DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM :Ngân hàng thương mại
NHNN :Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT :Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
CVTD :Cho vay tiêu dùng
UTĐT :Ứng trước đầu tư
WB :Ngân hàng thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2001-2006
Bảng1. 2: Cho vay tiêu dùng với các hộ gia đình bằng đồng nội tệ
Bảng 1.3: Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng
Bảng 2.4: Tình hình huy động vốn qua các năm của
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Định Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi nhánh
Bảng 2.5: Phân loại dư nợ theo tính chất nguồn vốn của chi nhánh
Bảng 2.6: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế
Bảng 2.7: Kết quả tài chính qua các năm
Bảng 2.8: Sự biến động của hoạt động cho vay tiêu dùng qua các năm
Bảng 2.9: Doanh số cho vay tiêu dùng theo mục đích vay vốn
Bảng 2.10: Doanh số cho vay tiêu dùng phân theo thời gian
Bảng 2.11: So sánh mức tăng trưởng GDP năm 2004 giữa các nước trong khu vực
Bảng 3.12: Kế hoạch huy động vốn tại chi nhánh năm 2007
Bảng 3.13: Kế hoạch sử dụng vốn tại chi nhánh năm 2007
LỜI MỞ ĐẦU
Thật khó tưởng tượng ra một nền kinh tế nào đó không có sự hiện diện của hệ thống ngân hàng thương mại. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thì vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại càng được khẳng định. Vai trò này đặc biệt được khẳng định trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Các hoạt động của ngân hàng thương mại không ngừng được mở rộng và phát triển cả về mặt lượng và mặt chất. Trong các hoạt động đó có thể nói hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống và quan trọng vào bậc nhất của các ngân hàng thương mại.Không có bất kì ngân hàng nào trên thế giới mà không thực hiện hoạt động truyền thống này. Thông qua hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại đã góp phần cung ứng vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động cho vay được xem như là một đặc trưng nổi bật nhất của ngân hàng thương mại. Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng, nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay phổ biến của các ngân hàng thương mại. Đây là hình thức cho vay bắt nguồn từ các hãng bán lẻ trước yêu cầu mở rộng việc tiêu thụ hàng hoá. Tuỳ theo từng ngân hàng thương mại, từng thời điểm và từng chiến lược của mỗi ngân hàng mà tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong dư nợ của các ngân hàng là khác nhau. Hiện nay trên thế giới, cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay khá phổ biến và chiếm tỷ trong cao trong tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại (tại các nước phát triển nó có thể chiếm từ 40-50% tổng dư nợ). Dựa trên nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng cho vay tiêu dùng là nhu cầu của mọi ngân hàng thương mại nói chung và hệ thống NHNo& PTNT Việt Nam nói riêng.
Là một chi nhánh mới được thành lập trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại phòng giao dịch Định Công năm 2003, chi nhánh NHNo& PTNT Định Công là đơn vị phụ thuộc NHNo& PTNT Thăng Long. Tuy mới đi vào hoạt động với tư cách là chi nhánh cấp 2 loại 4 được 4 năm nhưng chi nhánh Định Công đã khẳng định được vai trò là trung gian tài chính quan trọng trên địa bàn. Chi nhánh luôn cung cấp những khoản cho vay an toàn và hiệu quả góp phần tích cực vào sự phát triển của địa bàn cũng như sự phát triển chung của thủ đô Hà nội. Cho vay tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ của chi nhánh Định Công, thậm chí có năm nó chiếm tới hơn 70% tổng dư nợ của chi nhánh. Tuy nhiên hiện nay chi nhánh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay của người tiêu dùng trên địa bàn, vì vậy việc mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh là vô cùng cần thiết. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh Định Công cùng với những kiến thức em được tiếp thu trong truờng, em lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo& PTNT Đinh Công” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Việc nghiên cứu cho luận văn của em được tiến hành tại chi nhánh NHNo& PTNT Định Công, có trụ sở tại nhà CT5, khu đô thị Định Công, Thanh Trì, Hà Nội. Thông qua phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh, thống kê, bảng biểu của các năm 2004; 2005; 2006, em muốn đưa ra những lí luận chung cũng như ý kiến của mình nhằm mở rộng hơn hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh Định Công.
Luận văn của em gồm 3 phần, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Tình hình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo& PTNT Định Công.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo& PTNT Định Công.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng- tài chính, đặc biệt là GS- TS Nguyễn Văn Nam đã dành nhiều tâm huyết giúp đỡ cũng như chỉ bảo em trong thời gian thực tập và thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo& PTNT Định Công, đặc biệt là những cán bộ tín dụng tại phòng tín dụng của chi nhánh đã tận tình chỉ bảo em trong suốt thời gian thực tập của em tại chi nhánh.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.1. Lịch sử hình thành NHTM
Nói tới ngân hàng thương mại là nói đến một trung gian quan trọng vào bậc nhất của nền kinh tế. Hiện nay ngân hàng là một cụm từ quen thuộc của mọi người nhưng không phải ai cũng viết về lịch sử hình thành của ngành ngân hàng.
Ngân hàng ra đời gắn liền với nhu cầu phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng và sự phát triển của nền kinh tế có sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phát triển của nền kinh tế thúc đẩy và đặt ra yêu cầu cho sự ra đời của ngân hàng. Sự ra đời của ngân hàng lại giúp cho sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của tiền tệ. Việc đổi tiền hay đúc tiền của các thợ vàng được coi là nguồn gốc của sự ra đời ngành ngân hàng hiện nay. Những người cho vay nặng lãi cũng là nguồn gốc cho sự ra đời của nghề ngân hàng. Lịch sử ra đời của ngân hàng luôn gắn liền với việc cho vay nặng lãi của những người giàu có, những người này đồng thời cũng làm luôn việc đổi tiền. Yêu cầu về sự an toàn cho các khoản tiền lớn làm phát sinh thêm nghề cất trữ tiền, việc này cũng thường do những người thực hiện việc đổi tiền đảm nhận. Có thể gọi những người này là những người kinh doanh tiền tệ. Nghiệp vụ cho vay được những người kinh doanh ngoại tệ thực hiện từ rất sớm, ban đầu họ dùng vốn tự có để cho vay nhưng sau đó họ nhận ra rằng có một số người có nhu cầu gửi tiền và sau một thời gian thì họ rút tiền ra. Tuy nhiên không phải mọi người gửi tiền đều rút tiền cùng một lúc, do vậy luôn có một số tiền nhất định tam thời “nhàn rỗi”, tận dụng điều này những người kinh doanh tiền tệ có thể lấy số tiền đó cho những người có nhu cầu vay vốn vay. Đây là những hoạt động sơ khai góp phần hình thành nên ngành ngân hàng.
1.1.2. Lịch sử phát triển của NHTM
Với hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của những người thợ vàng hay những người cho vay nặng lãi, lịch sử phát triển của ngân hàng bặt đầu được hình thành. Trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử với sự sụp đổ và phát triển, ngân hàng ngày càng khẳng định vị thế không thể thay thế của nó trong nền kinh tế.
Ban đầu khi các ngân hàng của những thợ vàng hay những người cho vay nặng lãi được hình thành, họ chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ giản đơn của ngân hàng như: Nhận tiền gửi, cho vay phục vụ tiêu dùng, cất trữ tiền. Sau đó các ngân hàng này cũng phát triển thêm hình thức cho vay với những người giàu có, vua chúa với mục đích không phải là tiêu dùng như phục vụ chiến tranh. Hình thức cho vay lúc này là thấu chi, tức là cho phép người vay vay nhiều hơn số tiền mà họ gửi tại ngân hàng. Điều này gây ra rủi ro cho ngân hàng. Các ngân hàng này sau một thời gian hình thành và phát triển thì đứng trước nguy cơ sụp đổ vì các ngân hàng thường mất khả năng thanh toán do việc phát hành những chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay.
Sau sự sụp đổ của ngân hàng của thợ vàng hay những người cho vay nặng lãi thì ngân hàng của những người lái buôn ra đời. Trước nhu cầu vay vốn để buôn bán, nhu cầu thanh toán, ngân hàng lái buôn ra đời. Hình thức ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng thương mại ra đời cùng với tư bản thương nghiệp và sự luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Lúc này các nghiệp vụ ngân hàng cũng được mở rộng hơn so với hình thức ngân hàng trước: Nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ, cho vay. Hình thức cho vay lúc này không phải là hình thức thấu chi như trước mà chủ yếu là cho lái buôn vay để thực hiện việc buôn bán của họ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Hình thức cho vay này là hình thức cho vay ngắn hạn, nó được hình thành trên cơ sở sự luân chuyển của hàng hoá. Vào thời điểm này các ngân hàng vẫn không dám cho vay tiêu dùng vì độ rủi ro cao của nó, hình thức cho vay vẫn chủ yếu là cho vay ngắn hạn, những khoản vay trung va dài hạn hầu như không tồn tại. Hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên này sau một thời gian hoạt động và phát triển thì nhiều ngân hàng rơi và tình trang phá sản, sụp đổ. Sự sụp đổ này ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của nền kinh tế. Sau đó nhiều hình thức ngân hàng thương mại khác được thành lập như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển… Các ngân hàng này chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Cùng thời gian này cũng đánh dấu sự ra đời của ngân hàng Nhà nước, ngoài chức năng kinh doanh tiền tệ như các ngân hàng thương mại khác thì loại hình ngân hàng quan trọng này còn có chức năng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Nền kinh tế từng bước phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều hình thức ngân hàng thương mại khác nhau như: Ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng liên doanh…Bước tiến bộ vượt bậc của giai đoạn so với giai đoạn trước là sự tách biệt rõ ràng giữa ngân hàng Nhà nước( Ngân hàng trung ương) với các ngân hàng thương mại khác. Hình thức hoạt động lúc này của các ngân hàng thương mại cũng được mở rộng không ngừng.
1.2. Chức năng của NHTM
Ngân hàng thương mại hoạt động với vai trò là định chế tài chính quan trọng, vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại ngày càng được mở rộng. Có thể tóm tắt chức năng của ngân hàng thương mại theo 3 chức năng chính như sau:
1.2.1. Chức năng làm trung gian tài chính
Đây là chức năng thể hiện rõ nét nhất đặc điểm của ngân hàng thương mại- một trung gian tài chính. Thực hiện chức năng này tức là ngân hàng đóng vai trò là người trung gian giúp chuyển vốn từ những đối tượng tạm thời dư vốn đến những người thiếu hụt vốn và có nhu cầu vay vốn. Sự tồn tại của ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết vì sự hai đối tượng trên nếu quan hệ trực tiếp với nhau thì gặp rất nhiều trở ngại về không gian, thời gian…
1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán
Ngay từ khi có sự hình thành của hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên- Ngân hàng của những người lái buôn, ngân hàng thương mại đã có chức năng này. Ngày này,ngân hàng thương mại trở thành trung gian thanh toán quan trọng và có qui mô lớn nhất tại đa số các quốc gia trên thế giới. Thực hiện chức năng này nghĩa là ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng của mình thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ cho ngưòi cung cấp. Hiện nay các ngân hàng thương mại không chỉ thực hiện chức năng thanh toán hộ cho khách hàng mà còn thực hiện việc thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng thông qua ngân hàng trung ương hay thông qua các trung tâm thanh toán. Thực hiện hình thức thanh toán này các ngân hàng thương mại hiện nay thường sử dụng phương pháp thanh toán thủ công hay thanh toán điện tử (Phổ biến hiện nay).
1.2.3. Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Ngay từ khi tồn tại hình thức ngân hàng của những thợ vàng, các ngân hàng đã tạo ra những phương tiện thanh toán bằng việc phát hành ra những giấy nhận nợ với khách hàng. Những giấy nhận nợ này được phát hành dựa trên số lượng tiền kim loại mà các ngân hàng này nắm giữ, nhưng sau đó các giấy nhận nợ này đi vào lưu thông thể hiện được những ưu điểm vượt trội. Các giấy nhận nợ này dần thay thế cho tiền kim loại cả trong thanh toán lẫn cất trữ và tiền giấy ra đời từ đó.
Nhận thấy việc phát hành ra tiền giấy mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ, các ngân hàng đua nhau phat hành tiền riêng của ngân hàng của mình. Việc đua nhau phát hành tiền của các ngân hàng làm rối loạn nền kinh tế dẫn tới Nhà nước phải qui định việc phát hành tiền giấy cho ngân hàng Trung ương( Tại một số nước thì việc này được giao cho Bộ tài chính).
Ngân hàng hiện nay thực hiện chức năng tạo phương tiện thanh toán bằng việc tạo ra những số dư trên tài khoản của khách hàng, qua đó khách hàng có thể sử dụng số dư này thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho nhà cung cấp. Ngân hàng có thể tạo ra số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng bằng cách cho khách hành vay tiền. Như vậy thông qua hoạt động cho vay của mình hay cấp tín dụng cho khách hàng ngân hàng đã thực hiện chức năng tạo phương tiện thanh toán.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Các hình thức cho vay của NHTM
2.1.1. Định nghĩa về cho vay
Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Trong cuốn Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, FREDERIC S.MISHKIN đã cho rằng, cho vay là món nợ đối với cá nhân hoặc công ty nhận món vay đó, nhưng là một tài sản có đối với ngân hàng vì nó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng này.
Trong cuốn Ngân hàng thương mại, PGS. TS PHAN THỊ THU HÀ cho rằng, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong cuốn Nghiệp vụ ngân hàng thương mại do PGS.TS LÊ VĂN TỀ chủ biên, nhóm tác giả cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng của ngân hàng như sau: “ Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ La tinh là Credo (tin tưởng, tín nhiệm) là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng hay các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp hoặc các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Qua việc tiếp nhận những định nghĩa cho vay của các tác giả trên, theo em hiểu theo một nghĩa chung nhất thì cho vay là hoạt động tài trợ của ngân hàng thương mại cho những nhu cầu vốn của khách hàng trên cơ sở nguyên tắc hoàn trả,có thời hạn và có lãi.
2.1.2. Các hình thức cho vay của NHTM
Hiện nay tại các ngân hàng thương mại tồn tại nhiều loại hình cho vay khác nhau, các loại hình này được phân loại ra thành từng nhóm phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng như giúp ngân hàng quản lí các khoản vay dễ dàng hơn. Việc phân chia các loại cho vay chính là việc sắp xếp các khoản vay theo tùng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
Tuỳ theo từng ngân hàng mà tồn tại các cách phân loại cho vay khác nhau, nhưng nhìn chung hiện nay tồn tại các các cách phân loại sau:
2.1.2.1. Căn cứ theo thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này các ngân hàng chia cho vay ra thành 3 loại chính:
Cho vay ngắn hạn
Hình thức cho vay này có thời hạn vay dưới 12 tháng, bổ sung sự thiếu hụt vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp cũng như nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể áp dụng hình thức cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay không cần tài sản đảm bảo, thấu chi, chiết khấu hay luân chuyển.
Cho vay trung hạn
Tuỳ theo từng quốc gia mà có cách quy định về thời hạn cho vay trung hạn khác nhau. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thưòi hạn từ trên 1 năm cho tới 5 năm. Cho vay trung hạn thường được dùng để tài trợ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ sản xuất…
Cho vay dài hạn
Theo những quy định chung thì cho vay dài hạn có thời hạn là trên 5 năm, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà có quy định về thời gian tối đa của khoản vay. Các khoản cho vay dài hạn dùng tài trợ cho những nhu cầu vốn dài hạn như xây nhà, mua các thiết bị, công nghệ cần vốn có qui mô lớn, xây nhà máy sản xuất mới.
2.1.2.2. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo căn cứ này ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:
Cho vay có tài sản đảm bảo
Với hình thức này ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình khi nhận vốn vay từ ngân hàng cần có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo của khách hang có thể được thực hiện dưới dạng cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh của người thứ ba. Tài sản đảm bảo giúp cho ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể xảy ra và giúp cho ngân hàng bù đắp được phần nào tổn thất khi khách hàng không hoàn thành được nghĩa vụ với ngân hàng. Vì sự đảm bảo này có cơ sở pháp lý nên ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai nếu như nguồn thu nợ thứ nhất không được khách hàng thực hiện.
Cho vay không có tài sản đảm bảo
Việc yêu cầu tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro xảy ra, nhưng có nhiều trường hợp tài sản đảm bảo lại làm hạn chế việc khách hàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng mà không đòi hỏi tài sản đảm bảo. Với hình thức này, tức là khách hàng không cần thực hiện việc cầm cố, thế chấp hay không cần sự bảo lãnh của người thứ ba. Cho vay không cần tài sản đảm bảo chủ yếu áp dụng cho những khách hàng có uy tín, có quan hệ lâu năm với ngân hàng.
2.1.2.3. Căn cứ theo hình thức cho vay
Theo căn cứ này, ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:
Cho vay trực tiếp với khách hàng
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng. Với hình thức này, khách hàng có nhu cầu vay vốn được ngân hàng trực tiếp giao vốn kèm theo một hợp đồng tín dụng, trong đó qui định rõ số tiền và thời hạn mà khách hàng này phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng không trực tiếp giao vốn cho khách hàng. Việc cho vay của ngân hàng được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian. Hiện nay tại Việt Nam các tổ chức trung gian thường là các tổ, đội, nhóm, hội(phụ nữ, nông dân…), nhóm sản xuất… Các tố chức trung gian này thường có các thành viên hoạt động theo những tiêu chí chung. Ngân hàng thực hiện việc cho vay theo tổ, tức là đã chuyển một số bước trong tiến trình cho vay cho các tổ này như: Phát tiền cho vay, thu nợ gốc và lãi khi đến hạn,…Ngoài ra với hình thức cho vay gián tiếp này ngân hàng có thể áp dụng cho các hãng sản xuất, hãng bán lẻ.
Bên cạnh các căn cứ trên, nhiều ngân hàng còn có nhiều căn cứ khác để phân loại cho vay như: Căn cứ vào loại tiền vay, có thể chia thành cho vay bằng nội tệ, cho vay bằng ngoại tệ; Căn cứ vào đối tượng vay, có thể chia thành cho vay với Nhà nước, cho vay với tổ chức tín dụng, cho vay với doanh nghiệp, cho vay với hộ gia đình, cho vay với cá nhân; Căn cứ vào mục đích vay, có thể chia thành cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh; Căn cứ vào các ngành kinh tế, có thể chia thành cho vay công nghiệp-thương mại, cho vay nông nghiệp và cho vay xuất nhập khẩu…
Việc phân chia các hình thức cho vay này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc quản lý các khoản vay của ngân hàng. Tuỳ theo từng đặc thù riêng mà các ngân hàng có các tiêu chí phân chia khác nhau.
2.2. Hình thức cho vay tiêu dùng của các NHTM
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại NHTM
Sự ra đời của hệ thống các ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại cũng không ngừng được mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Các hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên với nghiệp vụ truyền thống là cho vay ngắn hạn, đã góp phần cung ứng vốn phục vụ sự phát triển của nền kinh tế. Cùng với nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn, cũng như khả năng quản trị rủi ro của các ngân hàng được nâng cao, các ngân hàng thương mại đã “mạnh dạn” mở rộng các hình thức tín dụng trung và dài hạn. Nhưng cũng chính vì tập trung vào hình thức tín dụng mới mẻ và hứa hẹn mang lại nguồn lợi nhuận lớn này, mà các ngân hàng thương mại đã “bỏ quên” một mảng hoạt động cũng mang lại nguồn lợi nhuận không nhỏ - Cho vay tiêu dùng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến nhiều sự biến đổi lớn, hệ thống ngân hàng cũng có những bước thăng trầm. Sự ra đời và phát triển của các tổ chức trung gian phi ngân hàng đã làm cho phạm vi hoạt động của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp lại. Trước sức ép cạnh cạnh cũng như mong muốn sinh tồn và phát triển, các ngân hàng thương mại phải mở rộng phạm vi hoạt động ra những khu vực trước đây các ngân hàng “e ngại”. Nếu như trước đây các ngân hàng cho rằng cho vay tiêu dùng với những món vay nhỏ vụn, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao sẽ không thể mang lại nguồn lợi nhuận mong đợi cho ngân hàng, thì bây giờ các ngân hàng đã khẳng định cho vay tiêu dùng là một thế mạnh và tập trung khai thác.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế làm cho đời sống của con người không ngừng được cải thiện, thu nhập của người dân tăng lên. Nếu như trước đây đời sống khó khăn nhu cầu của con người chỉ dừng lại ở những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho cuộc sống, thì ngày nay nhu cầu đó được nâng lên thành những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hơn: Mua ô tô, mua nhà, du lịch…Đây chính là cơ hội cho các ngân hàng phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng, bởi vì không phải lúc nào nguồn tài chính của con người cũng đủ để họ thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng trên. Thu nhập của người dân ổn định và không ngừng được cải thiện đã làm cho tín dụng tiêu dùng không còn là “khu vực nguy hiểm”, chứa đựng nhiều rủi ro cho các ngân hàng như trước đây nữa, vì thu nhập của người vay chính là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay tiêu dùng.
Thực tế hiện nay trên thế giới, cho vay tiêu dùng đã trở thành hình thức tín dụng quan trọng vào bậc nhất và mang lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các ngân hàng. Các cường quốc lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Đức… hiện cho vay tiêu dùng thường chiếm từ 40-60% tổng dư nợ của các ngân hàng.
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng 15 năm và vẫn là hình thức tín dụng khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại. Tuy vậy với dân số hơn 80 triệu người và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, đã hứa hẹn Việt Nam sẽ là thị trường “màu mỡ” cho các ngân hàng phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng.
2.2.2. Định nghĩa cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay của ngân hàng thương mại nhằm tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Trong hai thập kỷ vừa qua cho vay tiêu dùng có xu hướng tăng lên, do vậy có thể so sánh nó với các khoản vay có mục đích sản xuất hoặc các nghiệp vụ tài sản có khác của một ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ khá phổ biến của ngân hàng, đây là hình thức tài trợ mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng. Tuy vậy không phải ngân hàng nào cũng tích cực mở rộng hình thức cho vay này, điều này được lý giải thông qua các đặc điểm của hình thức cho vay tiêu dùng.
2.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Ta có thể tóm tắt những đặc điểm của cho vay tiêu dùng thành 4 đặc điểm như sau:
2.2.3.1. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có độ rủi ro cao
Như đã nói ở trên cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Do vậy khả năng thu hồi lại nợ vay của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng tài chính, sức khoẻ…của người vay. Nếu người vay bị chết, bị ốm hay bị mất việc thì ngân hàng sẽ rất kho thu hồi được món vay.
2.2.3.2. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao trong khung lãi suất của NHTM
Chính vì độ rủi ro tiềm ẩn rất cao, ảnh hưởng tới sự an toàn của hoạt động của ngân hàng, mà khách hàng muốn nhận tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng phải chịu mức lãi suất khá cao. Mức lãi suất này giúp đảm bảo cho ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro và đảm bảo thu nhập trong những trường hợp có sự cố ngoài ý muốn xảy ra.
2.2.3.3. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay nhiều
Do cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho hoạt động tiêu dùng của khách hàng nên giá trị thường nhỏ, vụn vặt. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng tăng do nền kinh tế không ngừng phát triến, nên nhu cầu về các khoản vay tiêu dùng là rất lớn. Chính điều này cũng làm cho ngân hàng phải bỏ ra một khoản chi phí không phải là nhỏ khi tiến hành hoạt động cho vay tiêu dùng.
2.2.3.4. Các khoản cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận khá lớn cho các ngân hàng
Như đã nói ở trên, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng, mặt khác số lượng khách hàng của hình thức cho vay này lại nhiều nên đây là hình thức tài trợ mang lại nguồn lợi nhuận cao cho ngân hàng.
2.2.4. Cơ sở cho vay tiêu dùng
Vào thời kì đầu đa phần các ngân hàng đều không dám cho vay tiêu dùng vì mức độ rủi ro tiềm ẩn và phức tạp của hình thức tín dụng này. Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ thì cho vay tiêu dùng trở thành hình thức cho vay phổ biến được các ngân hàng áp dụng. Vậy cơ sở của hình thức này là thế nào mà các ngân hàng thay vì hạn chế đã mở rộng hình thức cho vay này?.
2.2.4.1. Do nhu cầu về hàng tiêu dùng tăng nhanh
Sự phát triển của kinh tế và công nghệ dẫn đến đời sống của cong người được cải thiện đáng kể. Con người hiện nay có nhu cầu rất lớn về hàng tiêu dùng: nhu cầu về nhà ở, nhu cầu về phương tiện vận tải, nhu cầu về may mặc…Những nhu cầu này con người không thể đủ khả năng tài chính ở hiện tại để thoả mãn và yêu cầu phải có một nguồn tài chính đủ lớn để đáp ứng những nhu cầu kia của con người. Việt Nam- một nước có nền kinh tế đang phát triển, là một thị trường đầy tiềm năng của hoạt động cho vay tiêu dùng. Tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn dẫn đầu các nước trong khu vực Đông Nam Á và cao thứ hai Châu Á (Chỉ sau Trung Quốc) làm cho thu nhập bình quan đầu người của Việt Nam không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Bảng1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam giai đoạn 2001-2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
GDP(%)
6.84
7.04
7.34
7.69
8.4
7.8
GDP/Đầu người(USD)
415
439
481
514
638
754
(Nguồn: www.mekongcapital.com)
Thu nhập gia tăng và ổn định chính là cơ sở quan trọng nhất để các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình
2.2.4.2. Do lợi nhuận của các khoản cho vay tiêu dùng
Trước đây khi công nghệ chưa phát triển, qui mô nguồn vốn còn hạn chế, những biện pháp phòng ngừa rủi ro chưa được hoàn thiện, các ngân hàng không chú ý đến cho vay tiêu dùng. Ngày nay cùng với sự cạnh tranh trên thị trường tài chính, các ngân hàng đã chú trọng đến cho vay tiêu dùng hơn. Cho vay tiêu dùng mang lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn nên càng khuyến khích các ngân hàng mở rộng hơn nữa hình thức cho vay này.
2.2.4.3. Do rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng đã được hạn chế
Một cản trở làm cho các ngân hàng không muốn mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng là mức độ rủi ro của nó. Có thể nói cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức độ rủi ro cao nhất trong các hình thức cho vay của ngân hàng. Mức độ rủi ro của nó làm cho các ngân hàng rất ngần ngại trong khi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng thì không ngừng gia tăng. Nhưng ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, thu nhập của con người cũng tăng lên và khá ổn định. Vì thu nhập của khách hàng chính là cơ sở để trả nợ các khoản vay tiêu dùng nên hiện nay các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng, do vậy rủi ro của các khoản vay này cũng được hạn chế. Mặt khác hiện nay các ngân hàng đều áp dụng những công nghệ hiện đại trong việc quản lí các khoản cho vay ngay từ khâu thấm định hồ sơ vay vốn của khách hàng nên đã hạn chế được tối đa rủi ro của các khoản cho vay tiêu dùng.
2.2.4.4. Do sự canh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng
Sự ra đời nhanh chóng và lớn mạnh của rất nhiều ngân hàng mới làm cho hệ thống ngân hàng thương mại được mở rộng. Trước đây khi chỉ có một số ít ngân hàng thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không diễn ra mạnh mẽ và khốc liệt như hiện nay. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các ngân hàng thương mại cần phải có những chính sách mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển cho ngân hàng mình, các ông chủ ngân hàng đã không ngần ngại đầu tư vào các lĩnh vức mà trước khi bị coi là “khu vực nguy hiểm” với mức độ rủi ro cao như cho vay tiêu dùng.
2.2.5. Các hình thức cho vay tiêu dùng
Tuỳ theo các cách chia mà cho vay tiêu dùng có thể chia thành các hình thức khác nhau.
2.2.5.1.Chia theo tài sản đảm bảo
Nếu theo tài sản đảm bảo có thể chia cho vay tiêu dùng ra làm hai loại sau:
Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo
Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo
2.2.5.2. Chia theo hình thức tài trợ của ngân hàng
Nếu chia theo phương thức này có thể chia cho vay tiêu dùng thành hai loại sau:
Cho vay trực tiếp cho khách hàng
Hình thức cho vay tiêu dùng này bao gồm có những phương thức sau:
Tín dụng trả theo định kỳ
Là phương thức, trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp ngân hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được qui định khi cho vay. Nếu được cấp tiền vay , toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài khoản tiền gửi cá nhân hoặc giao tiền mặt cho khách hàng.
Thấu chi
Là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của anh ta vượt mức số dư có, tới một hạn mức đã được thoả thuận
Cả hai loại tín dụng trên đều không cần ký hợp đồng vay mượn mà chỉ cần thông qua thoả thuận nghiệp vụ với các nội dung: Hạn mức, lãi suất, yêu cầu đảm bảo phí các loại, bảo hiểm (nếu có), thời điểm tái xét thời hạn có hiệu lực của hạn mức, kỳ hạn nợ (nếu có).
Thẻ tín dụng
Là nghiệp vụ tín dụng, trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
Cho vay gián tiếp được hiểu là việc ngân hàng mua các phiếu bán hàng từ những người bán lẻ hàng hoá và do vậy nó chính là hình thức tài trợ bán trả góp của các NHTM
Tín dụng trả góp của ngân hàng được thực hiện bằng một trong hai cách sau:
Cách 1: Ngân hàng, người bán và người mua phải thoả thuận được với nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần, sau đó ngân hàng cho người bán hàng v._.à giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ
Có thể mô tả như sau:
Người mua
Người bán
NHTM
(1)
(2)
(5) (3) (4)
Trong đó:
(1): Người mua trả trước 20-30% giá trị của tài sản.
(2): Người bán giao tài sản cho người mua, đồng thời giữ lại quyền sở hữu tài sản.
(3): Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng làm thế chấp và phiếu bán hàng.
(4): Ngân hàng trả phần tiền còn thiếu cho người bán (70-80%).
(5): Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác định.
Cách 2: Được thực hiện với thời hạn và mức trả dần tương tự như trên nhưng khác ở một số điểm: Người bán giao tài sản và giao sở hữu, người bán và người mua thực hiện hành vi mua bán chịu tài sản nên xuất hiện kỳ phiếu, ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu của người bán
Có thể mô tả như sau:
Người mua
Người bán
NHTM
(1)
(4)
(2) (5) (3)
Trong đó:
(1): Người mua mua chịu hàng hoá và có kỳ phiếu cho người bán.
(2): Người mua ký quỹ 20-30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản.
(3): Ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu từ người bán hàng.
(4): Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua.
(5): Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác định.
2.2.5.3. Chia theo mục đích vay của khách hàng
Nếu chia theo mục đích vay của khách hàng ta có thể chia cho vay tiêu dùng thành các hình thức sau:
Cho vay tiêu dùng cư trú: Hỗ trợ khách hàng về việc mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhà cửa.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Hỗ trợ khách hàng về mua sắm phương tiện vận chuyển, du lịch, du học…
2.2.6. Tác động của cho vay tiêu dùng
Hiện nay cho vay tiêu dùng không những là hình thức cho vay phổ biến của các ngân hàng thương mại mà nó còn thể hiện rõ vai trò to lớn không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế, đối với người tiêu dung.
2.2.6.1. Tác động với ngân hàng
Với những biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả được các ngân hàng áp dụng hiện: Phân tích khách hàng, lập phòng riêng theo dõi cho vay tiêu dùng…, thì cho vay tiêu dùng với lãi suất cho vay cao trở thành nguồn thu đáng kể cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng từ chỗ bị các ngân hàng xếp vào loại hình cho vay nguy hiểm, mức độ rủi ro cao, nay đã được các ngân hàng chú trọng và mở rộng và phát triển.
2.2.6.2. Tác động với người tiêu dùng
Cuộc sống con người không ngừng được nâng cao làm cho nhu cầu của con người về hàng hoá tiêu dùng không dừng lại ở những mặt hàng giản đơn. Ngày nay nhu cầu của con người về những hàng hoá tiêu dùng xa xỉ như ô tô, nhà cửa…tăng mạnh. Điều này đặt ra cho con người yêu cầu về một nguồn tài chính đủ lớn để đáp ứng được tất cả các nhu cầu trên. Có thể nói chỉ có nguồn tài trợ của ngân hàng cho người tiêu dùng thông qua cho vay tiêu dùng mới đáp ứng được những nhu cầu trên của người tiêu dùng. Mặt khác hình thức tín dụng này còn làm tăng sự cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau, làm cho họ phải chú trọng hơn tới chủng loại hàng hoá, mẫu mã hàng hoá, chất lượng và giá cả hàng hoá. Tất cả những điều trên đều mang lại những lợi ích cho người tiêu dùng.
2.2.6.3. Tác động với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận thu được, do vậy họ luôn tìm mọi cách để tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của khách hàng. Hiện nay nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của người tiêu dùng không ngừng tăng, nhưng nó lại không thể được thỏa mãn bằng nguồn tài chính hiện có của khách hàng. Hàng hoá không thể xếp vào kho chờ khi khách hàng có đủ điều kiện về tài chính được. Và nguồn tài chính từ ngân hàng tài trợ là một giải pháp tối ưu. Như vậy cho vay tiêu dùng của ngân hàng giải quyết được sự ùn tắc trong việc tiêu thu hàng hoá. Nguồn tín dụng này cũng giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tăng cường sản xuất, mở rộng qui mô, mở rộng thị trường.
2.2.6.4. Tác động với nền kinh tế
Nhu cầu về hàng tiêu dùng của khách hàng tăng nhanh kéo theo nền sản xuất hàng hoá, dịch vụ được đẩy mạnh, lưu thông hàng hoá cũng được tăng cường. Những nhà sản xuất luôn muốn tiêu thụ nhanh chóng hàng hoá, dịch vụ của mình nên luôn khuyến khích người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm của mình dưới mọi hình thức. Như đã nói ở trên nếu chỉ đơn thuần chỉ dựa vào nguồn tài chính của khách hàng thì không thể nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của họ,và giải pháp tối ưu nhất là sử dụng nguồn tài trợ của ngân hàng. Vậy là nhờ nguồn vốn của ngân hàng thông qua hình thức cho vay tiêu dùng mà sự lưu thông hàng hoá được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế.
2.2.7. Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng tại một số NHTM trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.2.7.1. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại một số NHTM trên thế giới
Theo tạp chí Stephen Timewell đã đưa nhận định “Xu hướng ngày nay cho thấy, ngân hàng nào nắm bắt được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng bán lẻ cho một số lượng khổng lồ dân cư “đói” các dịch vụ tài chính tại các nước có nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai”. Phải khẳng định rằng cho vay tiêu dùng là một dịch vụ ngân hàng bán lẻ vô cùng quan trọng của ngân hàng. Hiện nay tại các nước lớn trên thế giới, các ngân hàng thương mại đang ra sức nâng cao tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ của mình. Ta bắt đầu đi từ nước Mỹ- một cường quốc của thế giới. Hiện nay tại các ngân hàng thương mại của Mỹ, những khoản cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng 30-40% tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng. Các khoản tín dụng thường được tài trợ cho những nhu cầu mua nhà, mua xe hơi, du lịch…Nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại của Mỹ đã có một tầm nhìn chiến lược đó là phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại các thị trường ngoài nước Mỹ. Citigroup- Ngân hàng lớn nhất thế giới là một điển hình, không chỉ chú trọng khai thác thị trường về nhu cầu tiêu dùng tại nước Mỹ, ngân hàng này còn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các nước có nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc, Brazin, Ấn Độ…Trong chiến lược kinh doanh của mình các năm tới Citigroup đã đưa ra kế hoạch nâng thu nhập ròng của hoạt động kinh doanh quốc tế từ 38% lên 50% trong tương lai. Nhiều chuyên gia tại Mỹ đã khẳng định phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong đó có cho vay tiêu dùng chính là tương lai của các ngân hàng.
Theo một công bố gần đây của Standard –Poor’s (S&P), trong các nước được gọi là BRIC ( bao gồm Brazin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), các khoản vay cá nhân cho việc mua nhà, xe và các chi tiêu cá nhân khác đã tăng lên 3 lần trong giai đoạn 2001- 2005 (từ 145 tỷ USD lên 477 tỷ USD). Tuy nhiên con số này vẫn còn rất thấp so với Đức, nơi tổng các khoản vay lên tới 1700 tỷ USD năm 2005. S&P cũng cho biết, tại nhóm BRIC, dịch vụ cung cấp các khoản vay tiêu dùng nhỏ lẻ khác có tốc độc gia tăng trung bình 30% giai đoạn 2001- 2005 và có thể đạt con số 1800 tỷ USD vào năm 2009 với tỷ lệ tăng trưởng trung bình 20- 30%.
Cũng theo S&P, tại các thị trường mới nổi, sự tăng trưởng trong việc cung cấp các khoản vay tiêu dùng là rất lớn trong tương lai . Các khoản cho mua nhà, mua hàng lâu bền hay mua ô tô , trong đó đặc biệt là các khoản cho vay mua nhà, sẽ có mức tăng mạnh trong các năm tới.
Các ngân hàng Châu Âu là một điển hình tiếp theo về sự nhạy bén trong việc phát triển hình thức cho vay tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng , có thể nói là ra đời khá muộn màng so với các hình thức tín dụng khác tại Châu Âu. Tuy nhiên hiện nay, cho vay tiêu dùng không còn là hình thức tín dụng mới mẻ với những người dân Châu Âu nữa. Cho vay tiêu dùng tại Châu Âu hoạt động theo Nghị Định 87/102/CEF ra đời vào năm 1986. Từ năm 1986 tới nay NGhị định đã hai lần được sửa đổi, đó là vào năm 1990 với Nghị định 90/08/CEE và năm 1998 với Nghị định 98/7/CEE. Tại Châu Âu, có thể nói đối tượng được nhận tín dụng tiêu dùng đa dạng và phong phú nhất, tất cả nhứngx ai có đủ năng lực hành vi đều được cấp tín dụng tiêu dùng. Các ngân hàng thương mại tại các nước Châu Âu không ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng tiêu dùng. Các hình thức tín dụng tiêu dùng chủ yếu của các ngân hàng thương mại này là: Cho vay mua xe hơi, mua nhà, sửa chữa bếp, nhà tắm, bể bơi, trang trí nhà cửa… Các ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc an toàn nên các khoản vay tiêu dùng cũng có những nguyên tắc nhất định, ví dụ các ngân hàng thương mại Châu Âu có nhưng qui định khác nhau về đối tượng vay: Nghề nghiệp, độ tuổi…, hay qui định về giá trị tối thiểu của các khoản vay. Nhìn chung các ngân hàng thương mại đều tiến hành hoạt động tín dụng tiêu dùng dựa theo 2 nguyên tắc là an toàn của ngân hàng kết hợp với bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.Bên cạnh việc phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng trong nước, các ngân hàng thương mại Châu Âu còn hết sức chú ý tới các thị trường khác ngoài lãnh thổ của mình. Vùng Trung và Đông Âu (CEE) là một thị trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng thương mại Châu Âu khai thác loại hình cho vay mua nhà. Việc các ngân hàng Châu Âu thâm nhập vào thị trường này khiến cho các khoản cho vay mua nhà tăng lên với tốc độ chóng mặt từ một nền tảng hầu như là con số không trước đây.
Bảng 1.2: cho vay tiêu dùng với các hộ gia đình bằng đồng nội tệ( tỷ)(1)
2001
2002
2003
2004
2005
Ba Lan(2)
14.1
20.0
29.6
35.8
50.6
Hungary
323.5
781.2
1508.3
1909.4
2283.3
CH Séc
na(4)
112.0
155.2
209.8
282.1
Slovakia
na
na
61.7
87.8
118.8
Croatia
9.5
12.4
16.9
21.4
27.6
Rumania(3)
na
na
na
3.3
5.2
Bungary
0.2
0,2
0.4
1.0
2.0
(Nguồn: Các ngân hàng trung ương , Bank Australia Creditanlt Economics Department)
Chú thích
(1): Cho vay của các nước Ba Lan, Cộng hoà Séc, Slovakia, Bungary bao gồm cho vay hộ gia đình và cho vay hộ gia đình của các tổ chức không vì lựo nhuận.
(2): Số liệu năm 2001 được ước lượng từ số liệu năm 2000, số liệu này không bao gồm các khoản vay của các hiệp hội tín dụng.
(3): Số liệu không bao gồm các khoản cho vay của các tổ chức tín dụng hợp tác.
(4): Chưa có số liệu.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy tại các thị trường phát triển hơn như: Hungary hay cộng hoà Séc, sự tăng trưởng của các khoản cho vay tiêu dùng vốn đã rất mạnh mẽ sẽ tiếp tục diễn ra trong tương lai cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế.
Trung Quốc - Một nền kinh tế với sức phát triển nóng của thế giới, hình thức tín dụng tiêu dùng cũng được các ngân hàng thương mại hết sức chý ý. Ngân hàng kiến thiết Trung Quốc( CCB) là một trong những ngân hàng đi đầu về việc cấp tín dụng tiêu dùng cho khách hàng. Ngay từ cuối những năm 90 CCB đã biết hướng hoạt động của mình vào khu vực tiêu dùng, năm 1999 CCB áp dụng hình thức cho vay tiêu dùng có thế chấp với thời hạn vay được kéo dài và giá trị các khoản vay được nâng cao (lên tới 70-80% giá trị thế chấp. Bên cạnh CCB, tại Trung Quốc phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng còn phải kể tới ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông. Ngân hàng này với hình thức cấp tín dụng mua nhà ,các khoản vay đi du lịch, vay đi du học… Các hình thức tín dụng tiêu dùng này được ngân hàng Thượng Hải –Phú Đông tập trung mọi nguồn lực để thực hiện. Trung Quốc với dân số lớn nhất thế giới, nền kinh tế không ngừng phát triển, là một thị trường đầy tiềm năng để các ngân hàng thương mại không chỉ của Trung Quốc mà của cả nước ngoài khai thác. Hiện nay các ngân hàng thương mại Trung Quốc đang cố gắng hết sức để mở rộng hơn nữa thị phần của mình trên khu vực tín dụng tiêu dùng trong nước, nhưng vì thực chất các khoản cho vay tiêu dùng vẫn còn khá mới mẻ với không chỉ các ngân hàng mà cả với chính người tiêu dùng. Sự thâm nhập thị trường của các ngân hàng khổng lồ nước ngoài :HSBC, Citibank,… buộc các ngân hàng thương mại của Trung Quốc cần có những sách lược rõ ràng và đúng đắn để không bị đánh bại ngay trên sân nhà.
2.2.7.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Là một nước có dân số đông ,nền kinh tế những năm gần đây có những bước phát triển, thu nhập của người dân không ngừng được cải thiện, Việt Nam hứa hện một thi trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng.
Là một nước đi sau nên Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước.Qua phân tích ở trên, có thể thấy phát triển tín dụng tiêu dùng không chỉ là xu thế tất yếu của các ngân hàng trên thế giới, mà nó còn là “tương lai” của các ngân hàng.
Có thể rút ra một vài bài học cho sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam như sau:
Xác định cho vay tiêu dùng là một bộ phận trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng, việc phát triển tín dụng tiêu dùng phải được đặt trong chiến lược phát triển chung của ngân hàng. Mở rộng cho vay tiêu dùng phải được xem là xu hướng phát triển tất yếu trong thời đại ngày nay. Muốn vậy các ngân hàng cần có những chiến lược quản lý rủi ro của các khoản vay tiêu dùng một cách hiệu quả.
Hoạt động Marketing nhằm quảng bá hình ảnh và hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng cần được chú trọng. Người dân chỉ thực sự muốn sử dụng dịch vụ của ngân hàng khi họ hiểu về những sản phẩm đó. Đặc biệt tại Việt Nam, hình thức tín dụng ra đời mới được hơn chục năm, nó còn hết sức mới mẻ với người tiêu dùng nên hoạt động tuyên truyền, quảng bá về hoạt động này càng phải được chú trọng.
Các nước đang phát triển chính là thị trường mà các nước phát triển hướng tới, Việt Nam cũng vậy. Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam đang đứng trước những thử thách về việc hội nhập. Người dân Việt Nam hiện nay, với thu nhập được nâng lên không ngừng chính là cơ hội cho các ngân hàng thương mại xúc tiến hoạt động tín dụng của mình. Tuy vậy nếu các ngân hàng thương mại Việt Nam không có những kế hoạch hành động hợp lý thì khi các ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào với kinh nghiệm và qui mô hơn hẳn sẽ chiếm lĩnh ngay thị phần của các ngân hàng thương mại trong nước.
Có thể khẳng định việc các ngân hàng do dự trước quyết định mở rộng cho vay tiêu dùng chính là vì mức độ rủi ro tiềm ẩn của các khoản vay này rất cao. Như vậy muốn mở rộng cho vay tiêu dùng các ngân hàng không còn cách nào khác là phải tăng cường hoạt động giám sát và quản lí các khoản vay này.
Phải có mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng. Hầu hết các nước phát triển dịch vụ tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình mô hình cho điểm đối với loại hình tín dụng này. Mô hình này áp dụng cho cá nhân, dựa vào hồ sơ tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, sở hữu nhà, thu nhập, thời gian công tác…để cho điểm từ đó hình thành khung chính sách tín dụng.
Bảng 1.3. Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng
Tổng số điểm
Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống
Từ chối tín dụng
từ 29 đến 30 điểm
Cho vay đến 500 USD
Từ 31 đến 33 điểm
1.000 USD
Từ 34 đến 36 điểm
2.500 USD
Từ 37 đến 38 điểm
3.500 USD
Từ 39 đến 40 điểm
5.000 USD
Từ 41 đến 43 điểm
8.000 USD
( Nguồn: Risk Management in Banking, 2001- Joel Bessis)
2.2.8. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM
Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại chỉ để cho vay tiêu dùng chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng dư nợ cho vay của mình, thì ngày này hầu hếtcác ngân hàng thương mại đều coi cho vay tiêu dùng là một lĩnh vực quan trọng, là yếu tố cạnh tranh của ngân hàng so với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. Ngày nay nguồn cho vay tiêu dùng không chỉ xuất phát từ các ngân hàng thương mại mà còn xuất phát từ rất nhiều nguồn khác như: Công ty tài chính, công ty bảo hiểm, hợp tác xã, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, hợp tác xã, các doanh nghịêp sản xuất, kinh doanh hay các nguồn khác nữa. Tuy nhiên ngân hàng thương mại vẫn là lựa chọn được ưu tiên của những người muốn vay vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, cho vay tiêu dùng hiện là một hình thức tài sản phổ biến và có khả năng sinh lời cao cho ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức cho vay tiêu dùng là một yêu cầu luôn đặt ra cho các ngân hàng, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay của ngân hàng thương mại, hoạt động của nó chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Các ngân hàng luôn luôn phải xem xét các yếu tố đó một cách thân trọng nhằm phát huy những yếu tố tích cực đến cho vay tiêu dùng, cũng như hạn chế tới mức tối đa các yếu tố klàm hạn chế hoạt động cho vay tiêu dùng.
Có thể chia những yếu tố tác động tới hoạt động cho vay tiêu dùng thành hai nhóm: Nhóm yếu tố chủ quan và nhơm yếu tố khách quan.
2.2.8.1. Nhóm yếu tố chủ quan
Đây là nhóm yếu tố xuất phát từ phía bản thân các ngân hàng. Đây có thể coi là nhóm yếu tố quyết định hoạt động cho vay tiêu dùng. Tuỳ theo định hướng phát triển của mỗi ngân hàng thương mại mà ta thấy tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay của mỗi ngân hàng là khác nhau. Có những ngân hàng coi cho vay tiêu dùng là một hoạt động quan trọng, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của nó, nhưng cũng có ngân hàng không coi cho vay tiêu dùng là hoạt động chiến lược mà tập trung nguồn lực mở rộng và phát triển các hoạt động khác. Như vậy chiến lược phát triển và nội lực của mỗi ngân hàng là yếu tố tiên đối với sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.
Chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại.
Đây là yếu tố kiến tạo lên sức mạnh của các ngân hàng. Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại. Quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàn, nhân viên ngân hàng chính là hiện hữu chủ yếu của dịch vụ, chính vì vậy mà kiến thức và chuyên môn của của nhân viên ngân hàng tăng thêm giá trị của các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Kiến thức và chuyên môn của nhân viên ngân hàng cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thẩm định các khoản vay. Cho vay tiêu dùng là một loại hình cho vay có mức độ rủi ro tiềm ẩn rất lơn, nên ngay từ khâu thẩm định các khoản vay nếu cán bộ thẩm định không làm tốt có thể gây ra tổn hại rất lớn cho ngân hàng. Ngoài ra đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng cũng là một yếu tố rất quan trọng trong việc cho vay. Nếu một cán bộ ngân hàng không có đạo đức nghề nghiệp thì nguy cơ xảy ra rủi ro cho ngân hàng cũng không phải là nhỏ.
Qui mô nguồn vốn của ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn ngân hàng huy động được và nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Trong đó nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài trong tương lai. Ngoài ra, nguồn vốn chủ sở hữu còn là tấm lá chắn cho ngân hàng, nhằm chống lại các rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay, qui mô nguồn vốn lớn là một yếu tố kích thích khách hàng đến với ngân hàng. Qui mô nguồn vốn lớn giúp cho ngân hàng có điều kiện đầu tư nâng cao cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị, công nghệ ngân hàng…Tất cả những yếu tố trên tạo cho ngân hàng sức cạnh tranh nhằm mở rộng hơn nữa các dịch vụ ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng.
Qui trình và thủ tục cho vay của ngân hàng
Có thể nói không một khách hàng nào muốn giao dịch tại một ngân hàng có qui trình và thủ tục cho vay rườm rà, phức tạp. Hiện nay các ngân hàng đều tìm cách rút ngắn qui trình và thủ tục cho vay nhằm thu hút khách hàng. Nhưng khi tiến hành cho vay các ngân hàng đều phải chú trọng đến qui trình thẩm định. Đây là bước quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Như vậy khi tiến hành hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, các ngân hàng cần có một hệ thống các thủ tục và qui trình cho vay hợ lý, khoa học, đặc biệt là khâu thẩm định phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và chính xác.
Chiến lược khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chính là người quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của một công ty, một tổ chức, một cá nhân tiến hành kinh doanh,cung cấp các sản phẩm dịch vụ trên thị trường. Khách hàng là người lựa chọn sản phẩm, hãng kinh doanh trên thị trường phù hợp với nhu cầu của mình. Nếu doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của khách hàng thì dù sản phẩm đó có tốt đến đâu thì cũng không được khách hàng đón nhận. Trong kinh doanh ngân hàng cũng vậy, sự thành công hay thất bại của ngân hàng đều liên quan đền khách hàng. Cho vay tiêu dùng hiện nay không phải là độc quyền của bất kì ngân hàng nào. Sự ra đời của rất nhiều ngân hàng thương mại mới buộc các ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng cần có một chính sách khách hàng hấp dẫn.
Hệ thống thông tin và công nghệ ngân hàng
Thời đại ngày nay thông tin trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu trong hoạt động của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng đóng vai trò sống còn đối với các ngân hàng. Trong xu thế ngày nay không nào thể tồn tại một ngân hàng với công nghệ lạc hậu. Công nghệ hiện đại là cơ sở để các ngân hàng mở rộng hoạt động trong đó co hoạt động cho vay tiêu dùng.
2.2.8.2. Nhóm yếu tố khách quan
Bên cạnh những yếu tố chủ quan trên, cho vay tiêu dùng còn chịu tác động của các yếu tố khách quan khác nữa. Có thể có những nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng như: Môi trường kinh tế, môi trường văn hoá xã hội, môi truờng pháp lý, chính sách kinh tế và đinh huớng phát triển của Nhà nước, những nhân tố khách quan từ phía khách hàng.
Môi trường văn hoá- xã hội
Môi trường văn hoá- xã hội bao gồm các yếu tố như trình độ dân trí, thói quen chi tiêu của người dân, nhu cầu của người dân…Các yếu tố này đều ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nếu ở một xã hội thói quen chi tiêu của người dân chỉ dừng ở mức độ là các mặt hàng thiết yếu thì tại đó ngân hàng không thể phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng được. Hay tại một xã hội mà người dân có thói quen tiết kiệm, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập cao thì ngân hàng cũng không có cơ hội mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Trình độ dân trí cao là một cơ hội để mở rộng các dịch vụ ngân hàng trong đó có cho vay tiêu dùng.
Môi trường kinh tế
Có thể nói sự biến động cho vay tiêu dùng gắn bó chặt chẽ với sự biến động của môi trường kinh tế. Nếu một nước có nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân ổn định, nhu cầu tiêu dùng của họ sẽ tăng lên, lúc ấy ngân hàng có cơ hội mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình. Còn nếu như một đất nước có nền kinh tế đình trệ, suy thoái, không ổn định thì người dân sẽ không muốn đi vay tiền để thoả mãn những nhu cầu chi tiêu của mình, họ chỉ duy trì cuộc sống ở mức bình thường.
Môi trường pháp lý
Hiện nay không riêng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng phải nằm trong khuôn khổ luật pháp mà mọi hoạt động khác của ngân hàng đều phải tuân thủ những qui định của Nhà nước, của pháp luật. Môi trường pháp lý bao gồm những văn bản pháp luật của Nhà nước là một nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nếu một xã hội có môi trường pháp lý chặt chẽ, đồng bộ sẽ tạo cơ hội phát triển cho hoạt động cho vay tiêu dùng, nhưng nếu một xã hội tồn tại một hệ thống các văn bản pháp luật chằng chịt, không rõ ràng, đầy đủ thì sẽ cản trở không chỉ hoạt động cho vay tiêu dùng và còn cản trở tất cả các hoạt động kinh tê-xã hội khác.
Định hướng phát triển và chính sách kinh tế của Nhà nước
Các chính sách kinh tế hay định hướng phát triển của Nhà nước đều có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu định hướng phát triển và chính sách kinh tế của Nhà nước kích thích sự phát triển kinh tế trong nước cũng như thu hút đầu tư nước ngoài sẽ giúp cho nền kinh tế đất nước được phát triển, GDP tăng lên, thu nhập của người dân được cải thiện. Nhu cầu của người dân về hàng tiêu dùng tăng lên, các ngân hàng có cơ hội mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình. Bên cạnh đó những chính sách của Nhà nước như: Xoá đói giảm nghèo, chỉ định các ngân hàng áp dụng những chính sách ưu đãi khi cho vay với những đối tượng chính sách, hộ nghèo…Những chính sách này góp phần vào việc thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, làm tăng lượng khách hàng với hình thức tín dụng tiêu dùng của ngân hàng. Những chính sách hợp lý và định hướng kinh tế đúng đắn của Nhà nước còn có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng trong dân cư, tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng.
Các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng
Các yếu tố xuất phát từ bản thân khách hàng của ngân hàng khi thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay tiêu dùng.Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay tiềm ẩn rủi ro rất cao, những rủi ro này thường xuất phát từ phía khách hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng bao gồm có: Khả năng tài chính của khách hàng, đạo đức khách hàng, tài sản đảm bảo của khách hàng…
Khả năng tài chính của khách hàng
Khả năng tài chính của khách hàng chính là nguồn trả nợ cho các khoản vay của ngân hàng. Thu nhập của người vay là nguồn trả nợ chủ yếu của các khoản vay tiêu dùng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn định sẽ luôn được chào đón sử dụng các dịch vụ của ngân hàng trong đó có dịch vụ cho vay tiêu dùng. Như vậy khả năng tài chính của khách hàng là một sự đảm bảo cho ngân hàng khi cung cấp tín dụng tiêu dùng, nó đảm bảo cho ngân hàng sự an toàn, tránh rủi ro.
Đạo đức khách hàng
Đạo đức khách hàng bao gốm các yếu tố liên quan đến uy tín của khách hàng, năng lực pháp lý của khách hàng…Các yếu tố này có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi ngân hàng tiến hành xem xét các khoản vay nói chung và các khoản vay tiêu dùng nói tiêng. Nếu một khách hàng có khả năng tài chính dồi dào, nguồn tài chính dùng trả nợ cho ngân hàng được đảm bảo, nhưng đạo đức của khách hàng này không được đảm bảo thì khả năng trả nợ của khách hàng này là rất thấp. Ngân hàng sẽ không muốn cấp tín dụng cho những khách hàng như vậy. Đạo đức khách hàng cón thể hiện ở việc cung cấp cho ngân hàng những thông tin cá nhân đầy đủ và chính xác, sự thiện chí muốn trả nợ cho ngân hàng và sự trung thực trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng kí kết với ngân hàng.
Tài sản đảm bảo của khách hàng
Tài sản đảm bảo chính là nguồn trả nợ thứ hai sau nguồn trả nợ thú nhất là thu nhập của người vay trong tín dụng tiêu dùng. Do tài sản có sự đảm bảo của những cơ sở pháp lý nên nó tăng tính an toàn cho các khoản vay. Trong trường hợp có rủi ro xảy ra, tài sản đảm bảo chính là tấm đệm cho các ngân hàng. Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro cho mình khi người vay không trả được nợ bằng cách phát mại tài sản đảm bảo của người vay. Mặc dù vậy khi ngân hàng tiến hành phát mại tài sản cũng gặp một số vấn đề như: Chi phí phát mại, thời gian phát mại…, những nhân tố đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Trong cho vay tiêu dùng nguy cơ xảy ra rủi ro rất cao do người vay có thể gặp rất nhiều rủi ro: Ốm đau, mất việc…ảnh hưởng thu nhập là nguồn trả nợ chính của khách hàng. Do vậy trong cho vay tiêu dùng, ngân hàng phải hết sức chú ý đến tài sản đảm bảo, tuy nhiên tài sản đảm bảo không phải là yếu tố quyết định để ngân hàng quyết định cấp tín dụng cho người vay. Nếu các khoản vay tiêu dùng có giá trị nhỏ cùng với sự đảm bảo của người vay thì ngân hàng có thể không yêu cầu tài sản đảm bảo.
2.2.9. Giảm rủi ro hoạt động cho vay tiêu dùng bằng mô hình công ty thông tin tín dụng tiêu dùng
2.2.9.1. Sự cần thiết của công ty thông tin tín dụng tiêu dùng
Trong các năm trở lại đây, tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam phát triển khá sôi động, tỷ lệ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại có xu huớng ngày càng tăng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đay là hoạt đông tiềm ẩn rủi ro rất lớn có thể ảnh hưởng tới sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đây là một nhân tố làm các ngân hàng thương mại rất e ngại khi thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng. Xu thế trên thế giới hiện nay, hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng được mở rộng và phát triển và chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ của các ngân hàng. Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, thu nhập của người dân đang ngày càng được cải thiện, có thể nói đây là thị trường đầy hứa hẹn đối với các ngân hàng để phát triển dịch vụ cho vay tiêu dùng. Nhưng thời gian vừa qua đã chứng kiến không ít những vụ lừa đảo, chiếm đoạt tài sản liên quan đến cho vay tiêu dùng. Rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng thường do các ngân hàng thương mại không có đầy đủ và chính xác thông tin về khách hàng của mình. Một yêu cầu được đặt ra là phải có một tổ chức cung cấp những thông tin về khách hàng tiêu dùng nhằm hỗ trợ ngân hàng hạn chế những rủi ro xảy ra cũng như đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của ngân hàng.
Trên thế giới hiện đã tồn tại một hình thức công ty thông tin tín dụng tiêu dùng (Credit Bureau-Viết tắt là CB). CB có chức năng thu thập những thông tin về khách hàng vay thông qua các tổ chức tín dụng, thông qua các cơ quan thuế, cơ quan công cộng, toà án…Sau đó họ lập những hồ sơ về từng khách hàng. Các tổ chức tín dụng cung cấp thông tin cá nhân về khách hàng, thông tin một cách chính xác, kịp thời. CB hoạt động theo nguyên tắc hai chiều, xây dựng trên nguyên tắc ký kết hợ đồng cung cấp và khai thác thông tin tín dụng giữa CB và các tổ chức tín dụng.
CB có nhiều sản phẩm, phụ thuộc vào những thông tin thu thập được và các loại hình tín dụng như tín dụng tiêu dùng, tín dụng thương mại, cho vay thế chấp…Những thông tin tín dụng có thể là những thông tin đơn giản như nợ xấu, vỡ nợ…của khách hàng hay những thông tin chi tiết về tài sản, nguồn vốn,cấu trúc kỳ hạn nợ, phương thức thanh toán, lịch sử của khách hàng. Những thông tin này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp ngân hàng thương mại có cái nhìn chính xác nhất về khách hàng mà mình sẽ cấp tín dụng.
Công tác thu thập, xử lý, cung cấp thông tin ra đối với cá nhân của CB cũng giống như với thông tin tín dụng doanh nghiệp đang được thực hiện tại CIC, nhưng ở phạm vi và mức độ thấp hơn Những dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn thông tin tin cậy khác nhau, thông qua các kỹ thuật xử lý thông tin hiện đại, công ty thông tin tín dụng tiêu dùng sẽ cung cấp cho ngân hàng thương mại những thông tin có ý nghĩa quyết định đến chất lượng tín dụng. Hiện nay ở các nước có nền kinh tế phát triển luôn tồn tại các công ty thông tin tín dụng tiêu dùng bên cạnh các ngân hàng thương mại. Đặc điểm khách hàng tiêu dùng của các ngân hàng là qui mô của các khoản vay nhỏ, số lượng khách hàng lớn, kỹ thuật thu thập, xử lý thông ._.an người vay tiếp cận được với các khoản vay dài.
Tóm lại: Qua chương 2, em đã nêu rõ được tình hình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công. Thông qua tổng quan về chi nhánh( quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu tổ chức của chi nhánh), tình hình hoạt động của chi nhánh ( hoạt động huy động vốn, huy động sử dụng vốn và các hoạt động khác), nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Qua chương này em cũng đã trình bày về tình hình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Định Công, thông qua việc nghiên cứu tình hình cho vay tiêu dùng qua các năm, các hình thức cho vay tiêu dùng tại chi nhánh, đồng thời đánh giá các mặt được và chưa được của hoạt động này, cũng như nêu ra những nhân tố ảnh hưởng làm hạn chế hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Định Công.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT ĐỊNH CÔNG
1. Những mục tiêu hoạt động của chi nhánh
1.1. Những mục tiêu hoạt động chung
Là một chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh Định Công có những định hướng hoạt động kinh doanh theo những mục tiêu phát triển của toàn hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng. Chi nhánh trong tương lai có những định hướng nhằm mở rộng các đối tượng khách hàng. Tìm kiếm và khai thác các khách hàng tiềm năng. Trong những năm tới chi nhánh NHNo&PTNT Định Công sẽ chú trọng phát triển về mảng dịch vụ cá nhân, hoạt động này trong tương lai sẽ được mở rộng, phát triển nhằm nâng cao hiệu quả, tạo nguồn thu lớn hơn cho chi nhánh.
Để mở rộng hoạt động, tạo uy tín, chi nhánh sẽ quan tâm tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng, đồng thời phát triển và hoàn thiện các loại hình sản phẩm cho vay tiêu dùng. Tạo điều kiện cho khách hàng được hưởng đầy đủ lợi ích từ những sản phẩm mà chi nhánh cung cấp. Với phương châm của NHNo&PTNT Việt Nam là “Hoạt động nhằm hướng tới khách hàng”, chi nhánh NHNo&PTNT Định Công trong tương lai cũng có những mục tiêu hoạt động nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng tới giao dịch tại chi nhánh.
Năm 2007, chi nhánh NHNo&PTNT Định Công đã đặt ra những mục tiêu hoạt động cụ thể để thực hiện những kế hoạch được NHNo&PTNT Thăng Long.
Bảng 3.12: Kế hoạch huy động vốn năm 2007
Đơn vị: Tỷ VNĐ
STT
Nguồn vốn
Kế hoạch năm2007
Tăng trưởng so với năm 2006
Số tuyệt đối
Số tương đối(%)
I
Nội tệ
360
60
0.2
1
nguồn vốn huy động từ dân cư và TCKTXH
230
60
0.35294
1.1
Tiền gửi không kì hạn
20
10
1
1.2
Tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng
160
30
0.23077
1.3
Tiền gửi có kì hạn từ 12 đến dưới 24 tháng
30
10
0.5
1.4
Tiền gửi từ 24 tháng trở lên
20
10
1
1.5
Tiền gửi nội tệ khác
2
Nguồn vốn- UTĐT tại địa phương
3
Tiền gửi, vay của các TCTD
130
0
0
4
Nguồn vốn khác
II
Ngoại tệ
40
10
0.3333
2.1
Tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng
20
0
0
2.2
Tiền gửi có kì hạn từ 12 đến dưới 24 tháng
20
10
1
2.3
Tiền gửi có kì hạn trên 24 tháng
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh năm 2007)
Bảng 3.13: Kế hoạch sử dụng vốn
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
STT
Sử dụng vốn
Kế hoạch năm 2007
Tăng trưởng so với năm 2006
Số tuyệt đối
Số tương đối(%)
A
Tổng số dư nợ
300
50
0.2
(*)
Nợ quá hạn
6
-14
-0.7
I
Nội tệ
1
Dư nợ nội tệ thông thường
300
50
0.2
1.1
Dư nợ ngắn hạn
240
30
0.142857
1.2
Dư nợ trung hạn
60
20
0.5
1.3
Dư nợ dài hạn
2
Dư nợ chỉ định bằng nội tệ
2.1
Dư nợ ngắn hạn
2.2
Dư nợ trung hạn
2.3
Dư nợ dài hạn
3
Dư nợ UTĐT=nội tệ
3.1
Dư nợ ngắn hạn
4
Sử dụng vốn bằng nội tệ khác
4.1
Ngắn hạn
4.2
Trung hạn
4.3
Dài hạn
B
An toàn chi trả
43.8
7
0.190217
1
Nội tệ
41.8
6.8
0.19428571
2
Ngoại tệ
2
0.2
0.1111111
C
Chênh lệch thừa vốn
56.2
13
0.3
II
Ngoại tệ
38
9.8
0.347518
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh năm 2007)
Bên cạnh những mục tiêu về huy động và sử dụng vốn trên, chi nhánh NHNo&PTNT Định Công còn đặt ra cho mình những mục tiêu về các hoạt động khác như: Tăng tỷ trọng thu các loại dịch vụ nhất là chuyển tiền, tăng cường công tác kiểm tra giám sát, kiên quyết xử lý nợ xấu, làm tốt hơn nữa công tác kế toán-ngân quỹ, công tác hành chính, bảo vệ.
1.2. Mục tiêu của hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
Mở rộng hoạt động cho vay là một yêu cầu mang tính chiến lược đối với mọi NHTM trong thời đại ngày nay. Nếu một ngân hàng làm tốt công tác huy động vốn nhưng công tác cung ứng vốn làm không tốt thì ngân hàng đó không thể tồn tại và phát triển được. Hoạt động tín dụng của các NHTM không chỉ mang lai nguồn thu cho các ngân hàng mà nó còn góp phần cung ứng nguồn vốn để phát triển kinh tế. Hiện nay các NHTM đều tích cực tìm ra những giải pháp hợp lý nhất để mở rộng qui mô hoạt động tín dụng của ngân hàng mình. Tuỳ theo những đặc điểm của mỗi ngân hàng, tình hình kinh tế- xã hội từng thời kì mà mỗi ngân hàng có những chiến lược khác nhau với hoạt động tín dụng của mình.
Chi nhánh NHNo&PTNT Định Công cũng xác định mở rộng hoạt động tín dụng là một chiến lược phát triển của mình. Trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh, cho vay tiêu dùng luôn được quan tâm đặc biệt. Mục tiêu hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công trong thời gian tới là sẽ không ngừng mở rộng và phát triển các loại hình cho vay tiêu dùng. Bằng cách tăng cường hơn nữa các phương thức cho vay tiêu dùng đã cung ứng và mở rộng một số phương thức cho vay tiêu dùng mới như: Cho vay tiêu dùng phi trả góp, cho vay tiêu dùng tuần hoàn…
Bên cạnh đó chi nhánh NHNo&PTNT Định Công trong thời gian tới sẽ tăng cường đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng, đào tạo cán bộ về nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng. Nguồn cán bộ có chất lượng có thể giúp cho chi nhánh mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua việc gửi cán bộ đi đào tạo, tham gia các khoá đào tạo do NHNo&PTNT Việt Nam tổ chức, đi học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng khác…
Việc tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay tiêu dùng, nhằm hạn chế rủi ro cho hoạt động này cũng là một mục tiêu hoạt động quan trọng tại chi nhánh.
Phải khẳng định cho vay tiêu dùng là một hình thức tín dụng quan trọng của chi nhánh nên mục tiêu hoạt động cho hoạt động này luôn được chi nhánh quan tâm và thực hiện. Các mục tiêu này đều nhằm cung cấp cho khách hàng những lợi ích đầy đủ nhất từ sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng.
2. Các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công
2.1. Mở rộng nguồn vốn huy động.
Nếu như nguồn vốn sở hữu đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật của ngân hàng, thì nguồn vốn huy động được lại đóng vai trò quyết định sự phát triển cho ngân hàng đó. Có thể khẳng định, không một ngân hàng nào có thể phát triển chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của nó. Với chức năng của mình, NHTM huy động vốn rồi cho vay lại. Như vậy các ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cho vay thì phải mở rộng nguồn vốn huy động được.
Hiện nay tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công nguồn vốn huy động được từ dân cư còn khá hạn chế. Trong cơ cấu nguồn vốn, tiền gửi tiết kiệm có thời hạn trên 24 tháng chiếm tỷ trọng không lớn, những vấn đề này làm hạn chế hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng tại chi nhánh. Như vậy muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, chi nhánh cần có những chiến lược hoạt động để thu hút nguồn tiền gửi từ mọi thành phần kinh tế. Cần có những chính sách huy động hấp dẫn như: Tiết kiệm dự thưởng, có chính sách ưu đãi đặc biệt với khách hàng gửi tiền với giá trị lớn và thời gian dài, chương trình tiết kiệm được đảm bảo bằng vàng…Bên cạnh đó chi nhánh cũng cần phải chú ý và đẩy mạnh hoạt động tại phòng giao dịch. Hiện nay có nhiều khách hàng không có thời gian đến gửi tiền tại chi nhánh mà thường gửi ngay tại các phòng giao dịch, do vậy chi nhánh cần có sự quan tâm đặc biệt tới hoạt động tại phòng giao dịch. Đảm bảo khi khách hàng gửi tiền tại phòng giao dịch có cảm giác như gửi tiền tại chính chi nhánh, thông qua thái độ làm việc của nhân viên cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật tại phòng giao dịch.
2.2. Xây dựng quy trình cho vay hợp lý, có biện pháp quản lý tiền vay an toàn và hiệu quả
Quy trình cho vay hợp lý và thuận lợi là một yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng khi muốn mở rộng hoạt động cho vay của mình. Thiết lập một quy trình cho vay hợp lý cũng sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế những rủi ro tín dụng đặc biệt là trong hoạt động cho vay tiêu dùng vốn chứa đựng rất nhiều rủi ro.
Tiếp nhận phương án vay vốn là bước đầu tiên trong qui trình cho vay, từ phương án vay vốn của khách hàng, ngân hàng sẽ nghiêm cứu và xem xét một cách cụ thể và ấn định những mức cho vay hợp lý với từng đối tượng khách hàng. Hiện nay tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công việc ấn định mức cho vay tiêu dùng cho các đối tượng vay vẫn còn nhiều bất cập như mức cho vay tối đa không có tài sản đảm bảo với cán bộ công nhân viên trong khu vực Nhà nước là 55 triệu/một người, với số tiền này này nếu có nhu cầu mua nhà hay mua đất khách hàng đều gặp khó khăn. Như vậy nhiều khách hàng sẽ không muốn vay vốn tại chi nhánh khi với mức cho vay tối đa tại đó không thể đáp ứng những nhu cầu của họ. Do vậy muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, chi nhánh NHNo&PTNT Định Công cần có những mức vay tối đa linh hoạt cho các đối tượng khách hàng khác nhau.
Về thời hạn các khoản vay chi nhánh cũng cần có những thời hạn linh hoạt. Hiện tại chi nhánh chưa có hình thức cho vay tiêu dùng dài hạn, đây là một hạn chế của chi nhánh vì các hình thức vay phục vụ nhu cầu sửa chữa, mua nhà , mua đất…chiểm tỷ trọng cao trong tổng doanh số cho vay của chi nhánh, mà các hình thức này khách hàng thường muốn có nguồn vốn có qui mô vốn lơn và thời hạn sử dụng dài. Do vậy khi một khách hàng chứng minh được thu nhập của họ cao và ổn định thì chi nhánh cũng nên gia hạn thêm thời hạn cho vay. Chi nhánh cần linh hoạt trong việc qui định thời hạn trả nợ của khách hàng, trong một số trường hợp đặc biệt khách hàng gặp những sự cố ngoài ý muốn dẫn đến việc không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng nhưng vẫn có thiện ý muốn trả, thì chi nhánh có thể xem xét và gia hạn nợ cho khách hàng. Việc này không những giúp cho khách hàng có đủ thời gian để thu xếp tiền trả nợ ngân hàng mà còn tạo niềm tin và uy tín cho chi nhánh đối với khách hàng.
Lãi suất cứng nhắc là một hạn chế của hoạt động cho vay tiêu dùng. Các ngân hàng đều coi cho vay tiêu dùng là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên yêu cầu lãi suất với người vay tương đối cao (Thường cao hơn so với các hình thức cho vay khác từ 1-2%/ năm), nhưng có một nghịch lý là các khoản vay này để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng chứ không phải là để nhằm mục tiêu sinh lời. Do vậy các ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng cần có một chính sách lãi suất hợp lý vừa đảm bảo bù đắp được chi phí của ngân hàng và có lãi vừa có thể thu hút được khách hàng. Chi nhánh cũng cần có nhứng chính sách lãi suất hấp dần và phù hợp với từng loại hình cho vay tiêu dùng cũng như phù hợp với từng đối tượng khách hàng cụ thể. Với những khách hàng có quan hệ lâu năm với chi nhánh cần có mức lãi suất hợp lý để tăng cường hơn mối quan hệ này.
Về việc thu gốc và lãi của các khoản cho vay tiêu dùng, chi nhánh cũng cần hết sức linh hoạt. Phương thức thu nợ gốc và lãi mà các NHTM thường áp dụng hiện nay là trả góp theo kỳ hạn nợ cụ thể tuỳ theo kỳ thu nhập của khách hàng. Hiện nay đối tượng vay tiêu dùng chủ yếu tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công là cán bộ công nhân viên có thu nhập ổn định, với đối tượng vay này chi nhánh thường không yêu cầu tài sản đảm bảo và yêu cầu sự đảm bảo của thủ trưởng đơn vị hay công đoàn. Như vậy chi nhánh có thể áp dụng hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp thông qua những người này, việc này giúp cho ngân hàng hạn chế được một số công việc trong quy trình cho vay (phát tiền vay, thu nợ gốc, thu lãi), đồng thời có thể mở rộng được đối tượng vay vốn. Cho vay theo hình thức này, người được tín nhiệm sẽ được hưởng một số quyền lợi nhất định từ phía ngân hàng như có những ưu tiên nhất định khi vay vốn tại ngân hàng, được hưởng hoa hồng trên số nợ gốc và lãi thu được. Cho vay gián tiếp này ngân hàng cũng cần phải có sự kiểm tra, giám sát nghiêm chỉnh người được tín nhiệm tránh để cho những người này lợi dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tiền của ngân hàng, gây ra những tổn thất đáng tiếc cho ngân hàng.
2.3. Ổn định, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng mạng lưới phục vụ (cụ thể mở thêm điểm giao dịch)
Trong một môi trường cạnh tranh như hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là một yếu tố cạnh tranh giữa các ngân hàng. Là một chi nhánh được thành lập trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại phòng giao dịch Định Công, chi nhánh Định Công được thừa hưởng những cơ sở vật chất từ phòng giao dịch, nhưng nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật tại chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế: Phòng làm việc của cán bộ công nhân viên còn chặt hẹp, chưa có sự phân rõ không gian làm việc giữa các phòng…Điều này ảnh huởng tới bộ mặt chung của ngân hàng, không tạo cho khách hàng thấy một môi trường làm việc hiện đại và chuyên nghiệp. Việc ốn định và tăng cường cơ sở vật chất cho chi nhánh là yêu cầu cấp thiết được đặt ra.
Hiện nay, khách hàng thường có tâm lý muốn giao dịch tại địa điểm gần nơi cư trú hay làm việc của mình, hoặc có một số khách hàng không có thời gian để đến tận chi nhánh giao dịch. Do vậy muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, chi nhánh cần mở thêm những phòng giao dịch mới. Phòng giao dịch tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi muốn tiến hành vay vốn của ngân hàng. Các phòng giao dịch giúp cho khách hàng tiết kiệm được thời gian, đồng thời tại các phòng giao dịch khách hàng cũng có thể gửi tiền và khi co nhu cầu tiêu dùng đột xuất có thể rút ra để chi tiêu. Như vậy, việc mở thêm các điểm giao dịch mới sẽ giúp chi nhánh tìm kiếm được các đối tượng khách hàng mới, nâng cao doanh số cho vay và tăng thu nhập cho chi nhánh.
2.4. Mở rộng tiếp thị, quảng bá thương hiệu NHNo&PTNT Việt Nam
Là một chi nhánh thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, nên chi nhánh Định Công cũng cần phải có những biệp pháp để mở rộng tiếp thị và quảng bà thương hiện NHNo&PTNT Việt Nam. Trong xu thế hiện nay, khách hàng thường chỉ ưa sử dụng những sản phẩm của những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, là một ngành hoạt động dựa trên cơ sở là uy tín thì việc quảng bá thương hiệu để tạo niềm tin nơi khách hàng là một chiến lược quan trọng. Chi nhánh NHNo&PTNT Định Công có thể thông qua các hoạt động của mình, thông qua chất luợng các sản phẩm- dịch vụ mà mình cung ứng, thông qua phong cách phục vụ của cán bộ công nhân viên trong chi nhánh…để tạo niềm tin của khách hàng, qua đó quảng bá cho thương hiệu của NHNo&PTNT Việt Nam. Khi khách hàng đã tin tưởng vào chất lượng của ngân hàng thì việc mở rộng hoạt động cho vay sẽ không còn là bài toán khó với các ngân hàng nữa. Bên cạnh đó một ngân hàng có uy tín chính là nơi tin cậy để dân cư gửi tiền vào, việc này tạo cho ngân hàng có một nguồn vốn dồi dào để mở rộng các hoạt động của mình.
2.5. Nghiên cứu, đưa ra các hình thức cho vay tiêu dùng linh hoạt mới
Nhu cầu tiêu dùng của người dân rất phong phú và đa dạng nên muốn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng các ngân hàng không còn cách nào khác là phải nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm cho vay tiêu dùng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Hiện nay tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công đã có các hình thức cho vay tiêu dùng phục vụ những nhu cầu khác nhau của khách hàng nhưng nhìn chung các hình thức này vẫn còn đơn điệu và chưa đồng đều. Chi nhánh Định Công cần có những biện pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay tiêu dùng để thu hút thêm khách hàng. Tại chi nhánh hiện nay hình thức cho vay tiêu dùng phục vụ nhu cầu về nhà đất chiếm tỷ trọng chủ yếu trong doanh số cho vay tiêu dùng, còn các hình thức khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Chi nhánh cần mở rộng các hình thức cho vay tiêu dùng phục vụ nhu cầu về du lịch, đi học đại học, đi du học…Các hình thức cho vay tiêu dùng này giúp cho chi nhánh thu hút thêm những khách hàng mới đồng thời phân tán rủi ro. Xu hướng hiện nay để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng các ngân hàng thường liên kết với các công ty, nhà sản xuất, hãng bán lẻ. Chi nhánh NHNo&PTNT Định Công cũng cần có những chính sách liên kết như vậy để nâng cao doanh số cho vay tiêu dùng. Việc hình thành các hình thức cho vay tiêu dùng mới còn tạo sức cạnh tranh cho chi nhánh đối với các ngân hàng và chi nhánh khác trên cung địa bàn.
2.6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, lập tổ chuyên theo dõi hoạt động cho vay tiêu dùng
Như đã đề cập ở trên, nguồn nhân lực chính là yếu tố kiến tạo lên sức mạnh của ngân hàng . Con người luôn là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của mọi công việc. Tại chi nhánh NHNo&PTNT Định Công, vấn đề nhân lực luôn là vấn đề cấp bách, số lượng cán bộ hạn hẹp dẫn tới việc một cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc làm cho chất lượng công việc bị ảnh hưởng rất nhiều. Chất lượng nguồn nhân lực tại chi nhánh cũng không đồng đều. Như vậy muốn mở rộng hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói chung, chi nhánh cần có những biện pháp để nâng cao chất luợng của mình bằng cách hỗ trợ cho cán bộ tham gia các lớp đào tạo ngắn và dài hạn để nâng cao trình độ, chuyên môn. Đề nghị NHNo&PTNT Thăng Long tố chức đưa cán bộ đi đào tạo và đào tạo lại.
Ngân hàng là một ngành dịch vụ nên bên cạnh trình độ chuyên môn của các cán bộ, chi nhánh Định Công cần chú trọng đặc biệt tới công tác tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng lối sống, phong cách giao tiếp của cán bộ.
Bên cạnh đó chi nhánh cần có những chính sách khen thưởng thích đáng với những cán bộ hoàn thành vượt mức kế hoạch tín dụng được giao. Đồng thời cũng phải có chế độ xử lý nghiêm minh các cán bộ tín dụng vi phạm những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng là hình thức tín dụng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro nên việc theo dõi việc sử dụng những món vay này có ý nghĩa rất quan trọng. Nguồn trả nợ của khách hàng khi vay vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng thường là thu nhập hàng tháng của họ, nếu khách hàng gặp sự cố như ốm đau, tai nạn, mất việc thì việc trả nợ cho ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Tại các ngân hàng lớn thường có riêng phòng cho vay tiêu dùng, nhưng với chi nhánh nhỏ như chi nhánh NHNo&PTNT Định Công thì việc thành lập phòng cho vay tiêu dùng là hết sức khó khăn. Tuy vậy, chi nhánh có thể lập ra một tổ chuyên theo dõi về hoạt động cho vay tiêu dùng này. Việc lập ra một tổ chuyên theo dõi hoạt động cho vay tiêu dúngẽ hạn chế rủi ro cho hoạt động này, đồng thời với việc đó là việc tách riêng này sẽ tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh.
Cho vay tiêu dùng luôn chiếm tỷ trong cao trong tổng dư nợ tại chi nhánh, nên nếu hoạt động này xảy ra rủi ro thì sẽ ảnh hưởng to lớn đến sự an toàn trong hoạt động của chi nhánh, do vậy việc lập một tổ riêng để theo dõi hoạt động cho vay tiêu dùng là vô cùng cần thiết.
2.7. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Hoàn thiện hơn công tác giao dịch với khách hàng, có chính sách khách hàng đúng đắn
Với xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, không thể tồn tai một ngân hàng với công nghệ lạc hậu. Đổi mới công nghệ và hiện đại hoá công nghệ là yêu cầu không chỉ của riêng bất kỳ ngân hàng nào nếu muốn mở rộng hoạt động của mình.
NHNo&PTNT Việt Nam là một trong số ít các NHTM tại Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn I của dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, kế toán khách hàng do ngân hàng thế giới(WB) tài trợ, hiện nay NHNo&PTNT đang triển khai giai đoạn II của dự án. Là một chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh Định Công cũng đã có nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận với những công nghệ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên vì là một chi nhánh mới được thành lập nên cơ sở vật chất và công nghệ hiện nay của chi nhánh vẫn còn hạn chế. Muốn tồn tại và phát triển chi nhánh cần có những định hướng, kế hoạch nhằm đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Đổi mới công nghệ và hiện đại hoá công nghệ không chỉ giúp cho các nghiệp vụ ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng mà còn tăng thêm giá trị các sản phẩm-dịch vụ mà chi nhánh cung ứng cho khách hàng.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phải được thực hiện đầu tiên ở khâu thanh toán. Cùng với định hướng hoạt động chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng là tăng cường các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chi nhánh cần phải phát triển các loại sản phẩm như: Thẻ tín dụng, thẻ ATM,…. Riêng đối với hoạt động cho vay tiêu dùng, chi nhánh có thể áp dụng hình thức cho vay thấu chi, cho vay thông qua thẻ tín dụng…Việc thanh toán có thể được khấu trừ từ tài khoản của người vay.
Đổi mới công nghệ và hiện đại hoá công nghệ còn phải được thực hiện thông qua việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chi nhánh. Việc này giúp cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng có cảm giác được làm việc trong môi trường hiện đại và chuyên nghiệp, qua đó tạo niềm tin nơi khách hàng.
Tác phong và thái độ làm việc của nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng, có thể giúp nâng cao giá trị của các sản phẩm- dịch vụ ngân hàng cung cấp hoặc cũng làm giảm giá trị của các sản phẩm-dịch vụ ấy. Như vậy muốn mở rộng các hoạt động nói chung, hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng ngân hàng cần phải đổi mới và hoàn thiện hơn nữa công tác giao dịch với khách hàng.
Bên cạnh đó ngân hàng cần có một chính sách khách hàng hợp lý. Ngày nay ngân hàng thu hút được khách hàng thì cần phải quan tâm tới: Nhu cầu khách hàng, khả năng phục vụ khách hàng, cách tiếp thị, giới thiệu sản phẩm và ngân hàng của mình, tất cả những điều này chính là chiến lược khách hàng. Với đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng đó là số lượng khách hàng đông đảo nên đối với hình thức cho vay này ngân hàng càng cần có một chiến lược khách hàng cụ thể để đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho các đối tượng khác nhau, qua đó thu hút thêm những khách hàng mới cho ngân hàng.
Các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng thường ít có tình khác biệt, vì vậy chỉ cần có một chính sách khách hàng tốt thông qua thái độ nhân viên, dịch vụ thuận tiện, quảng cáo rầm rộ…Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn.
2.8. Xây dựng hệ thống tính điểm với khách hàng cá nhân
Hiện nay ở chi nhánh Định Công đã có hệ thống tính điểm cho khách hàng là doanh nghiệp, còn đối với khách hàng là cá nhân thì hiện chi nhánh vẫn chưa hề có hệ thống tính điểm. Việc này là một thiếu sót rất lớn của chi nhánh khi mà khách hàng cá nhân chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số khách hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng (với đối tượng chính là cá nhân) chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay tại chi nhánh. Việc xét duyệt cho vay tiêu dùng tại chi nhánh hiện vẫn sử dụng phương pháp dựa vào sự phán đoán (dựa vào mối quan hệ, uy tín…của khách hàng với khách hàng) làm cho rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng tăng lên. Do vậy để hạn chế rủi ro và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, chi nhánh cần nhanh chónh xây dựng hệ thống tính điểm cho khách hàng là cá nhân. Hệ thống tính điểm này sẽ giúp cho việc ra quyết định cho vay nhánh chóng, chính xác. Căn cứ để xác định hệ thống tính điểm là hệ thống thông tin về khách hàng như: Mức thu nhập, ngành nghề, trình độ học vấn, mức độ chi tiêu, sự ổn định về việc làm và nơi cư trú, số dư tiền gửi tại chi nhánh (nếu có), độ tín nhiệm của khách hàngqua các giao dịch trước đó.
2.11. Một số giải pháp khác
Bên cạnh những giải pháp trên, để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng chi nhánh cần có những giải pháp khác như: Tư vấn cho khách hàng về các mặt hàng tiêu dùng mà khách hàng có nhu cầu. Thường khách hàng có nhu cầu về một sản phẩm và dịch vụ nào đó nhưng không phải khách hàng nào cũng có những hiểu biết chính xác về mặt hàng đó. Đặc biệt trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh, hình thức cho vay để sửa chữa, mua nhà ở, mua đất xây nhà, mua phương tiện đi lại…là những hình thức cho vay chủ yếu. Những mặt hàng này nếu không có những kiến thức nhất định thì người mua có thể gặp những rủi ro. Nếu được ngân hàng tư vấn không những khách hàng có thể tránh những rủi ro không mong đợi mà qua đó còn củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, tăng uy tín cho ngân hàng. Nhưng để làm được những điều này ngân hàng cần có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực: nhà đất, xây dựng,…
3. Các kiến nghị
3.1. Kiến nghị với chính phủ
Có chiến lược hợp lí để phát triển kinh tế chung của đất nước.
Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài.
Xây dựng hành lang pháp lí thông thoáng.
Tạo mọi điều kiện để phát triển ngành ngân hàng vì đây là một ngành có vai trò vô cùng quan trọng với sự phát triển của nền kinh tế.
3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước
Có chính sách tiền tệ ổn định, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm tạo môi trường bình đẳng giữa các ngân hàng.
Xây dựng, hoàn thiện và cụ thể hoá các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng nhằm tăng cường sự canh tranh cho các ngân hàng Việt Nam trong xu thế hội nhập như hiện nay.
Nhanh chóng xúc tiến việc thành lập công ty thông tin tín dụng tiêu dùng tại Việt Nam
3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Thăng Long
Là đơn vị quản lí trực tiếp của chi nhánh Định Công nên mọi hoạt động của ngân hàng Thăng Long đều ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của chi nhánh Định Công. Do vậy NHNo& PTNT Thăng Long cần có những sự quan tâm nhất định tới chi nhánh Định Công nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh.
Có những kế hoạch hoạt động hợp lí, đưa ra định hướng chiến lược về thị trường, về khách hàng cho chi nhánh
Tăng cường công tác quản lí, giám sát hoạt động của chi nhánh. Tổ chức thường xuyên các đợt thanh tra, kiểm tra, kiểm soát.
Có chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho chi nhánh, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hỗ trợ và chuyển giao công nghệ cho chi nhánh.
Chuyển một số cán bộ có kinh nghiệm và chuyên môn về nghiệp vụ hỗ trợ chi nhánh.
Hỗ trợ về kinh phí cho chi nhánh xây dựng và ổn định cơ sở vật chất: Mở rộng thêm phòng làm việc, xây dựng thêm địa điểm giao dịch, trang bị thêm phương tiện vận chuyển.
Cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện qui trình cho vay đặc biệt là cho vay tiêu dùng cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, phù hợp với đối tượng cho vay.
3.4. Kiến nghị với khách hàng
Khách hàng nên hợp tác với ngân hàng, cung cấp cho ngân hàng những thông tin đầy đủ, chính xác để ngân hàng có thể dễ dàng quản lí.
Hoàn trả đúng thời hạn nợ vay cho ngân hàng.
Tóm lại: Qua chương 3 này, em đã nêu được một số nội dùng sau: Các mục tiêu hoạt động chung và mục tiêu hoạt động cho vay tiêu dùng tai chi nhánh Định Công. Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh, cũng như một số kiến nghị với chính phủ, ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Thăng Long và với khách hàng của chi nhánh NHNo&PTNT Định Công.
KẾT LUẬN
Cho vay tiêu dùng là hình thức tín dụng phổ biến trên thế giới nhưng nó vẫn là hình thức tín dụng khá mới mẻ ở Việt Nam. Năm 1993,1994 khái niệm cho vay tiêu dùng ra đời ở việt Nam và hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều có hoạt động tín dụng này. Tại các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm 40 đến 50% dư nợ tín dụng, nhưng ở Việt Nam tỷ trọng này vẫn chỉ dừng ở mức khoảng 5%. Với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam là thị trường đầy tiềm năng để phát triển hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận này. Nền kinh tế có nhiều khởi sắc trong các năm qua làm cho thu nhập của người dân được tăng lên nhanh chóng và khá ổn định do vậy nhu cầu về hàng tiêu dùng cũng tăng theo. Người dân Việt Nam trước đây với nhu cầu “ăn no,măc ấm”, thì giờ nhu cầu ấy được nâng lên một tầm mới là “ăn ngon,mặc đẹp”, tất cả những điều này tạo điều kiện cho con người mơ ước đến một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Tuy vậy không phải lúc nào tình hình tài chính hiện tại cũng cho phép con người thoả mãn được những nhu cầu hiện tại của bản thân, thường sau một thời gian tích luỹ và tiết kiệm con người mới đủ khả năng thực hiện được nhu cầu tiêu dùng của mình. Cho vay tiêu dùng của ngân hàng ra đời đã giúp cho khách hàng giải quyết được những hạn chế trên.
Là một chi nhánh mới được thành lập, qui mô nguồn vốn nhỏ nhưng chi nhánh NHNo& PTNT Định Công trong những năm vừa qua đã có những thành tựu nhất định trong mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng. Luôn chiếm một tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ của chi nhánh nên cho vay tiêu dùng đã mang về cho chi nhánh nguồn thu đáng kể, giúp trang trải những chi phí hoạt động của chi nhánh. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã giúp đáp ứng những nhu cầu về hàng tiêu dùng của khách hàng trên địa bàn, góp phần vào sự phát triển trên địa bàn nói riêng của thành phố nói chung. Nhưng hoạt động này của chi nhánh vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của khách hàng. Các hình thức cho vay tiêu dùng của chi nhánh còn khá đơn điệu, chưa phong phú và đa dạng. Mở rộng cho vay tiêu dùng là nhu cầu tất yếu và cần thiết của chi nhánh. Một yêu cầu đặt ra là cần phải có những biện pháp mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh.
Do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập và theo dõi thực tế hoạt động tại chi nhánh không nhiều nên luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy và các thầy cô trong khoa, cũng như các cán bộ tại chi nhánh để luận văn của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PETER S.ROSE. Quản trị ngân hàng thương mại.
FREDERIC S.MISHKIN. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
PGS.TS. LÊ VĂN TỀ (chủ biên),PGS.TS. NGÔ HƯƠNG, TS. ĐỖ LINH HIỆP, TS. HỒ DIỆU, TS. LÊ THẨM DƯƠNG. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
PGS. TS.PHAN THỊ THU HÀ. Ngân hàng thương mại.
GS.TS. LÊ VĂN TƯ. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
Tạp chí ngân hàng
Tạp chí tài chính
Thời báo kinh tế
Tạp chí ngân hàng, thị trường tiền tệ
Trang web: www.mekongcapital.com; www.vneconomy.com.vn;
Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh Định Công năm 2004,2005, 2006.
Kế hoạch kinh doanh năm 2007 của chi nhánh Định Công
Một số nguồn tài liệu khác
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0250.doc