LỜI MỞ ĐẦU
Có một ngôi nhà riêng mua bằng vốn tích góp hiện là một giấc mơ khá xa với các gia đình công nhân viên chức, đặc biệt là các cặp vợ chồng trẻ. Nhu cầu ngày một nhiều, tình trạng đầu cơ khiến cho thị trường nhiều lúc bị lũng đoạn, giá bị đẩy lên cao chóng mặt.
Tuy nhiên, theo quy luật thị trường, có cầu ắt có cung. Nắm bắt nhu cầu người dân, các ngân hàng bắt đầu khai thác dịch vụ cho vay mua nhà trả góp. Từ năm 2005, một số ngân hàng đã đưa ra thị trường sản phẩm này trong đó có Ngâ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội – HABUBANK.
Cho vay mua nhà trả góp không chỉ là nghiệp vụ làm đa dạng hoá hoạt động, mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng mà nó còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, giúp đất nước ngày càng phồn thịnh hơn.
Chuyên đề : “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội - HABUBANK” sẽ cung cấp một số thông tin xung quanh vấn đề cho vay mua nhà trả góp và đề xuất các giải pháp phát triển hoạt động này tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội – HABUBANK.
Bài viết này gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động cho vay mua nhà trả góp của NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HABUBANK)
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp tại HABUBANK
Do trải nghiệm thực tế ít ỏi và nhận thức còn hạn hẹp nên bài viết này của em chắc chắn không tránh khỏi sai sót, em kính mong cô giáo hướng dẫn và chỉ bảo cho em để em có nhìn nhận đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY MUA NHÀ TRẢ GÓP CỦA NHTM
1.1 Tổng quan về hoạt động NHTM và hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
Để đưa ra một khái niệm về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Luật ngân hang của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng được coi là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dung cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật ngân hàng của Ấn Độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Những định nghĩa đại loại như vậy là căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động.
Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động. Ví dụ như Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…”
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng phân tích, khai thác nội dung của các định nghĩa đó , người ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.
Ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, đựợc bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đểu tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hóa phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, luật còn chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Chính từ hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
1.1.2.2. Các hình thức cho vay của NHTM
+ Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ séc…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô . Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: Chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt.
+ Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong khi khách hàng có thể thực hiện vay – trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào (có hoát đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay. Thu nhập bán hàng đều là nguồn chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay – trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
+ Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thong qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấo bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. NHTMếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ…Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của họat động cho vay sang các tổ chức trung gian như: thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ…).
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gia đã lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng khôg kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.2 Hoạt động cho vay mua nhà trả góp
1.2.1 Khái niệm cho vay mua nhà trả góp
Cho vay mua nhà là một trong những hình thức cho vay tiêu dùng đang ngày càng phát triển của ngân hàng thương mại. Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng (bao gồm cá nhân và hộ gia đình). Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ và những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế, du lịch…
Cho vay mua nhà trả góp là việc NHTM cho khách hàng sử dụng một số tiền của ngân hàng vào mục đích mua sắm, xây dựng nhà ở, với cam kết khách hàng trả nợ (gồm tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo từng kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay.
1.2.2 Đặc điểm hoạt động cho vay mua nhà trả góp
* Về đối tượng vay tiền
Đối tượng vay chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình muốn mua nhà phục vụ cho nhu cầu ở, sinh hoạt, để mở rộng diện tích kinh doanh. Thường là các gia đình có nguồn thu nhập ổn định, từ khá đến cao. Hiện nay có rất nhiều gia đình trẻ muốn vay tiền trả góp mua nhà. Họ thường là những lao động có chất lượng cao, tốt nghiệp đại học trở lên, làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài, mức lương ổn định.
Trong những năm gần đây, do đô thị hóa mà ngày càng có nhiều dân cư chuyển về sinh sống và làm việc tại các khu đô thị, nhu cầu về nhà để ở là rất lớn. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng cao, nhu cầu về điều kiện sống cũng nâng cao. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng chỉ chấp nhận cho vay tiền mua nhà trả góp đối với các khách hàng có hộ khẩu thường trú tại các địa phương có trụ sở của của ngân hàng; có thu nhập hợp pháp, ổn định; có tài sản đảm bảo như: bất động sản, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, chứng từ có giá…
* Về lãi suất
Có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thường sử dụng lãi suất thả nổi. Ngân hàng và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng có thể quy định mức lãi suất năm đầu, những năm sau đó lấy một lãi suất làm cơ sở (thường là lãi suất huy động tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng trả lãi sau) cộng với một mức lãi suất cố định.
* Về phương thức thanh toán
Mua nhà đòi hỏi người tiêu dùng phải có một khoản tiền lớn, thường vượt qua khả năng tài chính hiện tại. Với cho vay mua nhà trả góp, khách hàng có thể trả gốc và lãi cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Trong đó, khách hàng phải thanh toán trước một phần giá trị của ngôi nhà cần mua. Ở nước ta, số tiền này phổ biến là 30- 40% giá trị nhà. Nhưng hiện nay, có những ngân hàng cho vay đến 80% – 100% giá trị nhà. Ví dụ như Ngân hàng HDB (Ngân hàng Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh) liên kết với Phú Mỹ Hưng thực hiện chương trình cho vay mua nhà với giá trị khoản vay lớn nhất từ trước đến nay, có thể đến 100% giá trị căn nhà nếu người vay có thêm tài sản khác thế chấp.
Số tiền khách hàng phải trả cho Ngân hàng mỗi kỳ theo phương thức trả góp có thể tính theo một trong các phương pháp sau:
+ Trả đều: Ngân hàng căn cứ vào mức lãi suất, giá trị khoản vay, thời gian cho vay để tính toán đưa ra số tiền cụ thể mà hàng kỳ khách hàng phải trả. Số tiền này là cố định mà khách hàng phải thanh toán cho Ngân hàng từ lần trả đầu tiên đến lần trả cuối cùng trong thời gian cho vay.
+ Trả không đều: Tùy theo thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng mà có các hình thức thanh toán khác nhau như: thanh toán nợ gốc từng kỳ, trả lãi hàng tháng; trả đều nhưng lãi thanh toán vào đầu mỗi thời kỳ….
1.2.3 Quy trình cho vay mua nhà trả góp
* Quy trình cho vay thông thường
Ngân hàng
Bên mua
Bên bán
(2) (1)
(3)
(1) Người mua và người bán ký Hợp đồng mua bán nhà, trả trước một số tiền, nợ phần còn lại
(2) Người mua đến xin vay và được chấp nhận, Ngân hàng làm thủ tục, cho vay, giải ngân, người vay trả tiền nốt cho người bán
(3) Khách hàng trả tiền cho ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng
* Quy trình cho vay mua nhà 3 bên
(1) Bên mua và bên bán cùng mở tài khoản tại Ngân hàng. Bên mua nộp số tiền chênh lệch vào tài khoản
(2) Bên mua, bên bán cùng nhân viên Ngân hàng làm thủ tục mua bán nhà tại phòng công chứng Nhà nước. Ngân hàng giữ giấy tờ hợp pháp về chủ sở hữu căn nhà.
(3) Ký Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và bên mua
(4) Ngân hàng trả tiền cho bên bán
(5) Bên mua thanh toán dần tiền cho Ngân hàng theo thỏa thuận
1.2.4 Vai trò của hoạt động cho vay mua nhà trả góp
1.2.4.1 Đối với ngân hàng
Trong cuộc đua cạnh tranh huy động và cho vay, các ngân hàng đang đứng trước một thách thức không nhỏ là lợi nhuận từ các hoạt động này đang có nguy cơ giảm trong khi chi phí hoạt động ngày càng gia tăng.
Hiện nay, tình hình huy động vốn của các ngân hàng đang thuận lợi, nhiều ngân hàng dư thừa vốn. Chi phí vốn của các ngân hàng đang tăng lên do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng. Lẽ ra các ngân hàng sẽ phải giảm lãi suất huy động hoặc tăng lãi suất cho vay. Tuy nhiên, trên thị trường lãi suất đang diễn ra một điều nghịch lý là các NHTM lại bước vào cuộc cạnh tranh hạ lãi suất cho vay trong khi lãi suất huy động vốn không có dấu hiệu giảm. Điều này đang tiềm ẩn nguy cơ.
Ông Dominic Scriven, Giám đốc Quỹ Dragon Capital nhận định, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam cũng giống như nhiều ngân hàng khác trên thế giới, đang rơi vào tình trạng lợi nhuận trên tổng tài sản ngày càng giảm dần, dự báo 12 tháng tới tình trạng này sẽ càng rõ rệt. Lý do là ngân hàng nào cũng đang chú trọng quy mô và vốn hoạt động, tăng mạnh vốn chủ sở hữu, mạng lưới hoạt động của các ngân hàng ngày càng rộng lớn đã giúp cho nguồn vốn tiền gửi chảy vào các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ (khoảng 2 tỷ USD/ngày). Song hoạt động tín dụng lại không thể theo kịp tốc độ tăng trưởng vốn của các ngân hàng. Bên cạnh cho vay, ngân hàng đã chọn cách mua trái phiếu, nhưng lợi nhuận thu lại sẽ ít hơn. Giải pháp hiện nay là các ngân hàng phải phải đẩy mạnh hoạt động cho vay nhiều hơn với rủi ro ít hơn, trong đó một trong những lĩnh vực ngân hàng có thể phát triển là cho vay tiêu dùng và cho vay mua nhà. Theo ông Dominic Scriven, hoạt động tín dụng nhà ở của các ngân hàng ở Anh đem lại lợi nhuận khá lớn trong tổng lợi nhuận của các ngân hàng (chiếm khoảng 40%). Ở Việt Nam lĩnh vực này còn rất nhiều tiềm năng mà các ngân hàng có thể khai thác…
Hoạt động cho vay mua nhà trả góp sẽ mang lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ do nhu cầu mua nhà của người dân ngày càng cao. Rủi ro của hoạt động này cũng nhiều do khoản tiền vay lớn và trong thời gian dài. Tuy nhiên những rủi ro này sẽ được phân tán cho ngân hàng do số lượng các món vay mua nhà trả góp tương đối lớn và tài sản đảm bảo cho khoản vay lại chính là giá trị của ngôi nhà.
Thông qua việc cho vay mua nhà trả góp, ngân hàng có thể mở rộng mối quan hệ với các Công ty kinh doanh nhà. Đây là một cơ hội tốt để ngân hàng có được một hệ thống thông tin phong phú và đa dạng về khách hàng.
Thêm vào đó, cho vay mua nhà trả góp tạo thói quen cho người dân khi tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng. Đây là cơ hội giúp ngân hàng mở rộng mối quan hệ, nâng cao uy tín, tạo dựng hình ảnh của mình trong mắt khách hàng.
1.2.4.2 Đối với khách hàng
Với mức thu nhập thông thường từ lương tháng, để có đủ tiền mua nhà, không ít gia đình sẽ phải mất một khoảng thời gian dài. Vậy, phải làm thế nào để mua được một căn hộ khi chỉ có 20% - 30% số tiền? Đó là vấn đề đặt ra đối với những người muốn mua nhà.
Nhờ có dịch vụ cho vay mua nhà trả góp mà những gia đình trẻ, những đối tượng có thu nhập ổn định nhưng chưa có đủ tiền mua nhà vẫn có thể đạt được ước mơ của mình. Như vậy, thay vì phải tiết kiệm trong một thời gian dài, mỗi tháng họ chỉ cần trích một phần số tiền thu nhập của gia đình để tích lũy trả góp cho ngân hàng.
Có được ngôi nhà mơ ước, ổn định nơi ăn ở, sinh hoạt, khách hàng mới yên tâm lao động và làm việc, có động lực để tiếp tục sản xuất ra của cải xã hội, để nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình.
1.2.4.3 Đối với nền kinh tế
Trong khi thị trường bất động sản đang đóng băng thì việc các ngân hàng tung ra các sản phẩm cho vay mua nhà trả góp là một yếu tố quan trọng kích cầu thị trường bất động sản, đẩy mạnh giao dịch.
Hiện nay, các ngân hàng còn liên kết với các Công ty kinh doanh nhà và Công ty bảo hiểm để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tiện ích nhất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Từ đó giúp Nhà nước đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội: giảm thất nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, xóa đói giảm nghèo…
Hoạt động cho vay mua nhà trả góp giúp khách hàng thỏa mãn tối đa nhu cầu của mình, hăng hái lao động sáng tạo, tạo ra của cải vật chất, làm tăng phúc lợi xã hội, phát triển nền kinh tế.
1.2.5 Các chỉ tiêu phản ánh kết quả mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp
Mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp có thể hiểu là việc ngân hàng thực hiện những biện pháp nhằm đáp ứng được nhu cầu vay vốn mua nhà trả góp ngày càng gia tăng của khách hàng. Đó là sự tăng lên về quy mô, cơ cấu và tỷ trọng cho vay mua nhà trả góp trong tổng tài sản của ngân hàng.
Để đánh giá mức độ mở rộng cho vay mua nhà trả góp, NHTM thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
* Doanh số cho vay mua nhà trả góp
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ (tính cho ngày, tháng, quý, năm)
Doanh số thu nợ trong kỳ là tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kỳ (tính cho ngày, tháng, quý, năm)
Doanh số cho vay mua nhà trả góp được hiểu là tổng số tiền ngân hàng cho khách hàng vay trong kỳ theo phương thức trả góp nhằm mục đích mua nhà. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho vay mua nhà trả góp của ngân hàng qua các thời kỳ
* Dư nợ cho vay mua nhà trả góp
Dư nợ cho vay là chỉ tiêu tích lũy qua các thời kỳ, đó là số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay tính đến một thời điểm cụ thể.
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp được hiểu là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho khách hàng vay theo phương thức trả góp nhằm mục đích mua mua nhà tính đến một thời điểm cụ thể.
Ngân hàng tính lãi cho vay dựa trên dư nợ cho vay đến thời tính lãi, tức là lợi nhuận của ngân hàng có được từ hoạt động cho vay trong kỳ phụ thuộc vào dư nợ chứ không phải là doanh số cho vay trong kỳ đó. Vì vậy, số dư nợ càng lớn và dư nợ kỳ sau tăng hơn so với kỳ trước là chỉ tiêu đúng nhất phản ánh mức độ mở rộng cho vay càng cao.
Dư nợ cho vay trả mua nhà trả góp kỳ này
=
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ trước
+
Doanh số cho vay mua nhà trả góp trong kỳ
_
Doanh số thu nợ cho vay mua nhà trả góp trong kỳ
Khi dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này tăng so với kỳ trước tức là doanh số cho vay mua nhà trả góp trong kỳ lớn hơn doanh số thu nợ cho vay mua nhà trả góp trong kỳ, ta có sự mở rộng cho vay mua nhà trả góp tại NHTM.
Nếu doanh số cho vay mua nhà trả góp trong kỳ lớn hơn doanh số mua nhà trả góp kỳ trước và lớn hơn doanh số thu nợ cho vay mua nhà trả góp thì ta có được sự mở rộng cho vay mua nhà trả góp cả về dư nợ và doanh số cho vay.
Nếu doanh số cho vay mua nhà trả góp kỳ này không tăng, thậm chí còn nhỏ hơn doanh số cho vay mua nhà trả góp kỳ trước, nhưng trong kỳ này doanh số thu nợ giảm do có nhiều món nợ không thu hồi được hoặc chưa đến hạn thu hồi nợ, thì kết quả là dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này vẫn có thể lớn hơn dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ trước. Nghĩa là trong khi doanh số cho vay mua nhà trả góp trong kỳ giảm thì dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này vẫn tăng so với kỳ trước. Trường hợp này vẫn là mở rộng cho vay mua nhà trả góp.
Một chỉ tiêu không thể bao quát được toàn bộ, vì thế cần xem xét kết hợp nhiều chỉ tiêu nhằm bổ sung cho chỉ tiêu dư nợ để đánh giá được đúng nhất việc mở rộng cho vay mua nhà trả góp của ngân hàng.
* Số lượng khách hàng của hoạt động cho vay mua nhà trả góp
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp có thể được tính theo công thức sau:
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp
=
Số lượng khách hàng
x
Giá trị trung bình của các món vay mua nhà trả góp
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này tăng lên so với kỳ trước là do số lượng khách hàng kỳ này cao hơn kỳ trước hoặc giá trị trung bình của các món vay mua nhà trả góp kỳ này cao hơn kỳ trước.
Số lượng khách hàng là chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay về mặt quy mô. Số lượng khách hàng của hoạt động cho vay mua nhà trả góp càng nhiều nghĩa là ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu cho vay mua nhà trả góp của nhiều người.
Giá trị trung bình của các món vay mua nhà nhả góp càng cao có nghĩa là số khách hàng vay những món vay có giá trị lớn ngày càng nhiều.
Vì vậy, nếu số lượng khách hàng và giá trị trung bình của các món vay mua nhà trả góp cùng tăng, làm dư nợ cho vay mua nhà trả góp tăng thì ta được sự mở rộng cho vay cả về số lượng khách hàng và số tiền của mỗi món vay.
* Tỷ trọng dư nợ cho vay mua nhà trả góp
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô các món vay mua nhà trả góp trong tổng số các món vay được ngân hàng giải ngân. Sự tăng trưởng của chỉ tiêu này cho ta thấy sự mở rộng của hoạt động cho vay mua nhà trả góp.
Tỷ trọng dư nợ cho vay mua nhà trả góp
=
Dư nợ cho vay mua nhà trả góp
Tổng dư nợ
X 100%
Tỷ trọng dư nợ cho vay mua nhà trả góp tăng phản ánh sự mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp. Có 2 nguyên nhân dẫn đến tỷ trọng dư nợ cho vay mua nhà trả góp tăng:
- Thứ nhất, do dư nợ cho vay mua nhà trả góp tăng lên nhiều hơn so với mức tăng của tổng dư nợ cho vay. Điều này thể hiện chính sách mở rộng cho vay mua nhà trả góp.
- Thứ hai, do dư nợ cho vay mua nhà trả góp không tăng thậm chí còn giảm, nhưng mức giảm của tổng dư nợ lại nhiều hơn. Trường hợp này nghĩa là trong tình trạng thu hẹp cho vay chung của ngân hàng thì cho vay mua nhà trả góp vẫn chiếm tỷ trọng cao. Trường hợp này vẫn được coi là mở rộng đối với cho vay mua nhà trả góp.
* Tốc độ tăng dư nợ cho vay mua nhà trả góp (K)
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay mua nhà trả góp là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ mở rộng cho vay mua nhà trả góp nhanh hay chậm. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức sau:
K
=
Dư nợ cho vay kỳ này – Dư nợ cho vay kỳ trước
Dư nợ cho vay kỳ trước
X 100%
Trong đó, các dư nợ cho vay trên được hiểu là dư nợ cho vay mua nhà trả góp tại NHTM.
Nếu K > 0: cho thấy dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này lớn hơn kỳ trước, phản ánh sự mở rộng đối với cho vay mua nhà trả góp.
Nếu K <= 0: tức là dư nợ cho vay mua nhà trả góp kỳ này nhỏ hơn hoặc bằng kỳ trước. Nhìn chung, trong trường hợp này NHTM không mở rộng cho vay mua nhà trả góp. Tuy nhiên, nếu tỷ trọng dư nợ cho vay mua nhà trả góp tăng thì vẫn có sự mở rộng cho vay mua nhà trả góp.
* Thị phần cho vay mua nhà trả góp của ngân hàng
Khi nghiên cứu về thị phần cho vay mua nhà trả góp cần phải nghiên cứu thị phần của ngân hàng để có được đánh giá bao quát. Trên cùng địa bàn hoạt động, có rất nhiều ngân hàng cung ứng những sản phẩm dịch vụ tương tự nhau.Vì vậy, cạnh tranh giữa các ngân hàng là điều tất yếu. Nếu một ngân hàng có sự gia tăng về dư nợ và doanh số cho vay mua nhà trả góp, tăng trưởng dư nợ hay số lượng khách hàng, nhưng có thể thị phần cho vay mua nhà trả góp của ngân hàng đó lại không hề gia tăng, thậm chí có thể giảm thì đó không phải là sự mở rộng cho vay mua nhà trả góp hoàn toàn. Điều này chứng tỏ tốc độ mở rộng cho vay mua nhà trả góp của các ngân hàng khác diễn ra nhanh hơn.
* Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là toàn bộ số dư nợ (cả gốc và lãi) của khách hàng vay vốn đã đến hạn thanh toán với ngân hàng nhưng các khách hàng này không thanh toán được mà vẫn chưa được ngân hàng xử lý cho điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ, xóa nợ… sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn
=
Dư nợ quá hạn cho vay mua nhà trả góp
Tổng dư nợ cho vay mua nhà trả góp
X 100%
Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh việc mở rộng cho vay mua nhà trả góp, nhưng đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay mua nhà trả góp. Hoạt động cho va._.y mua nhà trả góp của ngân hàng phải đảm bảo mục tiêu an toàn và hiệu quả. Tuy ngân hàng xác định mục tiêu hoạt động của mình là mở rộng cho vay nhưng không vì thế mà tiến hành mở rộng cho vay bằng mọi giá, không thể chấp nhận nợ quá hạn đã quá cao mà vẫn tiếp tục cho khách hàng đó vay vốn. Để đảm bảo hoạt động hiệu quả ngân hàng thường khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới một mức nào đó. Các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn > 7% được xem là ngân hàng có chất lượng tín dụng yếu kém. Tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là tỷ lệ tốt mà các ngân hàng cố gắng duy trì.
* Lợi nhuận
Mục tiêu hoạt động của ngân hàng là kinh doanh đem lại lợi nhuận cao nhất có thể. Vì vậy, bất cứ hoạt động nào của ngân hàng cũng cần phải đảm bảo mục tiêu này. Mở rộng cho vay không phải chỉ cần gia tăng dư nợ, gia tăng số lượng khách hàng vay vốn… mà quan trọng là phải đảm bảo khoản cho vay mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.6 Nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp
1.2.6.1 Nhóm nhân tố từ phía ngân hàng
Sự phát triển hoạt động cho vay mua nhà trả góp của một ngân hàng thương mại phụ thuộc chủ yếu vào chính bản thân ngân hàng đó. Trong đó định hướng phát triển của ngân hàng là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả của hoạt động này.
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng được coi là kim chỉ nam cho tất cả các hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay mua nhà trả góp nói riêng. Ngân hàng cần phải xây dựng chính sách tín dụng phù hợp với định hướng phát triển của mình. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như: hạn mức cho vay đối với khách hàng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, thời hạn tín dụng, các khoản đảm bảo, chính sách đối với các khoản vay có vấn đề….Tất cả các yếu tố đó tạo nên đặc tính cho sản phẩm cho vay mua nhà trả góp của ngân hàng, quyết định đến sự thu hút khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp.
* Quy trình cho vay mua nhà trả góp
Quy trình tín dụng quy định các bước cần thiết từ khâu lập hồ sơ xin cấp tín dụng đến khâu quản lý và thu hồi nợ, nhằm đảm bảo thu hồi được cả gốc và lãi của khoản tín dụng. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hút khách hàng. Các bước trong quy trình tín dụng cần được kết hợp nhịp nhàng, linh hoạt, nhanh gọn, gây được cảm tình với khách hàng mà vẫn đảm bảo nắm được diễn biến của khoản tín dụng để có những can thiệp kịp thời đối với những rủi ro có thể xảy ra.
* Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và đội ngũ nhân viên ngân hàng
Đây là những nhân tố phản ánh bộ mặt của ngân hàng. Cơ sở khang trang, trang thiết bị hiện đại phản ánh vị thế của ngân hàng và tạo cho khách hàng sự tin tưởng vào ngân hàng.
Đội ngũ cán bộ nhân viên, đặc biệt là nhân viên tín dụng là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, phục vụ tận tình, chu đáo sẽ gây được thiện cảm với khách hàng. Đặc biệt với đạo đức nghề nghiệp, trình độ nghiệp vụ cao, am hiểu luật pháp, có khả năng phân tích, đánh giá năng lực khách hàng và quản lý các khoản vay… các nhân viên tín dụng sẽ đưa ra được các quyết định đúng đắn. Từ đó nâng cao hiệu quả trong mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp.
* Mạng lưới chi nhánh ngân hàng
Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch… của khách hàng là nơi đầu tiên khách hàng đến tiếp xúc với ngân hàng. Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng lớn sẽ dễ dàng tiếp cận hơn với nhiều đối tượng khách hàng. Và nếu ngân hàng kết hợp với các cấp chính quyền địa phương, bộ máy công an thì ngân hàng sẽ càng dễ dàng nắm rõ tình hình hoạt động của khách hàng, thuận lợi trong tiếp xúc khách hàng, kiểm tra và thu nợ.
* Nguồn vốn
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn tự có và vốn huy động, trong đó chủ yếu là vốn huy động. Để mở rộng hoạt động cho vay mua nhà trả góp thì ngân hàng phải có một số lượng vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Kết quả huy động vốn ảnh hưởng đến chính sách mở rộng hay thắt chặt tín dụng của ngân hàng.
Ngoài ra cơ cấu vốn huy động cũng có ảnh hưởng đến quy mô các khoản cho vay mua nhà trả góp. Bởi nếu nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng sẽ bị hạn chế trong hoạt động cho vay mua nhà trả góp. Do nguồn vốn cho vay mua nhà trả góp là vốn trung và dài hạn mà Ngân hàng Nhà nước lại có quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn mà ngân hàng thương mại được sử dụng cho vay trung và dài hạn (40%).
1.2.6.2 Nhóm nhân tố từ phía khách hàng
* Khả năng tài chính của khách hàng
Thẩm định năng lực tài chính của khách hàng là yếu tố quan trọng trước khi ngân hàng quyết định cho vay. Năng lực tài chính của khách hàng quyết định đến khả năng trả nợ ngân hàng. Với những khách hàng có thu nhập khá và ổn định thì sẽ có khả năng đáp ứng những khoản thanh toán hàng tháng, đảm bảo an toàn cho khoản vay.
* Đạo đức người vay
Đạo đức người vay thể hiện ở năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét cho vay. Vì ngay cả với những khách hàng có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra các điều kiện đảm bảo tốt thì chưa chắc đã có thiện chí trả nợ. Đạo đức người vay được đánh giá bằng độ tín nhiệm của khách hàng trên cơ tính thật thà, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng và ý muốn kiên quyết trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hợp đồng tín dụng.
* Tài sản đảm bảo
Do khách hàng luôn đối mặt với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng do thu nhập giảm sút mạnh. Hoặc do rủi ro đạo đức và nhiều biến cố khác có thể gây cho ngân hàng các tổn thất lớn. Chính vì vậy, tài sản đảm bảo chính là nguồn trả nợ thứ hai cho ngân hàng khi nguồn thứ nhất là thu nhập không đảm bảo trả nợ.
Đối với cho vay mua nhà trả góp, tài sản đảm bảo thường là chính căn nhà mới hình thành từ món vay hoặc các tài sản khác có thể dùng để thế chấp. Ngân hàng cần có các biện pháp thẩm định và quản lý tài sản đảm bảo chặt chẽ để kịp thời phát hiện xử lý các vấn đề phát sinh như mất mát, hư hỏng, giảm giá trị, tránh bị các cá nhân cấu kết lừa gạt ngân hàng...
1.2.6.3 Nhóm nhân tố từ bên ngoài
* Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm những yếu tố như tăng trưởng kinh tế, chính sách kinh tế của quốc gia, chu kỳ kinh doanh… Bất kỳ sự thay đổi nào của môi trường kinh tế đều gây ra sự biến động trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Và hoạt động cho vay mua nhà trả góp cũng không nằm ngoại lệ.
Khi nền kinh tế ở thời kỳ hưng thịnh, tốc độ phát triển cao và ổn định, người dân yên tâm về mức thu nhập của họ trong tương lai, nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên, đặc biệt là nhu cầu về một căn nhà khang trang với đầy đủ tiện nghi để ở và sinh hoạt. Do đó hoạt động cho vay mua nhà trả góp cũng có cơ hội phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định thì người dân chỉ muốn đảm bảo được cuộc sống ở mức bình thường mà không nghĩ đến việc đi vay để thỏa mãn nhu cầu cao hơn.
* Môi trường văn hóa – xã hội
Mỗi cá nhân, tổ chức đều hoạt động trong một môi trường văn hoá – xã hội nhất định. Nó bao gồm các yếu tố như: tình hình trật tự xã hội, thói quen, tâm lý, trình độ học vấn, bản sắc dân tộc (thể hiện qua những nét tính cách tiêu biểu của người dân như niềm tin, tính cần cù, trung thực, ham lao động, thích tằn tiện và ưa hưởng thụ…) hoặc các yếu tố về nơi ở, nơi làm việc… Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến thói quen và nhu cầu tiêu dùng của người dân. Thông thường, ở những nơi tập trung đông dân cư, trình độ dân trí cao, mức thu nhập của người dân cao, ổn định thì nhu cầu tiêu dùng lớn, hoạt động cho vay mua nhà trả góp phát triển. Còn ở nơi trình độ dân trí thấp, chủ yếu là lao động chân tay thì đảm bảo được mức sống bình thường đã là tốt rồi chứ không ai dám nghĩ đến chuyện đi vay để mua sắm hàng hóa nâng cao mức sống. Do đó hoạt động cho vay mua nhà trả góp sẽ gặp khó khăn.
* Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm các luật lệ, các quy tắc và những hoạt động của các cơ quan Nhà nước có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay mua nhà trả góp. Hoạt động này cần phải tuân theo các quy định của Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Dân sự và các quy định khác. Nếu các văn bản quy phạm pháp luật này không đầy đủ, rõ ràng thì sẽ tạo ra các khe hở pháp luật gây ảnh hưởng tới lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu luật pháp quy định đồng bộ và chặt chẽ sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo tính trật tự và ổn định của thị trường giúp cho các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động cho vay mua nhà trả góp nói riêng được diễn ra thông suốt và có hiệu quả.
* Các dối thủ cạnh tranh
Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập, không chỉ có các NHTM cung cấp dịch vụ cho vay mua nhà trả góp mà các tổ chức tài chính trung gian trong và ngoài nước khác cũng tham gia vào lĩnh vực này như: công ty tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm, các quỹ tín dụng và các công ty chuyên kinh doanh bất động sản… tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt. Chỉ những sản phẩm mang lại nhiều tiện lợi, phù hợp với nhu cầu và khả năng của khách hàng mới được khách hàng đón nhận. Do đó, ngân hàng cần tính toán và cân đối để đưa ra chính sách tín dụng hợp lý để mở rộng được hoạt động cho vay của mình.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY MUA NHÀ TRẢ GÓP TẠI NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI (HABUBANK)
2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, tên viết tắt là HABUBANK, là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam, thành lập từ năm 1989, với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền than của HABUBANK là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Với số vốn điều lệ đầu tiên là 5 tỷ đồng Việt Nam, được phép kinh doanh các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong 99 năm.
Tháng 10 năm 1992 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ: tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý của HABUBANK với chiến lược kinh doanh mới, ngoài việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà, HABUBANK chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân và các tổ chức tài chính khác. Thêm vào đó cơ cấu cổ đông đã mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp tư nhân lẫn quốc doanh tham gia đầu tư đóng góp phát triển.
Tới nay, qua hơn 18 năm hoạt động, HABUBANK đã có số vốn điều lệ là 2.000 tỷ đồng với mạng lưới ngày càng mở rộng, 8 năm liên tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A và được công nhận là ngân hàng phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. HABUBANK luôn giữ vững niềm tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách nhiệt tình, chuyên nghiệp của tất cả nhân viên.
Mục tiêu chiến lược
- Tối đa hoá giá trị đầu tư của các cổ đông; giữ vững tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và tình hình tài chính lành mạnh.
- Không ngừng nâng cao động lực làm việc và năng lực cán bộ; HABUBANK phải luôn dẫn đầu ngành ngân hàng trong việc sáng tạo, phát triển chính sách đãi ngộ và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho cán bộ của mình.
- Duy trì sự hài lòng, trung thành và gắn bó của khách hàng với HABUBANK ; xây dựng HABUBANK thành một trong hai ngân hàng Việt Nam có chất lượng dịch vụ tốt nhất do các doanh nghiệp cầu tiến, hộ gia đình và cá nhân lựa chọn.
- Phát triển HABUBANK thành một trong ba ngân hàng được tín nhiệm nhất Việt Nam về: quản lý tốt nhất, môi trường làm việc tốt nhất, văn hoá doanh nghiệp chú trọng khách hàng, thúc đẩy hợp tác và sáng tạo nhất, linh hoạt nhất khi môi trường kinh doanh thay đổi.
- Góp phần tích cực làm vững chắc thị trường tài chính trong nước.
2.1.2 Mô hình tổ chức
HABUBANK hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính quan liêu trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Ðặc điểm nổi bật của mô hình HABUBANK là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và quản lý rủi ro hiệu quả.
Rủi ro là một phần gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng. Kiểm tra và quản lý rủi ro sao cho cân bằng được mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận trước hết đòi hỏi một cơ cấu tổ chức phù hợp và chính sách nhất quán trong toàn hệ thống. Do đó, cơ cấu HABUBANK hoàn toàn được tổ chức theo chiến lược phát triển do Hội đồng Quản trị đề ra và liên quan chặt chẽ đến quản lý rủi ro. Đồng thời tính linh hoạt và giảm thiểu quan liêu cũng luôn được đề cao giúp Ngân hàng dễ thích ứng và thay đổi khi môi trường kinh doanh biến chuyển.
Hiện tại, HABUBANK có 01 Hội sở và 24 chi nhánh, phòng giao dịch với sản phẩm kinh doanh đa dạng gồm dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp (tài trợ thương mại quốc tế, ngoại hối, quản lý tiền mặt…), dịch vụ ngân hàng cá nhân (huy động, cho vay tiêu dùng, mua nhà…) và các hoạt động đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.
Hội đồng Quản trị:
Ông Nguyễn Văn Bảng
- Chủ tịch
Ông Nguyễn Tuấn Minh
- Ủy viên
Ông Nguyễn Đường Tuấn
- Ủy viên
Bà Dương Thu Hà
- Ủy viên
Ông Đỗ Trọng Thắng
- Ủy viên
Ban Điều hành:
Bà Bùi Thị Mai
Tổng giám đốc
Tham gia HABUBANK từ năm 1995, đảm nhiệm chức vụ Tổng giám đốc từ năm 2002, điều hành trực tiếp mọi hoạt động của Ngân hàng
Ông Đỗ Trọng
Thắng
Phó Tổng giám đốc
Với nhiều kinh nghiệm chuyên viên kinh tế và quản lý tài chính doanh nghiệp, được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng giám đốc, phụ trách mảng kiểm tra xét duyệt tín dụng
Bà Nguyễn Thị Kim Oanh
Phó Tổng giám đốc
Bắt đầu công tác tại HABUBANK từ năm 1989. Từ ngày 2/6/2003 được tín nhiệm bầu giữ chức Phó Tổng giám đốc, phụ trách tài chính và cung ứng dịch vụ
Bà Lê Thu Hương
Phó Tổng giám đốc
Thạc sĩ quan hệ đối ngoại, cử nhân kinh tế, Phó Tổng giám đốc kiêm Giám đốc chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh
Bà Nguyễn Dự Hương
Phó Tổng giám đốc
Cử nhân kinh tế, phụ trách mảng Dịch vụ Ngân hàng Cá nhân
Bà Nguyễn Thị Bích Thủy
Phó Tổng giám đốc
Cử nhân kinh tế, phụ trách mảng Nguồn vốn – Ngoại hối – Ngân quỹ
Ông Nguyễn Tuấn Minh
Phó Tổng giám đốc
Cử nhân Quan hệ quốc tế và Cử nhân luật, phụ trách mảng Pháp chế-Tuân thủ- Đẩu tư
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của HABUBANK trong những năm gần đây (2005 – 2007)
Đối với HABUBANK, năm 2005 đã kết thúc bằng sự thành công trên mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Năm 2005, HABUBANK là ngân hàng đầu tiên cán đích hoàn thành kế hoạch do đại hội đồng cổ đông giao cho, được xếp vào bậc những ngân hàng có tỷ suất lợi nhuận cao nhất với mức lợi nhuận trước thuế đạt 103 tỷ đồng, đồng thời là năm thứ 7 liên tiếp HABUBANK được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A.
Năm 2006, HABUBANK đã tiến thêm một bước trong quá trình xây dựng thương hiệu của mình. Với những thành công đạt được của năm 2006, HABUBANK là một trong những thương hiệu uy tín của Việt Nam, được khách hàng yêu thích và được các tổ chức trong nước và quốc tế ghi nhận. HABUBANK đang ngày càng hoàn thiện mô hình tổ chức sự phát triển của ngân hàng một cách cân đối và hợp lý trên các vùng miền trọng điểm. Năm 2006 là năm thứ 8 liên tiếp HABUBANK được Ngân hàng Nhà nước xếp loại A, và lần thứ 2 liên tục nhận bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vì những thành tích đạt được. Và năm 2006, HABUBANK đã trở thành đại diện thứ 3 trong hệ thống ngân hàng Việt Nam được tạp chí The Banker – một tạp chí danh tiếng thế giới về lĩnh vực tài chính ngân hàng trao tặng giải thưởng “Ngân hàng Việt Nam của năm 2006”
Ngày 29/11/2007, tại khách sạn Dorchester (London - Anh), Tạp chí tài chính nổi tiếng thế giới The Banker đã tổ chức lễ trao giải “Bank of the year” năm 2007 cho những Ngân hàng xuất sắc nhất của các nước trên phạm vi toàn thế giới. Giải thưởng “Bank of the year” (Ngân hàng của năm) của Việt Nam năm 2007 đã thuộc về HABUBANK. Đây là năm thứ hai liên tiếp HABUBANK vinh dự nhận được giải thưởng này. The Banker (thuộc Tập đoàn Finacial Times) được đánh giá là một tạp chí hàng đầu về tài chính ngân hàng toàn cầu và cung cấp thông tin xếp hạng các ngân hàng. Bank of the year là giải thưởng dành riêng cho một ngân hàng xuất sắc ở một quốc gia mà The Banker trao hàng năm. Đây là giải thưởng được coi trọng nhất trong cộng đồng ngân hàng toàn cầu. Bên cạnh việc trả lời các câu hỏi về vốn cấp I, tổng tài sản, lợi nhuận ròng, chỉ số ROE, tỷ lệ nợ quá hạn, The Banker đánh giá cao HABUBANK ở những đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội Việt Nam thông qua các hoạt động hướng về cộng đồng. Ngoài ra, lý do khiến HABUBANK vượt qua các ứng viên khác là kết quả kinh doanh trong 3 năm liên tục tăng trưởng tốt với các chỉ tiêu đều tăng từ 30% đến trên 100%; đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh hội nhập tốt.
Trong tháng 1/2008, HABUBANK cũng đã được Ngân hàng Wachovia - một trong bốn ngân hàng lớn nhất tại Mỹ - trao tặng danh hiệu “Ngân hàng Thanh toán Quốc tế xuất sắc” năm 2007. Với danh hiệu lần thứ 2 này từ Wachovia Bank, tổng cộng HABUBANK đã 8 lần, từ năm 2004 đến nay, nhận được danh hiệu “Ngân hàng Thanh toán Quốc tế xuất sắc” do các tập đoàn lớn như HSBC, Citi Group, Amercica Express Bank, … bình chọn.
2.1.3.1 Kết quả kinh doanh
Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh từ năm 2004 - 2005
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Lợi nhuận truớc thuế và sau khi trích dự phòng
103.097
248.047
460.012
Sau một năm 2006 không ngừng nỗ lực và cố gắng của tất cả các thành viên Ngân hàng, HABUBANK đã đạt được những thắng lợi trong hoạt động kinh doanh với những chỉ tiêu tài chính đều vượt kế hoạch từ 80% đến 250%. Lợi nhuận tăng trưởng một cách vững chắc. Lợi nhuận trước thuế và sau khi trích dự phòng đã được kiểm toán đạt 248,047 tỷ VNĐ, tăng 140% so với năm 2005 và vượt 45 tỷ so với kế hoạch.
Năm 2007 tiếp tục là một năm thành công vượt bậc của HABUBANK về hiệu quả và an toàn, là năm thứ hai trong giai đoạn 2006 - 2010 phát triển nhanh, mạnh và toàn diện theo đúng chiến lược đã đề ra. Vị thế của HABUBANK ngày càng được khẳng định trên thị trường với nhiều danh hiệu, giải thưởng uy tín cả trong nước và quốc tế, giá trị cốt lõi cho cổ đông ngày càng được tăng cao và liên tục tích lũy. Lợi nhuận trước thuế và sau khi trích dự phòng của HABUBANK là 460,012 tỷ đồng, đạt 107,37% kế hoạch, tăng gần gấp đôi so với năm 2006.
2.1.3.2 Tăng trưởng nguồn vốn
* Tình hình huy động vốn
Bảng 2.2 Tình hình huy động vốn giai đoạn 2005 - 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
So sánh 2006/2005
So sánh 2007/2006
Tiền gửi tiết kiệm
2.468.367
3.595.212
6.624.654
+ 144,60%
+ 73.13%
Tiền gửi khách hàng (cá nhân, tổ chức)
609.908
1.371.878
2.907.596
+ 224,93%
+ 111.94%
Huy động liên ngân hàng
1.806.110
4.776.242
10.742.751
+ 236,60%
+ 124,92%
Tổng huy động
4.902.385
9.743.332
19.875.001
+ 198,74%
+ 105.58%
Trong năm 2006, mặc dù thị trường huy động vốn có sự cạnh tranh gay gắt, nhiều ngân hàng mới được thành lập, mạng luới của các ngân hàng đuợc mở rộng kết hợp với “chạy đua” về lãi suất. Bằng các biện pháp hữu hiệu, HABUBANK đã duy trì tốc độ tăng trưởng nguồn huy động trong năm. Tổng vốn huy động của HABUBANK đến 31/12/2006 đạt 9.743 tỷ VNĐ, tăng trưởng 98,74% so với năm 2005 (tương đương 4.841 tỷ đồng).
Với các sản phẩm đa dạng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, chính sách lãi suất linh hoạt được hỗ trợ bởi các phương thức Marketing hiệu quả, HABUBANK ngày càng thu hút được sự quan tâm của đông đảo khách hàng dân cư và tổ chức kinh tế. Năm 2007 tổng huy động đạt 19.875 tỷ đồng, tăng 105,58% so với năm 2006.
* Chỉ số an toàn vốn
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an toàn của ngân hàng là tỷ trọng vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro. Theo thông lệ quốc tế, tỷ trọng này tối thiểu là 8%. Năm 2005 tỷ lệ an toàn vốn của HABUBANK là 8,89% . Tỷ lệ này năm 2006 là 14%. Đây là chỉ số mà HABUBANK đánh giá là tối ưu trong hoạt động tài chính ở một thị trường đang phát triển và tiềm ẩn nhiều rủi ro như Việt Nam. Đây cũng là một trong những tiêu chí chủ chốt để ngân hàng Thế giới lựa chọn HABUBANK là một trong những ngân hàng giải ngân cho Dự án tài chính Nông thôn II với mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của dự án hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể ở các vùng nông thôn Việt Nam.
2.1.3.3 Sử dụng vốn
* Cho vay khách hàng
Bảng 2.3 Tổng dư nợ cho vay khách hàng từ năm 2005 -2007
Đơn vị: triệu đồng
Năm
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
3.330.218
6.087.385
9.811.735
Năm 2006, hệ thống mạng lưới của HABUBANK đã khai trương thêm 5 điểm giao dịch tại các vùng kinh tế trọng điểm. Song song đó, HABUBANK còn tiếp tục phát triển, đưa ra các chính sách tín dụng với lãi suất phù hợp để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng một cách nhanh nhất. Sự thay đổi môi trường kinh doanh trong nước trước khi bước vào hội nhập WTO chính thức đã kéo theo nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế gồm các cá nhân và doanh nghiệp. HABUBANK đã không ngừng mở rộng và phát triển dịch vụ cả về chiều sâu, trong đó dịch vụ cho vay khách hàng là dịch vụ tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Tính đến 31/12/2006, tổng dư nợ cho vay toàn ngân hàng là 6.087,385 tỷ đồng, tăng 82,7% so với năm 2005.
Với sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trong những năm vừa qua, theo đó nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế cũng không ngừng tăng lên. Để đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, với tiêu chí phục vụ khách hàng, HABUBANK đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổng dư nợ cho vay năm 2007 đạt 9.811,735 tỷ đồng, tăng trưởng 61,18% so với năm 2006.
* Hoạt động đầu tư
+ Đầu tư vào thị trường Liên ngân hàng và thị trường mở
Năm 2005 HABUBANK tiếp tục đẩy mạnh hoạt động trên thị trường liên ngân hàng trong các lĩnh vực đầu tư vốn và kinh doanh tiền tệ. HABUBANK luôn được đánh giá là một trong những ngân hàng có uy tín và có tính thanh khoản tốt nhất trên thị trường. Việc tạo thanh khoản tốt một phần lớn nhờ vào sự phân bổ và sử dụng nguồn vốn có được một cách hiệu quả hơn năm 2004.
Năm 2006 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh mẽ của HABUBANK trên thị trường Liên ngân hàng. Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng 3,2 lần so với năm 2005, đạt 139.086 tỷ đồng, tương đương 526 tỷ đồng/ngày. Ngoài ra, HABUBANK cũng tăng cường hoạt động đầu tư và kinh doanh giấy tờ có giá nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư. Kết quả thu lãi tiền gửi năm 2006 của ngân hàng đạt 422,56 tỷ đồng, tăng gần 5 lần so với 2005 và thu từ tham gia thị trường tiền tệ đạt 114,6 tỷ đồng, tăng gần 2 lần so với năm 2005.
+ Đầu tư vào thị trường chứng khoán
HABUBANK đã đa dạng hóa danh mục đầu tư chứng khoán. Năm 2005 số dư đầu tư vào chứng khoán các loại là 856,8 tỷ đồng, tăng 2,9 lần so với 2004. Năm 2005, nguồn vốn đã mang lại cho Ngân hàng thu lãi thuần đầu tư chứng khoán hơn 53 tỷ VNĐ, tăng hơn 200% so với 2004.
Trong năm 2006, công ty chứng khoán HABUBANK đã hoàn thiện các dịch vụ và sản phẩm của mình và đã được Ủy ban chứng khoán Nhà nước cho phép hoạt động. Mặc dù đây là năm đầu tiên đi vào hoạt động nhưng Công ty chứng khoán HABUBANK đã kinh doanh có hiệu quả cao. Lợi nhuận trước thuế năm 2006 của HABUBANK SECURITIES là 18,4 tỷ đồng.
+ Kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của HABUBANK được chính thức đưa vào hoạt động kể từ tháng 01/1999 với sự ra đời của Phòng Nguồn vốn và Kinh doanh ngoại hối. Xác định tầm quan trọng của của nghiệp vụ này, từ nhiều năm trước, Ban lãnh đạo của ngân hàng đã đầu tư thích đáng về nhân sự cũng như trang bị những phương tiện, thiết bị hiện đại như mạng giao dịch Reuters Dealing 3000, màn hình cung cấp uy tín của Reuters, đường Internet tốc độ cao để đảm bảo chất lượng hoạt động. Với uy tín hoạt động trên thị trường, kinh doanh an toàn và hiệu quả, đến nay, hạn mức giao dịch của HABUBANK ngày càng được các tập đoàn tài chính toàn cầu nâng cao, từ 1 triệu USD năm 2004 đến 5 triệu USD/ngày năm 2005 mỗi ngân hàng. Điều này đã hỗ trợ HABUBANK mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại hối của ngân hàng trong thời gian vừa qua. Năm 2005, lợi nhuận từ kinh doanh ngoại tệ đạt 3,56 tỷ VNĐ. Tổng doanh số mua bán các ngoại tệ đạt 1,94 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2004.
Doanh số kinh doanh ngoại tệ năm 2006 đạt 3,634 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 2005. Lợi nhuận thuần từ kinh doanh ngoại tệ đạt 1,17% kế hoạch.
2.1.3.4 Dịch vụ ngân hàng
+ Bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng tăng trưởng đều qua các năm. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng năm 2005 đạt 6,98 tỷ đồng, tăng 154% so với 2004.
Tổng doanh số bảo lãnh năm 2006 đạt 966,5 tỷ đồng, tăng 72,28% (tương đương 405,5 tỷ) so với năm 2005. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh năm 2006 đạt 11,8 tỷ VNĐ, tăng 69% so với 2005.
+ Thanh toán quốc tế
Dịch vụ thanh toán quốc tế tại HABUBANK được đánh giá là có chất lượng cao với tỷ lệ điện chuẩn được xử lý tự động đạt trên 98%, phương thức thực hiện nhanh chóng, linh hoạt, không có sai sót, nhầm lẫn, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Trong năm 2005, HABUBANK đã được trao tặng các giải thưởng về quản lý tiền tệ và thanh toán toàn cầu của Citigroup, HSBC và Union Bank of California. Mặc dù doanh số hoạt động năm 2005 giảm nhẹ so với năm 2004 nhưng thu phí đạt 8,582 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2004. Giá trị giao dịch thanh toán qua hệ thống của HABUBANK trong năm 2005 đạt 151 triệu USD.
Năm 2006 cũng là năm HABUBANK đạt được giải thưởng về chất lượng thanh toán quốc tế xuất sắc do Citigroup trao tặng tháng 4/2006 giành cho ngân hàng có tỷ lệ điện tự động từ 98% trở lên. Thực hiện quyết tâm đẩy mạnh dịch vụ Thanh toán của Hội đồng quản trị, toàn ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan: hoàn thành vượt mức kế hoạch doanh số Thanh toán quốc tế và thu phí dịch vụ thanh toán được Hội đồng quản trị đề ra, đồng thời nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động. Doanh số Thanh toán quốc tế năm 2006 đạt 349,22 triệu USD, đạt 149% so với kết hoạch đầu năm, tăng 131% so với cùng kỳ năm 2005.
2.2 Thực trạng cho vay mua nhà trả góp tại HABUBANK
2.2.1 Những quy định chung về cho vay mua nhà trả góp của HABUBANK
2.2.1.1 Đối tượng cho vay
Nhà đất, căn hộ mua mới của các Công ty kinh doanh nhà
2.2.1.2 Đối tượng áp dụng
Chương trình cho vay mua nhà trả góp áp dụng cho các đối tượng có nhu cầu mua nhà để ở thực sự và có hộ khẩu thường trú tại các địa phương HABUBANK có trụ sở giao dịch.
2.2.1.3 Các điều kiện tín dụng
* Thời hạn cho vay tối đa: 15 năm
* Ân hạn trả gốc tối đa: 06 tháng
* Lãi suất cho vay mua nhà trả góp là lãi suất trung dài hạn của Ngân hàng tại từng thời điểm và thời gian điều chỉnh lãi suất ấn định vào ngày 01/01 và 01/07 hàng năm
* Mức cho vay: tối đa 70% trị giá nhà/đất mua mới ghi trong Hợp đồng mua bán
* Tài sản đảm bảo cho món vay là nhà đất/căn hộ hình thành từ vốn vay của HABUBANK do khách hàng mua mới từ Công ty kinh doanh nhà
* Tiền lãi trả hàng tháng, tiền gốc được trả hàng tháng/quý tùy vào nguồn thu của khách hàng. Thời gian trả gốc vay chia làm 4 giai đoạn và có 3 phương thức để khách hàng lựa chọn:
- Giai đoạn thứ nhất khách hàng trả 15% số tiền vay; giai đoạn thứ hai khách hàng trả 25% số tiền vay; giai đoạn thứ 3 và thứ 4 khách hàng trả nốt 30% tổng số tiền vay còn lại.
- Khách hàng có thể trả nợ với số tiền bằng nhau trong cả 4 giai đoạn
- Trả theo quy tắc từ cao đến thấp (30% ; 30% ; 25% ; 25%) tùy theo khả năng tài chính của từng khách hàng
2.2.1.4 Điều kiện đối với bên vay vốn
* Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
* Thu nhập hợp pháp, ổn định, đủ khả năng trả nợ
* Có vốn tự có tối thiểu 30% trị giá nhà đất/căn hộ mua mới
* Có đơn đề nghị xin vay vốn để mua nhà: Nêu rõ mục đích sử dụng nhà, nguồn trả nợ, kế hoạch trả nợ và cam kết về tài sản đảm bảo
2.2.1.5 Các hồ sơ chính
+ Hồ sơ pháp lý:
* Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân:
- Nếu khách hàng chưa đăng ký kết hôn: Chứng nhận độc thân của phường xã nơi cư trú
- Nếu khách hàng đã kết hôn: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản sao, cán bộ phát triển kinh doanh đối chiếu bản chính) hoặc sổ hộ khẩu nếu có ghi rõ quan hệ vợ chồng, trong một số trường hợp có thể dùng giấy khai sinh của con.
- Nếu khách hàng đã ly hôn: Giấy chứng nhận thuận tình ly hôn của Tòa án Nhân dân ( bản sao, cán bộ phát triển kinh doanh đối chiếu bản chính)
* Hộ khẩu: Bản sao hộ khẩu thường trú
* Chứng minh nhân dân: Chứng minh nhân dân của khách hàng (gồm cả hai vợ chồng, trường hợp khách hàng đã đăng ký kết hôn)
+ Hồ sơ chứng minh mục đích sử dụng vốn:
* Thông báo về việc chấp thuận bán nhà và nộp tiền ứng trước của cơ quan bán nhà
* Sơ đồ mặt bằng
* Hợp đồng mua bán nhà
* Phiếu thu tiền
+ Hồ sơ chứng minh nguồn trả nợ
* Quyết định bổ nhiệm chức vụ ghi rõ mức lương
* Hợp đồng cho thuê động sản và bất động sản
* Giấy phép đăng ký kinh doanh, sổ bán hàng đối với hộ kinh doanh cá thể
* Giấy chứng nhận, xác nhận sở hữu cổ phiếu của các Công ty, tổ chức
* V.v…
+ Hồ sơ tài sản đảm bảo:
* Biên bản thống nhất việc thế chấp tài sản đảm bảo của các thành viên đồng sở hữu tài sản đảm bảo
* Các giấy tờ chứng minh các nghĩa vụ đã thực hiện của khách hàng đối với bên bán nhà liên quan đến việc thực hiện Hợp đồng mua bán nhà
* Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
2.2.1.6 Nội dung hợp tác giữa Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội và Công ty kinh doanh nhà
* Giữa Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội và Công ty kinh doanh nhà nên có một thỏa thuận hợp tác cung cấp dịch vụ bán nhà trả góp
* Nội dung hợp tác:
- Điều khoản chung
- Trách nhiệm của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
- Trách nhiệm của Công ty kinh doanh nhà
+ Điều khoản chung:
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội và Công ty kinh doanh nhà cùng hợp tác trong việc cung cấp dịch vụ bán nhà trả góp với các điều kiện tín dụng như quy định tại mục 2.2.1.3
+ Trách nhiệm của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
* Chịu trách nhiệm thẩm định khách hàng và đưa ra quyết định cho vay
* Thông báo cho khách hàng các thủ tục vay vốn và hoàn tất các thủ tục ký hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo và đăng ký giao dịch đảm bảo
* Thô._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30492.doc