LỜI NÓI ĐẦU
Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nước ta, đánh dấu sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngành ngân hàng cũng như các nghành kinh tế khác trong nền kinh tế đang trong bối cảnh tình hình kinh tế xã hội trong nước và quốc tế có nh
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các Doanh nghiệp trong nền kinh tế tại SGD1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững diễn biến phức tạp. Giá dầu liên tục tăng mạnh hay cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp ở Mỹ… Trong nước nền kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều thử thách mới: nhập siêu tăng mạnh làm thâm hụt cán cân vãng lai..
Bên cạnh phải đối mặt với những khó khăn chung của nền kinh tế, Ngân hàng Công Thương cũng như các nghành ngân hàng khác phải đối mặt với sự xuất hiện của các ngân hàng mới như ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài..
Như chúng ta đã được biết hoạt động ngân hàng gồm hai hoạt động chính là Huy động vốn và Sử dụng vốn. Trong Sử dụng vốn chủ yếu là nghiệp vụ Cho vay và đây cũng là nguồn mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Làm thế nào để có được một nguồn thu nhập ổn định và ngày càng hiệu quả. Với những vấn đề đặt ra như trên trong bài viết này xin được đề cập đến : “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tại SGDI-NHCTVN”
Bài viết gồm ba chương:
Chương 1: Tổng Quan về cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiêp tại SGDI-NHCTVN.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SDGI-NHCTVN.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên Sở Giao Dịch I đã hướng dẫn hỗ trợ em trong quá trình thực tập và tìm hiểu số liệu để hoàn thiện đề tài này.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Cô giáo PGS.TS.Nguyễn Thị Thu Thảo đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiêm giúp đỡ hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng có nhiều hình thức tổ chức nó tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Là nơi gửi tiền của cá nhân, gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong xã hội. Ngân hàng cũng chính là nơi cho các chủ thể trên vay khi có nhu cầu.
Chính vì tầm quan trọng của ngân hàng mà hầu hết mọi người đều muốn hiểu biết về ngân hàng trước hết là một khái niệm đầy đủ, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, vấn đề là các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế có rất nhiều tổ chức tài chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới chứng khoán khác.Tuy nhiên, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều dịch vụ tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nên kinh tế”. Ngoài ra, còn một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Ví dụ, luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Khái niệm này chủ yếu là phục vụ công tác quản lý trong một thời gian nhất định.
Hoạt động của ngân hàng
Gồm: Huy động vốn và sử dụng vốn.
- Huy động vốn bao gồm: các hoạt động như nhận tiền gửi từ các tổ chức dân cư, doanh nghiệp; tiền đi vay từ ngân hàng thương mại khác, ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn; các nguồn tiền uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát..
- Hoạt động sử dụng vốn như đầu tư vào các loại tài sản như chứng khoán, tiền gửi tại các ngân hàng khác, cho vay, tài trợ.. mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, là nguồn thu nhập để duy trì hoạt động của ngân hàng. Trong các hoạt động đó, hoạt động cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có thể phân loại theo nhiều cách thức khác nhau:
- Phân loại theo thời gian: - Tín dụng ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn.
- Tín dụng dại hạn.
- Phân loại theo mục đích vay: - Mục đích kinh doanh.
- Mục đích tiêu dùng.
- Phân loại theo hình thức tài trợ: - Cho vay.
- Bảo lãnh.
- Cho thuê tài sản.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo: - Tín dụng có tài sản đảm bảo.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo.
1.1.2 Khái niệm cho vay ngắn hạn & Đặc trưng cho vay ngắn hạn.
Cho vay là một khoản mục tài sản lớn nhất và quan trọng nhất trong hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng, nó có tính quyết định sự sống còn cũng như sự vững mạnh của ngân hàng.
Khái niệm: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi.
Có rất niều hình thức phân loại cho vay, một trong những phương thức cho vay theo thời hạn vay vốn: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn.
Khái niệm cho vay ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
Đặc trưng của hình thức cho vay ngắn hạn:
-Bất kì doanh nghiệp nào tồn tại trên thị trường đều sử dụng hình thức vay vốn này, các doanh nghiệp kinh doanh thường có tình trạng thiệu hụt vốn tạm thời để thanh toán các nguồn nguyên liệu đầu vào, các loại thuế khi đến hạn mà lúc đó doanh nghiệp không đủ nguồn tài chính để thanh toán.
- Vốn tín dụng gắn liền với quá trình luân chuyển vốn của khách hàng, chu kì kinh doanh của doanh nghiệp rất ngắn thường là một quý, ba đến bốn tháng nên nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng được nhu cầu chi tiêu.. thường các khoản này doanh nghiệp thường dựa chủ yếu vào vốn vay của ngân hàng, nên nguồn vốn tín dụng gắn liền với quá trình luân chuyển vốn của khách hàng.
- Là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng: hoạt động sử dụng vốn gồm nhiều nghiệp vụ nhưng nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng là cho vay, trong cho vay bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời của doanh nghiệp cũng như nhu cầu chi tiêu của khách hàng cá nhân. Dư nợ cho vay tại một thời điểm của cho vay ngắn hạn có thể nhỏ hơn cho vay trung và dài hạn nhưng tổng dư nợ cho vay của ngắn hạn tại một thời kì kinh doanh lại lớn hơn tổng dư nợ cho vay của trung hạn và dài hạn. Mặt khác lợi nhuận mang lại từ cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong lợi nhuận thu được từ cho vay.
- Thời gian thu hồi vốn nhanh: Cho vay ngắn hạn nhằm để đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu của khách hàng cá nhân nên thời gian thu hồi lại vốn nhanh thường là ba bốn tháng đến dưới một năm. Đối với các doanh nghiệp các khoản vay này được luân chuyển thường xuyên, tức là doanh nghiệp vay và thanh toán nguồn ngắn hạn cũ rồi tiếp tục mở các khoản vay mới, đối với các khách hàng cá nhân thường thể hiện dưới hình thức thấu chi.
-Mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng: trong các hoạt động sử dụng vốn thì hoạt động cho vay là hoạt động mang lại lợi nhận chủ yếu cho ngân hàng, trong đó cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận thu được. Vì các nguồn cho vay ngắn hạn có thời gian ngắn nên tổng dư nợ cho vay trong một thời kì là rất lớn nên nguồn thu nhập từ đó cũng rất lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn thu nhập của ngân hàng.
1.2 Những vấn đề chung về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1 Khái niệm doanh nghiệp, phân loại.
Khái niệm:Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản , có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Phân loại:
- Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật này. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.
- Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
- Doanh nghiệp có một phần vốn của Nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
1.2.2 Vai trò và vị trí của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có vai trò và hết sức quan trọng trong nền kinh tế, là chủ thể kinh doanh đa số chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Doanh nghiệp góp phần tạo nên sự thịnh vượng cho sự phát triển của nền kinh tế và tăng trưởng GDP của đất nước. Thực tế trong năm 2007 vừa qua cho thấy, kinh tế đất nước tăng trưởng ,nhanh GDP đạt 8,5%, trong đó giá trị sản xuất toàn nghành công nghiệp tăng 17,1%; nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản tăng 3,41%.
Trong một nền kinh tế, doanh nghiệp đóng vai trò là nơi cung cấp các sản phẩm cho xã hội. Các sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất chủ yếu nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Một số doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng như ô tô, xe máy,máy lạnh.. Một nhóm doanh nghiệp khác lại sản xuất ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu sản xuất ra các tư liệu sản xuất như công cụ sản xuất trong nông nghiệp như máy cày, máy cắt cỏ, máy tuốt lúa.. Hay một số doanh nghiệp khác lại sản xuất ra các nguyên liệu để cung ứng cho các doanh nghiệp khác chế tạo ra các sản phẩm phong phú hơn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của con người như cao su, gỗ..
Là nơi thu hút nguồn lao động, giải quyết công ăn việc làm cho số đông dân số của đất nước cũng như của thế giới. Doanh nghiệp tuỳ theo quy mô và hình thức tổ chức đã thu hút được một lượng lớn nguồn lao động trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ sản xuất ra các sản phẩm đơn giản thu hút nguồn nhân công có trình độ đủ đáp ứng cho công việc như các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ, đan lát.. Các doanh nghiệp sản xuất ra các thiết bị máy móc cao hơn thì giải quyết công ăn việc làm cho số công nhân có trình độ đã qua đào tạo như sản xuất ô tô, tủ lạnh máy vi tính, thiết bị điện. Một số doanh nghiệp khác sản xuất kinh doanh các mặt hàng cấp cao thì giải quyết việc làm cho những người đã được đào tạo qua trình độ cao như đại học cao đẳng và trên đại học..
Ngoài ra doanh nghiệp còn đóng vai trò là kênh phân phối hiệu quả, doanh nghiệp nhập nguồn nguyên liệu từ các công ty chế biến hay khai thác nguyên vật liệu sau đó chế tạo ra sản phẩm cung cấp cho thị trường, doanh nghiệp vừa làm nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, vừa là nơi cung cấp sản phẩm khác cho thị trường. Không những vậy mà những người công nhân sản xuất sản phẩm cũng có thể chính là những người dùng các sản phẩm mà mình đã làm ra, cũng có thể là từ tiền lương nhận được lại dùng số tiền lương đó trang trải cho cuộc sống của họ bằng cách tiêu thụ các sản phẩm khác trên thị trường. Như vậy doanh nghiệp đã góp phần quan trọng trong quá trình phân phối hiệu quả của nền kinh tế.
1.3 Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và vai trò của nguồn vốn ngắn hạn đối với doanh nghiệp.
1.3.1 Nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động và tài sản cố định. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. Tuy nhiên, do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định rất lớn nên thông thường doanh nghiệp khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động. Do vậy, để đầu tư vào tài sản lưu động, doanh nghiệp thường phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn.
Nhìn vào bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp chúng ta có thể dễ dàng nhận ra nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp thường sử dụng để tài trợ cho các tài sản lưu động gồm có:
Các khoản nợ phải trả cho người bán.
Các khoản ứng trước của người mua.
Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước.
Các khoản phải trả công nhân viên.
Các khoản phải trả khác.
Vay ngắn hạn từ ngân hàng.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể tận dụng được. Khi nào thiếu hụt sẽ sử dụng nguồn vốn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng. Sự thiếu hụt nguồn vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có thể do chênh lệch về thời gian và doanh số giữa tiền thu bán hàng và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến theo thời vụ. Do vậy, nhu cầu tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp có thể chia thành: nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và tài trợ nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường xuyên do đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định trong khi nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định.
1.3.1.1 Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên
Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên xuất phát từ sự chênh lệch hoặc không ăn khớp nhau về thời gian và quy mô tiền vào và tiền ra của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá và thu tiền về thì doanh nghiệp có dòng tiền vào. Ngược lại, khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu hoặc hàng hoá dự trữ cho sản phẩm kinh doanh, doanh nghiệp có dòng tiền ra. Nếu dòng tiền chi ra lớn hơn dòng tiền thu vào, doanh nghiệp cần bổ sung khoản thiếu hụt. Khoản thiếu hụt này trước hết bổ sung từ vốn chủ sở hữu và các khoản phải trả khác mà doanh nghiệp có thể huy động được. Phần còn lại doanh nghiệp sẽ sử dụng tài trợ ngắn hạn của ngân hàng.
1.3.1.2 Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ
Ngoài nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên, doanh nghiệp còn có nhu cầu tài trợ ngắn hạn theo thời vụ. Nhu cầu vốn thời vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh khiến cho nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến.
Những khó khăn chủ yếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là vốn, đất đai, cơ sở hạ tầng, chất lượng lao động. Ngoài ra, theo điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại 30 tỉnh thành phố thì mới có 32,28% doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số doanh nghiệp vừa và tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng.
1.3.2 Vai trò của nguồn vốn ngắn hạn đối với các doanh nghiệp:
-Đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp trong cả một chu kỳ kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp rất khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn dài hạn của ngân hàng vì phải trải qua thẩm định rất chặt chẽ thời gian giải ngân vốn thưòng dài, bên cạnh đó thường thì chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất ngắn thường là ba đến sáu tháng.Các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng thường qua thẩm định nhưng mức độ kĩ càng không lớn, và thời gian giải ngân nhanh, và rất nhanh chóng đối với các khách hàng làm ăn lâu dài với ngân hàng. Nên các khoản vay ngắn hạn có thể đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp duy trì chu kỳ hoạt động kinh doanh được liên tục
-Nguồn vốn ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú, nhất là đối với các hình thức như kinh doanh thời vụ, vốn ngắn hạn có thể giúp cho doanh nghiệp thời giao dịch với đối tác, tận dụng được cơ hội kinh doanh giảm được một lượng không nhỏ chi phí đầu vào, làm giảm giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp thu được doanh thu tối đa. Từ đó doanh nghiệp, có nhiều cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất, phát triển sản phẩm tăng về cả sản lượng cũng như chất lượng và chủng loại, càng tăng thêm sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp.
-Góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với đối tác kinh doanh. Nguồn vốn vay ngắn hạn từ ngân hàng giúp cho doanh nghiệp thanh toán kịp thời các khoản phải trả phải nộp khi đến hạn cũng như các khoản phải thanh toán khác khi có nhu cầu.
1.4 Mở rộng cho vay ngắn hạn
1.4.1 Khái niệm mở rộng:
Mở rộng là quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn để tăng thị phần tiêu thụ dựa trên tăng quy mô của doanh nghiệp hoặc bằng cách đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp có thể cung cấp.
1.4.2 Chỉ tiêu đánh giá mở rộng:
Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu đánh giá mở rộng hoạt động kinh doanh là số lượng, chất lượng sản phẩm và quy mô sản xuất. Với hình thức là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng cũng có các đặc tính như trên.
Số lượng và chủng loại sản phẩm dịch vụ cung cấp:
Một trong các chỉ tiêu đánh giá sự mở rộng của một doanh nghiệp là số lượng sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Một khi sản phẩm của doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, thì lúc đó doanh nghiệp bắt đầu quan tâm đến vấn đề sản lượng bán ra. Và khi sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra được thị trường tiêu thụ một cách thuận lợi, thì lúc đó doanh nghiệp bắt đầu thực hiện tăng lượng sản phẩm cung cấp trên thị trường. Mà muốn có sản phẩm để doanh nghiệp cung cấp trên thị trường buộc doanh nghiệp phải mở rộng được quy mô sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, khi doanh nghiệp có số lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp tăng lên chứng tỏ doanh nghiệp đã thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh, đây cũng là chỉ tiêu đánh giá mở rộng hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với các ngân hàng thương mại, thì chỉ tiêu này được đánh giá qua số lượng các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp trên thị trường, sự tăng trưởng số lượng các hợp động tín dụng thực hiện.
Bên cạnh số lượng sản phẩm dịch vụ thì chủng loại sản phẩm cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhất là đối với nghành ngân hàng mọi hoạt động của dịch vụ thường hay bị sao chép, nhưng nếu như ngân hàng có sự linh hoạt trong cách thức phục vụ, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày càng được nâng cao sẽ tạo ra được sức mạnh cạnh tranh cho ngân hàng cũng như phân tán các rủi ro khi đa dạng hoá các loại hình dịch vụ.
Chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp
Một trong các yếu tố quan trọng trong quá trình mở rộng sản phẩm của một doanh nghiệp là chất lượng sản phẩm dịch vụ, doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt hơn thì sẽ dễ được thị trường chấp nhận hơn, như vậy nó sẽ rất thuận lợi trong quá trình mở rộng sản phẩm dịch vụ. Một doanh có chất lượng sản phẩm dịch vụ tốt là đã góp phần quan trọng trong quá trình tiến hành mở rộng hoạt kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hoạt động của ngân hàng cũng như hoạt động của doanh nghiệp chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp đóng vai trò quan trong trong quá trình tiêu thụ cũng như thu hút thêm các khách hàng mới đối với ngân hàng. Sự an toàn của tiền gửi khách hàng, thanh toán tiền gửi đúng thời hạn, thanh toán hộ, thu hộ các khoản nợ kịp thời là một trong các yếu tố thu hút khách hàng. Cũng như thế một hợp đồng tín dụng thành công có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà nó còn mang lại lợi nhuận cho cả khách hàng của ngân hàng, kết quả này giúp cho mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng ngày càng bền chặt, bên cạnh đó số lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều hơn. Đây cũng là chỉ tiêu không kém phần quan trọng để đánh giá khả năng mở rộng hoạt động cho vay, mở rộng quy mô tín dụng của ngân hàng, một ngân hàng có chất lượng của sản phẩm dịch vụ tốt sẽ thu hút được rất nhiều khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi trong qua trình mở rông khi tiến hành.
Quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp
Quy mô sản xuất của doanh nghiệp là chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng, số lượng các mặt hàng của doanh nghiệp có thể được nâng cao nhưng như thê chưa đủ, sản phẩm của doanh nghiệp vẫn chưa đạt được hiệu quả tối đa. Để đạt được hiệu quả tối đã doanh nghiệp cần mở rộng hoạt động quy mô sản xuất kinh doanh, tức là đầu tư các thiết bị mới hoặc cải tiến kĩ thuật máy móc thiết bị.. Đồng thời với hoạt động mở rộng quy mô sản xuất doanh nghiệp cũng cần hoạt động đi kèm theo là hoạt động tiêu thụ sản phẩm, nhằm tạo được đầu ra cho sản phẩm khi sản xuất ra.
Trong hoạt động của ngân hàng cũng vậy, cơ sở vật chất của trụ sở hay chi nhánh cũng như phòng giao dịch có ảnh hưởng đến số lượng khách hàng, nếu là một vị trí thoáng bảng hiệu của ngân hàng dễ thấy ở nhiểu vị trí là một trong yếu tố thúc đẩy khách hàng đến với ngân hàng, nếu ngân hàng có sơ sở vật chất thiều thốn như không có chỗ để xe cho khách hàng thì số lượng khách hàng đến với ngân hàng sẽ không nhiều. Bên cạnh có cơ sở vật chất, hoạt động quảng cáo tìm thị trường mới cũng có vai trò quan trọng để ngân hàng có thể nmở rộng được quy mô hoạt động của mình, ngoài thị trường sẵn có ngân hàng nên tìm kiếm và khai thác các thị trường tiểm ẩn nhằm tăng thêm số lượng khách hàng đến với ngân hàng. Thị trường tiêu thu của ngân hàng ngày càng rộng cùng với chất lượng dịch vụ cung ứng tốt, sản phẩm dịch vụ có sự đa dạng về chủng loại cho sự lựa chọn của khách hàng thì khi thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh không mấy khó khăn, không những thế mà sẽ rất thuận lợi.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay của ngân hàng.
1.5.1 Nhân tố chủ quan.
1.5.1.1 Chính sách tín dụng của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng, với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng. Toàn bộ các vấn đề liên quan đến cấp tín dụng nói chung và đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng của ngân hàng như:
Chính sách khách hàng
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
Lãi suất và phí suất tín dụng
Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
Các khoản bảo đảm
Chính sách đối với các tài sản có vấn đề
Hoạt động cho vay ngắn hạn là một trong những lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của chính sách tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng chỉ có thể mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn khi có mục tiêu rõ ràng được thể hiện như một cương lĩnh trong chính sách tín dụng. Tại chính sách tín dụng, các mục tiêu đã được cụ thê hóa thành hoạt động của ngân hàng.
1.5.1.2 Hoạt động Marketing của ngân hàng
Trong mỗi giai đoạn, mỗi ngân hàng đều có chiến lược Marketing riêng biệt phù hợp với những điều kiện hiện tại. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng trên cơ sở này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẽo các chính sách để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng từ đó mà đạt được mục tiêu đề ra.
1.5.1.3 Mạng lưới của ngân hàng
Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng cuả công nghệ thông tin, thì việc một ngân hàng hiện hữu ngay trong nhà khách hàng là một điều trở nên bình thường. Tại bất kỳ đâu khách hàng cũng có thể tiến hành kiểm tra tài khoản hay thực hiện các giao dịch của với ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết các khách hàng đều muốn được trực tiếp đến giao dịch với ngân hàng, nơi mà họ có thể trực tiếp nói chuyện hay được nghe những lời khuyên từ nhân viên tín dụng, do đó cùng với việc xây dựng các tiện ích từ các loại hình ngân hàng trực tuyến, các ngân hàng cũng chú trọng phát triển một mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch nhằm phục vụ khách hàng được tôt hơn, đặc biệt là trong điều kiện công nghệ đang trên đà phát triển.
1.5.1.4 Công nghệ của ngân hàng
Công nghệ của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các tiện ích, tốc độ xử lý thông tin và đưa ra các quyết định phù hợp với khách hàng luôn đảm bảo sự thành công trong công việc tín dụng. Ngân hàng không chỉ cung ứng những sản phẩm có trình độ kĩ thuật phù hợp với môi trường kĩ thuật tại địa phương mà cón phải luôn đi trước xã hội một bước trong ứng dụng về khoa học kĩ thuật. Chỉ có như thế ngân hàng mới có thể phục vụ đối với hầu hết mọi tầng lớp dân cư và có thể kiểm soát được mặt trái của khoa học kĩ thuật.
1.5.1.5 Hệ thống dịch vụ cung cấp và tư vấn của ngân hàng
Một ngân hàng hiện đại là một ngân hàng đa năng với nhiều tiện ích từ nhiều sản phẩm dịch vụ, trên thực tế, nhiều ngân hàng đã tự hào vì họ là bách hóa tài chính. Một số quan điểm cho rằng loại hình ngân hàng chuyên doanh cũng có ưu điểm vì sự chuyên môn hóa của họ, tuy nhiên đa số quan điểm lại ủng hộ hơn một hệ thống dịch vụ đa dạng có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau để đem lại cho khách hàng sự thỏa mãn tối đa.
Bên cạnh đó, nếu ngân hàng có hệ thống tư vấn cho khách hàng về cách thức làm việc với ngân hàng, giải đáp khúc mắc, tư vấn về hoạt động tài chính cho khách hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng hơn, từ đó nguồn thu nhập của ngân hàng cũng được tăng thêm.
1.5.1.6 Khả năng đánh giá và kiểm soát các khoản cho vay của ngân hàng
Một ngân hàng với khả năng thẩm định, phân tích tốt các khoản vay có thể giúp ngân hàng loại bỏ được những khoản cho vay có vấn đề và giảm thiểu được những trường hợp từ chối những khoản cho vay tốt. Ngoài ra làm tốt công tác kiểm soát các khoản vay sẽ giúp ngân hàng có được cái nhìn chính xác nhất về tình hình của các khoản vay, giúp ngân hàng đưa ra được các phán quyết đúng đắn giảm thiểu mọi tổn thất có thể xảy ra.
1.5.1.7 Giá của dịch vụ cung cấp ( lãi suất):
Chi phí để có thể vây được nguồn vốn là một trong các yếu tố hàng đầu được doanh nghiệp quan tâm hàng đầu, vì nó giảm thiểu chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm giá thành của sản phẩm trên thị trường, tạo thế cạnh tranh cho sản phẩm. Mặt khác nguồn thu nhập từ đó cũng tăng lên.
Như vậy, ngân hàng nào có giá dịch vụ hay lãi suất cho vay thấp hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình hơn. Đây cũng là yếu tố quan trọng để ngân hàng cạnh tranh trên thị trường, nó góp phần quan trọng trong quá trình mở rộng thị trường cho vay của ngân hàng.
1.5.2 Nhân tố khách quan
1.5.2.1 Môi trường chính trị
Quy định về hoạt động cho vay ảnh hưởng rất lớn đến danh mục cho vay của ngân hàng, bởi vì danh mục cho vay có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy theo luật, có một số hạn chế nhằm đảm bảo công bằng an toàn. Tuy nhiên điều gây khó khăn cho các ngân hàng từ những quy định chung chung. Nhiều khi trong mỗi thời kỳ, với mỗi mục tiêu phát triển kinh tế khác nhau, các chính sách có thể thay đổi, gây những tác động không nhỏ tới hoạt động ngân hàng nói chung và việc mở rộng cho vay ngăn hạn nói riêng.
1.5.2.2 Môi trường dân cư
Mỗi địa phương có đặc điểm riêng về nhân khẩu, đó là độ tuổi trung bình, thu nhập bình quân, trình độ dân trí, thói quen tiêu dùng.. Đối với hoạt động cho vay ngắn hạn thì môi trường kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu đầu tư thường xuyên hay tiêu dùng lên cao có ảnh hưởng lớn đến số lượng các khoản cho vay của ngân hàng.
1.5.2.3 Môi trường kinh tế
Xu hướng vốn ngắn hạn thường có ảnh hưởng từ xu hướng từ sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế có xu hướng phát triển thì nhu cầu vê đầu tư ngắn hạn tăng, cũng như nhu cầu về tiêu dùng tăng. Các doanh nghiệp kỳ vọng vào các khoản đầu tư, người tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng. Điều này rất thuận tiện cho ngân hàng thực hiện các khoản cho vay ngắn hạn. Ngược lại, nền kinh tế có xu hướng thu hẹp thì nhu cầu đầu tư cũng giảm đáng kể, cũng như nhu cầu tiêu dùng tăng chậm, là nguyên nhân hạn chế các khoản cho vay từ ngân hàng.
1.5.2.4 Môi trường kĩ thuật
Đó là sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ sự sáng tạo của con người trong lĩnh vực kỹ thuật và mức độ áp dụng thành tựu khoa học vào cuộc sống đời thường. Các nhà ngân hàng phải luôn nắm bắt sự thay đổi của môi trường kĩ thuật, tạo điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động kinh doanh.
1.5.2.5 Môi trường cạnh tranh
Trong một môi trường cạnh tranh ngày càng có nhiều sự cạnh tranh như thời đại ngày nay thì sự thành công chỉ có thể khi đã là người chiên thắng trong cạnh tranh. Với việc hàng loạt các ngân hàng với quy mô khác nhau đang ngày càng chú ý tới lĩnh vực cho vay tiêu dùng như một nguồn lợi nhuận không thể thiếu trong tương lai thì hiển nhiên mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực này đang ngày càng tăng lên. Để có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, các ngân hàng phải liên tục làm mới về hình thức cũng như chất lượng của các dịch vụ cung ứng nhằm tăng cường sức cạnh tranh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về SGDI-NHCTVN.
2.1.1 Giới thiệu đôi nét về SGDI-NHCTVN.
Sở giao dịch I – Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong hai Sở Giao dịch lớn của hệ thông ngân hàng công Thương Việt Nam. Đặt trụ sở tại số 10 Lê Lai là nơi tập trung nhiều thành phần kinh tế của thủ đô Hà Nội, với vị trí thuận lợi của mình Sở Giao Dịch I có một vị thế vững mạnh và ngày càng phát triển.
Ngày 1/7/1988, Ngân hàng Công Thương ra đời và đi vào hoạt động trên cơ sở nghiệp vụ Tín dụng Công nghiệp và vụ Thương nghiệp của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cùng với các phòng tín dụng Công ngh._.iệp và Tín dụng thương nghiệp của 17 chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước ở các địa phương.
Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam số 235/QĐ-HN5 ngày 21/9/1996 về việc thành lập lại Ngân hàng Công Thương Việt Nam trên cơ sở Ngân hàng Công Thương đã được thành lập trước đây theo QĐ 67/ QĐ-HN5 ngày 27/3/1993. Ngân hàng Công Thương Việt Nam hoạt động theo mô hình tổng công ty nhà nước quy định tại quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng chính phủ.
Ngày 30/3/1995 Sở Giao Dịch I – NHCT được thành lập theo quyết định số 83/NHCT-QĐ CTHĐQT.
Ngày 30/12/1998,Chủ tịch hội đồng quản trị NHCTVN kí quyết định số 134–QĐ HĐQT- NHCT về sắp xếp tổ chức hoạt động của SGDI-NHCTVN theo điều lệ của NHCTVN.
Ngày 20/10/2003 Chủ tịch hội đồng quản trị NHCTVN đã ban hành quyết định số 153/QĐHĐQT về mô hình tổ chức mới của SGDI-NHCTVN theo dự án hiện đại hoá Ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ.
Sở Giao Dịch I có các nhiệm vụ cơ bản: Sử dụng vốn hiệu quả, bảo toàn, phát triển nguồn vốn và các nguồn lực của NHCT Việt Nam; Tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế xã hội; Thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật và của Ngân hàng Công Thương.
Hiện tại, Ngân hàng Công Thương có 2 Sở Giao Dịch, 137 chi nhánh hoạt động đã trở thành kênh điều hoà vốn cho nhiều ngành của nền kinh tế. Với tổng tài sản đạt 170 tỷ, tổng nguồn vốn huy động đạt gần 145 ngàn tỷ, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế trên 148 ngàn tỷ đồng, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao, nợ xấu chiếm tỷ trọng 1,6%. Vốn điều lệ của Ngân hàng Công Thương đạt 10.000 tỷ đồng, chỉ số an toàn vốn tự có đạt 11%.
Nằm trong hệ thống ngân hàng như vậy, trong 20 năm qua Ngân hàng Công Thương gặp không ít khó khăn, thử thách của buổi đầu quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Đến nay, Sở Giao Dịch I-NHCTVN đã giành được nhiều thành tích góp phần không nhỏ trong sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng Công Thương và sự phát triển kinh tế đất nước. Vừa qua, Ngân hàng Công Thường đã được nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng nhì.
Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu của Ngân hàng Công Thương.
Nhận tiền gửi:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VND và ngoại tệ.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn: Tk không kỳ hạn, có kỳ hạn; Tk dự thưởng, Tk bậc thang..
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
Cho vay và bảo lãnh
- Cho vay ngắn hạn bằng VND và ngoại tệ
- Cho vay trung, dài hạn bằng VND và ngoại tệ
- Tài trợ xuất nhập khẩu; chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu.
- Đồng tài trợ uỷ thác theo chương trình: Đài Loan, Việt Đức và các hiệp định tín dụng khung..
- Thấu chi cho vay tiêu dùng
- Bảo lãnh tái bảo lãnh (Trong nước và quốc tế): Bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh thanh toán..
Tài trợ thương mại:
- Phát hành thanh toán thư tín dụng, thông báo xác nhận, thanh toán thư tín dụng xuất khẩu;
- Nhờ thu xuất nhập khẩu; nhờ thu hối phiếu trả ngay và nhờ thu chấp nhận hối phiếu.
Dịch vụ thanh toán:
- Chuyển tiền trong nước và quốc tế;
- Uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc..
- Quản lý vốn;
- Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM
- Chi trả kiều hối..
Dịch vụ ngân quỹ:
- Mua bán ngoại tệ
- Mua bán các chứng từ có giá
- Thu chi hộ tiền mặt và ngoại tệ..
Dịch vụ thẻ và ngân hàng điện tử
- Phát hành và thanh toán thẻ quốc tế
- Dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt
- Internet Banking, Phone Banking, Mobile Banking..
Hoạt động đầu tư
- Hùn vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế trong nước và ngoài nước.
- Đầu tư hùn vốn trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước.
Dịch vụ khác:
- Khai thác Bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ
(Xem sơ đồ tổ chức trang sau)
Sơ đồ tổ chức của SGDI:
Phòng khách hàng cá nhân
Giám đốc
Phòng khách hàng số 1
Phòng khách hàng số 2
Phòng tài trợ thương mại
Phòng kế toán giao dịch
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng kế toán tài chính
Phòng thông tin điện toán
Phòng tổng hợp và tiếp thị
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kiểm soát nội bộ
2.1.2 Kết quả hoạt động của SGDI-NHCTVN 2007
2.1.2.1 Huy động vốn
Phát huy thế mạnh truyền thống, liên tục trong nhiều năm qua, công tác huy động vốn của SGDI vẫn duy trì và phát triển. Bằng sự kết hợp hài hòa và sử dụng các công cụ huy động vốn và các biện pháp hỗ trợ hợp lí, nghiên cứu phân tích đặc điểm của từng loại nguồn vốn, từng đối tượng khách hàng để áp dụng chính sách hợp lí, chủ động trong chiến lược huy động mọi nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Với kết quả nguồn vốn huy động đến 31/12/2007 đạt 16.718 tỷ đồng, tăng 2.113 tỷ đồng so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 11% trên tổng nguồn vốn của toàn hệ thống ngân hàng Công Thương và chiếm 5% thị phần huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, SGDI đã góp phần quan trọng vào việc cân đối nguồn vốn chung để thanh toán, cho vay và đầu tư trên phạm vi cả nước.
Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn
Đơn vị: tỷ đồng
Chi tiêu
2004
2005
2006
2007
Tổng nguồn vốn huy động
14.026
16.071
17.448
16.718
I.Phân theo đối tượng
Tiền gửi doanh nghiệp
9.918
10.339
9.859
12.735
Tiển gửi dân cư
3.398
3.908
3.370
3.412
Tiền gửi dân cư khác
710
1.764
4.219
571
II.Phân loại theo tiền tệ
VND
11.950
13.709
14.953
14.270
Ngoại tệ
2.076
2.362
2.495
2.448
III.Phân theo kỳ hạn
Không kỳ hạn
8.455
9.231
9.369
7.841
Có kỳ hạn
5.570
6.840
8.079
8.332
(Nguồn: Báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN)
2.1.2.2 Về cho vay và đầu tư:
Năm 2007, Dư nợ cho vay và đầu tư đạt 4.360 tỷ đồng, tăng 1.560 tỷ đồng so với năm 2002, đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 10%. Với thế mạnh và bề dày kinh nghiệm hoạt động, SGDI đã cho vay nhiều dự án lớn của các tập đoàn kinh tế như:
- Dự án cho vay Vinasat của tập đoàn BCVT Việt Nam.
- Các dự án về lưới điện của tập đoàn điện lực Việt Nam
- Các dự án về đổi mới đầu tàu của tổng công ty đường sắt Việt Nam
- Các dự án khí điện Cà Mau của tập đoàn Dầu Khí Việt Nam
Đặc biệt, SGDI đã hướng mạnh vào cho vay phát triển đối với các doanh nghệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cá thể, hộ gia đình.. khi khai thác được thị trường đa dạng và đầy tiềm năng, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước và của ngành. Đến nay đã có hàng nghìn khách hàng phát triển sản xuất kinh doanh từ vốn vay của ngân hàng.Dư nợ cho vay DNV&N; DN tư nhân; hộ gia đình các thể.. Năm 2002 chỉ chiếm 10% trong tổng dư nợ cho vay, đến nay đã chiếm 25%. Có thể khẳng định rằng, chiến lược phát triển hoạt động tín dụng SGDI đúng hướng, chất lượng và an toàn, đến 31/12/2007 không có nợ quá hạn.
Bảng 2.2 Dư nợ cho vay
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1
Doanh số cho vay
3.940
4.499
4.359
2
Dư nợ cho vay
2.778
2.777
3.101
( Nguồn: Báo cáo tài chính của SDGI-NHCTVN)
Tổng dư nợ và cho vay qua các năm đều có sự biến đổi. Trong khi tổng dư nợ cho vay và đầu tư tăng lên 559 tỷ đồng (14.2%) trong năm 2006, và lại giảm 140 tỷ đồng (tức là 3,1%), trong năm 2007 thì dư nợ cho vay có xu hướng tăng lên.Con số này giảm khoảng 12 tỷ trong năm 2006 so với 2005 nhưng lại tăng 324 tỷ trong năm 2007 so với 2006. Đến 31/12/2007, dư nợ cho vay và đầu tư đạt 4.359 tỷ đồng. Trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 3.101 tỷ đồng, tăng 11,7% so với đầu năm, đạt 97% kế hoạch năm 2007 NHCT giao.
2.1.2.3 Kết quả kinh doanh.
Bảng 2.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của SGDI –NHCTVN qua các năm.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng thu
1167,282
1152,166
1.456
Tổng chi
819,782
809,166
1.128
Lợi nhuận hạch toán nội bộ
347,5
343
328
KH
271,5
350
280
So với KH
Đạt 128%
Đạt 98,7%
Đạt 117%
( Nguồn: Báo cáo tài chính của SGDI-NHCTVN )
Trong những năm vừa qua, SGDI –NHCTVN luôn cố gắng để phục vụ tốt khách hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của sở. Tình hình kết quả kinh doanh của sở được thể hiện ở các chỉ tiêu đã đạt được trong năm 2007.
Tổng thu nhập năm 2007: 1.456 tỷ đồng. Trong đó:
Thu lãi cho vay chiếm tỷ trọng 22%
Thu lãi tiền gửi: 3,2%.
Thu lãi điều hoà vốn: 75%.
Tổng thu phí dịch vụ cả năm: 15,7 tỷ đồng, đạt kế hoạch NHCT giao trong năm 2007.
Tổng chi phí năm 2007: 1.128 tỷ đồng, trong đó: chi trả lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng 90,5%. Lợi nhuận cả năm 2007: Đạt 328 tỷ đồng, đạt 117% kế hoạch năm 2007 NHCT giao.
Lợi nhuận của ngân hàng ngày càng tăng lên chứng tỏ hoạt động ngân hàng ngày càng được mở rộng. Lợi nhuận cao, tốc độ tăng trưởng ở mức độ cao, phản ánh thế mạnh về cạnh tranh của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Là một ngân hàng với bề dày kinh nghiệm SGDI luôn phát triển tạo dựng một hình ảnh ngày càng vững chắc đối với khách hàng cũng như nền kinh tế nói chung.
2.2 Thực trạng mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI-NHCTVN.
2.2.1 Thực trạng hoạt động tín dụng tại SGDI-NHCTVN.
Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại nói chung cũng như đối với SGDI - Ngân hàng Công ThươngViệt Nam. Tình hình hoạt động tín dụng của SGDI được thể hiện qua các số liệu:
2.2.1.1 Tỷ trọng tài sản là các khoản vay trong tổng tài sản.
Bảng 2.4 Tổng tài sản và dư nợ cho vay qua các năm.
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1
Tổng tài sản
15.252
18.163
21.116
2
Dư nợ cho vay
2.778
2.777
3.101
3
Tỷ trọng
18%
15,3%
14,7%
(Nguồn báo cáo tài chínhcủa SGDI- NHCTVN)
Theo bảng trên chúng ta có thể thấy rằng, các khoản cho vay luôn là những khoản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng. Năm 2005, dư nợ các khoản cho vay là 2.788 tỷ đồng chiếm 18% trong tổng tài sản, đến năm 2006 số dư nợ cho vay này giảm xuống còn 2.777 chiếm tỷ trọng 15,3%, và hiện nay 2007 con số này là 3.101, tăng hơn hẳn so với hai năm trước và chiếm tỷ trọng 14,7% trong tổng tài sản của ngân hàng.
Nguồn dư nợ cho vay của ngân hàng đã được tăng lên về số lượng, ngân hàng cần chú ý tới việc cân đối nguồn vốn huy động và cho vay để ngày càng mở rộng về các khoản cho vay, tăng thêm nguồn thu nhập cho ngân hàng. Muốn vậy, ngân hàng cần chú trọng thêm về nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp hiện nay trên thị trường,và cách thức để mở rộng quy mô cho vay của mình.
2.2.1.2 Tăng trưởng tín dụng qua các năm.
Hoạt động tín dụng các năm qua đã có sự biến động đáng kể, mở rộng cho vay là mục tiêu của các ngân hàng, và SGDI cũng không ngoại lệ.Qua số liệu thực tế của năm vừa qua cho thấy hoạt động tín dụng đã có sự tăng lên đáng kể thể hiện qua chỉ tiêu dư nợ cho vay và doanh số cho vay của Sở giao dịch trong thời gian qua. Trong năm 2006 có sự giảm nhẹ so với năm 2005,nhưng qua đến năm 2007 kết quả mang lại khẳng định sự ổn định và tăng trưởng chất lượng tín dụng của SGDI, dư nợ cho vay đã vượt hơn hẳn so với năm 2006.
Bảng 2.5 Dư nợ cho vay và doanh số cho vay
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1
Dư nợ
2.778
2.777
3.101
2
Doanh số cho vay
3.940
4.499
4.359
(Nguồn báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN)
Tốc độ tăng trưởng tín dụng qua các năm thể hiện ở biểu đồ sau:
Trong năm 2005 doanh số cho vay là 3.940 tỷ đồng nhưng con số này đã vượt lên đáng kể trong năm 2006 là 4.499 tỷ đồng và có gia nhẹ trong năm 2007.Còn dư nợ cho vay cũng có sự biến động nhẹ, vào năm 2005 con số dư nợ cho vay là 2.778 tỷ đồng nhưng qua đến năm 2006 con số này giảm xuống 2.777 tỷ đồng và đã vượt lên ngoạn mục với số dư hiện tại là 3.101 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng cho thấy mức độ tăng trưởng về doanh số cho vay và dư nợ cho vay của SGDI Ngân hàng Công Thương là rất tốt. Khẳng định một lần nữa sự vững chắc của SGDI trên thị trường liên ngân hàng và vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế khu vực Phía Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng.
Doanh số cho vay và dư nợ cho vay của SGDI qua các năm tăng, chứng tỏ thu nhập của SGDI qua các hoạt động tăng lên. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là nhân tố tác động để SGDI có được các doanh số và như nợ như trên, cái mà chúng ta cần quan tâm ở đây là qui mô và chất lượng của các khoản cho vay. Nguồn thu nhập của ngân hàng chỉ có thể tăng lên khi ngân hàng có qui mô tăng lên và chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng được nâng cao. Để được như vậy ngân hàng cần chú trọng quan tâm đến nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong thị trường, các đối tượng mà ngân hàng cần hướng tới và các chính sách cần thiết để các doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn vốn cho vay của ngân hàng, cũng như các chính sách cần thiết như huy động đủ nguồn vốn để có thể đáp ứng nhu cầu cho vay trong thời gian tiếp theo. Thực tế có rất nhiều khách hàng vay vốn ở SGDI-NHCTVN, gồm khách hàng cá nhân và khách hàng là doanh nghiệp, do có chính sách phân theo đối tượng cho vay, vốn được hướng vào đối tượng có những mặt hàng chiến lược nên thời gian qua đã có hiệu quả rất tốt.
Ngoài duy trì quan hệ tín dụng với các khách hàng cá nhân, SGDI luôn chú trọng đầu tư đối với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước là khách hàng tiềm năng, tốc độ tăng nhanh về số lượng cũng như quy mô và cũng là thành phần chính của nền kinh tế, góp phần trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Việc cho vay thành phần kinh tế này không những làm cho cơ cấu tín dụng bền vững, an toàn hơn và phát triển được các loại hình dịch vụ, góp phần quan trọng trong thu nhập của ngân hàng.
Tuy nhiên, kết quả cho vay đối với các doanh nghiệp trong thời gian qua chưa có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy trong thời gian tới SGDI cần phát triển hơn nữa các chính sách hoạt động phù hợp để mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp. Đây chính là thành phần có tốc độ tăng trưởng nhanh trong thời gian tới, nhất là khi chúng ta vừa mới gia nhập các tổ chức kinh tế lớn, do vậy việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp là chiến lược mà Ngân hàng Công Thương cần chú ý quan tâm.
2.2.1.3 Kết cấu dư nợ cho vay.
Kết cấu dư nợ cho vay theo thời hạn cho vay
Bảng 2.6 Kết cấu dư nợ cho vay theo thời hạn cho vay
Đơn vị: tỷ đồng.
TT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1
Dư nợ cho vay
2.778
2.777
3.101
2
Ngắn hạn
35,5%
32,2%
48,2%
3
Trung và dài hạn
64,5%
67,8%
51,8%
(Nguồn báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN)
Qua số liệu và biểu đồ cho chúng ta thấy được mức độ tăng trưởng của các khoản cho vay trong thời gian qua. Dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2005 là 64,5% tăng nhanh lên 67,8% trong năm 2006, nhưng tỷ số này lại có xu hướng giảm xuống trong năm 2007 là 51,8%. Còn tỷ trọng dư nợ ngắn hạn có xu hướng giảm xuống từ 35,5% năm 2005 xuống 32,2% trong năm 2006 và tăng trở lại lên 48,2%. Từ những quan sát trên chúng ta cũng có thể thấy rằng SGDI đã có sự điều chỉnh hợp lí về tỷ trọng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Trên thực tế khi xem xét các số liệu trên biểu đồ 2.2 chúng ta có thể thấy được rằng, các khoản cho vay trung và dài hạn ngày càng tăng. Năm 2005 là 1.801 tỷ đồng, tăng lên 1.881 tỷ đồng trong năm 2006 và tiếp tục tăng lên tới 2.093 tỷ đồng trong năm 2007. Nhưng đối với số dư của các khoản cho vay ngắn hạn có sự biến động nhỏ. Năm 2005 con số dư nợ cho vay ngắn hạn là 987 tỷ đồng, giảm xuống còn 895 tỷ đồng và tiếp tục tăng trở lại với con số là 1.008 tỷ đồng. Nhìn chung SGDI đã có sự điều chỉnh đáng kể trong tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ của Sở. Sự điều chỉnh này là rất hợp lí, vì các khoản cho vay ngắn hạn có độ rủi ro nhỏ hơn so với các khoản cho vay trung và dài hạn, mặt khác các khoản cho vay trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn dài, lợi nhuận thu được trong cả một thời kỳ không thể thu bằng lợi nhuận mà các khoản cho vay ngắn hạn mang lại.
Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế.
Để thuận tiện trong việc quản lí mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay chúng ta thường phân dư nợ theo thành phần kinh tế để dễ theo dõi hơn.
Bảng 2.7 Kết cấu dư nợ theo thành phần kinh tế
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Dư nợ
Tỷ VND
Tỷ lệ
(%)
Dư nợ
Tỷ VND
Tỷ lệ
(%)
Dư nợ
Tỷ đồng
Tỷ lệ
(%)
Kinh tế QD
2.066
74%
2.082
75%
2171
70%
Kinh tế ngoài QD
722
26%
695
25%
930
30%
(Nguồn:Phòng TT&TH)
Theo kết cấu thành phần kinh tế, chúng ta có thể thấy các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của Sở. Quan sát qua các năm chúng ta có thể thấy tỷ trọng dư nợ cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên. Ở năm 2005 con số dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 722 tỷ đồng, có biến động giảm nhẹ xuống còn 695 tỷ đồng vào năm 2006 và tăng lên nhanh chóng 930 tỷ đồng vào năm 2007. Đối với thành phần kinh tế quốc doanh thì khác, các con là này là 2.066 tỷ đồng vào năm 2005, tiếp tục tăng lên 2.082 tỷ đồng vào năm 2006 và đạt 2.171 tỷ đồng vào năm 2007. Nhìn theo tỷ trọng dư nợ của các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế quốc doanh, thì tỷ trọng của các khoản cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng giảm nhẹ từ 26% năm 2005 xuống 25% năm 2006 và tăng trở lại 30% vào năm 2007. Tỷ trọng của các thành phần kinh tế quốc doanh có tăng nhẹ từ năm 2005 là 74% lên 75% vào năn 2006 và giảm xuống còn 70%. Như vậy, SGDI đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế do sự cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước và sự xuất hiện một lượng khách hàng mới là các doanh nghiệp ngoài quốc dân được thành lập trong một số năm gần đây. Sự điều chỉnh về cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế của SGDI rất phù hợp với xu hướng phát triển của nên kinh tế, cũng nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đa dạng hóa thành phần khách hàng trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển cũng như nâng cao thế mạnh và khẳng định được vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế, đây cũng là một trong các bước nhằm mở rộng qui mô của ngân hàng trong thời gian tới.
Kết cấu dư nợ theo nghành sản xuất kinh doanh:
Một trong những cách quản lí các khoản cho vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng là quản lí các khoản cho vay theo ngành nghề kinh doanh, theo cách này ngân hàng vừa quản lí được quy mô vay vốn của từng ngành sản xuất vừa đa dạng hóa được các khoản cho vay.
Bảng 2.8 Kết cấu dư nợ theo nghành nghề
Đơn vị: Tỷ đồng
Nghành
2005
2006
2007
Công nghiệp
1.230
44,12%
1.360
49%
1.550,5
50%
Tiêu dùng
38
1%
32
1,15%
155,05
5%
Thương nghiệp
963
34,54%
987
35,54%
930,3
30%
Dịch vụ
354
12,68%
232
8,35%
341,11
11%
Nghành khác
203
7,66%
166
5,96%
12,04
4%
( Nguồn báo cáo tài chính SGDI-NHCTVN)
Xem xét theo nghành nghề sản xuất kinh doanh, đối tượng cho vay của SGDI bao gồm: nghành Công nghiệp, Thương nghiệp, Dịch vụ, các ngành khác và tiêu dùng. Trong đó tập trung và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số dư nợ cho vay là nghành công nghiệp và thương nghiệp. Trong một vài năm trở lại đây do sự phát triển nền kinh tế đã thúc đẩy sự xuất hiện của các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng Công nghiệp, cũng như các nhu cầu về Tiêu dùng và Dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Nắm bắt được nhu cầu của nền kinh tế và khả năng đáp ứng của mình ngân hàng đã điều chỉnh chính sách cho vay tăng cường thêm các khoản cho vay đối với tiêu dùng và dịch vụ, đồng thời cũng tăng các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp mới thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, đóng góp một phần trong sự phát triển của đất nước trong thời gian vừa qua.
2.2.2 Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI-NHCTVN.
2.2.2.1 Tình hình chung của doanh nghiệp trong nền kinh tế và xu hướng phát triển.
2.2.2.1.1 Tình hình chung của doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là đất đai, nguồn vốn huy động.. nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp. Khó khăn trong việc xin cấp đất, huy động vốn trong nên kinh tế để phục vụ hoạt động kinh doanh của công ty, và hơn nữa có thể rơi vào vòng luẩn quẩn của vốn và đất đai. Trên thực tế nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế rất lớn, nhu cầu đầu tư toàn xã hội cuả nên kinh tế năm 2007 là trên 452 ngàn tỷ đồng.
2.2.2.1.2 Xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế
Đánh giá chung
Sau khi nhà nước ban hành luật sửa đổi các điều luật về đăng kí kinh doanh như luật đầu tư nước ngoài, luật hợp tác xã và đặc biệt là luật công ty và luật doanh nghiệp năm 1991 đã làm thay đổi về số lượng cũng như chất lượng hoạt động của doanh nghiệp tăng lên do môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, sản xuất sôi động hơn. Nhờ có các chính sách và môi trường kinh tế xã hội có nhiều thuận lợi nên trong nhiều năm gần đây doanh nghiệp tư nhân cụ thể là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế tăng lên nhanh chóng, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của nước nhà trong thời gian qua, thúc đẩy nhanh quá trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá đất nước.
Về số lượng doanh nghiệp:
Một trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đên hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng là quy mô số lượng doanh nghiệp trong nên kinh tế và tốc độ tăng trưởng trong tương lai.
Bảng 2.9 Số Doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng
Đơn vị: Doanh nghiệp
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số lượng
163.265
170.649
245.000
Tốc độ tăng trưởng (%)
40%
4,5%
43%
(Số lượng doanh nghiệp: Internet)
Sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh nghiệp thể hiện qua các con số về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong thời gian qua.
Qua bảng số liệu chúng ta có thể thấy số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, thể hiện rõ nhất là năm 2005 và 2007 tốc độ tăng của số lượng doanh nghiệp là 40% và 43%. Năm 2005 số lượng doanh nghiệp hoạt động là 163.265 doanh nghiệp, nhưng qua tới năm 2006 con số này đã là 170.649 doanh nghiệp và cho tới năm 2007 vừa qua đã đạt được con số doanh ngiệp là 245.000 doanh nghiệp. Đặc biệt theo sự chỉ đạo của nhà nước số lượng doanh nghiệp còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, dự tính trong năm 2010 là trên 500.000 doanh nghiệp. Con số này không mấy khó khăn khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế như hiện nay. Điều này càng khẳng định việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp trong thời gian tới sẽ là hoạt động mang lại nhiều lợi nhận cho ngân hàng.
Về sự hỗ trợ của chính phủ trong thời gian tới.
Giới doanh nghiệp ngày càng nhận được sự rất nhiều sự hỗ trợ và quan tâm từ chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ. Trong đó phải kể đến một số hình thức hỗ trợ về vốn như:
- Nguồn vốn từ ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC). Quỹ cho vay này trị giá 4 tỷ đồng yên nhật được triển khai thông qua 4 ngân hàng thương mại là Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển, Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Đông Á.
- Chương trình hỗ trợ khu vực doanh nghiệp (BSPS) do chính phủ Đan Mạch tài trợ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam từ năm 2006 đến hết năm 2009.
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng- Hiệp hội nà sẵn sàng đúng ra bảo đảm cho các thành viên của mình vay vốn ở ngân hàng.
Về tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Tốc độ tín dụng dành cho khối doanh nghiệp trong thời gian qua có những yếu tố rất khả quan. Tiềm năng của các doanh nghiệp hiện nay chính là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại hiện tại và trong thời gian tới.
Qua các số liệu quan sát từ các mục trên chúng ta có thể thấy doanh nghiệp đang phát triển về số lượng chất lượng và qui mô, góp phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của nước nhà, là điều kiện thuận lợi để ngân hàng quyết định mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp. Thực tế kết quả cho vay của SGDI đã có nhiều biến chuyển nhưng kết quả đó chưa thực sự thuyết phục. Để đáp ứng nhu cầu thực tại của thị trường, việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại SGDI –NHCTVN là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.
2.2.2.2 Thực trạng mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn tại SGDI
Thấy sự lớn mạnh của các doanh nghiệp, rút kinh nhgiệm từ cấc năm trước khong chỉ giới hạn ở những khách hàng vừa và nhỏ, muốn tăng hiệu quả hoạt động hơn nữa, SGDI-NHCTVN đã rất quan tâm mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp, đặc biệt là cho vay ngắn hạn, vì tỷ lệ vay ngắn hạn của Sở còn thấp. Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp được xác định là tăng dư nợ ngắn hạn đối với các doanh nghiệp, tăng doanh số cho vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các khoản vay, đồng thời ngân hàng cũng phải xác định mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp là quá trình liên tục từ khâu tín dụng phải đạt hiệu quả cao đến khi thu hồi hết nợ, hạn chế tối đa rủi ro, nâng cao doanh số cho vay, nó đòi hỏi có sự tham gia của các bộ phận ngân hàng từ Ban Giám Đốc đến các cán bộ nhân viên phòng Tín Dụng, để nâng cao hơn nữa hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp- thành phần kinh tế nhiều triển vọng đưa ngân hàng ngày càng phát triển.
Nhận thức được vấn đề đó, công tác mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp tại SGDI – NHCTVN đã thực hiện tương đối tốt, thể hiện trên nhiều khía cạnh sau:
Thứ nhất, quy mô và doanh số cho vay:
SGDI –NHCTVN quyết tâm rất cao trong việc minh bạch hóa chất lượng tín dụng phát hiện nợ có vấn đề hoặc nợ quá hạn, ngân hàng kiên quyết Tiến hành trích lập dự phòng rủi ro, rút dần dư nợ, chấm dứt quan hệ tín dụng với khách hàng có tình hình tài chính yếu kém, kinh doanh thua lỗ, có nợ quá hạn, vốn chủ sở hữu thấp, các khoản vay có độ an toàn thấp. Trong đó chuyển hướng quan trọng đó là chuyển hướng tập trung vào doanh nghiệp.. Đây là một xu hướng tất yếu của hệ thống ngân hàng thương mại và chủ trương của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Xuất pát từ nhận đinh: “Doanh nghiệp là một lực lượng lớn của nền kinh tế có nhiều tiềm năng phát triển, theo đó cơ hội tiếp cận vốn của loại hình này ngày càng mở rộng hơn”, cho vay ngắn hạn sẽ phân tán được rủi ro, chênh lệch lãi suất cao hơn và có tài sản đảm bảo, đồng thời sẽ phù hợp với năng lực quản lí điều hành. Chính vì thế, năm 2007 dư nợ cho vay doanh nghiệp tại SGDI – NHCTVN là 2.821 tỷ đồng, số lượng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với sở đã tăng lên đáng kể.
Bảng 2.10 Số doanh nghiệp vay vốn tại SGDI - NHCTVN
Đơn vị: Doanh nghiệp.
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số doanh nghiệp
102
154
325
548
(Nguồn : Phòng TT&TH)
Các doanh nghiệp tham gia vay vốn tại SGDI-NHCTVN ngày càng tăng lên nhanh chóng từ 102 doanh nghiệp năm 2004 lên 154 doanh nghiệp năm 2005 tiếp tục tăng vượt hẳn lên 325 doanh nghiệp vào năm 2006 và đến năm 2007 con số này là 548 doanh nghiệp.
Về quy mô:
Để xem xét quy mô cho vay đối với doanh nghiệp trong những năm qua, ta lướt qua các số liệu sau:
Bảng 2.11 Quy mô cho vay đối với doanh nghiệp.
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ Tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số Tiền
%
Số Tiền
%
Số Tiền
%
Doanh nghiệp
915
93%
813
91%
923
92%
Tiêu Dùng
72
7%
82
9%
85
8%
(Báo cáo Tài chính SGDI- NHCTVN)
Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta thấy các khoản cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong tổng các khoản cho vay ngắn hạn của ngân hàng. Năm 2005 các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp là 915 tỷ đồng chiếm 93%, năm 2006 các khoản cho vay này giảm xuống còn 813 tỷ đồng chiếm 91% trong tổng vốn ngắn hạn cho vay của ngân hàng. Và đến năm 2007 con số này đạt 923 tỷ đồng chiếm 92% vốn ngắn hạn cho vay của ngân hàng. Đối với các khoản cho vay tiêu dùng và cho vay ngắn hạn khác chiếm tỷ trọng nhỏ và thường biến động, nhưng các khoản cho vay này vẫn tăng đều năm 2005 là 72 tỷ đồng, năm 2006 là 82 tỷ đồng, và năm 2007 các khoản cho vay này là 85 tỷ đồng.
Cho vay ngắn hạn doanh nghiệp là nghiệp vụ cho vay chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng, là hoạt động xuất hiện từ lâu và cũng là nguồn mối quan hệ của ngân hàng và khách hàng. Cho vay doanh nghiệp, chủ yếu là cho vay ngắn hạn do nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp thường lớn nên khi doanh nghiệp thiếu hụt vốn lưu động đê quay vòng sản xuất kinh doanh. Mặt khác các khoản vay trung và dài hạn doanh nghiệp chủ yếu để phục vụ nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định hoặc dự án. Đồng thời trong những năm gần đây ngân hàng đã có chính sách và sự quan tâm nhất định đến việc cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, đó là một dấu hiệu tốt thúc đẩy sự tiếp cận của doanh nghiệp với ngân hàng. Nhưng nếu xem xét theo tốc độ phát triển của nền kinh tế, thì qui mô cho vay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong nền kinh tế, do vậy cần mở rộng quy mô cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vì đây là thị trường hấp dẫn và thu hút khách hàng.
Về doanh số cho vay:
Một trong các chỉ tiêu phản ánh của cho vay là doanh số cho vay, để biết được doanh số cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ta xem xét qua các số liệu.
Bảng 2.12 Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng.
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh số cho vay ngắn hạn
3.986
4.885
6.248
Doanh số cho vay doanh nghiệp
4.612
5.728
7125
Tỷ trọng
86%
85%
88%
(Nguồn Báo cáo tài chính SGDI- NHCTVN)
Cũng như các ngân hàng khác, SGDI-NHCTVN cho vay với nhiều hình thức khác nhau, với loại hình cho vay đa dạng phong phú. Vậy nên doanh số cho vay của SGDI khá cao trong toàn hệ thống. Với loại hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tuy chiếm tỷ trọng chưa cao so với loại hình cho vay trung và dài hạn nhưng doanh số cho vay trong một vài năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên phải nói là tỷ trọng cho vay ngắn hạn của SGDI còn thấp so với các ngân hàng khác do SGDI vẫn còn quá chú trọng đối với loại hình cho vay trung và dài hạn, các hình thức cho vay chưa đa dạng phong phú, chưa phát triển hình thức cho vay cầm cố chứng khoán, vay qua thẻ tín dụng, vấn đề tài sản đảm bảo vẫn rất phức tạp cho các món vay.. Qua các số liệu trên chỉ ra rằng doanh số cho vay đối với doanh nghiệp tăng và có tốc độ tăng chưa thực sự cao, trong đó vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn và cũng có sự tăng trưởng qua các năm. Như vậy, cho vay đối với doanh nghiệp sẽ có xu hướng tăng thêm khi mục tiêu cho vay của ngân hàng ngày càng chú trọng vào đối tượng doanh nghiệp. Nhất là khi nước ta đã gia nhập các tổ chức quốc tế, sẽ khiến cho tỷ trọng cho vay ngắn hạn và tỷ trọng cho vay trung v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33180.doc