MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài chính – tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân.
Với vai trò vị trí vô cùng quan trọng, là một ngành chủ đạo của nền kinh tế các hoạt động của ngân hàng ngày càng đa dạng về mặt hình thức, nâng cao nghiệp vụ. Trong đó có một nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại là sử dụng vốn và cho vay vốn, với nghiệp
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ cho vay là quan trọng, là nhân tố quyết định hiệu quả của việc huy động vốn cũng như hoạt động kinh doanh. Câu hỏi đặt ra với một ngân hàng thương mại là cho vay như thế nào để kết quả kinh doanh có lãi và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển trong đó đặc biệt chú trọng đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, tạo thu nhập, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngoài những nhân tố kinh tế xã hội để phát triển doanh nghiệp như: thị trường, trang thiết bị công nghệ, nhà xưởng, trình độ quản lý, trình độ công nhân, chính sách pháp luật của Nhà nước thì vốn là nhân tố quyết định, là vấn đề mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn.
Sự phát triển Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã mở ra một thị trường mới cho việc mở rộng và tăng trưởng hoạt động tín dụng. Tín dụng Ngân hàng có tác động tích cực trong việc hỗ trợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện liên tục, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Cũng như các ngân hàng khác, Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang phải đối mặt với công tác cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ nhận thức đó, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, đươcj sự giúp đỡ hướng dẫn của Ban giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cùng với sự hướng dẫn của thầy Hoàng Xuân Quế, em mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ”.
Do kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế, nên chuyên đề thực tập của em không thể tránh khỏi hạn chế, thiếu sót, vì vậy em mong nhận được them những ý kiến chỉ dẫn của thầy, cán bộ nhân viên của Ngân hàng để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Kết cấu bài chuyên đề của em ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vai trò của Ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy giáo và Ban giám đốc, các cô chú, anh chị của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua và hoàn thành bài chuyên đề thực tập này.
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1 Khái niệm Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài) trong đó các đơn vị, các cá nhân tự bỏ vốn, tự đóng góp và hoạt động vì mục đích lợi nhuận bao gồm: các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần, công ty liên doanh…
1.1.2 Phân loại
* Theo hình thức sở hữu thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm :
- Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp và công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
- Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động doanh nghiệp.
- Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
* Theo quy mô doanh nghiệp thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm:
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ : Theo Nghị định số 90/2001/CP-ND ban hành tháng 3/2001 của Chính phủ có định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó “là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô lớn : là doanh nghiệp có tính chất tư hữu, có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300 người.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam đã đượcHội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng khóa VI khẳng định : “Kinh tế quốc doanh cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, nghề loại hoạt động nào mà Hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt cho nền kinh tế thì các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hóa đi lên XHCN”. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được khẳng định qua các khía cạnh sau:
1.1.3.1. Sự phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Thực vậy, việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn. Người tiêu dung có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Mặt khác doanh nghiệp ngoài quốc doanh với ưu thế về quy mô cộng thêm sự nhạy bén với thị trường đã thực sự trở thành một đối thủ cạnh tranh trên thị trường của rất nhiều doanh nghiệp khác. Vì vậy sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thể hiện ở chỗ không chỉ có sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp Nhà nước mà còn với bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nhau. Đây là một động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó làm cho mọi nguồn lực trong nền kinh tế được tận dụng, sử dụng một cách tối đa và hiệu quả nhất.
1.1.3.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần làm đa dạng hóa loại hình sở hữu trong nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ sản xuất còn thấp, trong khi tiềm năng phát triển còn rất lớn. Sự độc chiếm trong hình thức sở hữu Nhà nước và tập thể không khai thác hết các tiềm năng sẵn có vì theo hình thức này từ lâu đã mang nặng tính quan liêu bao cấp, hoạt động theo kế hoạch, dần dần thủ tiêu tính sáng tạo và năng động của các doanh nghiệp, vì thế các doanh nghiệp không thể nào khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời đã khai thác được mọi nguồn vốn tự tích lũy của mình đã đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong mọi lĩnh vực thúc đẩy kinh tế phát triển. Kết quả trên là tất yếu khi mà kinh tế ngoài quốc doanh mang tính tư hữu cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tập trung tận dụng tối đa những gì mà họ có và có thể huy động được để mang lại lợi nhuận cao nhất cho chính bản thân doanh nghiệp và thông qua đó góp phần phát triển kinh tế đất nước.
1.1.3.3. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Việc làm hay tỉ lệ thất nghiệp cao là vấn đề nan giải với bất kỳ quốc gia nào. Đặc biệt là ở một số nước đang phát triển như Việt Nam thì sự ra đời của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thực sự là một cứu cánh cho số lượng lao động còn lại. Mặt khác, doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần một lực lượng lao động giản đơn, lao động không cần đầu tư phức tạp, nên phù hợp với trình độ lao động hiện nay ở Việt Nam.
1.1.3.4. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng tập trung mọi nguồn lực trong xã hội vào hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thật vậy, các DNNQD có khả năng tập trung vốn, trí tuệ và các nguồn lực khác vào các ngành kinh tế hay các ngành đòi hỏi hàm lượng trí tuệ cao như công nghệ thông tin hay cũng có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm.
1.1.3.5. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận đóng góp cho ngân sách Nhà nước và góp phần làm tăng thu nhập quốc dân.
Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Về mặt pháp lý các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như doanh nghiệp Nhà nước đều có nghĩa vụ như nhau trong việc nộp thuế. Do đó sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như sự thành công trong sản xuất kinh doanh của họ sẽ góp phần đáng kể tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước.
1.1.3.6. Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ,xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa hút một lực lượng lớn lao động nông thôn, lại vừa có thể nhanh chóng thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi theo hướng sản xuất nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi công nghiệp. Từ đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến, theo hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Như vậy doanh nghiệp tuy có một số hạn chế, khó khăn trước mắt nhưng vai trò của nó đối với nền kinh tế vẫn không thể phủ nhận. Với sự hỗ trợ khuyến khích ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp này, Nhà nước và các cơ quan liên quan, cùng với các nguồn lực có sẵn, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh về số lượng lẫn chất lượng, góp phần giải quyết việc làm, tạo ra sự năng động trong kinh doanh và thỏa mãn một phần nhu cầu thị trường, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của toàn Đất nước.
1.1.4 Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Sau khoảng thời gian 20 năm đổi mới trong tư duy, nhận thức cũng như những thay đổi cần thiết về luật pháp trong cách nhìn nhận về các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, về DNNQD nói riêng kết quả là chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu. Các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các DNNQD đã không ngừng gia tăng về số lượng, hoạt động ngày một hiệu quả, hàng hóa dịch vụ cung cấp ngày càng đa dạng, công ăn việc làm cho người lao động tăng lên nhanh chóng…Mặc dù được tạo điều kiện và đã có nhiều thành tích nhưng hoạt động của các DNNQD vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xuất phát từ bản thân loại hình doanh nghiệp. Một số đặc điểm của loại hình DNNQD sẽ được chỉ ra dưới đây, từ đó có thể tìm ra các phương án trong hoạt động mở rộng cho vay của các NHTM với đối tượng này.
1.1.4.1. Các DNNQD có số lượng lớn và tốc độ gia tăng nhanh.
Trong những năm qua, do tác động mạnh mẽ của các chính sách đổi mới của đất nước, do tác động của mở cửa kinh tế số lượng các doanh nghiệp ngày một tăng lên trong đó có các DNNQD. Sau khi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân được ban hành năm 1991,tổng số DNNQD trên cả nước là 414 doanh nghiệp; đến năm 1999, số lượng loại hình doanh nghiệp này tăng đến 30.500 doanh nghiệp. Bình quân trong giai đoạn này tốc độ tăng khoảng 30% . Năm 2000, nhà nước ban hành luật doanh nghiệp để thay thế luật công ty, số lượng các DNNQD tăng lên nhanh chóng. Năm 2000 số DNNQD là 44.943, năm 2002 là 54.642, năm 2003 là 82.000. Cho đến cuối năm 2004, gần 110.000 doanh nghiệp mới đăng ký, và đến nay có khoảng 155.000 doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, số lượng các DNNQD tăng với tốc độ 40%/năm, trong đó tăng nhanh nhất là các công ty cổ phần, các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân. Số lượng các DNNQD gấp trên 10 lần số lượng các doanh nghiệp nhà nước, gấp 25 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, 1/7/2007 luật doanh nghiệp chung sẽ chính thức có hiệu lực điều này hứa hẹn sẽ mang lại rất nhiều thay đổi cho các DNNQD. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ diễn ra mạnh mẽ, sôi động hơn và cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì sự gia tăng về quy mô và chất lượng của các DNNQD là khách quan, tất yếu.
1.1.4.2.Đa số các DNNQD đều mới hình thành.
Trước đổi mới, nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, các thành phần kinh tế phi nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp và không có một DNNQD chính thức hoạt động. Sau khi thực hiện đổi mới nền kinh tế và thực hiện những chính sách chiến lược nhằm đẩy mạnh nền sản xuất trong nước thì các DNNQD mới có điều kiện thuận lợi để phát triển. Như phần trên đã phân tích trong bốn năm từ năm 2000 đến năm 2004 số lượng DNNQD tăng lên gần gấp đôi cả giai đoạn trước đó. Hầu hết các doanh nghiệp tính đến nay đều thành lập được khoảng trên dưới 6 năm, DNNQD “già nhât” cũng chưa được 20 năm. Như vậy, so với các doanh nghiệp quốc doanh thì DNNQD còn quá non trẻ và mới mẻ.
1.1.4.3.Quy mô vốn và lao động nhỏ.
Mặc dù số lượng DNNQD là lớn nhất trong tất cả các loại hình doanh nghiệp nhưng quy mô vốn và lao động của các doanh nghiệp này lại nhỏ bé hơn nhiều. Chiếm đến khoảng 68% tổng số các DNNQD là các doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 500 triệu, khoảng 32% là các doanh nghiệp có số vốn trên 500 triệu, còn lai là các doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng. Năm 2006, tổng vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế thì khu vực nhà nước chiếm 50,1%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 33,6%, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,3%. Mặc dù có số lượng lớn nhưng các DNNQD vẫn chưa có được quy mô vốn tương xứng và tài chính còn hạn hẹp. Chính bởi lý do này mà quy mô của các doanhh nghiệp còn nhỏ bé, sức cạnh tranh yếu, khó tiếp cận công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong thời gian tới nếu không cải thiện được tình hình vốn kinh doanh, thì các DNNQD khó lòng cạnh tranh được với các đối thủ khác đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh…
Cũng chính bởi quy mô nguồn vốn hạn hẹp, lĩnh vực kinh doanh chưa đa dạng nên đội ngũ lao động trong các DNNQD cũng còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê cả nước chỉ có khoảng 700 doanh nghiệp có số lao động từ 100 người trở lên; bình quân mỗi doanh nghiệp có khoảng 35 lao động. Đội ngũ lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế nói chung đều chưa có tay nghề kỹ thuật cao, ít được đào tạo và nhiều khi chưa đáp ứng được đòi hỏi của công việc.
Từ quy mô nguồn vốn và quy mô lao động của các doanh nghiệp mà chúng ta có thể nhận ra rằng phần lớn các DNNQD là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vốn chủ sở hữu nhỏ, vốn tích lũy chưa nhiều là nguyên nhân khiến cho quy mô sản xuất chưa được mở rộng, từ đó dẫn đến khả năng tăng doanh thu không cao, năng lực cạnh tranh thấp…Bởi vậy vấn đề đặt ra là cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư đa dạng hơn, linh hoạt hơn như vay ngân hàng, vay các tổ chức tài chính khác, tín dụng thương mại, phát hành các chứng khoán, kêu gọi đầu tư…
1.1.4.4. Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, thị trường tiêu thụ chưa được khai thác triệt để.
Đảng và nhà nước ta luôn cố gắng để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp nhưng thực tế vẫn có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc khu vực quốc doanh và ngoài khu vực quốc doanh. Môi trường kinh doanh không thuận lợi tạo ra sự phát triển không đồng đều giữa các doanh nghiệp, các DNNQD hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại là chủ yếu. Nhiều ngành nghề các doanh nghiệp nhà nước còn chiếm thế độc quyền.
Phạm vi hoạt động của các DNNQD tập trung hầu hết ở các khu vực có nền kinh tế phát triển, những địa phương này có các khu công nghiệp, chế xuất đã kéo theo sự phát triển của các DNNQD nhằm cung cấp các dịch vụ và vật tư cho các nhà máy lớn, cho các khu công nghiệp… Bởi vậy có thể nói ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của các DNNQD còn chưa đa dạng, chưa tập trung vào sản xuất các hàng hóa có giá trị, các dịch vụ cung cấp chưa thuyết phục. Cùng với đó là công nghệ lạc hậu khiến cho các hàng hóa do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sản xuất chưa vươn rộng ra thị trường quốc tế và thị trường trong nước cũng không đủ rộng lớn, chưa xứng tầm…Các sản phẩm thiếu tính cạnh tranh và khó xâm nhập thị trường mới. Và trong điều kiện bị cạnh tranh gay gắt trong những năm tới nếu không có chiến lược kinh doanh phù hợp, linh hoạt thì khả năng một số DNNQD bị mất thị trường là điều dễ nhận thấy.
1.1.4.5. Một số đặc điểm khác.
Các DNNQD có trình độ công nghệ nhìn chung là lạc hậu, khả năng tiếp cận công nghệ nhiều hạn chế. Nhiều máy móc thiết bị đã qua thời gian sử dụng tương đối dài, hết giá trị khấu hao. Phần lớn thiết bị là loại thanh lý của các doanh nghiệp lớn. Bởi vậy, hàng hóa sản xuất ra có mẫu mã đa dạng, chất lượng cao là khó khăn. Chính bởi công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý hạn chế dẫn đến chi phí sản xuất, chi cho nhân công là cao. Từ đó ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa, sức cạnh tranh của hàng hóa do các DNNQD là không cao.
Trình độ quản lý của các DNNQD còn yếu kém nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Rất nhiều cá nhân đứng ra thành lập các công ty, trực tiếp quản lý điều hành hoạt động của công ty, trong khi không phải tất cả các cá nhân đó có hiểu biết và am hiểu về kinh tế, có trình độ quản lý doanh nghiệp. Điều đó dẫn tới việc nhiều khi các DNNQD tham gia thị trường mắc nhiều sai phạm hoặc hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, có thể do thiếu hiểu biết về môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, phương pháp quản lý lao động mà nhiều doanh nghiệp có thể vi phạm pháp luật, tài chính có thể không minh bạch.
1.2. Hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1 Sự cần thiết của hoạt động cho vay của ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong lịch sử phát triển của mình, để khai thác được vốn, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã dựa vào 3 nguồn vốn chủ yếu: vốn tự có, thông qua thị trường tài chính và thông qua tín dụng Ngân hàng. Thực tế đã chứng minh rằng, với số vốn tự có nhỏ bé của mình Doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể tự mình đổi mới công nghệ thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề đang được ưa chuộng. Còn thông qua thị trường tài chính thì rủi ro lai rất lớn và điều kiện tham gia rất khó khăn. Do đó muốn phát triển, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có thể dựa vào nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn dồi dào và an toàn nhất.
1.2.2.1 Hoạt động cho vaycủa ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các HTX tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và vốn phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thị trường chứng khoán ở nước ta mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải là dễ dàng. Vì vậy, kênh cung cấp vốn chủ yếu và hết sức quan trọng để các thành phần kinh tế này phát triển là vốn cho vay của các NHTM. Do đó, để doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhất thiết phải có sự hỗ trợ vốn từ các NHTM.
1.2.2.2 Hoạt động cho vay giúp tăng cường quy mô vốn lưu động của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy việc sản xuất phát triển.
Do đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường có chu kỳ sản xuất và quay vòng vốn nhanh, đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu động vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, sự có mặt của vốn vay dưới hình thức vay vốn ngắn hạn là nguồn vốn bổ sung vốn lưu động rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất ra không phải lúc nào cũng bán được hết và không phải lúc nào cũng thanh toán được tiền ngay, trong khi sản xuất không thể dừng lại. Để việc kinh doanh tiến hành bình thường, liên tục và có hiệu quả, tự doanh nghiệp khó có thể giải quyết được, cần thiết phải thông qua nguồn vốn vay từ phía Ngân hàng để bố sung vốn lưu động cho chính mình.
1.2.2.3 Nguồn vốn vay từ ngân hàng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có đặc điểm chung là trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, tuổi thọ tài sản cố định khá cao và được tân trang lại. Do đó sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng hạn chế, khó cạnh tranh được với các hàng ngoại nhập, dẫn đến kinh doanh bị thua lỗ, phá sản. Do vậy, nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở nên bức xúc. Với khả năng của mình, ngân hàng hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn, giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi với thị trường thông qua hoạt động cho vay trung và dài hạn.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể giúp các doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ thông qua hình thức thuê mua. Đây là hình thức cho thuê máy móc, thiết bị để phục vụ sản xuất, được ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê (các doanh nghiệp). Bên thuê có quyền lựa chọn bên cung ứng hàng, thương lượng thỏa thuận chủng loại, giá, việc bảo hiểm, bảo hành, cách thức và hình thức giao hàng, việc lắp đặt, bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến tài sản thuê. Nhờ đó, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện hơn trong việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tóm lại, sự phát triển của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Để phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh – đây cũng là định hướng chủ đạo của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế đất nước – thì ngoài việc đổi mới cơ chế, phạm vi hoạt động… thì việc mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khu vực này là rất quan trọng, cần thiết cho sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
1.2.2. Các hình thức cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng trong quan hệ tín dụng và khả năng kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Ngân hàng sẽ thỏa thuận với khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay theo một trong các phương thức sau:
- Cho vay từng lần:
+ Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn từng lần, có quan hệ không thường xuyên với Ngân hàng, có nguồn thu thường không ổn định; cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, cho vay bắc cầu, cho vay hỗ trợ triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ, cho vay tiêu dùng trong dân cư.
+Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ đối với hình thức cho vay theo món có thể được xác định dựa trên cơ sở từng chu kỳ sản xuất kinh doanh, hoặc khả năng nguồn thu của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
+ Chi nhánh cùng khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng đối với các khách hàng có sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả và có quan hệ tín dụng thường xuyên đối với Chi nhánh.
+ Khi xác định hạn mức tín dụng cần dựa trên cơ sở: Báo cáo quyết toán của năm trước, Báo cáo kế toán tại thời điểm gần nhất cùng với kế hoạch sản xuất kinh doanh năm, quý và các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thi công…
+ Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng theo hạn mức, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay, song phải đảm bảo số dư nợ không vượt hạn mức tín dụng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hạn mức.
+ Để đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh ổn định, hàng năm hoặc theo nhu cầu mở rộng, thu hẹp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của khách hàng, điều kiện vay vốn của khách hàng, Chi nhánh và khách hàng thỏa thuận ký phụ lục bổ sung hợp đồng tín dụng điều chỉnh hạn mức tín dụng cho kỳ tiếp theo, hoặc ký hợp đồng tín dụng hạn mức mới hoặc chấm dứt phương thức cho vay này.
- Cho vay theo dự án đầu tư:
Chi nhánh cho vay khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục đời sống.
- Cho vay hợp vốn:
+ SGD tham gia một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay ban hành theo quyết định số 1627/QĐ NHNN và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thông đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
+ Chi nhánh quyết định việc tham gia cho vay hợp vốn mà các tổ chức tín dụng khác đề nghị, hoặc tham gia theo ủy quyền của Tổng Giám đốc, hoặc tự tổ chức làm đầu mối cho vay hợp vốn theo quy định của Tổng Giám đốc.
+ Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành và hướng dẫn của Tổng Giám đốc. Việc thẩm định dự án, phương án vay vốn, quyết định tham gia đồng tài trợ của Ngân hàng thực hiện theo Quy chế này.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
SGD cam kết đảm bảo sẵn sang cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. SGD và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức chi trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua khách hàng, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt tại các Chi nhánh. Tổng Giám đốc quy định cụ thể về cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật.
- Cho vay trả góp:
Khi cho vay, Chi nhánh cùng khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn vay.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi:
Ngân hàng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng được chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng tại Chi nhánh trong khoản thời gian nhất định, phù hợp với các quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Tổng Giám đốc hướng dẫn cụ thể phương thức cho vay này.
.- Các phương thức cho vay khác:
Ngoài ra các phương thức cho vay nêu trên, Ngân hàng cho khách hàng vay vốn theo các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đặc điểm của từng loại khách hàng vay. Tổng Giám đốc quy định, hướng dẫn hoặc cho phép các Chi nhánh thực hiện các phương thức cho vay khác
1.2.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông thường, để đảm bảo hiệu quả thì quy trình cho vay phải tuân theo các bước sau:
Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.
Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
Ra quyết định cho vay, thông báo đến cho khách hàng.
Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.
Thu hồi vốn vay và xử lý nợ.
Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình cho vay là bước quan trọng để thực hiện chính sách tín dụng. Thực vậy, tuân theo các bước quan trọng của quy trình này, Ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình cho vay cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng, nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị trường.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.3.1. Về chủ quan
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp còn yếu :
Do sự phát triển của thành phần kinh tế này mới được thừa nhận hơn 15 năm và hoạt động trong môi trường luật pháp đạng được tạo dựng nên Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều vướng mắc trong quá trình phát triển. Mặc dù trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung độ tập trung vốn của khu vực này chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đều có quy mô nhỏ và chủ yếu thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp Nhà nước vốn phần lớn được hỗ trợ từ ngân sách còn Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì không nhận đượ._.c sự hỗ trợ này mà nguồn vốn kinh doanh chủ yếu được khai thác từ các nguồn vốn : vốn tự có, vốn huy động trên thị trường bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các nguồn vốn vay. Ở nước ta phát hành cổ phiếu vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà chỉ dừng ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty cổ phần. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới hình thành và quy mô còn nhỏ, uy tín còn hạn chế, do đó chưa đáp ứng được các yêu cầu trên. Vì vậy các doanh nghiệp này chỉ còn cách là vay các Ngân hàng thương mại, đây là nguồn vốn dồi dào có thể đáp ứng được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Trình độ sản xuất còn thấp, công nghệ lạc hậu, chắp vá.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp, kéo theo trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần hàng hóa bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh nghiệp Nhà nước.
- Trình độ quản lý, kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế, kỹ năng người lao động thấp.
Thành phần xuất than của các chủ doanh nghiệp thuộc Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ nhiều nguồn gốc khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí thức. Họ có nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư. Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản than. Do đó, họ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản than một cách rõ rang.
1.3.2 Về khách quan
- Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ, chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện của Đảng và các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công nhận vai trò quan trọng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường nhưng việc cụ thể hóa thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
- Tính ổn định của chính sách kinh tế - tài chính còn thấp, thiếu tính kích thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc về nguyên tăc, chế độ.
- Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho doanh nghiệp Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
- Các chính sách Nhà nước chưa được thực sự khuyến khích doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc và về hưu.
-Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hàm nhũng nhiễu. Tình trạng quan lieu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinh doanh.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Sở Giao dịch - Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam
2.1.1.Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức
SGD được thành lập theo quyết định số 572 TCCB/ĐT ngày 26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy của NHĐT&PTVN và Quyết định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng Giám đốc Ngân hàng ĐT&PTVN. Theo các Quyết định này, SGD là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở đặt tại 191 Bà Triệu-Hà Nội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, SGD trải qua hai thời kỳ:
- Thời kỳ từ 1991-1995: nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản.
*Sơ đồ cơ cấu tổ chức
BAN GIÁM ĐỐC
KHỐI TÍN DỤNG
KHỐI DỊCH VỤ
KHỐI QUẢN LÝ NỘI BỘ
KHỐI ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC
P. Tín dụng 1
P. Tín dụng 2
P. Tín dụng 3
P. Thẩm định
P. Thanh toán quốc tế
P. D.vụ khách hàng doanh nghiệp
P.D.vụ khách hàng cá nhân
P. Tiền tệ kho quỹ
P. Kế hoạch nguồn vốn
P. Tài chính kế toán
P. Tổ chức cán bộ
P. Hành chính Quản trị
P. Điện toán
P. Kiểm tra nội bộ
P. Giao dịch I
P. Giao dịch II
P. Quản lý Tín dụng
P. Giao dịch III
2.1.1.2 Mạng lưới hoạt động
Từ ngày đầu thành lập, SGD có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ; chủ yếu làm nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách đầu tư các dự án.
Giai đoạn 1996 – 2000: với 167 cán bộ nhân viên SGD đã có 12 phòng nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm. Thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, phục vụ đông đảo khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư.
Từ 2001 – 2005: SGD đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh cấp I trên địa bàn Hà Nội đó là: chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002, chi nhánh Hà Thành năm 2003, chi nhánh Đông Đô năm 2004 và chi nhánh Quang Trung năm 2005. Cơ cấu lại SGD theo mô hình phục vụ một cửa thuận lợi cho khách hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay SGD đã có 15 phòng nghiệp vụ; 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên. Hệ thống máy rút tiền tự động ATM hoạt động kết nối với các điểm giao dịch của BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp thành mạng lưới rộng khắp phục vụ khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Năm 2006, SGD đã mở thêm 1 chi nhánh nữa, trở thành phòng Giao dịch III của SGD, nằm trên đường Hàng Khoai. Đây là chi nhánh hoạt động tín dụng chủ yếu đối với khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Mô hình tổ chức của SGD đang được hoàn thiện hướng theo các ngân hàng hiện đại trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin để hình thành các kênh phân phối sản phẩm tín dụng, huy động vốn, dịch vụ…
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD từ năm 2004 – 2006
Bảng số liệu tình hình kinh doanh của SGD năm 2004 – 2006
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Tuyệt đối
%04/03
Tuyệt đối
%05/04
Tuyệt đối
%06/05
I. Huy động vốn
1. Tiền gửi TCKT
- TG không kỳ hạn
- TG có kỳ hạn
2. Tiền gửi dân cư
- TG tiết kiệm
- Kỳ phiếu
- CCTG, trái phiếu
3. Huy động khác
7,108.450
3,705.456
1,019.978
2,685.478
3,317.088
2,208.801
461.017
647.270
85.906
-15.46
33.69
83.31
21.22
-35.79
-8.14
-72.70
-39.64
-81.75
7,569.500
4,407.585
844.839
3,562.746
3,084.831
2,168.426
230.878
649.527
113.084
6.49
18.95
-17.17
32.67
-8.09
-1.83
-49.92
0.35
31.64
10,110.926
7,284.959
1,645.390
5,639.569
2,791.400
2,290.055
122.200
379.145
34.567
33.57
65.28
94.76
58.29
-8.44
5.61
-47.07
-41.63
-69.43
II. Tín dụng
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay TDH TM
3. Cho vay ĐTT
4. Cho vay KHNN
5. Cho vay ủy thác, ODA
4,224.050
855.811
1,345.314
1,119.697
515.475
387.754
5.71
29.64
-14.01
37.45
-11.56
3.79
4,813.816
1,724.458
1,012.621
1,396.026
374.866
305.846
13.96
101.50
-24.73
24.68
-27.28
-21.12
5,000.752
1,959.934
623.713
1,894.594
256.478
266.034
3.88
13.66
-38.41
35.71
-31.58
-13.02
III. Chỉ tiêu khác
1. Thu dịch vụ ròng
2. Lợi nhuận trước thuế
3. Tổng tài sản
24.502
83.856
10,950.980
-4.48
-36.15
-5.31
25.600
93.659
11,180.720
4.48
11.69
2.10
49.512
184.858
14,141.538
93.41
97.37
26.48
2.1.2.1 Công tác huy động vốn
Qua bảng số liệu, ta có thể thấy rõ rằng trong những năm gần đây, tổng huy động vốn của SGD đã có sự tăng trưởng rất mạnh. Năm 2004, huy động vốn đạt 7,108.450 tỷ đồng, giảm 15.46 % so với năm 2003. Nhưng năm 2005, tổng huy động vốn đã tăng trở lại, đạt 7,569.500 tỷ đồng, tăng 6.49% so với năm 2004. Và năm 2006 là năm tăng trưởng mạnh của SGD với nguồn vốn huy động được đạt 10,110.926 tỷ đồng, tăng 33.57 % so với năm 2005 và là năm có nguồn vốn huy động nhiều nhất cũng như tăng trưởng mạnh nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây.
- Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế trong 3 năm cũng có sự đột biến rõ ràng. Năm 2004 đạt 3,705.456 tỷ đồng, tăng 33.69% so với năm 2003. Đến năm 2005 thì chỉ đạt 4,407.585 tỷ đồng, tăng 18.95% so với năm 2004. Tuy nhiên năm 2006 thì con số này đạt 7,284.959 tỷ đồng, tăng 65.28% so với năm 2005. Trong đó, tiền gửi không kỳ hạn năm 2006 tăng gần gấp đôi so với năm 2005, đạt 1,645.390 tỷ đồng tương ứng 94.76% tăng so với năm 2005. Tỷ lệ này năm 2005 lại giảm 17.17% so với năm 2004, chỉ đạt 844.839 tỷ đồng. Tiền gửi có kỳ hạn cũng tương tự như tiền gửi không kỳ hạn. Năm 2006 đạt 5,639.569 tỷ đồng tăng 58.29% so với năm 2005. Năm 2005 đạt 3,562.746 tỷ đồng không giảm như tiền gửi không kỳ hạn, tăng 32.67% so với năm 2004.
Có được điều này là do các tổ chức kinh tế đã có sự thay đổi về hoạt động kinh doanh, đã đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, giảm lượng vốn đọng lại ở ngân hàng mà chuyển nó thành vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra các chính sách của ngân hàng cũng khuyến khích các doanh nghiệp tăng lượng gửi tiền có kỳ hạn bằng cách tăng lãi suất huy động có kỳ hạn lên cao, khiến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chuyển từ gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn nhiều hơn.
- Tiền gửi dân cư không có sự đột biến nào rõ ràng. Điều này thể hiện rất rõ qua tổng vốn huy động từ dân cư. Năm 2004 đạt 3,317.088 tỷ đồng, giảm 35.79% so với năm 2003. Năm 2005 đạt 3,048.831 tỷ đồng, giảm 8.09% so với năm 2004. Năm 2006 đạt 2,791.400 tỷ đồng giảm 8.44% so với năm 2005.
Các hoạt động thành phần bao gồm huy động tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu nhìn chung qua các năm đều giảm. Điều này thể hiện rõ việc dân cư ngày càng ít giữ tiền ở trong ngân hàng hơn so với các năm trước. Họ đem tiền vào kinh doanh và mong muốn số tiền của họ ngày càng nhiều hơn.
- Huy động vốn từ các loại huy động khác nhìn chung là biến động nhiều. Năm 2004 đạt 85.906 tỷ đồng giảm 81.75% so với năm 2003. Năm 2005 lại tăng 31.64%, đạt 113.084 tỷ đồng. Năm 2006 lại giảm 69.43% so với năm 2005, đạt 34.567 tỷ đồng.
2.1.2.2 Hoạt động cho vay
Nhìn chung ở hoạt động này không có sự biến đổi đáng kể về tổng doanh số cho vay. Năm 2004 đạt 4,224.050 tỷ đồng, tăng 5.71% so với năm 2003. Năm 2005 đạt 4,813.816 tỷ đồng, tăng 13.96% so với năm 2004. Năm 2006 đạt 5,000.752 tỷ đồng, tăng 3.88% so với năm 2005.
Sự đột biến duy nhất ở lĩnh vực này trong 3 năm này là xảy ra vào năm 2005, đối với hoạt động cho vay ngắn hạn, khi doanh số cho vay đạt 1,724.458 tỷ đồng tăng 101.50% so với năm 2004. Trong khi đó, năm 2004 chỉ đạt 855.911 tỷ đồng và chỉ tăng 29.64% so với năm 2003. Và năm 2006 đạt 1,959.934 tỷ đồng chỉ tăng 13.66% so với năm 2005.
Các hoạt động cho vay TDH TM, cho vay ĐTT, cho vay KHNN, cho vay ủy thác, cho vay ODA không có sự biến động nào đáng kể. Chỉ có hoạt động cho vay ủy thác năm 2004 đạt 387.754 tỷ đồng tăng nhẹ 3.79% so với năm 2003. Sang năm 2005 và 2006 thì doanh số này đều giảm tương ứng 21.12% so với năm 2004 và 13.02% so với năm 2005.
2.1.2.3 Các chỉ tiêu khác
- Thu dịch vụ ròng: năm 2004 đạt 24.502 tỷ đồng giảm 4.48% so với năm 2003. Năm 2005 đạt 25.600 tỷ đồng tăng 4.48% so với năm 2004. Năm 2006 tăng đột biến, gần gấp đôi so với năm 2005, đạt 49.512 tỷ đồng tương ứng 93.41% tăng.
Có được điều này là do năm 2006, SGD đã áp dụng rất nhiều chính sách đổi mới, tăng cường các dịch vụ của ngân hàng, như dịch vụ về thẻ ATM, thẻ tín dụng, dịch vụ chuyển tiền Weston Union… đã thu hút được rất nhiều khách hàng từ nhiều lĩnh vực bao gồm cả dân cư lẫn các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp.
- Lợi nhuận trước thuế: cũng giống với chỉ tiêu thu dịch vụ ròng, đến năm 2006 có sự tăng đột biến 97.37% so với năm 2005 đạt 184.858 tỷ đồng. Năm 2005 chỉ đạt 93.659 tỷ đồng tăng 11.69% so với năm 2004.
- Tổng tài sản: năm 2006 tăng 26.48% so với năm 2005, đạt 14,141.538 tỷ đồng. Trong khi năm 2005 và 2004 tổng tài sản của Ngân hàng thay đổi không đáng kể, tăng giảm rất ít. Cụ thể, năm 2004 đạt 10,950.980 tỷ đồng, giảm 5.31% so với năm 2003 và năm 2005 đạt 11,180.720 tỷ đồng, tăng 2.10% so với năm 2004.
2.2 Thực trạng hoạt động cho vay của SGD đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.2.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.2.1.1 Nguyên tắc vay vốn
Khách hàng vay vốn của SGD phải đảm bảo:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng chỉ cho vay để thực hiện kế hoạch và dự án sản xuất kinh doanh trong phạm vi chức năng nv ghe trong giấy phép hoạt động và quyết định thành lập của doanh nghiệp.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Để thực hiện được nguyên tắc này, việc tính toán xác định thời hạn phải tính đến chu kỳ sản xuất kinh doanh, lưu chuyển vốn của doanh nghiệp, nguồn thu của người vay.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và của Thông đốc NHNN. Đảm bảo tiền vay là thiết lập những cơ sở pháp lý để có them một nguồn thu thứ 2. Việc đánh giá bảo đảm tiền vay dựa vào các tiêu chuẩn của doanh nghiệp, người đi vay sau đây: Năng lực doanh nghiệp, nguồn vốn doanh nghiệp, tư các uy tín giám đốc, điều kiện và tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay.
2.2.1.2 Điều kiện vay vốn
Đối với các doanh nghiệp : phải có năng lực pháp luật dân sự, có tư cách pháp nhân, được phép thành lập theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, có trụ sở và con dấu riêng, có tài sản riêng thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý của doanh nghiệp, có giấy phép đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải được nhân danh tổ chức mình ký kết các hợp đồng kinh tế.
Đối với cá nhân đại diện tổ hợp tác, đại diện gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết. Sử dụng vốn vay theo đúng mục đích hợp pháp. Có dự án đầu tư, hoặc theo phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ.
Riêng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, ngoài những điều kiện trên còn phải đáp ứng một số điều kiện khác như: Vay vốn phải đảm bảo 100% bằng tài sản, không có nợ quá hạn, trả nợ đúng hạn và kết quả tài chính 2 năm liền có hiệu quả.
2.2.1.3 Đối tượng cho vay
- Giá trị vật tư hàng hóa, các chi phí để khách hàng thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Số tiền thuế xuất khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất cảnh đối với lô hàng mà ngân hàng đã cho vay để tạo thành hàng xuất khẩu.
- Các nhu cầu tài chính theo quy định của ngân hàng như:
+ Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng cho vay các yếu tố chi phí sản xuất cấu thành giá thành toàn bộ sản phẩm, bao gồm cả tiền thuê nhân công trừ (-) đi khấu hao TSCĐ.
+ Đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực lưu thông (thương nghiệp): đối tượng cho vay là hàng hóa theo giá mua.
+ Đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ, đối tượng cho vay là giá trị vật tư và chi phí để tiến hành các dịch vụ.
+ Cho vay tiêu dung: đối tượng cho vay là các tư liệu sinh hoạt.
2.2.1.4 Mức cho vay
Mức cho vay dựa trên 2 yếu tố chủ yếu:
- Nhu cầu vốn của khách hàng: dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh và các dự án kế hoạch tài chính của doanh nghiệp.
- Khả năng huy động vốn ngân hàng trong khuôn khổ mức cho vay tối đa đối với một khách hàng không thể vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ giữa vốn vay và vốn tự có của doanh nghiệp được xác định theo từng loại doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp Nhà nước: tối thiểu 100% vốn tự có.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: tùy thuộc mức độ uy tín mà các ngân hàng tự xác định cho khách hàng vay theo từng thời kỳ.
- Cá nhân, hộ dân cư: khách hàng phải có mức vốn tối thiểu cao hơn trong tổng nhu cầu vốn.
Giá trị tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo hoặc thế chấp được ngân hàng ấn định một tỷ lệ cho vay theo từng loại tài sản, từng thời kỳ tối đa cho vay bằng 70% giá trị tài sản thế chấp.
2.2.1.5 Lãi suất cho vay
- Mức lãi suất cho vay do SGD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNN Việt Nam.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất do Tổng giám đốc Ngân hàng thông báo theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do SGD ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
2.2.2 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay được áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống của BIDV và áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp. Quy trình này bao gồm bốn bước với nhiều giai đoạn:
* Bước 1: Phân tích trước khi cho vay
Đây là bước quan trọng nhất, là bước đưa ra các đánh giá,phân tích ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định có cho vay hay không, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Quá trình tiến hành phân tích trước khi cho vay trải qua các giai đoạn sau:
- Tiếp nhận hồ sơ vay vốn/ đánh giá thẩm định
Sơ đồ sau tóm tắt quy trình tiếp nhận vốn vay, quy trình đánh giá và thẩm định của BIDV với khách hàng doanh nghiệp:
Phỏng vấn
Đánh giá sơ bộ
Đạt yêu cầu
Kiểm tra lịch sử quan hệ TD
Đạt yêu cầu
Kiểm tra hồ sơ
Đạt yêu cầu
Chấp nhận hồ sơ
Chuyển sang quy trình thẩm định TD
Từ chối
Hoãn/yêu cầu thêm thông tin
Yêu cầu bổ sung thêm thông tin
Không đạt
Không đạt
Hỗ trợ KH hoàn thiện hồ sơ nếu cần thiết
Cung cấp mẫu hồ sơ
Trong giai đoạn ban đầu này cán bộ tín dụng sẽ tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng, cấu trúc hoạt động, vị thế kinh doanh của khách hàng, mục đích vay vốn của khách hàng. Sau quá trình thảo luận ban đầu giữa cán bộ tín dụng và khách hàng nếu thấy nhu cầu của khách hàng phù hợp với chiến lược của BIDV thì cán bộ tín dụng hướng dẫn nhân khách hàng về hoàn tất hồ sơ vay vốn.
- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng tiến hành tìm hiểu, phân tích khách hàng; thẩm định đánh gía khả năng tài chính, phân tích đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của khách hàng đồng thời thực hiện phân tích tình hình quan hệ của khách hàng với ngân hàng. Cán bộ tín dụng xem xét, kiểm tra, phân tích mức độ tin cậy của báo cáo tài chính và tiến hành phân tích tình hình tài chính của khách hàng theo các phụ lục, hướng dẫn cụ thể của BIDV. Mối quan hệ tín dụng giữa khách hàng với BIDV và các ngân hàng khác sẽ xem xét rất cẩn thận để đảm bảo tính an toàn của khoản cho vay.
- Phân tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh
Mục tiêu của công việc này là đư ra kết luận về tính khả thi hiệu quả về mặt tài chính của phương án, khả năng trả nợ, rủi ro có thể xảy ra…
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay
BIDV không coi đây là điều kiện duy nhất để quyết định cho vay, không phải phương tiện duy nhất để đảm bảo an toàn vốn. Cán bộ tín dụng sẽ xem xét một số nội dung sau: kiểm tra tình hình thực tế của tài sản đảm bảo; phân tích, thẩm định tài sản đảm bảo…
- Chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Cán bộ tín dụng chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV. Mức xếp hạng của BIDV gồm 10 mức AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D. Mức xếp hạng trên giảm dần từ khách hàng có mức xếp hạng cao nhất đến mưc xếp hạng cuối cùng dành cho những khách hàng mất khả năng trả nợ. Trên cơ sở xếp hạng tín dụng khách hàng BIDV sẽ đưa ra các chính sách phù hợp với các nhóm khách hàng như chính sách về lãi suất, tài sản đảm bảo, kỳ hạn thu nợ, tiếp thị khách hàng…
- Lập báo cáo thẩm định cho vay
Sau khi thảo luận với cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng sẽ trình tờ trình kèm sồ sơ vay vốn cho trưởng phòng tín dụng. Việc phân cấp ủy quyền phê duyệt tín dụng của BIDV được quy định rõ trong sổ tay tín dụng
- Phê duyệt khoản vay
- Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ, tài sản đảm bảo.
* Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Sau khi khoản vay được phê duyệt, người có thẩm quyền của ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng và các loại hợp đồng, giấy tờ liên quan. Trong hợp đồng tín dụng có xác định rõ các nội dung như: tên khách hàng, mục đích sử dụng vốn, số lượng tín dụng, lãi suất, phí, thời hạn…Đây là một cam kết xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên phù hợp quy định của pháp luật
* Bước 3: Giải ngân và kiểm soát tín dụng sau giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng tiến hành cấp tiền cho người vay. Người thực hiện giải ngân, chịu trách nhiệm xác nhận mỗi lần giải ngân là cán bộ tín dụng giải ngân thực hiện. Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng thực hiện việc hướng dẫn, đôn đốc người vay thực hiện đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, thực hiện đầy đủ và đúng hạn các cam kết.
* Bước 4: Thu nợ hặc đưa ra phán quyết tín dụng mới
Cán bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo từng hợp đồng tín dụng đã ký cho từng dự án bao gồm các nội dung: theo dõi trả nợ gốc, theo dõi trả nợ lãi, theo dõi trả phí đối với khoản vay có phí. Trường hợp phát sinh vấn đề như khách hàng không trả được nợ đúng kỳ hạn thỏa thuận và có văn bản đề nghị thì cán bộ tín dụng xem xét, đề xuất điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ; khi phát sinh nợ xấu thì toàn bộ khoản vay được chuyển nợ quá hạn và bàn giao sang bộ phận xử lý nợ xấu và chịu sự kiểm soát của ban quản lý tín dụng của BIDV.
2.2.3 Tình hình cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Để thấy được thực trạng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD một cách toàn diện cần xem xét tình hình tín dung đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo những mặt sau:
2.2.3.1 Doanh số cho vay
Để đánh giá thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trước hết ta cần phải xem xét đến doanh số cho vay của cả SGD với doanh số cho vay của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 1: Doanh số cho vay qua các năm của SGD
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
%05/04
Số tiền
%06/05
Doanh số cho vay
-DNNN
-DNNQD
4774
4276
498
5674
4923
751
19
15
51
5918
4713
1205
4.3
-4
60
Theo số liệu này, nếu năm 2005 tăng 19% so với năm 2004, thì năm 2006 chỉ tăng 4.3% so với năm 2005, tuy vậy doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2006 đã tăng 60% so với năm 2005.
Năm 2004 doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ là 498 tỷ đồng, chiếm 10% tổng doanh số cho vay. Đến năm 2005 doanh số cho vay là 751 tỷ đồng, tăng 253 tỷ đồng, tương ứng với tăng 51% so với năm 2004. Có thể thấy tổng doanh số cho vay năm 2005 tăng toàn diện: doanh số cho vay đối với DNNN tăng 15%, còn doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh 51%. Nguyên nhân chính này là khách hàng chủ yếu của SGD không chỉ là các Tổng công ty, mà bên cạnh đó do các chính sách của SGD đã kích thích các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn. Nhưng đến năm 2006 thì doanh số cho vay đối với DNNN giảm 4%, không đáng kể, nhưng doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh 60%. Cụ thể: Doanh số cho vay đối với DNNN đạt 4713 tỷ đồng, chiếm 80%, giảm 245 tỷ đồng tương ứng 4%; Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 1205 tỷ đồng, chiếm 20%, tăng 454 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2005. Điều này cho thấy, năm 2006 SGD đã có những thay đổi hợp lý, ngay cả từ năm 2005, doanh số cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh đều tăng mạnh. Điều này rất phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như chủ trương của NHĐT&PTVN.
Để xem xét doanh số cho vay của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ta nghiên cứu bảng sau:
Bảng 2: Doanh số cho vay DNNQD theo kỳ hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng số
-Ngắn hạn
-Trung và dài hạn
498
371
127
75.4
24.6
751
587
164
78.1
21.9
1205
953
252
79.1
20.9
Doanh số cho vay ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lơn hơn nhiều so với doanh số cho vay trung và dài hạn. Năm 2004 doanh số cho vay ngắn hạn là 371 tỷ đồng, chiếm 75.4% doanh số cho vay. Năm 2006 mặc dù so với năm 2005 tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn chỉ tăng từ 78.1% lên 79.1% nhưng doanh số cho vay tuyệt đối tăng mạnh từ 587 tỷ đồng lên 953 tỷ đồng. Trong khi đó doanh số cho vay trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ từ 20% đến 25%. Cụ thể năm 2004 là 24.6% nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 21.9% và năm 2006 còn 20.9%. Tổng doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh trong khi doanh số cho vay trung và dài hạn không tăng kịp thời tương ứng nen tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn giảm một cách tương ứng. Mặc dù tỷ trọng giảm nhưng doanh số cho vay trung và dài hạn cho các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn tăng qua các năm, năm 2004 là 127 tỷ, năm 2005 là 164 tỷ, năm 2006 là 252 tỷ đồng.
Để giải thích rõ thêm cơ cấu doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn luôn lớn hơn so với doanh số cho vay trung dài hạn, có thể xem xét mục đích vay vốn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh với đặc điểm là nguồn vốn nhỏ và hoạt động kinh doanh mang tính không ổn định do vậy thường có nhu cầu về vốn lưu động. Mục đích vay vốn của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động trong thời gian ngắn nên ỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường lớn.
Tuy nhiên, ,hiện nay các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có nhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn vì phần lớn các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô nhỏ, dây chuyền sản xuất lạc hậu nên để cạnh tranh phải đổi mới tran thiết bị máy móc. Vì vậy nhu cầu vốn trung và dài hạn cũng tăng cao, nhưng việc cho vay trung và dài hạn trong các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn vì thời gian vay vốn càng dài thì thời gian càng cao. Do đó Ngân hàng bắt buộc đòi hỏi từ phía người vay yêu cầu tài sản đảm bảo đối với khoản vay nhằm đảm bảo tính an toàn, trong khi các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp như yêu cầu về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên Ngân hàng có tâm lý dè dặt cho Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn trung và dài hạn. Chính vì thế nên trong cơ cấu doanh số cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn vẫn cao hơn nhiều so với doanh số cho vay trung và dài hạn.
2.2.3.2 Tình hình dư nợ
Trong những năm gần đây, tình hình dư nợ cũng có nhiều biến động giống doanh số cho vay. Cụ thể tình hình dư nợ giai đoạn 2004-2006 thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tình hình dư nợ theo thành phần kinh tế của SGD
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
%05/04
Số tiền
%06.05
Tổng dư nợ
-DNNN
-DNNQD
6183
5577
606
5260
4458
802
0.85
0.80
1.32
5057
4276
781
0.96
0.96
0.97
Tổng dư nợ qua các năm đều giảm nhưng đặc biệt là năm 2005 tổng dư nợ đạt 5260 tỷ đồn, giảm 923 tỷ đồng và chỉ bằng 0.85 lần so với năm 2004. Dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại đạt 802 tỷ đồng, tăng 196 tỷ đồng và tăng 32% so với năm 2004. Điều này chứng tỏ tổng dư nợ giảm là do dư nợ DNNN giảm. Đến năm 2006 theo bảng số liệu ta thấy tổng dư nợ và dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều giảm. Tỷ lệ dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh / tổng dư nợ đạt 15,44% tuy có tăng 0,19% so với năm 2005 thì vẫn không đạt kế hoạch. Nhưng thực tế đến ngày 30-11-2006 tỷ lệ này là 18% do trong tháng 12 SGD đã thực hiện giải ngân cho ngành Điện đã làm cho tỷ lệ này của năm 2006 giảm xuống chỉ còn 15,44 %.
Có được sự tăng lên về dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là do sự nỗ lực và cố gắng của cả Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cả SGD trong mục tiêu mở rộng sự cho vay đối với đối tượng này. Các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn về quy mô sản xuất và chất lượng hoạt động nên có thể được vay vốn nhiều hơn. Mặt khác các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng trưởng nhanh, hoạt động có hiệu quả hơn nên số lượng Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được cho vay ngày càng nhiều và quy mô dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên, tỷ trọng dư nợ cũng như dư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhưng vẫn còn nhỏ bé so với tổng dư nợ của SGD.
Việc tăng tỷ trọng dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chứng tỏ sự chuyển hướng trong đối tượng khách hàng của SGD. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh / tổng dư nợ qua các năm đều tăng nhưng vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ chung của toàn ngành. Để có thể thấy rõ hơn về cơ cấu dư nợ, ta xem xét bảng sau:
Bảng 4: Tình hình dư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Dư nợ
- Ngắn hạn
-Trung và dài hạn
606
465.4
140.6
802
599.1
220.9
781
556.8
224.2
Đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm chủ yếu, năm 2004 dư nợ ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 465.4 tỷ đồng chiếm 76.8% tổng dư nợ đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đến năm 2005 dư nợ ngắn hạn là 599.1 tỷ đồng chiếm 74.7% tổng dư nợ. Mặc dù tăng nhanh về giá trị tuyệt đối, nhưng do tổng dư nợ của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng theo nên tỷ trọng dư nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp này thay đổi cũng không nhiều. Đến năm 2006 dư nợ ngắn hạn đạt 556.8 tỷ đồng, chiếm 71.3% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các doanh nghiệp này thường xuyên vay vốn để bù đắp vốn lưu động, vì thế nhu cầu vốn ngắn hạn thường cao. Việc liên tục tăng qua các năm là dấu hiêu tốt cho hoạt động tín dụng đối với loại doanh nghiệp này.
Thực trạng của dư nợ trung và dài hạn cũng tương tự. Cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhưng trong những năm gần đây cho vay trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng tăng lên, điều này thể hiện sự chuyển dịch trong cơ cấu cho vay đối với các doanh nghiệp này.
2.2.3.3 Tình._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31951.doc