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình. Trong thời gian hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Tiến sĩ. Đặng Ngọc Đức cùng các cô chú, anh chị phòng tín dụng I. Em xin chân thành cảm ơn! Do trình độ còn nhiều hạn chế lại nặng về lý thuyết, thời gian thực tập không dài mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát, xem xét thực tế hoạt động ngân hàng và so sánh với lý thuyết đã học. Cho nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, cần sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng Tài chính và những ai quan tâm đến đề tài này. Chương 1 Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.1. Khái quát chung về kinh tế ngoài quốc doanh 1.1.1. Kinh tế ngoài quốc doanh Ngay sau khi đất nước hoàn toàn độc lập thì KT-NQD đã tồn tại. Song còn nhỏ bé và ẩn dưới hình thức tổ hợp, hợp tác xã không chuyên và thành phần kinh tế tập thể. Các thành phần này thành lập theo phong trào ồ ạt, hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá không vì mục đích lợi nhuận. Với môi trường kinh tế không phù hợp như vậy, KT-NQD đã không phát huy được vai trò của mình. Nguyên nhân làm cho KT-NQD thời kỳ này không phát triển được do quan niệm: Sở hữu Nhà nước với chủ trương tập thể hoá nông nghiệp, cải tạo công thương tư nhân thành thành phần quốc doanh, công ty hợp doanh, hợp tác xã...dần dần quốc hữu hoá toàn bộ tư liệu sản xuất trong mọi TPKT quốc dân. Kết quả là nền kinh tế kém phát triển, mất cân đối nghiêm trọng, các nguồn lực trong nhân dân không được thu hút phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Từ Đại hội Đảng VI và VII, Đảng và Nhà nước ta đã thay đổi cách nhìn và khẳng định “Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế quan trọng, góp phần quyết định trong nền kinh tế quốc dân cần được đối xử công bằng”. Không những thế mà còn ưu tiên khuyến khích, tạo tiền đề cho TPKT này phát triển. Đảng đã xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan điểm của Lênin: “Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”- Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI. Kể từ đây nền kinh tế bao cấp đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận, đã thực sự quan tâm và đánh giá đúng mức khu vực KT-NQD. Do đó KT-NQD là một trong những lĩnh vực đầu tiên khởi sắc trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Nó phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lượng và có sức vươn lên mạnh mẽ làm sống động không khí đang đổi mới, nhất là vùng đô thị và trung tâm thương mại lớn. Chính phủ đã tạo điều kiện hoạt động cho khu vực kinh tế này, thể hiện rõ nét ở Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị. Các TPKT-NQD sẽ không bị phân biệt đối xử về mặt cung cấp nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế...nó được đối xử bình đẳng với các đơn vị KT-QD. Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định: “Mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền sỡ hữu và thu nhập hợp pháp của họ được bảo vệ, nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình kinh doanh phù hợp với đặc điểm và trình độ của lực lượng sản xuất nhằm tăng nhanh sự phát triển có hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Mọi đơn vị kinh tế, hệ thống sở hữu như thế nào đều hoạt động trong một hệ thống kinh doanh tự chủ, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô mà pháp luật không ngăn cấm...” Nhà nước đã xây dựng chính sách phát triển một nền kinh tế hỗn hợp, không phân biệt đối xử, không ép buộc tập thể hoá tư liệu sản xuất, không tước đoạt tài sản hoặc áp đặt cơ cấu kinh doanh, khuyến khích hoạt động có lợi. Để hoàn thiện và tạo môi trường hoạt động cho khu vực này Chính phủ đã ban hành luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật phá sản...và các luật này thường xuyên được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Như vậy Nhà nước đã tạo được môi trường pháp lý cho doanh nghiệp NQD phát triển theo cơ chế thị trường. Nếu doanh nghiệp nào hoạt động tốt thì tồn tại phát triển, còn doanh nghiệp nào hoạt động không có hiệu quả thì tự đào thải và rút khỏi thương trường đầy khắc nghiệt. Vì vậy doanh nghiệp trong khu vực KT-NQD không ngừng lớn mạnh về quy mô và chất lượng, đồng thời đang ngày càng hoàn thiện. Theo Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nền kinh tế nước ta được chia làm 5 thành phần: 1. Kinh tế nhà nước (KTNN): Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế. Khi bàn KTNN với tư cách là một tpkt, chúng ta phải hiểu đó là hệ thống các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. 2. Kinh tế tư bản nhà nước (kttbnn): Đây là tpkt dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa KTNN với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước bằng nhiều phương thức góp vốn hợp tác liên doanh nhằm phát huy thế mạnh của các bên tham gia, đặt dưới sự giúp đỡ của nhà nước. Về mặt tổ chức, kttbnn ở nước ta được cấu thành từ hai bộ phận ktnn phối hợp với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Song bộ phận thứ nhất rất nhỏ bé. Vì vậy, có thể coi sự phát triển kttb nước ngoài ở nước ta trong những năm qua là sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. 3. Thành phần kinh tế hợp tác (tpktht): Kinh tế hợp tác là một xu hướng tất yếu, một hình thức tổ chức kinh tế có vị trí vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội và trong cơ cấu các TPKT trong thời kỳ qúa độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta. Về bản chất, ktht là sự liên kết kinh tế tự nguyện đa dạng, đa mức độ của những người lao động, những người sản xuất để hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giải quyết có hiệu quả những vấn đề của sản xuất kinh tế và bảo vệ lợi ích kinh tế của mỗi thành viên. Ktht gồm các loại hình chủ yếu sau: - ktht giản đơn dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giản đơn giữa những người lao động, những người sản xuất nhỏ dưới hình thức tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. - ktht dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giữa các chủ thể, các pháp nhân kinh tế nhưng không làm phát sinh pháp nhân mới, đó là các hợp đồng, hợp tác kinh doanh, các hội nghề nghiệp, các hiệp hội. - ktht dựa trên cơ sở liên kết kinh tế chặt chẽ giữa những người lao động, những người sản xuất nhỏ dưới hình thức hợp tác xã, được gọi là kinh tế hợp tác xã và chỉ có hình thức này mới có thể coi là một TPKT. 4. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân (tpkt-tbtn): Đây là TPKT dựa trên hình thức sở hữu tư nhân Tư Bản Chủ Nghĩa về tư liệu sản xuất. Thành phần này được thành lập do sự góp vốn của các nhà kinh doanh trong và ngoài nước, với quy mô và trình độ tương đối lớn. Hình thành nên các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty hợp danh. 5. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là TPKT dựa trên hình thức sở hũu cá thể về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, tồn tại ở phạm vi tương đối lớn, bao hàm nhiều trình độ phát triển sản xuất khác nhau được phát triển trong các ngành nghề cả ở thành thị và nông thôn không hạn chế kinh doanh. Về thực chất, các tpkt là chủ thể của quá trình kinh tế mà tư cách pháp lý của họ được quy định bởi quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Là người chủ tư liệu sản xuất, họ có quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tư liệu sản xuất. Do đó có quyền quyết định tham gia hay không tham gia hoặc quyết định phạm vi mức độ của những hành vi kinh tế của họ trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ những tiêu thức đó các tpkt nước ta có thể chia thành. -Khu vực kt-QD. Thuộc sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. -Khu vực kt-NQD. Là tất cả các loại hình mà quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất trong đó hoàn toàn không có sở hữu nhà nước. Theo khái niệm này thì kt-NQD gồm: Kinh tế tư nhân, tổ hợp, hợp tác xã, các công ty, các xí nghiệp liên doanh và cổ phần không có vốn nhà nước. Sau một thời gian khôi phục và phát triển, đến nay KT-NQD đã đạt được những thành tựu quan trọng, ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế. Nó góp phần cân đối nền kinh tế, tạo nên sự sống động mới trong sản xuất kinh doanh, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tạo khả năng huy động phát triển từ nhân dân, mở ra khả năng to lớn trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Phát triển KT-NQD góp phần làm sống lại các ngành nghề truyền thống ở nông thôn, tạo ra môi trường cạnh tranh sôi động trong nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao trình độ lực lượng sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, tao ra nhiều hàng hoá cho thị trường, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Vì vậy nghiên cứu và tìm hiểu về KT-NQD sẽ giúp chúng ta nhân thức sâu sắc hơn về TPKT này, phát hiện những mặt mạnh, những hạn chế nhược điểm. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp, chính sách cho phép phát huy tốt hơn nữa những mặt mạnh, hạn chế khắc phục những hạn chế để KT-NQD thực sự trở thành một khu vực phát triển lớn mạnh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.2. Vai trò và định hướng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.1.2.1. Vai trò kinh tế ngoài quốc doanh Kinh tế ngoài quốc doanh là một lĩnh vực kinh tế rộng lớn và quan trọng trong cơ thể thống nhất của nền kinh tế nước ta. Hiện nay, khu vực này đã có mặt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, bao gồm nhiều TPKT tồn tại với quy mô đa dạng tạo nên lực lượng sản xuất to lớn, đóng góp quan trọng trong việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Nhờ đó hàng hoá sản xuất ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng, chất lượng không ngừng được nâng cao để thoả mãn nhu cầu xã hội, tạo ra khả năng lựa chọn nhiều hơn cho người tiêu dùng. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, KT-NQD là khu vực sản xuất kinh doanh năng động, nhạy bén có khả năng thích nghi và đáp ứng kịp thời mọi biến động của thị trường, nó cho phép huy động tối đa nguồn vốn trong dân cư để phát triển đất nước. Với tính tự chủ và khả năng thích nghi cao KT-NQD đóng một vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế, thể hiện thông qua các mặt sau. Thứ nhất: Thu hút và sử dụng hiệu quả các tiềm năng trong dân cư để phát triển kinh tế đất nước, giải quyết nạn thất nghiệp, tạo sự phát triển cân đối kinh tế. Đổi mới kinh tế và dân chủ hoá đời sống kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã tạo cơ hội cho các TPKT-NQD phát triển tiềm lực của mình hoà với tổng thể nền kinh tế. Các doanh nghiệp NQD thường được thành lập với lượng vốn đầu tư ban đầu không lớn và chủ yếu là của dân. Bản thân khu vực KT-NQD bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. Đặc tính này cho phép KT-NQD tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ nông nghiệp đến công nghiệp và dịch vụ. Sự tồn tại trên một phạm vi lớn trong nền kinh tế cho phép KT-NQD thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong dân cư vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong tiến trình cải cách và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp giao bán, khoán, cho thuê, chuyển đổi hình thức sở hữu...Làm phát sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ của một số ngành, khu vực kinh tế không có tầm quan trọng sống còn hoăc do nhà nước không đủ sức nắm giữ. Điều này lại tạo cơ hội cho KT-NQD mở rộng phạm vi hoạt động, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các lĩnh vực kinh tế quan trọng, càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Thất nghiệp là vấn nạn mà mọi quốc gia phải đối mặt. ở nước ta, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đang là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa cơ bản mà Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm giải quyết. Dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động cao, chiếm hơn 57% dân số, tỷ lệ gia tăng dân số cao. Số người hàng năm đến độ tuổi lao động như học sinh, sinh viên ra trường, bộ đội hết nghĩa vụ...ngày càng tăng, là áp lực gánh nặng đối với hoạt động quản lý xã hội. Chính các doanh nghiệp NQD với đặc tính của mình sẽ điều tiết phân giải lực lượng lao động trong các khu vực còn nhiều “khoảng trống”, góp phần giãn cách, điều hoà nhu cầu lao động. Mặt khác, sự hoạt động đa dạng trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế tạo nên sự đan xen cùng tồn tại thống nhất giữa KT-QD và KT-NQD, góp phần làm cân đối cơ cấu kinh tế. Phát triển kt-NQD là một chủ trương sáng suốt và đúng đắn của Đảng, phù hợp với đòi hỏi thực tế khách quan của thời đại, khẳng định tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, phù hợp với trình độ thực tế của lực lượng sản xuất ở nước ta - vốn kém phát triển lại không đồng đều giữa các vùng miền, tỉnh thành tạo nên nhiều trình độ khác nhau. Chỉ có phát triển kt-NQD mới cho phép sử dụng và phát huy mọi tiềm năng của đất nước vào công cuộc phát triển kinh tế. Thứ hai: Tạo ra quỹ hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu. Phương hướng sản xuất kinh doanh tại mỗi thời điểm, giai đoạn của nền kinh tế có những sự khác nhau. Trong thời kỳ 1986-1989 nước ta vẫn còn thiếu đói, hàng tiêu dùng khan hiếm trầm trọng. Mục tiêu của nền sản xuất lúc này là sản xuất đủ ăn, đủ tiêu dùng, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và tối thiểu của người dân. Vượt qua thời kỳ đó, nền kinh tế lại đặt ra những mục tiêu mới, phù hợp với tình hình thực tiễn như: Tăng năng lực sản xuất của xã hội, thay thế từng phần hàng hoá nhập khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tiến tới thay thế nhập khẩu bằng chính sách xuât khẩu. Để thực hiện được sách lược này, trong quá khứ và hiện tại, KT-NQD đóng một vai trò rất quan trọng, nó chứa đựng trong mình những đặc điểm cho phép thực hiện tốt được vai trò đó. Có thể kể ra như quy mô gọn nhẹ, nhậy bén, nhanh chóng chuyển đổi đối tượng sản xuất để hướng tới những mặt hàng mà thị trường đang có nhu cầu, những lĩnh vực đang được nhà nước ưu tiên ưu đãi, bảo hộ, có khả năng đem lại lợi nhuận cao. Sự phát triển KT-NQD đã khơi gợi tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn trong dân, tiếp thu chuyển giao công nghệ của nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là sự sống lại của các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản phẩm có giá trị xuất khẩu, góp phần đổi mới kinh tế nông thôn, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Bảng về giá trị sản xuất Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Quy mô (%) Quy mô (%) Quy mô (%) Tổng Số 335.441 100 375.800 100 434.365 100 KTNN 154.927 46,19 170.141 44,9 186.958 43,04 KT-NQD 180.514 53,81 205.659 55,1 247.407 56,96 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002) Bảng trên cho thấy, giá trị sản xuất khu vực NQD liên tục gia tăng qua các năm cả về quy mô và tỷ trọng. Sự gia tăng này không phải do KTNN ngày càng giảm đi mà do giá trị sản xuất trong khu vực NQD tăng với tốc độ lớn hơn tốc độ tăng trong KTNN. Kinh tế NQD đã đóng góp hơn 50% tổng giá trị sản xuất, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tỷ trọng này cần phải tiếp tục nâng cao. So với Trung Quốc, một nước có hoàn cảnh lịch sử và kinh tế tương đồng với nước ta, thì tỷ lệ giữa hai khu vực KTNN và KT-NQD này là 3:7 mà không sợ chệch hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực này bằng các chính sách cụ thể hơn, thiết thực hơn theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Thứ ba: Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống dân cư Kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển đóng góp rất lớn vào ngân sách nhà nước. Sự ra đời ngày càng nhiều và hoạt động có hiểu quả của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực này sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua hoạt động đóng thuế. Đóng thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân và các tổ chức kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, chiếm tới 86%. Trên thực tế, KT-NQD đóng góp khoảng 40 - 47% ngân sách nhà nước hàng năm. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo nguồn thu ngân sách nhà nước. Do vậy để tăng nguồn thu ngân sách lành mạnh, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh trên tất cả các TPKT. Bản thân KT-NQD phát triển không chỉ đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn đem lại nhiều lợi ích khác như tạo thêm công ăn việc làm mang lại thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống của dân cư. Vì vậy, KT-NQD đang là khu vực được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý và dành những ưu tiên nhất định để hỗ trợ khuyến khích phát triển. Thứ bốn: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình cnh-hđh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong nền kinh tế trường lợi ích và lợi nhuận là nhân tố quyết định những vấn đề từ tổng thể đến cục bộ của một doanh nghiệp. Lớn thì ảnh hưởng đến ngành nghề kinh doanh, phương hướng sản xuất, nhỏ thì ảnh hưởng đến chiến lược sản phẩm...Các doanh nghiệp thuộc khu vực NQD cũng hoạt động như bao doanh nghiệp khác, tức là lấy mục tiêu lợi nhuận và không ngừng tăng cường lợi nhuận làm tôn chỉ và mục đích. Do đó, bằng việc ban hành các văn bản chế độ, chính sách phát triển kinh tế nhà nước sẽ dẫn dắt và định hướng sự phát triển KT-NQD. Sự phát triển của KT-NQD sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Hiện nay trong cơ cấu kinh tế nước ta, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng khá cao, tới hai con số (chiếm 23,3%) trong khi ở các nước phát triển tỷ trọng này dưới 10%, nó phản ánh một cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, một nước còn nặng nông ngiệp. Vì vậy phương hướng phát triển trong tương lai là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cho chúng chiếm chủ yếu trong nền kinh tế, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế tạo máy, xây dựng...làm tiền đề cho một nền sản xuất lớn ra đời. Tuy nhiên không thể một sớm một chiều đã có thể tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý ngay được mà phải có thời gian. Giai đoạn đầu nên tập trung vào những ngành gia công, chế biến công nghiệp những sản phẩm nông nghiệp nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm, hàm lượng giá trị, tăng tính thương mại của sản phẩm. Đồng thời quá trình phát triển các doanh nghiệp NQD cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH không chỉ diễn ra trên chiều rộng mà cả chiều sâu. Thứ năm: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các TPKT không tồn tại biệt lập, phát triển trong những khu vực riêng mà chúng đan xen tồn tại và thống nhất. KT-NQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, tồn tại trên một phạm vi rộng lớn cả về mặt địa lý cũng như ngành nghề kinh tế. Tất cả những điều này làm cho KT-NQD và KT-QD sản xuất kinh doanh những sản phẩm có những đặc tính tương tự nhau. Kết quả chúng phải cạnh tranh với nhau trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là điểm khởi đầu của sự phát triển, nó phá bỏ thế độc quyền đang tác động như những nhân tố làm trì trệ và cản trở nền kinh tế phát triển. Đối với KT-QD, KT-NQD tạo ra sức ép, buộc phải tham gia cạnh tranh, đồng thời có tác dụng hỗ trợ phát triển. Môi trường cạnh tranh sẽ buộc KT-QD quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng chiến lược, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Đối với nền kinh tế, KT-NQD bù đắp những chỗ hổng hụt mà KT-QD chưa cáng đáng hết. Trên cơ sở đó tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng lên trong khi giá thành ngày một hạ, làm tiền đề cho những sự lưa chọn sản phẩm hàng hoá mà người tiêu dùng ưa thích. Xoá bỏ cục diện “người tìm hàng”, người sản xuất “bán cái mình có” thay vào đó là “hàng tìm ngừơi” và người sản xuất “chỉ sản xuất cái mà thị trường cần”. Thứ sáu: Về phía ngân hàng kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tạo ra thị trường vốn, tín dụng, làm nên sự phát triển ổn định của ngân hàng. Sự xuất hiện và phát triển của KT-NQD đã tạo ra một phân đoạn thị trường thường xuyên đối với ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng các doanh nghiệp NQD đã tạo ra một nhu cầu to về vốn và nhu cầu tín dụng cũng như các dịch vụ tiện ích khác mà ngân hàng cung cấp. Điều này sẽ tạo điều kiện cho ngành ngân hàng ngày càng phát triển. Như chúng ta biết, hoạt động ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó KT-NQD chiếm một tỷ lệ đáng kể, do vậy trong tương lai khu vực KT-NQD sẽ là thị trường đầy triển vọng của ngành ngân hàng. 1.1.2.2. Định hướng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nhu cầu vốn Về mặt đường lối, Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm về phát triển KT-NQD là: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là những bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể tiểu chủ được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích và phát triển rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh pháp luật không cấm”. Như vậy Đảng và Nhà nước đã coi KT-NQD là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của công dân, giải phóng triệt để lực lượng sản xuất để mọi người dân đều có thể làm giầu cho mình và xã hội. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của khu vực KT-NQD trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt nam lần thứ năm khoá IX đã ra Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã khẳng định: “Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa...”. Nhờ có những chủ trương đúng đắn mà tính đến thời điểm cuối năm 2002, sau 3 năm thực hiện luật doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng lên đến 93.000 doanh nghiệp tư nhân. Riêng 3 năm (từ 2000-2002) đã có 55.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký lên tới 8.000 tỷ đồng. Kinh tế tư nhân đã huy động 300.000 tỷ đồng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thu hút và tạo thu nhập, ổn định cho 5 triệu lao động có việc làm thường xuyên. Mặc dù vậy tổng số vốn trong dân còn rất lớn. Theo ước tính của các chuyên gia tài chính thì nguồn vốn trong dân ước khoảng 10,8 tỷ USD, đây là chưa tính đến nguồn kiều hối của khoảng 2,5 triệu người Việt kiều. Tiềm năng là như vậy song trên thực tế tổng số vốn đầu tư chưa tương xứng với tiềm lực của khu vực này. Chính vì vậy đề ra hướng phát triển KT-NQD theo quan điểm “Phát triển và quản lý các loại hình doanh nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, và kinh tế cá thể” là thực sự cần thiết với những nội dung cụ thể sau: Tạo môi trường thúc đẩy cạnh tranh bằng cách hoàn thiện môi trường kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cạnh tranh một cách bình đẳng, sửa đổi bổ sung văn bản pháp quy về các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Phát triển hợp tác xã liên kết giữa các thành phần kinh tế dựa trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng. Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng như đối với những doanh nghiệp thuộc các TPKT khác; bảo đảm kinh tế tư nhân được tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư theo mục tiêu được nhà nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc...), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nhà nước có chính sách thích hợp về thuế, có thể giảm thuế đối với những mặt hàng sản xuất và tiêu dùng trong nước, những mặt hàng xuất khẩu, giảm thuế đối với những doanh nghiệp hoạt động ở các vùng kinh tế kém phát triển, các doanh nghiệp có vốn lớn nhưng sử dụng nhiều lao động áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp đối với máy móc thiết bị chưa sản xuất được trong nước. Giúp đỡ các doanh nghiệp về đào tạo, hướng nghiệp và thông tin thị trường. Mặc dầu có nhiều cố gắng trong việc tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp NQD song còn nhiều bất cập, hạn chế phát sinh. Một phần do những nguyên nhân khách quan như nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ, còn đang trong giai đoạn sơ khai cho nên không tránh khỏi những bất cập. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn nữa đối với TPKT này trong thực tiễn ở các nước có hoàn cảnh tương đồng với Việt nam cũng như trong nền kinh tế Việt nam nhằm đưa ra những chính sách đúng đắn thúc đẩy KT-NQD phát triển. 1.1.3. Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh 1. Quy mô vốn nhỏ bé nghèo nàn. Xuất phát điểm đổi mới kinh tế của chúng ta thấp: Một nước thuần nông, dân số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp tại thời điểm đổi mới chiếm tới 92%, đóng góp 95% tổng giá trị quốc nội, công nghiệp và dịch vụ gần như không đáng kể. Hoạt động nông nghiệp được coi là hoạt động sản xuất chính. Hơn nữa chúng ta trải qua hai cuộc chiến tranh liên miên, nhiệm vụ chính của thời chiến là mọi người cầm súng đánh đuổi giặc ngoại xâm, phát triển kinh tế chỉ là thứ yếu. Cho nên, nền kinh tế vốn thuần nông, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại không có điều kiện phục hồi phát triển. Một lý do khác, thời gian chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Do đó không có quá trình tích tụ và tập chung vốn, KT-NQD ở nước ta chủ yếu dựa trên sở hữu tư nhân về vốn và tư liệu sản xuất nên nguồn vốn kinh doanh của khu vực này mang tính chất nhỏ bé nghèo nàn. Đây là đặc điểm chính, nổi bật nhất của KT-NQD. Nó không chỉ là vấn đề của riêng KT-NQD mà còn là vấn đề chung của toàn bộ nền kinh tế nước ta. Là vấn đề cấp thiết nhất trong các vấn đề KT-NQD phải đối mặt, đang đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng. Để có những biện pháp hữu hiệu cần phải có những nghiên cứu sâu sẵc về nguồn vốn kinh doanh của khu vực này. Như chúng ta đã biết, nguồn vốn gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Nợ khi phân theo thời hạn gồm nợ ngắn hạn và dài hạn. Vốn chủ sở hữu gồm vốn tự có, vốn góp, các loại cổ phiếu, trái phiếu, lợi nhuận giữ lại. Tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu gọi là cơ cấu vốn. Nghiên cứu thực tế hoạt động doanh nghiệp NQD cho thấy cơ cấu vốn của khu vực này thấp, chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vốn huy động rất nhỏ bé. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp NQD đã chủ động tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động như từ bạn bè, người thân, từ phía ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Trong các nguồn vốn đó, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất nó có thể thoả mãn mọi nhu cầu vốn của doanh nghiệp về quy mô, thời hạn, phương thức vay trả, có lãi suất hợp lý...Hơn nữa khi quan hệ với ngân hàng, các doanh nghiệp có thể được hưởng ưu đãi, miễn phí một số dịch vụ như tư vấn, hướng dẫn...Mặc dù đóng vai trò quan trọng nhưng nhìn chung việc vay được vốn ngân hàng không phải là dễ dàng, điều này xuất phát từ cả hai phía. Về phía doanh nghiệp có những lý do như tài sản thế chấp không có hoặc có giá trị thấp không đủ đảm bảo vốn vay, vốn tự có tham gia vào dự án không có hoặc không đảm tỷ lệ yêu cầu của ngân hàng, kinh nghiệm quản lý yếu kém, uy tín chưa cao. Những nhân tố này tác động tiêu cực đến quyết định cho vay của ngân hàng vì nó có thể dẫn đến một nguy cơ mất vốn cao. Mặt khác, về phía ngân hàng tâm lý dè dặt, đối xử phân biệt là còn tồn tại do những khoản vỡ nợ trong khu vực này là rất cao. Vì vậy cần tìm ra những giải phá._.p tháo gỡ khó khăn nói trên, để tín dụng ngân hàng trở thành một kênh huy động vốn thuận lợi cho các doanh nghiệp. 2. Trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Xuất phát từ khó khăn do vốn ít, lại bị ràng buộc cơ chế quản lý kinh tế bảo thủ lỗi thời, bị Mỹ cấm vận kinh tế trong một thời gian dài làm cách biệt với nền khoa học công nghệ hiện đại của thế giới nên trình độ trang bị về kỹ thuật công nghệ của khu vực NQD nghèo nàn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh chủ yếu là nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ và đã qua tân trang lại hoặc các công nghệ cũ đã bị thải loại ở những nước phát triển, bằng nhiều con đường được đưa vào Việt Nam. Tuổi thọ của chúng khá cao thường trên 20 năm, phần lớn đã trích hết khấu hao. Khi cấm vận kinh tế bị bãi bỏ, giao lưu kinh tế quốc tế được mở rộng và tăng cường, Việt nam tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá. Trong quá trình đó Việt nam có điều kiện tiếp cận và học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm cơ sỏ cho quá trình chuyển giao công nghệ. Kết quả, chuyển giao công nghệ diễn ra ngày một nhiều, song chưa đáng kể, mới chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực của nền kinh tế. Do trình độ công nghệ quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cho nên kỹ thuật công nghệ lạc hậu tất yếu cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao mà hệ quả của nó là sức cạnh trạnh của sản phẩm trên thị trường thấp, hiệu quả kinh doanh hạn chế. Vì vậy cần có chính sách đầu tư, chính sách tài chính, tín dụng hợp lý và hiệu quả nhằm giải quyết những khó khăn trở ngại về kỹ thuật công nghệ của khu vực KT-NQD. 3. Trình độ quản lý kinh doanh non yếu, năng lực tay nghề người lao động thấp. Trong những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp thì yếu tố quản lý được đặt lên vị trí hàng đầu, như các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý thường nói: Quản lý dường như là vấn đề năng khiếu, nhưng lại được cấu thành hai bộ phận hữu cơ là khoa học và nghệ thuật. Do đó, dù có năm vững nguyên lý quản lý cũng chưa chắc đã làm được quản lý vì khoa học mới chỉ bao hàm vấn đề trình độ mà chưa nói lên bề dày kinh qua thực tế. Ngược lại, có bề dày thực tiễn nhưng lại thiếu trình độ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt nam - khi mà các chức năng, nhiệm vụ doanh nghiệp chưa phân tách rạch ròi, đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải kiêm nhiều chức, năng nhiệm vụ, quản lý nhiều mặt thì sự thất bại đổ bể luôn có thể xảy ra. Vì vậy, một nhà quản lý vừa phải có trình độ vừa có kinh nghiệm thực tiễn. Vấn đề này tỏ ra khó đáp ứng đối với khu vực KT-NQD. Một mặt, do thời gian chuyển sang kinh tế thị trường chưa được bao lâu các “ông chủ” của các TPKT-NQD chưa có kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong kinh tế thị trường, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh chưa được chuẩn bị, đào tạo và bồi dưỡng có hệ thống cho nên các loại hình sản xuất kinh doanh NQD đều phát triển theo hướng tự nhiên chỉ thấy lợi là làm. Đội ngũ những nhà quản trị thì như vậy, nhưng tình hình đội ngũ người lao động cũng không lấy gì làm sáng sủa khả quan. Người lao đông trong khu vực này nói riêng và trong nền kinh tế nói chung đều có kỹ năng thấp, rất ít được qua đào tạo, chủ yếu lao động phổ thông, đây cũng là đặc điểm chung của lao động nước ta. Kinh tế ngoài quốc doanh đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, tỷ trọng đóng góp GDP ngày càng tăng. Tuy nhiên để thực hiên được vai trò của mình trong nền kinh tế cũng như đường lối chiến lược phát triển kinh tế trong tương lai: “Vào năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” thì KT-NQD cần phải có những bước chuyển mạnh mẽ hơn nữa. Trong đó nâng cao trình độ quản lý, năng lực tay nghề của người lao động là quyết định, bởi vì trong bất kỳ hoạt động thực tiễn nào con người luôn là nhân tố trung tâm, nhân tố quyết định mọi nhân tố khác. Vai trò của nhà nước trong quá trình đó là hết sức lớn lao. Bằng cách thành lập các hội hướng nghiệp, hội doanh nghiệp, hội các nhà sản xuất nhỏ, tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, chương trình phổ biến kinh nghiệm sẽ tạo điều kiện để người lao động năng cao tay nghề, nhà quản lý học hỏi kinh nghiệm. 4. Môi trường sản xuất kinh doanh và thị trường không ổn định. Từ khi được thừa nhận tồn tại vào năm 1986 đến nay, Đảng và Chính phủ đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật, các chính sách và chủ trương có liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện hỗ trợ KT-NQD phát triển. Như các chính sách phát triển công nghiệp, nội ngoại thương, chính sách tài chính...Tuy đã có nhiều cố gắng song môi trường pháp lý còn nhiều bất ổn, hành lang pháp lý chưa thực sự thông thoáng, chính sách kinh tế tài chính còn chung chung thiếu cụ thể rõ ràng nhằm tạo điều kiện cho KT-NQD phát triển. Như quyền bình đẳng pháp lý giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh mặc dầu đã được thừa nhận nhưng trong các chính sách kinh tế điều đó vẫn chưa nhất quán, đặc biệt trong chính sách thuế, tín dụng, vốn... Các sản phẩm KT-NQD nhìn chung có thị trường nhỏ bé, mặc dù nhu cầu về chúng rất lớn. Sở dĩ có điều này do khâu chất lượng sản phẩm thấp, bao bì mẫu mã còn thô vụng chưa thực sự thu hút lôi kéo người tiêu dùng. Nó có nguyên nhân sâu xa từ vốn ít, công nghệ lạc hậu. Còn nguyên nhân gián tiếp là chính sách kinh tế mở, đầu tư của nước ngoài vào Việt nam đã làm cho hàng ngoại nhập tràn làn, hàng lậu với giá rẻ do trốn thuế và có chất lượng cao hơn. Do đó các doanh nghiệp bị động và lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch, phương hướng sản xuất kinh doanh và chiến lược đầu tư nên phương thức kinh doanh chủ yếu là “đánh quả”, “chụp giật”, rủi ro là rất lớn. Đặc điểm này đã gây trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp NQD, vì ngân hàng không muốn đầu tư vốn đối với những khách thể không có phương thức sản xuất kinh doanh an toàn và hiệu qủa. Ngoài ra, các doanh nghiệp NQD thành lập và hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ là chủ yếu, chiếm tới hơn 70%. Đối với thực tế nền kinh tế nước ta mà nói, phương hướng phát triển hợp lý là đầu tư vào sản xuất. Một nền sản xuất phát triển đảm bảo cung ứng phong phú và đa dạng các loại sản phẩm cho trường, trên cơ sở đó thương mại và dịch vụ có điều kiện phát triển và khẳng định vị trí của mình trong cơ cấu kinh tế. 1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh 1.2.1. Tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế hiện nay có rất nhiều TPKT cùng tồn tại và hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Do sự khác biệt về ngành nghề kinh doanh, đối tượng sản xuất, công nghệ...dẫn đến hiện tượng, tại một thời điểm có nhiều tổ chức kinh tế phát sinh nhu cầu vốn cho sản xuất và có các đơn vị kinh tế khác nhàn rỗi về vốn. Mâu thuẫn này tồn tại đan xen trong quá trình tuần hoàn vốn, hình thành nên cung cầu về vốn. Để giải quyết vấn đề này cần tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi lại rồi phân bổ chúng trên cơ sở có hoàn trả gốc và lãi. Quan hệ đó được gọi là quan hệ tín dụng, người đứng ra làm trung gian điều hoà vốn là các ngân hàng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời hạn nhất định được quay trở lại với người chủ sở hữu bằng một lượng giá trị lớn hơn với giá trị ban đầu. Tín dụng ngân hàng là hình thức cấp tín dụng trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích trong một thời gian nhất định theo thoả thuận giữa hai bên với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là quan hệ gián tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Khác với hình thức tín dụng trực tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. 1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng Dựa vào các tiêu thức phân loai khác nhau ta có thể chia ra các hình thức tín dụng khác nhau: Căn cứ vào thời hạn của khoản vay - Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn vay từ một năm trở xuống nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. - Tín dụng trung và dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn vay trên một năm. Gồm cho vay trung hạn từ 1 - 5 năm, cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên nhưng không được vượt quá thời hạn hoạt động của đơn vị theo quết định thành lập và không quá 15 năm đối với những dự án phục vụ đời sống. Cho vay trung và dài hạn nhằm đầu tư cho phát triển như các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào mức độ đảm bảo - Cho vay có đảm bảo: Là việc cho vay mà người vay phải có tài sản thế chấp hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ 3 có năng lực hoàn trả. - Cho vay có không đảm bảo: Là việc cho vay dựa trên mức độ tín nhiệm, tin cậy mà ngân hàng không cần bảo đảm, thế chấp cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ 3. Căn cứ vào đối tượng cho vay - Cho vay kinh tế quốc doanh: Là hình thức cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước. - Cho vay kinh tế ngoài quốc doanh: Là việc cho vay của ngân hàng đối với các TPKT-NQD như Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân... Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay - Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá. Khoản vay sẽ được dùng nhằm trang trải cho chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thanh toán chi trả giữa các doanh nghiệp. - Cho vay tiêu dùng: Là hình thức cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm hàng hoá, xây dựng nhà ở... 1.2.3. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh 1.2.3.1. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh Hoạt động ngân hàng là hoạt động gắn bó hữu cơ với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế quốc dân muốn mở rộng và phát triển thì không thể không kể đến nguồn vốn ngân hàng tài trợ. Ngược lại nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói cách khác, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp là hiệu quả của ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng. Vì vậy khi cho các doanh nghiệp vay vốn phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn, xem có sử dụng đúng mục đích không, có hiệu quả không? Thực hiện điều này rất khó, nhất là đối với các doanh nghiệp NQD do những đặc điểm đặc thù của thành phần này đem lại như: Tồn tại và hoạt động trong một phạm vi rộng lớn cả về mặt không gian lẫn ngành kinh tế, trình dộ quản lý yếu kém, am hiểu về luật pháp và cơ chế kinh tế thị trường thấp...Đến lượt nó những khó khăn này làm cho KT-NQD khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong thực tế nhiều khách hàng NQD vay vốn không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh mà phải nhờ sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng, có khi phương án sản xuất kinh doanh không đúng với tình hình sản xuất của khách hàng. Đặc biệt nổi cộm lên vấn đề tổ chức hạch toán kinh tế và tổ chức quản lý tài chính theo đúng pháp luật kế toán và thống kê. Sổ sách ghi chép không khoa học, nhập nhằng, rối ren; báo cáo tài chính là hình thức, số liệu không phản ánh đúng sự thật. Tất cả những điều này gây ra khó khăn cho ngân hàng trong công tác thẩm định và quyết định cho vay, tạo tâm lý e dè đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần này. Để có thể được vay vốn, khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ một cách đầy đủ của người vay vốn đối với ngân hàng, thực hiện an toàn cho đồng vốn tài trợ. Tình trạng người vay không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng giá trị thấp không đảm bảo được cho món vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án thấp hơn tỷ lệ yêu cầu của ngân hàng là thường xuyên phổ biến. Thực tế cho thấy nhiều khách hàng vay vốn ngân hàng thường xuyên chỉ dùng một tài sản thế chấp. Những lần vay sau, theo quy đinh của Nhà nước phải làm công chứng gây phiền hà cho người vay, giải quyết mâu thuẫn này nhiều ngân hàng đã cho vay theo kế hoạch dẫn đến món vay ngắn hạn nào cũng cho vay theo kế hoạch không phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn thực tế của người vay. Trong quá trình thực hiện khoản vay việc giám sát hoạt động sử dụng vốn vay của khách hàng NQD để đảm bảo khách hàng sử dụng đúng mục đích và hiệu quả còn nhiều khó khăn vì ngân hàng chưa có công cụ để kiểm tra quan hệ mua bán chịu hàng hóa giữa các doanh nghiệp với nhau. Khi khoản vay có vấn đề thì việc thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là việc giải quyết tài sẩn thế chấp vì nó liên quan đến nhiều bên, nhiều thủ tục pháp lý từ phía cơ quan pháp luật. 1.2.3.2. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh Chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trước tiên phải có vốn (vốn bằng tiền) mà để có vốn thì phải có tổ chức đủ chức năng để huy động và tập trung nó trước khi đem sử dụng. ở bất kì quốc gia nào thì việc này do hai tổ chức thực hiện: Tổ chức tài chính (các cơ quan tài chính) và các tổ chức tín dụng. Điều này chủ yếu được thực hiên bởi các tổ chức tín dụng,vì như Mác nói “Một mặt, ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của người có tiền cho vay, mặt khác nó là sự tập trung của người đi vay”.Vậy là tín dụng ngân hàng đã đóng góp vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế từ buổi sơ khai cho đến các ngân hàng hiên đại ngày nay. Nó góp phần thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội nâng cao khả năng sử dụng vốn, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. Đặc biệt đối với KT-NQD tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau. Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều kiện tiên quyết đối với việc ra đời và phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh là vốn. Để thực hiện quá trình sản xuất cần có một nguồn vốn đủ để mua sắm tài sản cố định, tài sản lưu động và tài trợ cho các chi phi cần thiết khác. Và nguồn vốn được xem là quan trọng nhất để tài trợ cho những hoạt động này là tín dụng ngân hàng. Nếu chỉ dựa vào vốn tự có và tín dụng thương mại thì không đủ để tồn tại, cạnh tranh và phát triển. Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn quan trọng nhất tài trợ cho sự ra đời của các doanh nghiệp, tạo cơ sở vật chất cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động. Tín dụng ngân hàng tham gia vào tất cả các khâu từ quá trình sản xuất đến lưu thông hàng hoá. Đối với ngành sản xuất, chế biến, khai thác...để đảm bảo sản xuất kinh doanh liên tục cân thiết phải có vốn để dự trữ nguyên liệu, thành phẩm, bù đắp các chi phí sản xuất. Tất cả các công việc đó sẽ không thực hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng. Trong lĩnh vực lưu thông để đảm bảo đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp NQD cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần thiết và trang trải các chi phí lưu thông, thuế... Mà những doanh nghiệp này có số vốn hoạt động nhỏ vì vậy để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Thứ hai: Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng. Sản xuất và không ngừng mở rộng sản xuất là mục tiêu của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, để nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, tạo lợi thế trong cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, đặc biệt trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như ngày nay đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Trong khi tích luỹ nội bộ doanh nghiệp chưa đủ thì tín dụng ngân hàng trở thành một nguồn quan trọng cho phép thực hiện điều này. Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp sẽ được thoả mãn nhu cầu vốn, kết quả hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trường đạt được hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Thứ ba: Tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập, tăng cường công tác hạch toán kế toán. Các doanh nghiệp là người chiu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của chính mình nên khi vay vốn họ phải tính toán làm sao đồng vốn vay được sử dụng hiệu quả nhất, tạo ra nhiều lợi nhuận nhất đồng thời đảm bảo hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Chính đặc điểm hoàn trả mà tín dụng ngân hàng buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tính toán chăt chẽ và cụ thể chi phí, tìm mọi cách tăng tốc độ quay vòng của vốn. Mặt khác, muốn vay được vốn ngân hàng bản thân các doanh nghiệp phải lập được và chứng minh được tính trung thực, tính minh bạch của các báo cáo tài chính. Để làm được điều này các doanh nghiệp buộc phải tổ chức công tác hạch toán chính xác và chặt chẽ theo pháp lệnh kế toán. Như vậy tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao chất lượng công tác hạch toán. Thứ bốn: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn sản xuất. Các xí nghiệp và công ty làm ăn hiệu quả, có uy tín sẽ được ngân hàng tập trung vốn nên có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ và cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo tiền đề vật chất quan trọng cho các công ty, xí nghiệp trong nước lớn mạnh đủ sức vươn ra thị trường quốc tế, đưa nền kinh tế Việt nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới. 1.3. ý nghĩa của vịêc mở rộng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh Qua nghiên cứu đặc điểm, vai trò của KT-NQD trong nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy việc mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với khu vực kinh tế này là hết sức quan trọng, bởi vì khu vực KT-NQD còn tiềm ẩn những khẳ năng to lớn mà chúng ta chưa khai thác được. Theo chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì việc mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ góp phần tạo ra sự phát triển cân bằng và ổn định cho nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Về phía các doanh nghiệp NQD tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, tăng năng xuất lao động làm tiền đề cho qúa trình CNH-HĐH ở nước ta. Mặt khác việc mở rộng hoạt động tín dụng sẽ giúp ngân hàng ngày càng năng động hoàn thiện mình hơn nữa, giữ vững vai trò là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế đặc biệt trong giai đoạn đang diễn ra sự cạnh trạnh gay gắt giữa các ngân hàng trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Hiện tại và tương lai KT-NQD luôn được khẳng định là khu vực kinh tế quan trọng trong nền kinh tế nhưng vẫn còn đầy tiềm năng phát triển. Do đó việc mở rộng tín dụng đối với khu vực này sẽ là một chiến lược phát triển của ngân hàng. Chương 2 Thực trạng tín dụng ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình 2.1. Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHĐT&PT Ninh Bình gắn liền với sự ra đời và phát triển của NHĐT&PT Việt nam, NHĐT&PT Hà Nam Ninh cũ. Vì vậy nghiên cứu quá trình hình thành và phá NHĐT&PT Việt nam là hỗ trợ phát triển kinh tế, khắc phục t triển của Chi nhánh phải bắt đầu từ sự ra đời và phát triển của NHĐT&PT Việt nam. NHĐT&PT Việt nam được thành lập theo Nghị định số 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính phủ và được thành lập lại theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước theo Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. NHĐT&PT Việt nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt giữ vai trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư và phát triển, là ngân hàng chuyên doanh về lĩnh vực đầu tư và phát triển được thành sớm nhất tại Việt nam, cho đến nay đã có 46 năm hoạt động và trưởng thành. Có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong và ngoài nước để cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển; kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng Trong 46 năm hoạt động, xây dựng, tăng trưởng và đổi mới NHĐT&PT Việt nam gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước, thực hiện tốt các vai trò do Đảng và Nhà nước giao phó góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo tổ quốc. Từ khi thành lập đến nay NHĐT&PT Việt nam không phải đã có ngay tên gọi như bây giờ và cũng chưa có ngay các chức năng như hiện nay, mà đã từng có nhiều tên gọi, nhiều chức năng. Đó là một quá trình phát triển liên tục theo hướng hoàn thiện lâu dài. NQ177/TTg ngày 26/4/1957 đã khai sinh ra NHĐT&PT Việt nam nhưng khi đó nó mang tên Ngân hàng Kiến thiết Việt nam với mục đích thay thế cho Vụ Cấp phát vốn Kiến thiết cơ bản và trực thuộc Bộ Tài chính, ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát vốn ngân sách cho kiến thiết cơ bản nhằm phục hồi kinh tế, hỗ trợ cho các cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Ngày 24/6/1981, HĐBT (nay là Chính phủ) ra quyết định số 259/HĐBT về việc chuyển Ngân hàng Kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ Tài chính thành “Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam” trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Với quy định này ngân hàng được tổ chức như một doanh nghiệp quốc doanh, có nhiệm vụ mới là thu hút và quản lý nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách cấp hoặc không đủ vốn tự có, làm đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư. Cho đến lúc này ngân hàng vẫn chưa thực hiện chức năng kinh doanh. Đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế, ngày 14/11/1990 Chủ tịch HĐBT ra quyết định thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thay thế cho Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng cũ. Bây giờ, ngân hàng có chức năng huy động vốn trung dài hạn trong và ngoài nước để đầu tư và phát triển, độc lập trong hạch toán kế toán và tự chịu trách nhiệm trước Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ trong hoạt động kinh doanh của mình. Một trong các chức năng ban đầu của hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước vững mạnh. Nhằm thực hiện chức năng này các Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư đã đựoc thành lập ở các tỉnh thành phố lớn dưới sự quản lý trực tiếp của NHĐT&PT Việt nam, NHĐT&PT Hà Nam Ninh đã ra đời trong bối cảnh đó. Trước năm 1992, NHĐT&PT Ninh Bình là Chi nhánh khu vực trực thuộc NHĐT&PT Hà Nam Ninh (cũ). Sau ngày tái lập tỉnh (tháng 4/1992), NHĐT&PT Ninh Bình trở thành Chi nhánh trực thuộc NHĐT&PT Việt nam. Chi nhánh NHĐT&PT Ninh Bình được thành lập theo Quyết định số 27/ QĐ-NH9 ngày 29/01/1992 của Thống đốc NHNN Việt nam. Từ 1992-1994 Chi nhánh làm nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách nhà nước để đầu tư cho hạ tầng cơ sở như: Xây dựng trạm điện, xây dựng và cải tạo hệ thống thuỷ lợi nông thôn, mở rộng và xây dựng mới các tuyến đường giao thông có ý nghĩa chiến lược kinh tế của tỉnh. Từ tháng 4/1994 đến tháng 1/1995. NHĐT&PT Ninh Bình đã cho vay hàng trăm tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch nhà nước đối với các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh...Các dự án kinh tế được đầu tư vốn đi vào sản xuất bước đầu có hiệu quả tạo công ăn việc làm và nộp ngân sách cho nhà nước. Sau những năm làm nhiệm vụ cấp phát và cho vay theo kế hoạch nhà nước, đầu năm 1995 cùng với sự thay đổi về chức năng nhiệm vụ của toàn hệ thống, nguồn vốn cấp phát được chuyển sang Cục Đầu tư Phát triển, Chi nhánh NHĐT&PT Ninh Bình trở thành ngân hàng có chức năng huy động vốn ngắn, trung và dài hạn để cho vay các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của nhà nước, các dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, cho vay vốn lưu động, kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển, xây dựng kinh tế, củng cố cơ sở hạ tầng, phục vụ việc mở rộng và phát triển sản xuât kinh doanh trên địa bạn tỉnh. Sự đổi mới về nhiệm vụ chuyên môn đỏi hỏi sự đổi mới về con người, cơ sở vật chất, công nghệ trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Được sự hỗ trợ và chỉ đạo trực tiếp của NHĐT&PT Việt nam NHĐT&PT Ninh Bình thực hiện chiến lược kinh doanh đa năng tổng hợp theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” tự huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, các TPKT trong và ngoài tỉnh. NHĐT&PT Ninh Bình hướng tới việc cung cấp sản phẩm tín dụng và dịch vụ ngân hàng có chất lượng tốt, nâng cao tiện ích nhằm thoả mãn yêu cầu đa dạng của khách hàng và coi đây là cơ sở vững chắc cho cạnh tranh và phát triển. Phương châm hoạt động của NHĐT&PT Ninh Bình “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng”. Thực hiện điều này NHĐT&PT Ninh Bình không ngừng nghiên cứu phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Luôn luôn lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu, tiếp thu ý kiến của khách hàng để không ngừng cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm cung ứng cho thị trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chât lượng cao. Hợp tác cùng phát triển, chi sẻ kinh nghiệm, khó khăn, cơ hội kinh doanh với bạn hàng. 2.1.2. Mô hình tổ chức và quản lý Chi nhánh NHĐT&PT Ninh Bình là một doanh nghiệp nhà nước, công ty con trong mô hình công ty mẹ - con, chịu sự quản lý trực tiếp của NHĐT&PT Việt nam (công ty mẹ) và NHNN - cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Về mặt tổ chức ngành dọc Chi nhánh là hình thức tổ chức cấp 2, hạch toán kinh doanh độc lập nhưng thực hiện quản lý tập trung. NHĐT&PT Ninh Bình có trụ sở chính tại đường Lê Hồng Phong phường Đông Thành. Về mặt cơ cấu tổ chức, ngân hàng có 7 ban, trong đó có 5 phòng chức năng, 1 phòng giao dịch, 2 quỹ tiết kiệm. 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của NHĐT& PT Ninh Bình. NHĐT&PT Việt Nam NHĐT&PT Ninh Bình Phòng Kiểm soát Ban Giám đốc Phòng Nguồn vốn Phòng Tín dụng Phòng Hành chính Phòng Kế toán Phòng giao dịch Tam Điệp Quỹ tiết kiệm II Quý tiết kiệm I Phòng Tín dụng I Phòng Tín dụng II Số lao động tính đến ngày 31/12/2002 là 54 cán bộ, tổng số đảng viên là 27 chiếm 50%, với số đảng viên nữ 12 người, tổ chức đoàn thanh niên cộng sản HCM với 19 đoàn viên trong đó có 7 đoàn viên nữ. Trong số 54 cán bộ công nhân viên, số cán bộ công nhân viên có trình độ Đại học và trên Đại học là 27 người, Cao đẳng 10 người, trung cấp và sơ cấp là 17 người. 2.1.2.2. Hoạt động và chức năng của các phòng ban. Ban giám đốc chỉ đạo chung và phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban. Các trưởng phòng có trách nhiệm thực hiện các văn bản chỉ đạo của ban giám đốc, tham mưu và thực hiện sự chỉ đạo điều hành trực tiếp của Giám đốc và Phó Giám đốc. Các phòng thường xuyên định kỳ hoặc đột xuất báo cáo tình hình công tác có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của phòng cho ban giám đốc. Giúp việc cho Trưởng phòng có 1 đến 2 Phó Trưởng phòng.Trong công tác điều hành, quan hệ giữa trưởng phòng và nhân viên là gắn bó, hợp tác vì công việc chung. Các phòng ban, của Chi nhánh có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau. Sự phát triển của phòng này sẽ thúc đẩy và tạo cơ hội cho các phòng khác phát triển và ngược lại. 1. Phòng Nguồn vốn. Làm tham mưu giúp Giám đốc tổ chức chỉ đạo và điều hành các hoạt động nghiệp vụ của Chi nhánh hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh được giao. Quản lý nguồn vốn với hiệu suất sử dụng vốn cao, an toàn và thực hiện chức năng thông tin báo cáo, tiếp thị cho các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Phối hợp chặt chẽ các mặt với phòng ban trong Chi nhánh hoàn thành nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh doanh được Tổng Giám đốc giao. 2. Phòng tín dụng. Là bộ phận quan trọng nhất tại Chi nhánh, đóng góp chủ yếu vào lợi nhuận của ngân hàng với chức năng truyền thống là cho vây bằng Việt nam đồng và ngoại tệ đối với mọi TPKT, cụ thể: - Thực hiện và quản lý công tác cho vay vốn lưu động, vốn trung và dài hạn đối với quá trính sản xuất kinh doanh của khách hàng thuộc mọi TPKT trên địa bàn tỉnh theo chế độ hiện hành, đảm bảo an toàn, hiệu quả của đồng vốn. - Thực hiện tư vấn trong hoạt động tín dụng và dịch vụ uỷ thác đầu tư theo quy định. - Tổ chức việc lập kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý, năm của phòng và tham gia xây dựng kế hoạch kinh doanh của Chi nhánh. - Tham mưu cho Giám đốc về chiến lược kinh doanh, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất của Chi nhánh. - Thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh tháng, quý, năm do Giám đốc giao. - Tổ chức thực hiện những quy định của NHNN, NHĐT&PT Việt nam, NHĐT&PT Ninh Bình về tiền tệ, tín dụng. - Thực hiện công tác khách hàng thường xuyên. - Tổ chức việc lập, hưu trữ, bảo quản hồ sơ khách hàng, hồ sơ tín dụng theo đúng quy định. - Thông qua hoạt động cho vay mà kiểm tra các cơ quan, tổ chức sản xuất kinh doanh về hoạt động kinh tế và sử dụng vốn vay theo đúng mục đích và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế ngành vùng của nhà nước và của bản thân hệ thống trong từng giai đoạn phát triển nền kinh tế. Để tiện cho công tác tổ chức, quản lý và không ngừng nâng cao hiệu quả. Phòng tín dụng của Chi nhánh được tổ chức thành 2 phòng là tín dụng I và II. Bản thân sự phân chia chỉ đơn thuần về mặt tổ chức mà không dựa trên cơ sở phân công chức năng. Do đó Phòng tín dụng I và II đều có cùng chức năng, nhiệm vụ như nhau cùng đóng góp vào hiểu quả kinh doanh của ngân hàng. 3. Phòng Kế toán. - Lập báo cáo kế toán tháng, quyết toán năm gửi về Trung ương, báo cáo thanh tra hàng tháng. - Lập kế hoạch dự toán, quyết toán thu chi tài chính của Chi nhánh theo quy định. - Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, điều hành và kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ kế toán và công tác thanh toán tại Chi nhánh và các phòng giao dịch, bàn tiết kiệm. - Thực hiện mở tài khoản tiền gửi, cho vay, bảo lãnh và đáp ứng các dịch vụ thanh toán bằng cách phối hợp với các phòng nghiệp vụ trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt. - Chuẩn bị và kiểm tra việc bảo quản sử dụng các loại ấn chỉ kế toán. Tổng hợp và chấp hành, chế độ báo cáo theo yêu cầu của NHĐT&PT Việt nam và các ngành có liên quan. Giữ gìn bảo quản hồ sơ, tài liệu, sổ sách, chứng từ và tài sản thuộc phòng kế toán theo chế độ quy định. - Bảo toàn an toàn trong công tác tiền tệ kho quỹ. - Giải._.y nhiên bước đầu thử nghiệm những phương thức này, ngân hàng lựa chọn những khách hàng được đánh giá tốt để áp dụng nhằm hạn chế rủi ro và đúc rút kinh nghiệm cho quá trình áp dụng rộng rãi sau này. Căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh và tài sản đảm bảo của khách hàng. Ngân hàng và khách hàng cùng thoả thuận một hạn mức dư nợ tối đa trong thời hạn nhất định. Căn cứ vào mức dư nợ đó khách hàng lập đầy đủ các thủ tục cần thiết như hợp đồng tín dụng, hợp đồng cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh, đơn vay xin, các hồ sơ pháp lý khác. Những thủ tục này chỉ phải làm một lần. Trong phạm vi hạn mức tín dụng thoả thuận trong hợp đồng khách hàng có thể rút ra một cách linh hoạt, thuận tiện theo nhu cầu sử dụng vốn mà chỉ cần làm giấy nhận nợ và giấy rút tiền, tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Mọi khoản thu của khách hàng sẽ được ghi vào bên có của tài khoản để trả nợ ngay một mặt giảm được tiền lãi phải trả ngân hàng, đồng thời mỗi lần có tiền thu về tài khoản làm giảm mức dư nợ thực tế thì cũng làm tăng mức dư nợ được vay tiếp của khách hàng. Về phía ngân hàng cũng giảm bớt các thủ tục giấy tờ, đồng thời qua diễn biến của tài khoản ngân hàng biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn để cùng khách hàng tìm cách tháo gỡ. Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hai bên tiến hành thanh lý hơp đồng. Nếu còn dư nợ sẽ chuyển sang nợ quá hạn trong trường hợp khách hàng không trả được nợ sẽ phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tuy nhiên phương pháp này này chỉ áp dụng cho các khách hàng vay vốn thường xuyên, vòng quay vốn nhanh. Nhưng nó là phương pháp rất phù hợp với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, thủ tục đơn giản, thuận tiện tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên mà thủ tục pháp lý vẫn rất chặt chẽ. Ngân hàng có thể nghiên cứu cho vay với điều kiện là tín chấp. Trong điều kiện của sự phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay thì cho vay bằng tín chấp sẽ ngày càng phát triển. Đối với khu vực KT-NQD thì ngân hàng chỉ nên thử nghiệm cho vay bằng tín chấp đối với các khách hàng đã trở thành “thân chủ” của ngân hàng. Tuy nhiên không phải cho vay bằng tín chấp là ngân hàng có thể bỏ qua các thủ tục cần thiết. Khách hàng cũng phải có số liệu chứng minh tình hình tài chính lành mạnh, họ phải có tài sản cố định và tài sản lưu động lớn, đối tượng cho vay phải là những sản phẩm hàng hoá kinh doanh có hiệu quả ổn định trên thị trường. Thời gian cho vay không nên quy định quá dài và mức cho vay không vượt quá vốn lưu động thực tế của người vay. Điều kiện cho vay này sẽ khuyến khích các khách hàng thân quen với ngân hàng, tăng nhu cầu vay vốn. Ngoài ra ngân hàng có thể cho vay thông qua việc đảm bảo bằng chữ ký của người có khả năng tài chính đứng ra bảo lãnh, thông thường khoản vay này thường áp dụng với cán bộ công nhân viên thông qua cam kết bảo lãnh của các chủ doanh nghiệp Về quy mô tín dụng: Hiện nay ngân hàng quy định quy mô cho vay đối với KT-NQD không vượt quá 1,5 lần vốn tự có đã làm hạn chế quy mô tín dụng đối với khu vực này - một khu vực đang có nhu cầu về vốn rất lớn để đổi mới và phát triển. Trong khi vốn tự có KT-NQD đã nhỏ bé lại bị ràng buộc con số nhỏ bé, cứng nhắc làm mất đi lợi thế cạnh tranh của khu vực này so với KT-QD. Để tạo điều kiện cho khu vực này vay vốn ngân hàng ngoài việc chỉ chú trọng đến khả năng tài chính và tài sản đảm bảo nên cân nhắc phương án vay vốn của khách hàng để quyết định lượng vốn cho vay phù hợp. Thực hiện được điều này sẽ tạo điều kiện để cả hai bên cùng phát triển. Về tài sản thế chấp: Như đã trình bày ở chương 2 nguyên nhân làm hạn chế quy mô tín dụng NQD yếu tố chủ yếu nhất là tài sản thế chấp. Để đảm bảo món vay của ngân hàng thì khách hàng phải có tài sản thế chấp, điều này càng trở nên quan trọng đối với khu vực NQD nếu muốn vay được vốn tại ngân hàng. Nhưng những khó khăn lại phát sinh nhiều nhất lại ở khâu này như: Người vay mặc dù sở hữu tài sản nhưng thiếu hoặc không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu do chúng đã được mua đi bán lại nhiều lần lại được thực hiện dưới hình thức viết tay, qua nhiều chủ nhưng không qua xác nhận của cơ quan có thẩm quyền; vấn đề định giá tài sản; các ngân hàng chủ yếu chấp nhận tài sản thế chấp dưới dạng bất động sản mà chấp nhận một cách rất hạn chế những tài sản là động sản. Vì vậy để mở rộng tín dụng NQD các ngân hàng nên linh động trong vấn đề tài sản thế chấp song vẫn đảm bảo an toàn cho đồng vốn đầu tư cụ thể là: Ngân hàng nên phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (như UBND tỉnh, Cục nhà đất, công an các cấp...) mở một đợt tổng rà soát nhà cửa đối với người dân, tài sản đối với các tổ chức kinh tế để xác định tính hợp pháp và hợp lệ về quyền sở hữu và quyền sử dụng về nhà ở cũng như các hình thức tài sản khác. Mặc dù công tác này đòi hỏi nhiều thời gian, tốn kém song về lâu dài đem lại nhiều lợi ích to lớn như. Một mặt nhà nước có cơ sở đánh giá đúng thực trạng, tình hình nhà ở trên địa bàn tỉnh, làm tài liệu phục vụ chiến lược về quy hoạch đô thị và xây dựng cơ bản trong tương lai. Mặt khác thông qua kiểm tra đánh giá được tính đích thực về nhà ở để hình thành các văn bản dưới luật, xác định được tính hợp pháp về nguồn sở hữu nhà đất của các đối tượng theo thực tế, thì các cấp xác nhận quyền sở hữu nhà hợp pháp cho các doanh nghiệp, hộ tư nhân cá thể làm cơ sở để ngân hàng xem xét cho vay thế chấp bất động sản. Các ngân hàng nên mở rộng danh sách các loại tài sản thế chấp, không nên chỉ bó hẹp trong các bất động sản mà hướng tới những tài sản là động sản. Để làm được điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của một số cơ quan nhà nước. Một mặt NHNN ra quyết định cụ thể những đối tượng động sản nào có thể trở thành TSTC, trên cơ sở đã nghiên cứu những tài sản mà người vay vốn đang nắm giữ và tính thương mại của chúng. Đồng thời xác định những khung pháp luật nào đang hỗ trợ việc sử dụng những tài sản này làm thế chấp. Cuối cùng thông báo quyền ưu tiên đối với tài sản thế chấp tại các cơ quan đăng ký công cộng, nhờ đó người cho vay có thể thiết lập quyền của mình đối với tài sản được thế chấp. Đây là phương pháp mà các nước phát triển đang sử dụng phổ biến để mở rộng hoạt động tín dụng. Ngoài ra trong việc định giá tài sản thế chấp là máy móc, thiết bị dây chuyền sản xuất, ngân hàng nên thuê các chuyên gia có kinh nghiệm để định giá hoặc có thể đào tạo đội ngũ chuyên môn để thực hiện việc này. Điều này sẽ giúp ngân hàng làm tốt công tác định giá, đảm bảo tài sản được xác định đúng giá trị, đồng thời nó cũng hạn chế những rủi ro trượt giá khi phải xử lý tài sản do khoản vay có vấn đề. Về việc kiểm tra, giám sát món vay: Từ trước tới nay quan niệm của nhiều cán bộ ngân hàng về việc kiểm tra, giám sát khoản vay được bắt đầu khi đã giải ngân xong. Đây là quan niệm rất sơ hở và thiếu sót. Trên thực tế việc kiểm tra, giám sát món vay phải được thực hiện trước, trong và sau khi giải ngân. Đó là một quy trình liên tục gồm ba giai đoạn, đòi hỏi cán bộ tín dụng luôn luôn nắm sát sao, chính xác tình hình của khách hàng vay vốn. Giám sát món vay có thể giúp ngân hàng theo dõi được hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, xem họ sử dụng vốn đúng mục đích hay không, nó cho phép phát hiện những rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp đối phó kịp thời. Để làm được điều này cán bộ tín dụng phải thường xuyên đi thực tế xuống các cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng để theo dõi hoạt đông sản xuất kinh doanh được tiến hành ra sao, qua đó biết được tình hình sử dụng vốn vay. Đồng thời cán bộ tín dụng phải chủ động mở rộng thông tin về khách hàng bằng cách gặp gỡ các đối tác có quan hệ làm ăn trước và hiện nay, thậm chí là đối thủ cạnh tranh, hàng xóm, gia đình...để có những thông tin cần thiết đảm bảo cho những đánh giá phân tích không bị sai lệch. Tóm lại, để cải thiện và mở rộng hoạt động tín dụng NQD thời gian tới một trong các vấn đề quan trọng mà ngân hàng cần điều chỉnh, sửa đổi đầu tiên đó là điều chỉnh cơ chế, chính sách cho vay của mình cho phù hợp với điều kiện thực tế của khách hàng ngoài quốc doanh. 3.2.4. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng và dự án vay vốn khách hàng. Quá trình thẩm định để quyết định cho vay là quá trình “chọn mặt gửi vàng”. Đó là quá trình thu thập xử lý thông tin về khách hàng, đối tượng vay vốn, trên cơ sở đó phân tích đánh giá nhằm đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Nợ quá hạn khách hàng vẫn tồn tại và đang có xu hướng tăng lên làm cho ngân hàng ngại mở rộng tín dụng đói với khu vực này. Vì vậy nâng cao công tác thẩm định là một giả pháp tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng. Để được vay vốn ngân hàng, khách hàng phải lập hai hồ sơ: Đó là hồ sơ pháp lý và hồ sơ vay vốn. Do đó việc thẩm định cũng diễn ra trên hai góc độ: Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng là pháp nhân hay thể nhân kinh doanh, có đủ năng lực hành vi dân sự không, giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh sẽ cho biết thời gian hoạt động, kinh nghiệm và ngành nghề lĩnh vực kinh doanh. Những giấy tờ này phải tuyệt đối đủ để ngân hàng làm căn cứ đưa ra pháp luật khi khoản vay có vấn đề. Thẩm định về mặt kinh tế nhằm phân tích đánh giá khả năng tài chính của khách hàng. Đây là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của họ. Căn cứ vào các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, các hợp đồng mua bán...,những thông tin thu được từ bên ngoài để ngân hàng tiến hành phân tích năng lực tài chính của khách hàng. Các báo cáo này cho biết những gì diễn ra như: Tình hình lỗ lãi như thế nào, quan hệ vay trả tín dụng có song phẳng không?, thu nhập thường xuyên và bất thường của khách hàng có thể dùng để đảm bảo cho khoản vay không?, cơ cấu vốn của khách hàng như thế nào...Vì vậy dựa trên kết quả thẩm định cán bộ tín dụng có cơ sở để nhận định, đánh giá và dự báo các vấn đề phát sinh, cũng như dịnh hướng phát triển của dự án. Ngân hàng nên sử dụng phương pháp kết hợp trong thẩm định để đánh giá tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án đầu tư. Bên cạnh việc sử dụng các chỉ tiêu thẩm định truyền thống như: giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn..ngân hàng có thể tham khảo sử dụng phương pháp “5C ” của các ngân hàng quốc tế. Phương pháp này có thể đánh giá toàn bộ, cả khách hàng lẫn phương án vay vốn. Cụ thể là: + Tư cách (Chacracter): Ngân hàng phải điều tra về độ trung thực, tư cách đạo đức, khả năng quản lý, kinh nghiệm của khách hàng. Trong phần đánh giá này ngân hàng cần xem xét hoạt động của khách hàng trong một quá trình sản xuất kinh doanh liên tục một cách kỹ lưỡng. + Vốn (Capital): Đây là chỉ tiêu cho biết khả năng tài chính của khách hàng. Từ những dánh giá về vốn, ngân hàng có thể xem xét khả năng trả nợ của khách hàng, xem xét chu chuyển vốn trong tương lai, các khoản phải thu, vòng quay của vốn, hàng tồn kho. + Khả năng hoàn trả (Capacity of repayment): Ngân hàng đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng dựa trên cơ sở các nguồn thu. Đủ đảm bảo bù đắp chi phí hoạt động, trả thuế, đảm bảo thu nhập cho khách hàng và trả nợ cho ngân hàng. + Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng cần xem xét những điều kiện tác động lên hoạt động của người vay như chính sách của nhà nước, sản phẩm thay thế, đối thủ cạnh tranh trên thị trường...để làm rõ hơn tính khả thi của phương án vay vốn. + Tài sản đảm bảo (Collateral): Đây là biện pháp tạo ra nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng trong điều kiện có rủi ro xảy ra. Điều quan trọng là ngân hàng phải đánh giá chính xác giá trị tài sản bảo đảm và phải thường xuyên giám sát tình hình tài sản bảo dảm để tránh những rủi ro có thẻ xảy ra. 3.2.5. Gắn liền công tác mở rộng với nâng cao chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh. Việc mở rộng khối lượng tín dụng là cần thiết để mở rộng hoạt đông kinh doanh của ngân hàng. Song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của ngân hàng. Nếu một ngân hàng gia tăng tín dụng mà không quan tâm đến chất lượng của nó thì chẳng khác nào “xây nhà trên cát” hoặc “cho vay mà không thu nợ”. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, Ngân hàng thu được gốc và lãi đúng hạn. Chúng ta đều biết rằng trong thực tế thì quyền cho vay “thực tế” là ở ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là của người vay. Do đó khi ngân hàng đã quyết định và khoản cho vay được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay, hay nói đúng hơn là lại phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay là hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyền quyết định của ngân hàng, còn việc thu nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ người vay. Chính vì thế, vấn đề phân tích đánh giá năng lực tài chính, khả năng sản xuất kinh doanh của người vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng là đặc biệt quan trọng để quyết định chất lượng vốn tín dụng. Muốn vậy, bản thân ngân hàng phải hiểu biết về những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà người vay vốn đầu tư vào. Mọi sự hiểu biết của ngân hàng có thể tạo thêm cho người vay cơ sở chắc chắn hơn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay. Trên thực tế, chất lượng tín dụng của NHĐT&PT Ninh Bình còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn tồn tại và có xu hướng tăng lên. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là nhanh chóng xử lý những tồn đọng của các khoản tín dụng cũ, ngăn ngừa và nâng cao chất lượng các khoản tín dụng mới. Do đó, việc mở rộng khối lượng tín dụng chỉ có thể đạt hiệu quả khi và chỉ khi chất lượn tín dụng được đảm bảo. Nếu không, khối lượng tín dụng tăng, chất lượng tín dụng thấp sẽ càng nhanh chóng đưa ngân hàng đến chỗ khó khăn và đổ vỡ. 3.2.6. Giải pháp về mặt nhân sự. Nếu coi trang thiết bị, cơ sở vật chất là phần cứng thì đội ngũ cán bộ từ cấp lãnh đạo điều hành đến những cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng chính là phần mềm giúp đỡ ngân hàng hoạt động trơn tru, có hiệu quả. Nhấn mạnh về mặt vai trò, nhân sự được coi là vấn đề hàng đầu quyết định chất lượng cho vay của ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng những phương tiện hiện đại phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ trong nền kinh tế thị trường. Việc lựa chọn nhân sự phải đảm bảo cả về mặt đạo đức, chuyên môn và nghiệp vụ. Hai mặt này có mối quan hệ khăng khít với nhau không thể xem trọng mặt nào nhất là trong đièu kiện hiện nay. Vì vậy hoàn thiện và nâng cao trình độ cán bộ sẽ góp phần vào việc mở rộng tín dụng ngân hàng. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gồm: Công tác tuyển dụng: Khi tuyển người ngân hàng cần công bố các tiêu chuẩn cần thiết, động thời tổ chức thi tuyển một cách nghiêm túc, công bằng. Trong tuyển dụng ngân hàng cần căn cứ vào năng lực thực sự của người xin việc, chứ không nên chỉ vào các giấy tờ, bằng cấp, những yêu cầu đối với người xin việc phải xuất phát tử bản thân yêu cầu công việc chứ không do nhận định chủ quan của ngân hàng. Công tác đào tạo: Không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ hiện có. Ngân hàng có thể kết hợp hình thức đào tạo tập trung (cử đi học) và đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa bồi dưỡng nghiệp vụ với công việc đang làm. Vì khi đi học tập trung thì cán bộ được trang bị những kiến thức như nhau theo một chương trình xác định nhưng trong công việc họ lại làm những nghiệp vụ cụ thể khác nhau. Ngân hàng nên khuyến khích người có kinh nghiệm lâu năm, đã qua đào tạo cơ bản truyền đạt, chỉ bảo kiến thức và kinh nghiệm cho nhân viên mới. Mặt khác những cán bộ ngân hàng cũng phải tự đào tạo bằng cách nắm bắt những thông tin mới về diễn biến thị trường, pháp luật của nhà nước để bổ xung những tri thức, kinh nghiệm còn thiếu. Nâng cao kỹ năng giao tiếp, điều tra phân tích đánh giá. Đây là những kỹ năng rất cần thiết với một cán bộ tín dụng vì họ là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với cán bộ lãnh đạo phê duyệt. Một khả năng giao tiếp tốt, phong cách làm việc năng động hiệu quả sẽ làm vừa lòng khách hàng, góp thu hút thu hút khách hàng. Cũng như vậy người cán bộ phải có khả năng thu thập và xử lý thông tin khai thác tốt, có hiểu biết thực tế. Đặc biệt có khả năng phát hiện ra những khách hàng có ý đồ lừa đảo vì chất lượng thẩm định của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định cho vay của cán bộ lãnh đạo ngân hàng. Họ phải khéo léo trong việc đàm phán, thương lượng với khách hàng về các điều kiện vay vốn sao cho đảm bảo lợi ích của ngân hàng cũng như thu hút được khách hàng. Về chế độ áp dụng cho cán bộ tín dụng. Làm việc với một tinh thần hăng hái, một động lực mạnh mẽ sẽ cho kết quả tốt. Để tạo động lực cho cán bộ thì ngân hàng cần phải có chế độ thưởng phạt công bằng, công khai, đúng người đúng việc. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp, giám sát món vay nên nếu khoản vay an toàn thì không sao nhưng nếu có vấn đề thì họ phải chịu trách nhiệm. Vì vậy để khuyến khích cán bộ tín dụng trong công tác cho vay thu nợ ngân hàng nên xây dựng chế độ khen thưởng cả về vật chất và tinh thần đối với những cá nhân thực hiện được nhiều món vay an toàn hiệu quả. Tránh tình trạng bình quân chủ nghĩa, gây tâm lý ngại cho vay vì cho vay nhiều thì họ cũng không thu được gì. Ngược lại đối với những cán bộ tín dụng làm sai nguyên tắc quy trình nghiệp vụ tín dụng, bị mua chuộc để cấp những khoản tín dụng sai mục đích gây thiệt hại cho ngân hàng cần có những biện pháp xử lý kịp thời bằng các biện pháp từ phạt cảnh cáo, buộc thôi việc đến truy tố trước pháp luật. Tóm lại, chính sách thưởng phạt là rất cần thiết, nó giúp ban lãnh đạo quản lý tốt hơn hoạt động tín dụng, là đòn bẩy kinh tế hữu hiệu để kích thích khả năng làm việc của mỗi cá nhân. Tuy nhiên ngân hàng cũng phải chú trọng trong vấn đề thực hiện, tôn trọng tính nghiêm minh rõ ràng, thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, không thiên vị thì chính sách này mới phát huy được tính ưu việt của nó. Ngược lại, thực hiện không nghiêm túc sẽ dẫn đến phản ứng tiêu cực trong nội bộ ngân hàng ảnh hưởng đến tinh thần vì công việc của người cán bộ khi đó việc mở rộng tín dụng sẽ vô cùng khó khăn. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước và cơ quan hữu quan. 1. Tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế NQD phát triển. Qua phân tích ở những phần trước cho thấy KT-NQD đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của khu vực này là động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế đất nước. Có thể nói KT-NQD là một phần không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nó góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của KT-QD. Nhưng thực tế khu vực này chưa được quan tâm đúng mức. Nhà nước tuy đã có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần song các văn bản pháp lý còn nhiều bất cập, chồng chéo và chung chung thiếu cụ thể gây nhiều hoang mang, vẫn còn tồn tại tâm lý kỳ thị, coi thường kinh tế tư nhân, chính sách vẫn còn gò bó, chưa đủ thông thoáng. Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực, của nền kinh tế mà nay thuộc độc quyền của nhà nước, thúc đẩy cạnh tranh kinh tế. Quỹ bảo đảm tín dụng NQD đang được Chính phủ xem xét thành lập và xây dựng phương hướng hoạt động. Chính phủ cần nhanh chóng thành lập và tổ chức thành một hệ thống ở các tỉnh thành để KT -NQD dù ở đâu cũng có thể nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ. Mỗi doanh nghiệp khi có nhu cầu vay vốn nhưng không đáp ứng các điều kiện đảm bảo song có dự án tốt có thể sẽ được sự bảo lãnh của quỹ, theo đó các doanh nghiệp này sẽ đóng một mức phí bằng một tỷ lệ (do quỹ quy định) trên tổng số tiền vay. Đây là mô hình đã được áp dụng thành công tại Cộng hoà liên bang Đức và Chi lê. Chính phủ nên xem xét và có hướng áp dụng hiệu quả vào thực tiễn nền kinh tế Việt nam. 2. Tăng cường công tác quản lý đối với nền kinh tế NQD Mở rộng, hỗ trợ ưu đãi các doanh nghiệp NQD phải đi liền với công tác quản lý đối với khu cực này. có như vậy việc mở rộng mới đạt được hiệu quả mong muốn. Tăng cường công tác quản lý giúp ngân hàng có thể giám sát, sâu sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp NQD để có những biện pháp hỗ trợ kịp thời, tháo gỡ những khó khăn cũng như ngăn chăn đúng lúc những hành vi xấu lợi dụng những sự ưu đãi, hỗ trợ của Chính phủ, ngân hàng để trục lợi, thực hiện những hành vi lừa đảo. Tăng cường công tác quản lý nên chú trọng vào một số vấn đề sau: Bên cạnh việc thực thi chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp, theo một chính sách chung, nên xây dựng chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế này. Khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn đặc biệt là khó khăn về vốn khi tiếp cận ngân hàng. Đó chính là nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng doanh nghiệp trong thời gian qua. Do vậy để tạo điều kiện phát triển kinh tế NQD thì nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ đối khu vực kinh tế này. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hội cho khu vực KT-NQD tham gia vào các hình thức đầu tư thích hợp, mở rộng thị trường tiêu thụ cho khu vực này, cần nhanh chóng cải tiến thủ tục hành chính liên quan đến việc thành lập và điều hành hoạt động các doanh nghiệp NQD. Các chính sách của nhà nước cũng như việc áp dụng của địa phương đối với các doanh nghiệp này chưa thống nhất làm cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp. Cần cải tiến chính sách thuế, tài chính để nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động của các loại hình doanh nghiệp này. Có những biện pháp hỗ trợ việc đào tạo cán bộ, trợ giúp về mặt kỹ thuật các doanh nghiệp. Nên tổ chức các lớp đào tạo phù hợp với từng loại hình kinh doanh, vì khi cán bộ lãnh đạo có trình độ, kỹ năng nghiệp vụ có thể giúp cho hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao hơn và họ cũng có trách nhiệm hơn đối với những khoản vay ngân hàng. Một trong những lý do vô cùng quan trọng dẫn đến khó khăn trong tiếp cận vốn vay của ngân hàng đó là các quy định về tài sản thế chấp. Bước đầu xem xét một số doanh nghiệp NQD hoạt động hiệu quả vay bằng tín chấp, tạo sự bình đẳng trong cho vay với KT-NQD. Vấn đề các doanh nghiệp NQD không đủ tài sản thế chấp hoặc mới thành lập hoạt động, uy tín chưa cao mà muốn vay vốn lớn để mở rộng và phát triển kinh doanh sẽ vẫn được vay vốn tại ngân hàng song có sự bảo lãnh của một bên thứ ba. Để sát với các điều kiện KT-NQD nhằm động viên cao nhất tiềm năng phát triển của khu vực này cần có những ưu tiên, ưu đãi cụ thể và rõ ràng đối với các thành phần hoạt động trong ngành kinh tế mũi nhọn. Thống nhất công tác quản lý điều hành từ Trung ương đến địa phương trong việc thực thi các chính sách kinh tế đối với KT-NQD tránh tình trạng thống nhất trên giấy tờ, “cấp trên chỉ đông cấp dưới đánh tây”, có như vậy mới giúp Trung ương nắm được các diễn biến thực tế của KT-NQD để đề ra các biện pháp hỗ trợ kịp thời. Việc cấp giấy phép hoạt động kinh doanh đối với các doanh nghiệp mới, đặc biệt là các Công ty TNHH, Công ty cổ phần phải đảm bảo các điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất kinh doanh, cán bộ điều hành phải có đủ năng lực, đạo đức tốt. 3. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng NQD Đầu tư tín dụng vào kinh tế NQD có mức độ rủi ro khá cao do vậy để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng, nhà nước nên tập chung hoàn thiện các vấn đề sau. Hoàn thiện việc triển khai nghị định bảo đảm tiền vay (Nghị định 178), và một số điều sửa đổi về Nghị định bảo đảm tiền vay (Nghị định 85), tài sản thế chấp. Đối với tài sản thế chấp nên để Ngân hàng tự quyết định, tạo tính chủ động trong hoạt động cho vay nhằm nhanh chóng thu hồi được các khoản nợ. Đối với việc cấp giấy tờ sở hữu tài sản, nhà nước nên tiến hành khẩn trương đặc biệt là chứng nhận quyền sử dụng đất. Tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành công tác thẩm định dễ dàng. Đối với các thủ tục toà án cần sớm điều chỉnh bổ xung cho phù hợp với điều kiện mới, đảm bảo tiến hành điều tra một cách nhanh chóng chính xác tránh gây lãng phí thời gian. Các bản án có hiệu lực cần tiến hành thi hành án nhanh chóng, xử lý kịp thời những phát sinh trong quá trình thực hiện để đảm bảo quyền lợi của ngân hàng . 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng nhà nước là cơ quan chỉ đạo điều hành chung về mặt đường lối, chính sách của toàn bộ hệ thống ngân hàng, trong đó có NHĐT&PT Ninh Bình do đó có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Chi nhánh. Để hoạt động kinh doanh của Chi nhánh đạt hiệu quả cao hơn thì NHNN cần: Ngân hàng nhà nước cần sửa đổi bổ xung các cơ chế, thể lệ cụ thể, rõ ràng để tạo lập một khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động tín dụng. Hiện nay các quy chế, thể lệ của NHNN còn tỏ ra chung chung, mang tính chỉ đạo định hướng hơn là tính pháp lý. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thông qua việc nâng cao hoạt động của thị trường liên ngân hàng, hiệp hội ngân hàng cũng như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ. Hiện nay các ngân hàng thương mại ở nước ta đang đối mặt với tỷ lệ dư nợ cao từ khi toàn hệ thống triển khai áp dụng quy chế cho vay mới 1627 bắt đầu từ cuối năm 2001. Do vậy NHNN cần phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để giúp đỡ các ngân hàng thương mại giải quyết tình trạng này nhằm từng bước hội nhập vào hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế. Ngân hàng nhà nước cần đưa ra các quy định về điều kiện các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng để từ đó ngân hàng có hướng giải quyết, tháo gỡ những khó khăn khi cho vay với khách hàng không mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng mình mà thực hiện vay vốn. 3.3.3. Đối với Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt nam. Đóng vai trò là cơ quan chỉ đạo điều hành trực tiếp, NHĐT&PT Việt nam cần có những hướng dẫn cụ thể đối với nhứng hoạt động của các Chi nhánh như: Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương chính sách của Chính phủ và của ngành. Hiện nay để hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, Chính phủ thường xuyên đưa ra những nghị định để chỉ đạo hoạt động của ngành ngân hàng nên sau khi các văn bản pháp luật này ra đời NHĐT&PT Việt nam cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng nơi, giải toả kịp thời những vứng mắc để nâng cao hiệu quả hoạt động. Quan tâm giải quyết những vấn đề nợ tồn đọng trong toàn hệ thống NHĐT&PT, làm trong sạch các khoản cho vay mới. Thực hiện được điều này sẽ mở ra hướng giải quyết nợ qúa hạn tại Chi nhánh Kết Luận Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá - giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng khẳnh định sự tồn tại và phát triển kinh tế ngoài quốc doanh là một tất yếu khách quan. kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế hàng hoá, bởi sự ra đời và phát triển của nó không chỉ là sự phù hợp với xu thế phát triển kinh tế nước ta mà còn góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây với tư cách là một tổ chức kinh doanh tài chính tiền tệ, đóng vai trò là một tổ chức điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu tạm thời Ngân hàng Đầu tư Ninh Bình đã từng bước thay đổi cơ cấu tín dụng theo hướng mở rộng đầu tư đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Mặc dù còn nhiều hạn chế, khó khăn trong việc mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh song ngân hàng luôn khẳnh định đây là một hướng đi mới, một thị trường đầy tiềm năng đối với ngân hàng, một môi trường giúp ngân hàng thể nghiệm bản thân mình trong việc tự chủ kinh doanh, tự đi tìm hướng phát triển cho mình trong xu thế cạnh tranh khốc liệt, hội nhập ngày càng tăng. Bài viết này chỉ đánh giá tình hình thực tế cho vay ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp tổng thể để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với khu vục này. Mở ra tiềm năng phát triển cho cả ngân hàng cũng như khu vực ngoài quốc doanh, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước do Đảng và Nhà nước đề ra. Tài liệu tham khảo Quy định về đăng ký và đăng ký lại các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh, NXB Thống Kê, 1997 Các quy định pháp luật về kinh tế ngoài quốc doanh, NXB Thống Kê, 1998 Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Kinh tế chính trị Marx-Lenin tập 2, NXB Giáo Dục, 1998 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI,VII,VIII TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống Kê, 2002 TS. Phạm Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống Kê, 2002 TS. Lưu Thị Hương (Chủ biên), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo Dục, 2002 TS. Hồ Diệu (Chủ biên), Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê, 2001 PGS-PTS. Phạm Ngọc Phong, Marketing ngân hàng, NXB Thống Kê, 1997 Trường Học Viện Ngân Hàng, Quản trị ngân hàng hàng, NXB Thống Kê, 2001 Benarrosh, Tổ chức và quản lý chiến lược. Hiệp hội liên ngân hàng về đào tạo (GIF) Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng hàng thương mại, NXB Tài Chính Philip Kotler, Marketing căn bản, NXB Thống Kê, 1999 Tạp chí Tài chính số: 5,7,8/2002; 1,4/2003 Tạp chí Thông tin Tài chính số: 1+2,3,6/2002; 6/2003 Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số:14/2000; 9,10/2001; 2,5,6,7/2002 Tạp chí Ngân hàng số: 6,8,9,10/2000; 1,3,5,6/2001; 3,5,7,9,10,12/2002; 1+2,3,5/2003. Danh mục những từ ngữ viết tắt QD: Quốc doanh NQD: Ngoài quốc doanh KT-QD: Kinh tế quốc doanh KT-NQD: Kinh tế ngoài quốc doanh TPKT: Thành phần kinh tế KTNN: Kinh tế nhà nước NSNN: Ngân sách nhà nước NHNN: Ngân hàng nhà nước NHĐT&PT: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển CNH-HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá Danh mục bảng biểu Trang Bảng I-1 : Bảng giá trị sản xuất theo thành phần kinh tế Bảng II-1: Tình hình huy động vốn Bảng II-2: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền Bảng II-3: Tình hình sử dụng vốn Bảng II-4: Tình hình dư nợ các thành phần kinh tế qua các năm Bảng II-5: Tình hình cho vay, thu nợ ngoài quốc doanh qua các năm Bảng II-6: Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ ngoài quốc doanh theo đối tượng khách hàng Biểu II-1: Dư nợ các thành phần kinh tế Biểu II-2: Doanh số cho vay ngoài quốc doanh theo thời hạn Biểu II-3: Doanh số cho vay ngoài quốc doanh theo đối tượng khách hàng Mục lục Danh mục những từ ngữ viết tắt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0079.doc
Tài liệu liên quan