Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam

lờI Mở đầu Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường cùng với đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (DN V&N) đã hình thành và phát triển như một thực thể năng động của nền kinh tế với số lượng lớn (chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp, đóng góp đến 50% GDP), phạm vi hoạt động rộng khắp, đủ dạng ngành nghề, tạo phần lớn việc làm ch

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o người lao động. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của DN V&N đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, đặc điểm của DN V&N là vốn ít, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế nên khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật nhất. Vì vậy, các DN V&N hiện nay trông chờ chủ yếu vào nguồn vốn vay mà quan trọng nhất là từ các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước với tư cách là những người dẫn đạo trên thị trường Ngân hàng thường chỉ chú trọng cho vay đối với các đối tượng là doanh nghiệp lớn hoặc dự án lớn và dường như còn bỏ ngỏ thị trường cho vay các DN V&N, chỉ có một số ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện cho vay với đối tượng này. Các NHTM không muốn cho vay các DN V&N một phần vì cơ chế (vốn tự có ít, tài sản thế chấp không đảm bảo, tình hình tài chính doanh nghiệp khó khăn) và một phần do đầu tư cho vay các DN V&N rủi ro hơn các doanh nghiệp lớn, thêm vào đó Nhà nước lại chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ phù hợp đối với khu vực DN V&N. Tại Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 của Đảng khẳng định chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một bộ phận cứu cánh của kinh tế thị trường XHCN. Về phía các ngân hàng, muốn đứng vững và phát triển tất yếu phải tìm cách mở rộng tín dụng, không chỉ riêng khu vực kinh tế quốc doanh mà cần chú trọng cả kinh tế ngoài quốc doanh. Vấn đề đặt ra là giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là NHTM cần mở rộng thị trường cho vay và một bên là các DN V&N thiếu vốn mà không vay được. Riêng đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, một trong những biện pháp triển khai định hướng hoạt động trong thời gian tới là mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vừa và nhỏ. Từ thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn đối với DN V&N tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”, với mục tiêu chính là nghiên cứu tình hình cho vay trung dài hạn DN V&N của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT VN) và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này đối với Ngân hàng. Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung vào một số vấn đề sau: Nghiên cứu hoạt động tín dụng trung dài hạn của một NHTM Thực trạng hoạt động cho vay trung dài hạn của NHNT VN Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay trung dài hạn DN V&N Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Hoạt động cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trung dài hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Với những vấn đề được nghiên cứu, tôi hy vọng rằng các NHTM nói chung và NHNTVN nói riêng sẽ cải thiện và thúc đẩy hơn nữa hoạt động cho vay đối với khu vực DN V&N vì sự phát triển của chính Ngân hàng, cũng như góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Chương 1. Hoạt động tín dụng trung dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 1.1. hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Trong mọi thời kỳ, ngân hàng thương mại (NHTM) luôn là trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế. Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong việc khơi thông nguồn vốn đến những người vay tiền có cơ hội đầu tư sinh lợi. Đồng thời ngân hàng với các hoạt động của mình giúp cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng, hiệu quả. Có thể hiểu NHTM như là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, đồng thời có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư vào các lĩnh vực sinh lợi, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, làm phương tiện thanh toán v.v... Với đặc trưng là một trung gian tài chính, hoạt động chủ yếu của (NHTM) gồm có: Huy động vốn Để thực hiện chức năng của mình, NHTM cần có một số vốn nhất định. Vốn này có thể là vốn tự có của ngân hàng, nhưng vốn tự có thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, phần lớn là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế (từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội). Do đó huy động vốn là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, là mối quan tâm chính của mỗi ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới hai hình thức : Thứ nhất: Khách hàng gửi tiền xin mở tài khoản để hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, VD: thực hiện giao dịch thanh toán, phát hành các loại séc, sử dụng thẻ thanh toán, nhờ ngân hàng thu hộ chi hộ như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu... Số tiền gửi vào sẽ được ngân hàng sử dụng như một nguồn vốn cho hoạt động của ngân hàng. Thứ hai: Ngân hàng nhận tiền của khách hàng bằng việc mở cho khách hàng các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, hay tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức này chủ yếu để hưởng một tỷ lệ lãi suất trên số tiền gửi vào. Đối với ngân hàng, đây là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng vì tính tương đối ổn định của nó. Ngoài ra, ngân hàng có thể huy động vốn trên thị trường tiền tệ qua các con đường như vay từ Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác. Việc huy động vốn từ nguồn này tuỳ thuộc vào tình hình sử dụng vốn của ngân hàng trong từng thời điểm, từng giai đoạn. Nhìn chung để huy động vốn, ngân hàng phải bỏ ra các chi phí: chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay, chi phí giao dịch và chi phí liên quan khác. Để bù đắp chi phí, ngân hàng tiến hành hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động trung gian khác. Cho vay, đầu tư Cho vay là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi thu được từ hoạt động cho vay mới đủ bù đắp các chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra như chi phí huy động vốn, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí khác... Để thực hiện cho vay, ngân hàng có thể sử dụng một phần vốn tự có, nhưng chủ yếu vẫn là nguồn vốn huy động. Khi kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên đa dạng. Ngân hàng có thể cung ứng các khoản vay ngắn hạn hoặc trung dài hạn cho các đối tượng kinh tế khác nhau tuỳ theo mục đích và thời hạn sử dụng vốn vay. Ngoài hoạt động cho vay, ngân hàng có thể tham gia trực tiếp với tư cách là chủ đầu tư vào nhiều lĩnh vực kinh doanh trong nền kinh tế như góp vốn liên doanh, tham gia thị trường chứng khoán, thành lập công ty tài chính... Hoạt động đầu tư đang trở nên ngày một quan trọng đối với ngân hàng, giúp ngân hàng mở rộng thị trường và phạm vi kinh doanh. Thu nhập từ các hoạt động đầu tư cũng mang lại một phần lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng. 1.1.3- Các hoạt động trung gian Bên cạnh hoạt động truyền thống là nhận tiền gửi và cho vay, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ trung gian khác cũng không kém phần quan trọng như thanh toán, tư vấn tài chính, bảo lãnh, bảo quản vật có giá... Thu nhập của ngân hàng từ việc cung cấp các dịch vụ trung gian này là các khoản phí. Trước đây, do còn nhiều hạn chế (chính sách, trình độ, công nghệ...) nên hoạt động này chưa thực sự phát triển và thu nhập mang lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu của ngân hàng. Cho đến nay các dịch vụ trung gian của NHTM ngày càng được chú trọng, không ngừng được hoàn thiện và mở rộng. Các khách hàng khi có nhu cầu đều được ngân hàng đáp ứng một cách thuận tiện, nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn. Do vậy các NHTM đã thu hút được số lượng lớn và đa dạng đối tượng phục vụ và doanh thu của ngân hàng từ hoạt động này cũng tăng tương ứng. 1.2. Ngân hàng thương mại với hoạt động cho vay trung dài hạn các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.2.1.1 Quan niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DN V&N) Bước vào cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, sự gia tăng số lượng DN V&N có thể coi là một xu thế tất yếu và có tính quy luật. Mặc dù cho tới nay, quan niệm và tiêu chí đánh giá doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và còn phải được tiếp tục nghiên cứu. Nhưng có thể hiểu DN V&N như sau: “DN V&N là những cơ sở sản xuất kinh doanh với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận, có qui mô trong một giới hạn nhất định” Hầu hết các nước trên thế giới đều xác định qui mô doanh nghiệp theo tính ứng dụng với hai tiêu thức: Tổng số vốn kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp để phân biệt qui mô lớn với qui mô vừa và nhỏ. ở mỗi nước sự phân chia về số lượng lao động trong mỗi chỉ tiêu cũng không giống nhau và còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh. Ví dụ tại Phillippin, tiêu chí phân loại căn cứ vào tổng số vốn – doanh nghiệp nhỏ có số vốn dưới 15 triệu peso (tương đương với 375.000 USD), doanh nghiệp vừa có số vốn từ 15 triệu đến 60 triệu peso. ở Việt Nam tiêu chí phân loại được thực hiện theo Nghị định số 90/2001-NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ “DN V&N là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Dựa vào những tiêu thức này, DN V&N ở nước ta tồn tại trong tất cả các thành phần kinh tế, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và thuộc các hình thức sở hữu sau: DN nhà nước DN tư nhân Công ty cổ phần Công ty TNHH Công ty liên doanh HTX, hộ gia đình 1.2.1.2 Vai trò, đặc điểm của DN V&N trong nền kinh tế Việt Nam * Vai trò của DN V&N đối với nền kinh tế ở nền kinh tế nào, các DN V&N đều đã khẳng định được vai trò không thể thiếu của mình. Nhất là đối với Việt Nam, khi số lượng các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ngày càng đông đảo thì vai trò đối với nền kinh tế càng được bộc lộ rõ nét, thể hiện trên các khía cạnh sau: DN V&N góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế xã hội Khi các DN V&N hoạt động tích cực và hữu hiệu, nhiều doanh nghiệp sẽ tiến từ qui mô nhỏ lên qui mô vừa, tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự, làm cho hàng hoá rẻ hơn và dịch vụ tốt hơn cho người tiêu dùng. Đồng thời, từ đó phá vỡ một phần thế độc quyền của các doanh nghiệp lớn do các DN V&N có thể khai thác những kẽ hở thị trường hay phát hiện được nhu cầu thị trường và nhanh chóng đáp ứng. DN V&N tạo ra nhiều việc làm cho số lượng người lao động DN V&N là nơi tập trung và thu hút nhiều lao động với trình độ tay nghề đa dạng từ bậc thấp đến bậc cao. Khu vực này là nơi tiếp nhận một phần không nhỏ những người chưa có việc làm ở đô thị và lao động ở vùng nông thôn, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp đang là một sức ép lớn đối với nền kinh tế, đóng góp vào lợi ích của xã hội. DN V&N với vai trò phân bố quá trình phát triển công nghiệp rộng khắp về mặt địa lý DN V&N với ưu thế có thể tận dụng mọi nguồn lực sẵn có của các địa phương nên có vai trò quan trọng trong việc phân bố quá trình phát triển công nghiệp rộng khắp về mặt địa lý giữa các vùng với nhau cũng như trong nội vùng. Tuy nhiên các DN V&N chỉ là một trong các thành tố trong chiến lược phân bố công nghiệp theo địa bàn lãnh thổ. DN V&N với việc tiết kiệm vốn Tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, vốn là nguồn lực khan hiếm nghiêm trọng. Do vậy, yêu cầu tiết kiệm vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu. Trên con đường tiến lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, DN V&N có thể hoàn thành vai trò của mình với việc tiết kiệm vốn. Những DN V&N có những nhà máy nhỏ, có thời hạn hoạt động ngắn hơn những doanh nghiệp lớn có thể đưa vào hoạt động sớm hơn, không để xảy ra tình trạng máy móc thiết bị nhàn rỗi, hơn nữa có thể giảm các chi phí về lắp đặt sửa chữa so với những DN lớn. Ngoài ra, những DN V&N có thể sử dụng máy móc thiết bị không đồng bộ hoặc mua lại máy móc đã qua sử dụng nên có khả năng tiết kiệm vốn. DN V&N hỗ trợ các DN lớn nâng cao hiệu quả kinh tế Thực tiễn cho thấy một nền kinh tế công nghiệp sản xuất hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp qui mô nhỏ hơn. Mối liên hệ này thể hiện qua việc những doanh nghiệp lớn cung cấp nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc, công cụ cho DN V&N. Trong khi đó, các DN V&N tiếp nhận việc xây dựng cơ sở sản xuất và trang bị, cung cấp thiết bị chế tạo các bộ phận đơn giản hay chế tạo những thiết bị gài sẵn trong các sản phẩm công nghiệp (các phụ, linh kiện thay thế, sản phẩm cơ khí chính xác...), cung cấp các dịch vụ công nghiệp như lắp đặt, sửa chữa, bảo dưỡng và các dịch vụ khác cho DN lớn. Ngoài ra, các DN quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ có thể cùng nhau hợp tác sản xuất: các DN lớn sản xuất hàng tiêu dùng hay tư liệu sản xuất đến một công đoạn nào đó, các công đoạn còn lại thì dành cho DN V&N. DN V&N là môi trường phát triển các nhà kinh doanh và nhà quản trị Khi hoạt động tích cực và lành mạnh, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực DN V&N là phát triển nhân tố con người. Một khi nhà nước có những khung pháp chế hỗ trợ DN V&N phát triển một cách vững chắc, khu vực DN V&N sẽ là nơi đào tạo ra những nhà kinh doanh, nhà quản lý tài giỏi. Các chủ DN V&N sẽ trở thành những chủ doanh nghiệp hay nhà công nghiệp lớn và sẽ đảm đương những vị trí kinh tế quan trọng. Họ đã được đào tạo theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp, từ thủ công hay bán thủ công sang hiện đại, từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài. Do đó kinh nghiệm và kiến thức quản lý của họ là vốn quí cho sự phát triển của nền kinh tế. Do nhận thức được tầm quan trọng của các DN V&N nên Nghị quyết Trung ương khoá 10 đã nhấn mạnh: “DN V&N là loại hình rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và bước đầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy phải quan tâm tới mọi thuận lợi cho doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, khuyến khích kinh tế hộ gia đình phát triển”. Đây là một chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, do đó rất cần được sự phối hợp với các cơ quan quản lý để quán triệt nội dung này, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy và khuyến khích sự phát triển của các DN V&N. * Đặc điểm của DN V&N Sự phát triển các DN V&N trong thời gian qua cho thấy các DN V&N đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền kinh tế với những ưu thế cơ bản sau: DN V&N năng động, linh hoạt trước sự thay đổi của thị trường, có khả năng đáp ứng những nhu cầu nhỏ lẻ có tính khu vực, địa phương. DN V&N có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh theo nguyên tắc kết hợp chuyên môn hóa với đa dạng hoá trên cơ sở đổi mới công nghệ, tăng cường liên doanh liên kết làm cho sản xuất kinh doanh thích hợp với thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý gọn nhẹ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả lao động của doanh nghiệp. Khu vực DN V&N thu hút số lượng lớn người lao động trong đó cả những lao động có tay nghề cao và cả lao động phổ thông, tạo ra nhiều việc làm. Vốn đầu tư ban đầu của khu vực DN V&N thường ít nhưng hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh, hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. Tuy nhiên các DN V&N còn có nhiều hạn chế: Về vốn và tín dụng: Các DN V&N thực sự đang thiếu vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, các DN V&N vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính, thông thường từ bạn bè, người thân với mức lãi suất không chính thức gấp từ 3 đến 6 lần lãi suất ngân hàng. Một trong những nguyên nhân mà DN V&N khó có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác là do khó khăn về tài sản thế chấp. Hơn nữa, thủ tục tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức thường khá phức tạp dẫn đến chi phí giao dịch cao và tiêu tốn mất nhiều thời gian của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, các ngân hàng không muốn cho DN V&N vay vì mặc dù DN V&N vay những khoản không lớn nhưng mức độ phức tạp có thể cao hơn là cho DN lớn vay, nguyên nhân là do áp dụng cùng một thủ tục cho vay mà không phân biệt qui mô doanh nghiệp lớn hay nhỏ, hơn nữa không phải DN V&N nào cũng có tình hình tài chính tốt. Công nghệ: Phần lớn công nghệ mà các DN V&N sử dụng là lạc hậu. Lý do là vốn đầu tư cho các DN V&N rất thấp so với các DN có qui mô lớn. Hơn nữa, DN V&N được xác định với tiêu chí về vốn tương đối thấp. Các DN V&N rất khó có thể vay được một khoản tín dụng trung dài hạn cần thiết để nâng cấp công nghệ. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị bị đánh thuế với thuế suất cao trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn trừ. So với các DNNN (qui mô lớn), các DN V&N rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị quốc tế. Ví dụ một doanh nghiệp thuộc ngành giấy nhập khẩu được một dây chuyền sản xuất giấy tráng phấn đã qua sử dụng của nước ngoài có năm sản xuất của thiết bị từ đầu thập kỷ 60 (dây chuyền này nước ngoài bỏ đi không dùng nữa để thay thế dây chuyền mới), song vẫn có quyền tự hào là dây chuyền hiện đại so với Việt nam. Do thiếu thông tin về thị trường này, các DN V&N cũng khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến và nâng cao sức cạnh tranh. Sức cạnh tranh trên thị trường trong nước: Các DN V&N gặp khó khăn do những thủ tục và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc. Sản phẩm, dịch vụ của các DN V&N làm ăn chân chính luôn phải cạnh tranh với hàng giả, hàng nhái diễn ra một cách phổ biến. Cùng với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của DN V&N lại càng giảm trên thị trường nội địa. Tiếp cận thị trường thế giới: Sức cạnh tranh của DN V&N ở mức độ rất thấp. Những sản phẩm của DN V&N phải cạnh tranh với một số lượng lớn hàng hóa ngoại nhập có giá rẻ hơn. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là các doanh nghiệp không được tiếp cận nhiều với thị trường thế giới do những hạn chế về hoạt động thương mại. Ngoài ra chất lượng sản phẩm của các DN V&N thường thấp hơn so với hàng nhập khẩu vì trình độ kỹ thuật, kỹ năng quản lý kém do không được đào tạo và thiếu kinh nghiệm quản lý hiện đại. Thêm nữa, thông tin về thị trường quốc tế còn hạn chế dẫn đến sức cạnh tranh kém và bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Đấi đai: Đất đai cho hoạt động của DN V&N còn thiếu. Các DN V&N gặp nhiều khó khăn trong việc cấp quyền sử dụng đất hoặc khi thuê đất làm trụ sở và nhà máy. Sở dĩ có điều này là do thủ tục để được cấp quyền sử dụng đất không rõ ràng và thường không công nhận đối với các DN V&N. Đặc biệt trong trường hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua chuyển nhượng và cầm cố quyền sử dụng đất để ký quĩ vẫn chưa được chấp nhận. Trong những khó khăn nêu trên, thiếu vốn là nguyên nhân căn bản vì DN V&N hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế. Và khi thực lực kinh tế yếu thì khả năng vay vốn lại càng khó khăn. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn chưa tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. Trong đó cơ chế chính sách về tín dụng ngân hàng, kể cả những vấn đề cụ thể về nghiệp vụ ngân hàng còn đang cản trở cho việc vay vốn tín dụng của các DN V&N. Do vậy các DN V&N phát triển hoàn toàn chưa có định hướng và chưa được hỗ trợ nhiều từ phía nhà nước như các doanh nghiệp lớn khác. 1.2.2. Vấn đề mở rộng cho vay trung dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.2.1 Quan niệm về mở rộng cho vay trung dài hạn đối với DN V&N của NHTM Cho vay là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia. Bên nhận tiền hoặc tài sản sẽ cam kết hoàn trả trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó. ở nước ta, các NHTM cho vay chủ yếu dưới hình thức cho vay tiền. Cho vay tiền của ngân hàng là nghiệp vụ trong đó người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị tiền tệ nhất định, người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian và cam kết sẽ hoàn trả sau thời gian do hai bên thoả thuận (tuỳ thuộc vào thời hạn khoản vay). Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỉ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Căn cứ vào thời hạn vay, hoạt động cho vay được phân thành 3 loại: Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng SXKD, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dung nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Mở rộng tín dụng trung dài hạn có thể hiểu là sự đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhiều loại khách hàng về quy mô và các hình thức tín dụng trung dài hạn. Những khoản tín dụng trung dài hạn thường có qui mô lớn hơn và lãi suất cao hơn các khoản tín dụng ngắn hạn sẽ mang lại lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng ổn định trong một thời gian tương đối dài. Mở rộng qui mô tín dụng trung dài hạn cả về số lượng và chất lượng là hoạt động mang tính chiến lược của NHTM, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Khi Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng chính là ngân hàng đang tạo ra và duy trì khách hàng cho tương lai, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động và ngày càng khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế nói chung và thị trường tín dụng nói riêng. Bởi lẽ nếu ngân hàng không đa dạng hoá khoản vay, đa dạng hoá khách hàng thì sẽ không thể đứng vững trong cơ chế thị trường. Mặt khác, tín dụng trung dài hạn còn là động lực thúc đẩy các ngân hàng tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Ngoài những lợi ích từ việc mở rộng cho vay trung dài hạn nói chung, cho vay các DN V&N sẽ giúp ngân hàng san sẻ rủi ro, mở rộng thị trường theo chiều sâu, cho vay hiệu quả, tăng uy tín nhờ vào mối quan hệ rộng rãi với khách hàng. Hơn nữa, ngân hàng có thể đóng góp vào các lợi ích quốc gia thông qua việc mở rộng tín dụng trung dài hạn đối với DN V&N, từ đó góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy CNH-HĐH đất nước và mục tiêu tăng trưởng kinh tế. 1.2.2.2 Chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng cho vay trung dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Để đánh giá việc mở rộng cho vay trung dài hạn của các NHTM đối với các DN V&N, có thể dựa trên ba chỉ tiêu cơ bản là đối tượng cho vay, hình thức cho vay và doanh số cho vay. * Về đối tượng cho vay: Trước đây, các NHTM hoạt động theo kiểu ngân hàng chuyên doanh, nghĩa là từng ngân hàng chỉ cho vay theo từng lĩnh vực của mình, ví dụ như Ngân hàng Ngoại thương chỉ chú trọng cho vay các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, Ngân hàng Công thương tập trung vào cho vay các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong nước, Ngân hàng Đầu tư chỉ chuyên cho vay xây dựng cơ bản và Ngân hàng Nông nghiệp chỉ cho vay các hộ nông dân mà thôi. Từ khi đất nước thực hiện sự nghiệp đổi mới, các NHTM cũng chuyển dần sang hoạt động theo kiểu ngân hàng đa năng, mỗi ngân hàng đều cố gắng vươn hoạt động cho vay ra tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động. Ngoài những khách hàng truyền thống của mình, từng ngân hàng đều tích cực tiếp thị để giành thị phần cho vay trong các lĩnh vực mà trước đây là “sân chơi” của các ngân hàng bạn. Do vậy, giữa các ngân hàng ngày càng ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt để thu hút khách hàng thông qua việc hạ lãi suất tiền vay cũng như cung cấp cho khách hàng các dịch vụ với mức phí hấp dẫn, thủ tục đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng với thời gian nhanh nhất và đạt hiệu quả cao. * Về hình thức cho vay: Xét riêng về cho vay trung dài hạn, trước đây hình thức cho vay chủ yếu của các ngân hàng thương mại là cho vay theo dự án đầu tư. Khi doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư một dự án nào đó, doanh nghiệp lập dự án và mang đến ngân hàng để xem xét cho vay. Cán bộ ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đối với các nội dung liên quan, trong đó quan trọng nhất là thẩm định về mặt hiệu quả tài chính để xem xét tính khả thi của dự án, xem xét khả năng liệu ngân hàng cho vay có thu hồi được nợ gốc, nợ lãi và các loại phí đúng hạn hay không. Nếu dự án đạt được hiệu quả như mong muốn thì chủ đầu tư sẽ được ngân hàng cho vay vốn, tất nhiên là phải đảm bảo các điều kiện khác về năng lực tài chính của doanh nghiệp, vốn tự có tham gia vào dự án hoặc điều kiện về tài sản thế chấp, cầm cố... Tuy nhiên, trong điều kiện hoạt động kinh doanh hiện nay, ngoài hình thức cho vay chủ yếu này, các NHTM còn áp dụng nhiều loại hình cho vay trung dài hạn khác như cho vay tuần hoàn, cho vay dưới hình thức cho thuê tài chính. Mặt khác, xét về chủ thể tham gia cho vay, trước đây từng ngân hàng tự tham gia cho vay riêng lẻ với khách hàng của mình, song gần đây, các ngân hàng có sự liên kết với nhau và cùng tìm kiếm khách hàng và cùng hơph vốn để cho vay dưới hình thức cho vay đồng tài trợ. Việc cho vay đồng tài trợ sẽ giúp các NHTM có điều kiện nâng cao chất lượng thẩm định dự án và chia sẻ được rủi ro trong trường hợp xấu là không thu hồi được vốn đầu tư. * Chỉ tiêu về doanh số cho vay và tổng dư nợ: Một chỉ tiêu không kém phần quan trọng trong việc xem xét đánh giá về mở rộng cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh số cho vay. Nếu các NHTM dù có cố gắng đến đâu song không tăng được doanh số cho vay đối với loại hình khách hàng này thì không thể coi là mở rộng cho vay được. Do vậy, ngoài việc đa dạng hoá cho vay đối với các lĩnh vực ngành nghề khác nhau của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc áp dụng các hình thức cho vay ngoài hình thức cho vay truyền thống, các NHTM còn phải tìm cách tăng doanh số cho vay và dư nợ cho vay đối với loại hình khách hàng này nữa. Việc tăng doanh số cho vay đối với khách hàng cũng nhằm đạt mục đích cuối cùng là có số dư nợ ổn định và tăng liên tục nhằm mang lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng. 1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ * Về phía Ngân hàng Việc ngân hàng không có đầy đủ thông tin về khách hàng trước khi ra quyết định cho vay rất dễ xảy ra trong thực tế do nhiều lý do, trong đó có nguồn cung cấp thông tin bị hạn chế, tính trung thực của khách hàng, trình độ thẩm định của Ngân hàng. Thiếu thông tin thường gây ra hai vấn đề: sự lựa chọn đối nghịch trước khi giao dịch diễn ra và rủi ro đạo đức sau giao dịch. Sự lựa chọn đối nghịch về phía ngân hàng xảy ra khi ngân hàng không cho vay đối với những khách hàng có khả năng hoặc lại cho vay với các khách hàng có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Rủi ro đạo đức là những rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu do người đi vay có ý đồ thực hiện những hành vi, hoạt động không đúng mục đích ban đầu khi xin vay gây tổn thất cho Ngân hàng. Chất lượng thẩm định tín dụng: quá trình thẩm định tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng. Một quyết định đúng sẽ đem đến tính chắc chắn về khoản vay cho Ngân hàng, nhưng quyết định sai lại gây ra những tổn thất. Đối với những khoản vay trung dài hạn có thời gian tương đối dài, giá trị khoản vay lớn nên công tác thẩm định lại càng giữ vị trí quan trọng. Quá trình thẩm định sẽ cho biết nên hay không nên cho vay. Do vậy nó có vai trò quyết định đến việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Trong khi đó công tác thẩm định lại phụ thuộc nhiều vào trình độ của cán bộ tín dụng. Nếu trình độ của họ yếu sẽ ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Nguồn vốn cho vay: Việc cho vay của ngân hàng luôn bị giới hạn bởi khả năng cung ứng vốn. Nếu nguồn vốn của ngân hàng phong phú, dư thừa thì ngân hàng luôn mong muốn mở rộng cho vay, đồng thời có khả năng đáp ứng đa dạng nhu cầu của khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng ngược lại, năng lực về vốn của ngân hàng bị hạn chế tất yếu dẫn đến thu hẹp cho vay. Ngân hàng chỉ muốn duy trì các khách hàng truyền thống, chứ thực sự chưa thể mở rộng đối tượng đầu tư. * Về phía doanh nghiệp Năng lực tài chính: Một trong những chỉ tiêu quan trọng để quyết định việc ngân hàng có cho vay đối với doanh nghiệp hay không chính là khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp đó. Nếu doanh nghiệp ở trong tình trạng tài chính tốt (kinh doanh có lãi hay lãi thực dương, đủ khả năng thanh toán các khoản nợ, không có nợ xấu...), ngân hàng có thể dễ dàng chấp thuận cho doanh nghiệp vay. Ngược lại, ngân hàng sẽ khó có thể chấp thuận việc xin vay của khách hàng có tình hình tài chính xấu do lo sợ gặp phải rủi ro. Sự trung thực: Các ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ khách hàng về các yếu tố liên quan như khả năng tài chính, tính khả thi của dự án, năng lực kinh doanh... Tuy nhiên tính trung thực và trách nhiệm của khách hàng sau khi khoản vay được giải ngân có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của khoản vay trung dài hạn. Khách hàng có thể lợi dụng mối quan hệ với ngân hàng để chiếm đoạt vốn vay, hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích. Ngoài ra tình trạng hoạt động của doanh nghiệp cũng tác động đến hiệu quả sử dụng khoản vay thể hiện qua các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp và trình độ quản lý của ban lãnh đạo. * Những yếu tố khách quan khác - Môi trường kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế có tác động nhiều tới công tác tín dụng do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển ổn định, môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tín dụng của dân cư tăng lên là cơ hội tốt cho doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất và do đó nhu cầu tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Ngược lại trong giai đoạn kinh tế trì trệ, giảm phát, thất nghiệp cao, đầu tư không mang lại hiệu quả. Trong giai đoạn này, hầu như các hoạt động sản xuất đều bị thu hẹp, nhu cầu vốn cho đầu tư giảm mạnh. Tất nhiên ngân hàn._.g không thể mở rộng hoạt động cho vay của mình. Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh về cả sản phẩm cùng loại và khác loại, đối với các DN V&N có công nghệ lạc hậu, sản phẩm chưa đạt tiêu chuẩn về chất lượng, mẫu mã, kinh nghiệm quản lý yếu kém có thể dễ dàng bị đẩy ra khỏi thị trường. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc cho vay của ngân hàng do lo sợ về nguy cơ phá sản. - Môi trường pháp lý Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế thị trường là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ thì sẽ kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp. Do đó nó tác động trở lại tới việc cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này. Hiện nay qui chế pháp lý của Việt Nam còn rất nhiều bất cập như qui chế về tín dụng hay một số điều luật gây ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng khi cho vay với các đối tượng là các DN V&N. Tóm lại, chương 1 đã nêu lên nội dung khái quát về các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại cũng như NHTM với việc cho vay trung dài hạn các DN V&N. Qua đó, giúp chúng ta thấy được vai trò của DN V&N trong nền kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay trung dài hạn của NHTM đối với các doanh nghiệp này. Chương 2. Thực trạng mở rộng cho vay trung dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển Thành lập vào ngày 1- 4-1963 với tổ chức tiền thân là Cục quản lý Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, trải qua gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay NHNT VN đã được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thành viên Hiệp hội Ngân hàng Châu á. NHNT VN luôn được biết đến như là ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực tài trợ, thanh toán, xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh Ngân hàng, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế, kể cả nghiệp vụ thẻ tín dụng Visa, Mastercard... Trước năm 1990, NHNT VN là Ngân hàng của Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, kinh doanh đối ngoại của NHNN và cung ứng tín dụng cho các ngành kinh tế chủ chốt của đất nước theo qui định của NHNN. NHNT VN được coi là Ngân hàng duy nhất của Nhà nước thực hiện chức năng của một Ngân hàng đối ngoại. Với pháp lệnh Ngân hàng (5/1990) chuyển hệ thống Ngân hàng Việt Nam sang cơ chế hai cấp và Quyết định 286 QĐ-NH5 do thống đốc Ngân hàng ký thành lập lại NHNT VN theo mô hình Tổng công ty, đồng thời hành lang pháp lý ngày càng thích hợp và mở rộng các hoạt động Ngân hàng, đa dạng hoá các nghiệp vụ và giúp ngành ngân hàng có những đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế của đất nước, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Trên chặng đường gần 40 năm qua, NHNT VN đã đặt được những nền tảng quí báu. Đến nay, NHNT VN phát triển lớn mạnh rất nhiều, trở thành một hệ thống gồm 30 chi nhánh trong cả nước; 1 Công ty cho thuê tài chính và 1 Công ty Chứng khoán mang tên NHNT; NHNT VN còn vươn phạm vi hoạt động ra cả nước ngoài với 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở Hongkong, Singapore, Pháp và Nga. Với tổng số trên 2800 cán bộ có trình độ, năng động, nhiệt tình; đầu tư cổ phần vào 14 doanh nghiệp; 3 liên doanh với nước ngoài; 6 ngân hàng cổ phần; 2 công ty bảo hiểm; 3 công ty kinh doanh bất động sản. NHNT VN còn thiết lập quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng tại 85 nước trên thế giới, được nối mạng SWIFT quốc tế, được trang bị hệ thống vi tính hiện đại nhất trong các ngân hàng Việt Nam. Trước môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, mục tiêu của NHNT VN là duy trì được vai trò là một trong những NHTM hàng đầu của Việt Nam và trở thành một Ngân hàng quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới. Để thực hiện được mục tiêu đó, NHNT VN đã đề ra chính sách kinh doanh linh hoạt, tích cực, chú trọng công tác Marketing, đổi mới công nghệ nhằm cung cấp những dịch vụ tài chính ngân hàng chất lượng cao cho mọi thành phần kinh tế. Với mục tiêu cụ thể như vậy, NHNT VN sẽ giữ vững niềm tin của đông đảo bạn hàng trong và ngoài nước. 2.1.2 Khái quát hoạt động kinh doanh cơ bản của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây Trong vòng vài năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới có nhiều biến cố lớn như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 tại các quốc gia mạnh ở vùng Đông Nam á, cùng với sự suy giảm kinh tế của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ và Nhật Bản đã kéo theo sự suy giảm kinh tế của các nước trong khu vực Châu á. Sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu, sự cố máy tính Y2K, sự sáp nhập của các tập đoàn kinh tế trong hệ thống tài chính ngân hàng thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư nước ngoài, sản xuất tiêu thụ hàng hoá. Giá cả hầu hết các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam trên thị trường quốc tế liên tục giảm mạnh. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu bộc lộ những yếu kém đó là trình độ quản lý hạn chế, sức cạnh tranh thấp, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự lành mạnh. Những ảnh hưởng trên đã tác động không thuận lợi đến tình hình kinh doanh của NHNT VN từ huy động vốn, cân đối nguồn vốn đến hoạt động cho vay và các hoạt động dịch vụ khác của Ngân hàng. Tuy vậy, nhờ sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của các cấp quản lý và sự nỗ lực của NHNT VN nên các mặt hoạt động của Ngân hàng vẫn được duy trì tốt và ổn định qua các năm. Cụ thể như sau: 2.1.2.1 Huy động vốn Hoạt động cơ bản chủ yếu của Ngân hàng là huy động vốn để cho vay, do vậy kết quả huy động vốn của Ngân hàng là cơ sở để đánh giá tính hiệu quả của các chính sách huy động vốn, cơ cấu vốn huy động. Trong những năm qua, nguồn vốn huy động của NHNT VN vẫn tăng trưởng mạnh. Tình hình ổn định của đồng vốn thể hiện uy tín của NHNT VN và nỗ lực của Ngân hàng trong công tác này qua chính sách huy động vốn mềm dẻo và linh hoạt, cũng như Ngân hàng đã tạo được niềm tin với khách hàng, tạo ra nhiều thuận lợi về vốn cho Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt đối với hoạt động cho vay thông thường. Bảng 1: Chỉ tiêu nguồn vốn của NHNT VN năm 1999-2001 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số dư Tỷ trọng %/TNV Số dư Tỷ trọng %/TNV So sánh Số dư Tỷ trọng %/TNV So sánh Số dư Tỷ trọng %/TNV So sánh 1.TG của các TCKT 5859 23 8702 24,94 48,52 9515 17,92 9,34 15141 24,77 59,13 tr/đó :TG KKH 3617 14,20 4912 14,10 35,80 6127 11,54 24,74 7925 12,96 29,35 TG CKH 530 2,10 640 1,83 20,75 2493 4,70 289,5 5665 9,27 127,2 2. Tiết kiệm và kỳ phiếu 4664 18,31 6618 18,96 41,90 10157 19,13 53,47 12645 20,69 24,50 3.TG NHNN,KBNN 1504 5,96 2289 65,60 52,20 3915 7,37 71,03 5772 9,44 47,43 4.TG của các TCTD 2094 8,22 3284 94,11 56,83 4551 8,57 38,58 3286 5,38 72,20 5.Tổng vốn huy động 14121 55,45 20893 59,87 47,95 28138 53 34,67 36844 60,27 30,94 6. Vốn khác 11345 44,55 14001 40,13 23,41 24945 47 78,16 24284 39,73 97,35 7. Tổng nguồn vốn 25466 100 34894 100 37,02 53083 100 52,13 61128 100 15,16 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 1998-2001 của NHNTVN) Ghi chú: Tỷ trọng :%/tổng nguồn vốn So sánh : (+/-)% so với năm trước TCTD : bao gồm tiền gửi của các TCTD tại NHNT VN, tiền NHNT VN vay các TCTD Vốn khác : bao gồm quan hệ trong hệ thống, vốn các quỹ, kết quả kinh doanh, vốn kinh doanh ngoại tệ, vốn tài trợ UTĐT Tổng vốn huy động (5) = (1)+(2)+(3)+(4) Huy động vốn của NHNTVN hình thành từ 3 nguồn rõ rệt: Tiền gửi của các đơn vị và tổ chức kinh tế Tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu, trái phiếu Huy động vốn từ NHNN, KBNN và các tổ chức tín dụng khác * Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế là nguồn vốn quan trọng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Một phần nguồn vốn này được Ngân hàng sử dụng để cho vay đối với nền kinh tế, trong đó chủ yếu cho vay ngắn hạn và trung hạn. Tiền gửi của các đơn vị và tổ chức kinh tế tăng đều cả về VNĐ và ngoại tệ qua các năm 1999, 2000 và 2001. Đến 31/12/1999 vốn huy động từ các đơn vị và tổ chức kinh tế đạt 8.702 tỷ đồng tăng 49% so với cuối năm 1998 và chiếm 25% tổng nguồn vốn huy động. Tính đến 31/12/2001, vốn huy động đạt 15.141 tỷ đồng chiếm 42% tổng vốn huy động tại chỗ và bằng 25% tổng nguồn vốn, tỷ trọng này năm 2000 là 36,8%. Trong 2 năm 1998 và 1999, cơ cấu tiền gửi của các tổ chức kinh tế dường như không thay đổi thì đến hết năm 2001, cơ cấu tiền gửi đã có sự dịch chuyển. Nếu như năm 2000 tiền gửi có kỳ hạn qui ra đồng là 2.493 tỷ đồng chiếm 9% vốn huy động và 4,7% tổng nguồn vốn thì sang năm 2001 con số này là 5.665 tỷ đồng chiếm 15,4% và 9,3% tổng nguồn vốn. Sự dịch chuyển cơ cấu sang tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế phần nào phản ánh sự đình trệ của nền kinh tế, vì các tổ chức kinh tế có xu hướng gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng lãi suất tiền gửi. Riêng năm 2001, tiền gửi không kỳ hạn bằng ngoại tệ chỉ tăng 53 triệu USD (tăng khoảng 19%) so với năm trước, trong khi tiền gửi có kỳ hạn bằng ngoại tệ tăng lên 191 triệu USD (272%). Mặc dù lãi suất ngoại tệ của các loại kỳ hạn bằng ngoại tệ đều giảm (theo xu hướng chung của thị trường), nhưng tỷ giá vẫn tăng liên tục khiến cho doanh nghiệp gia tăng giữ ngoại tệ ở dạng tiền gửi có kỳ hạn để tránh rủi ro tỷ giá. Từ năm 2002, khả năng tỷ giá vẫn tiếp tục tăng nên xu hướng dịch chuyển cơ cấu tiền gửi từ không kỳ hạn sang có kỳ hạn là không thay đổi. Vốn huy động có sự thay đổi về cơ cấu kỳ hạn song chủ yếu vẫn là các khoản vốn huy động có thời hạn ngắn. Một khó khăn đặt ra cho ngân hàng là tình trạng vốn huy động dài hạn không đủ để đáp ứng các nhu cầu tín dụng trung dài hạn trong khi Ngân hàng đang có xu hướng mở rộng và đa dạng hoá khách hàng. * Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu Huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu của dân cư đến ngày 31/12/1999 đạt 6.618 tỷ đồng chiếm 31,68% tổng nguồn vốn huy động. Do tỷ giá ổn định ngay từ đầu năm 1999 nên tiền gửi tiết kiệm tăng đều và vững chắc bằng VNĐ và ngoại tệ. Sang năm 2000 con số này là 10.157 tỷ đồng, tăng so với năm trước là 3.539 tỷ đồng (53,5%). Trong đó năm 2001, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 8250 tỷ đồng chiếm 65%. Đây là tỷ trọng tương đối ổn định trong tổng nguồn vốn của NHNT VN trong vài năm gần đây. Nguồn vốn huy động bằng tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu là nguồn chủ yếu hình thành vốn để cho vay trung dài hạn của Ngân hàng. Việc duy trì ổn định nguồn vốn này tạo điều kiện thuận lợi cho NHNT mở rộng hoạt động cho vay trung dài hạn của mình. * Tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác (huy động từ thị trường 2) Tổng số vốn huy động trên thị trường 2 đến 31/12/1999 là 5.572 tỷ đồng, tăng 55% so với cuối năm 1998, năm 2001 là 9.053 tỷ đồng tăng 7,2% so với cuối năm 2000. Vốn của Ngân hàng huy động từ nguồn này tăng đều qua các năm. Riêng năm 1999 đã tăng mạnh so với năm 1998. Do sự biến động kinh tế của khu vực và thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam nên năm 2000, nguồn vốn này chỉ tăng nhẹ. Tiền gửi của NSNN có đặc điểm chung là ổn định để phục vụ cho các dự án quốc gia được kế hoạch trước. Tiền gửi của các TCTD tại NHNT tăng nhanh vào cuối năm một phần để dự phòng cho nhu cầu thanh toán cuối năm. Do đặc tính nguồn vốn của Ngân hàng là thường xuyên biến động nên tuỳ theo nhu cầu vốn để cho vay (cả ngắn hạn và trung dài hạn) của NHNT VN vào từng thời điểm mà Ngân hàng vẫn thường sử dụng nguồn vốn này cho mục đích kinh doanh của mình. 2.1.2.2 Công tác sử dụng vốn Bảng 2: Chi tiết sử dụng vốn từ 1998 - 2001 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng So sánh Số dư Tỷ trọng So sánh Số dư Tỷ trọng So sánh Tổng sử dụng vốn 25466 100 34894 100 37,02 53083 100 52,13 61128 100 15,16 Cho vay tr.tiếp nền k. tế 2853 11,2 2626 7,53 -7,96 3095 5,83 17,85 3881 6,35 25,39 - Cho vay UTĐT 251 0,99 237 0,68 -5,55 208 0,39 -12,2 168 0,27 -19,3 - Chiết khấu ch.từ có giá 10 0,04 6 0,02 -38,4 5 0,01 -25,1 7 0,01 45,68 - Cho vay thông thường 2573 10,1 2326 6,67 -9,54 2774 5,23 19,27 3457 5,66 24,61 - Góp vốn cho vay ĐTT _ 0 47 0,14 _ 40 0,08 -15,5 180 0,29 351,8 - Cho vay khác 19 0,08 9 0,03 -52,1 68 0,13 631,5 69 0,11 1,38 QH với TT LNH 15694 62,1 26874 77,02 68,53 42432 79,94 57,89 45767 74,87 7,86 - QH với NHNN 1334 5,24 1958 5,61 46,77 3144 5,92 60,57 3595 5,88 14,33 - Mua tín phiếu KBNN 869 3,41 1061 2,91 16,94 1166 2,2 14,74 1251 2,05 7,29 - CV TCTD nước ngoài 470 1,85 2147 6,15 356,9 2838 5,35 32,18 2765 4,52 -2,58 - CV TCTD trong nước 13272 52,1 21752 62,34 63,89 35284 66,47 62,21 38156 62,42 8,14 Góp vốn liêndoanh 403 1,58 486 1,39 20,55 521 0,98 7,21 525 0,86 0,84 Sử dụng vốn khác 6264 24,6 4909 14,07 -21,6 7035 13,25 43,32 10955 17,92 55,72 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 1998-2001 của NHNTVN) Ghi chú: Tỷ trọng: % So sánh : (+/-)% so với năm trước UTĐT: cho vay uỷ thác đầu tư Cho vay khác: CV thanh toán công nợ, CV do bảo lãnh, cho thuê tài chính Biểu đồ 1: Cơ cấu sử dụng vốn năm 2001 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 của NHNTVN) Đối với hoạt động cho vay thông thường, tổng dư nợ cho vay khách hàng của NHNTVN đến 31/12/1999 là 2.326 tỷ giảm 9,88% so với cuối năm 1998. Đến năm 2000 tăng lên 5,23% và năm 2001 tăng 5,66% so với năm 2000. Việc tăng dư nợ tín dụng thông thường trong hai năm liên tiếp 2000 - 2001 thể hiện hoạt động tín dụng của NHNT đã được cải tiến về nhiều mặt nên đảm bảo được chất lượng tốt. Công tác tiếp thị được tăng cường nên Ngân hàng đã thu hút được một số khách hàng mới. Đặc biệt từ năm 2001, Ngân hàng đã bắt đầu chú trọng cho vay đối với các đối tượng là DN V&N ngoài quốc doanh, nhưng hoạt động cho vay này khá mới mẻ nên Ngân hàng tỏ ra tương đối thận trọng. Biểu đồ 2: Cho vay trực tiếp nền kinh tế trong tổng nguồn vốn sử dụng từ 1998 - 2001 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 1998-2001 của NHNTVN) Ngoài các hoạt động cho vay thông thường, NHNT đã tăng cường hoạt động qua thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng lợi nhuận. Có thể thấy hoạt động qua thị trường liên ngân hàng của NHNT VN trong năm 2001 phát triển mạnh, chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt đến 75% cơ cấu sử dụng vốn. Cho vay uỷ thác cũng phát sinh qua các năm, hình thức cho vay này ngày càng giảm để thay thế bằng cho vay thương mại thông thường. Hoạt động cho vay khác của Ngân hàng gồm cho vay thanh toán công nợ, cho vay bảo lãnh, cho thuê tài chính năm 2000 và năm 2001đã tăng lên đáng kể so với năm 1998 và 1999 nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu sử dụng vốn do hoạt động này mang tính rủi ro cao nên Ngân hàng còn đang thận trọng khi cho vay. Trong đó cho thuê tài chính trả góp qui ra VNĐ năm 2001 là 21 tỷ do công ty thuê mua và đầu tư bàn giao sang Hội Sở NHNT và chủ yếu là nợ quá hạn. Trong năm 2001, Ngân hàng không mở rộng sử dụng vốn đối với nghiệp vụ này. 2.1.2.3 Các mặt hoạt động khác * Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu Doanh số thanh toán XNK năm 2001 của Sở Giao dịch NHNT VN ước đạt 3.026 triệu USD, tăng 476 triệu USD (17%) so với năm 2000, chiếm 34% doanh số thanh toán XNK của toàn hệ thống NHNT. So với mức tăng của năm 2000 thì mức tăng của năm 2001 có phần thấp hơn nhưng kết quả như vậy là tương đối khả quan. Trong năm 2001, doanh số thanh toán các mặt hàng xuất khẩu như thuỷ sản, gạo, dệt may đều tăng mạnh. Nhưng mặt hàng dầu thô giảm do suy thoái kinh tế toàn cầu và giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tục giảm dẫn đến doanh số thanh toán mặt hàng này qua NHNT giảm mạnh. Doanh số thanh toán nhập khẩu qua NHNT VN giảm nhẹ. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu được thanh toán qua NHNT là xăng dầu, máy móc thiết bị, sắt thép, hoá chất, xe máy...Doanh số thanh toán nhập khẩu giảm do giảm tới 60% doanh số thanh toán nhập khẩu bằng vay nợ so với năm 2000. * Phát hành và thanh toán thẻ Hoạt động thanh toán thẻ năm 2001 đã có những thành quả đáng khích lệ. Số lượng thẻ phát hành năm 2001 qua NHNT đạt hơn 5.000 thẻ (trong đó có hơn 2.000 thẻ Master và hơn 3.000 thẻ Visa), tăng 95% so với năm 2000. Số lượng thẻ phát hành trong năm 2001 tăng nhiều là do NHNT VN đã cải tiến công nghệ và chất lượng thẻ được nâng cao nên đã tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm. Doanh số sử dụng thẻ năm 2001 là 90 tỷ đồng. Hạn mức sử dụng thẻ tăng mạnh (hơn 80%), tuy nhiên khách hàng dùng thẻ để chi tiêu ở nước ngoài là chủ yếu, chiếm 75% hạn mức sử dụng thẻ. Từ tháng 7.2002, NHNT VN độc quyền kinh doanh thẻ Amex ở Việt nam. Đồng thời, từ tháng 5.2002 NHNT phát hành thẻ Vietcombank ATM, đến nay đã phát hành được trên 10.000 thẻ với doanh số thanh toán trên 30 tỷ đồng. * Kinh doanh ngoại tệ Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động tương đối đặc thù của NHNT VN ngay từ khi Ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động. Vì vậy NHNT VN đã có truyền thống trong lĩnh vực kinh doanh này. Mặc dù trong hai năm 2000 và 2001, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNT VN diễn ra trong tình hình về cơ bản là mất cân đối về cung cầu ngoại tệ, tỷ giá tăng liên tục, tốc độ kim ngạch xuất khẩu giảm cùng với việc kết hối ngoại tế đã ảnh hưởng đến doanh số mua bán ngoại tệ của Ngân hàng. Tuy năm 2001 doanh số mua bán ngoại tệ có giảm sút so với năm 2000, nhưng so với các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn thì doanh số mua bán của NHNT VN vẫn ở mức cao. Kết quả này đạt được là do Ngân hàng đã áp dụng các hình thức kinh doanh linh hoạt như hoán đổi, kỳ hạn, vừa mua bán giao ngay, vừa cho giữ lại tiền đồng với mức lãi suất hấp dẫn... 2.2. Thực trạng mở rộng cho vay trung dài hạn các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng ngoạI thương Việt nam 2.2.1. Khái quát tình hình cho vay của NHNT VN Doanh số cho vay của NHNT VN trong giai đoạn từ 1998 đến 2001 luôn đạt tốc độ tăng trưởng khá, trong đó dư nợ cho vay trung dài hạn của Ngân hàng luôn chiếm từ 30% đến 50% doanh số cho vay của Ngân hàng qua từng năm. Kết quả này cho thấy NHNT VN đang có xu hướng mở rộng cho vay trung dài hạn. Bảng 4: Dư nợ tín dụng tại NHNT VN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng A. Tổng dư nợ 2853 100% 2944 100% 3095 100% 3881 100% B. dư nợ theo thời gian - Dư nợ ngắn hạn 1229 43% 1169 45% 1419 46% 1404 36% tr/đó VNĐ 774 27% 616 23% 758 24% 973 25% Ngoại tệ (Qui VNĐ) 455 16% 553 21% 661 21% 431 11% - Dư nợ trung dài hạn 1624 57% 830 32% 998 32% 1763 45% tr/đó -VNĐ 34 1% 328 12% 229 7% 313 8% -Ngoại tệ (Qui VNĐ) 1590 56% 502 19% 769 25% 1450 37% - Nợ CXL, Nợ CVDBL, CTTC 627 24% 678 22% 714 18% C. Dư nợ theo VNđ & NT - Dư nợ VNĐ 808 28% 944 36% 987 32% 1569 40% - Dư nợ ngoại tệ 2045 72% 1682 64% 2108 68% 2309 60% (Nguồn: báo cáo thực hiện hoạt động tín dụng 1998-2001 của NHNT VN) Ghi chú: Nợ CXL: nợ chờ xử lý; Nợ CVDBL: nợ cho vay do bảo lãnh; CTTC: cho thuê tài chính Cho vay ngắn hạn gồm cả chiết khấu chứng từ có giá Cho vay dài hạn gồm cả CV UTĐT, CV đồng tài trợ Biểu đồ 3: So sánh dư nợ cho vay trung dài hạn và ngắn hạn của NHNT VN (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh năm 1998-2001 của NHNTVN) Nếu như năm 1998 dư nợ tín dụng trung dài hạn đạt 1.624 tỷ đồng, chiếm 57% tổng dư nợ cho vay và trong đó chủ yếu cho vay bằng ngoại tệ, thì đến năm 1999 cho vay trung dài hạn giảm xuống 830 tỷ đồng(chiếm 32% tổng dư nợ cho vay), chỉ bằng 41% của năm 1998. Có sự giảm sút nhiều như vậy trong tín dụng trung dài hạn của năm 1999 là do tình hình kinh tế xã hội năm 1999 bộc lộ nhiều khó khăn: tốc độ phát triển kinh tế bị chậm lại, thị trường kém sôi động, các doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm, đầu tư nước ngoài giảm sút, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng giảm... Về phía Ngân hàng, thủ tục cho vay còn quá cứng nhắc, lãi suất cho vay cao hơn các Ngân hàng khác và kém linh hoạt, việc tìm hiểu nhu cầu và tiếp xúc với khách hàng chưa thường xuyên, kịp thời, sự phối hợp giữa các phòng nghiệp vụ để giải quyết yêu cầu của khách hàng thiếu chặt chẽ, đồng bộ. Tuy vậy, dư nợ cho vay trung dài hạn của Ngân hàng năm 1999 là khả quan so với tình hình chung. Số hợp đồng được ký kết trong năm 1999 đã tăng lên. Phương thức cho vay đồng tài trợ là nét đặc trưng mới trong hoạt động cho vay năm 1999 với số hợp đồng được ký kết là 4, tổng số vốn các Ngân hàng tham gia cam kết cho vay trên 200 triệu USD. Trong số các khoản cho vay đồng tài trợ có thể kể đến hai khoản cho vay lớn NHNT đứng ra làm đầu mối dàn xếp thành công: đồng tài trợ 100 triệu USD cho Tổng công ty dầu khí Việt Nam (3 NHTM quốc doanh tham gia), đồng tài trợ 100 triệu USD cho Tổng công ty điện lực Việt Nam (8 NHTM tham gia), số Ngân hàng đăng ký tham gia thể hiện uy tín của NHNT trên thị trường. Năm 2000, dư nợ cho vay trung dài hạn của NHNT mặc dù đã tăng lên 168 tỷ đồng so với năm 1999 nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn. Đến năm 2001, doanh số cho vay trung dài hạn đã tăng vọt, đạt đến mức 1.793 tỷ, cao hơn cả năm 1998 (1.624 tỷ đồng) và chiếm 45% trong tổng dư nợ. Năm 2001 việc cho vay trung dài hạn có nhiều thuận lợi hơn trước do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đầu tư nước ngoài tăng theo xu hướng tích cực và cơ chế cho vay của Ngân hàng đã thông thoáng hơn. Tuy nhiên dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng mạnh chủ yếu từ tín dụng ngoại tệ do nhiều dự án của Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Bưu chính viễn thông... đã ký từ năm 2000 nhưng đến năm 2001 mới giải ngân. Các khách hàng có dư nợ lớn vẫn là các Tổng công ty lớn của Nhà nước như Tổng công ty Dầu khí, Bưu chính Viễn thông, Cụm cảng hàng không miền Bắc, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Vietcombank Tower. Trong năm 2001 Tổng công ty Hàng hải trở lại quan hệ tín dụng với NHNT VN sau một thời gian ngắt quãng, ngoài ra còn thu hút được một số khách hàng mới thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như Công ty Xi măng Chinfon, cty TNHH Việt Thắng. Đây là bước đầu trong việc đa dạng hoá khách hàng. Cơ cấu cho vay theo tiền đồng và ngoại tệ trong vài năm qua của NHNT đã có sự thay đổi. Nếu năm 1998 doanh số cho vay trung dài hạn bằng VNĐ chỉ chiếm 1% trong tổng dư nợ cho vay, thì đến năm 1999 con số này tăng lên 12%, năm 2000 chiếm 7% trong tổng dư nợ cho vay quy ĐVN và năm 2001 là 8%. Sự thay đổi này cho thấy Ngân hàng đã dần dần dịch chuyển cơ cấu cho vay sang cho vay bằng đồng nội tệ để tăng tính cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. Nguyên nhân khác là năm 2000, lãi suất cho vay VNĐ và ngoại tệ có xu hướng cân bằng, đồng nội tệ có chiều hướng mất giá so với các ngoại tệ mạnh nên nhiều doanh nghiệp chuyển sang vay trung dài hạn bằng đồng nội tệ, thậm chí một số doanh nghiệp có dư nợ vay ngoại tệ xin chuyển sang nhận nợ bằng ĐVN để tránh rủi ro tỷ giá. Nếu không có biện pháp điều chuyển cơ cấu huy động vốn thì NHNT VN có thể gặp khó khăn về nguồn vốn VNĐ để cho vay trung dài hạn. Đánh giá hoạt động cho vay trung dài hạn của NHNT VN * Những kết quả đạt được Trong vài năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế biến động và chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động cho vay trung dài hạn của NHNT VN vẫn đạt được những thành tựu nhất định, thể hiện qua: - Tốc độ tăng trưởng dư nợ trung dài hạn ở mức khá. Cơ cấu tín dụng đã thay đổi theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung hạn và dài hạn, đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, đầu tư chiều sâu. Đồng thời NHNT VN vẫn giữ được khách hàng truyền thống và thu hút thêm một số lượng lớn các Tổng công ty, các doanh nghiệp lớn... - Công tác huy động vốn nhất là nguồn vốn trung dài hạn đạt kết quả tốt, đáp ứng phần nào nhu cầu vốn ngày càng tăng của khách hàng. Nếu như năm 1998 tổng vốn huy động để cho vay trung dài hạn của NHNT VN đạt 4.664 tỷ đồng thì sang năm 2001 con số này tăng lên 12.545 tỷ đồng (tăng gần gấp 3 lần), thể hiện uy tín của Ngân hàng trên thị trường huy động vốn. - NHNT VN đã đổi mới và nâng cao chất lượng công nghệ Ngân hàng, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý trong hoạt động tín dụng, chất lượng quản lý được nâng lên và phục vụ khách hàng theo hướng hiện đại, văn minh, thuận tiện. Tính cho đến nay, công nghệ của NHNT VN được coi là tốt nhất trong các NHTM quốc doanh của Việt Nam. - Ngân hàng đã tăng cường khâu giám sát khách hàng trước và sau khi cho vay, cùng với việc thực hiện nghiêm túc qui trình cho vay theo quy định của NHNN, cũng như những quy định do Ngân hàng đề ra, đã làm cho chất lượng tín dụng trung dài hạn được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ nợ quá hạn của các khoản vay từ năm 1998 đến 2001 đều giảm thấp. - Chính sách tín dụng trung dài hạn của NHNT VN đã có những bước cải tiến phù hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế như duy trì tốt quan hệ với các khách hàng truyền thống, chú trọng đến việc cho vay DN V&N - Cán bộ tín dụng của Ngân hàng đều có trình độ chuyên môn cao với đa số là đạt trình độ đại học và trên đại học, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. * Những tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHNT VN còn gặp không ít khó khăn, cụ thể là: - Về cơ cấu khách hàng: qua diễn biến tình hình cho vay từ 1997 đến 2001 cho thấy, NHNT VN mới chỉ chú trọng đến cho vay đối với các khách hàng là các doanh nghiệp lớn trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước và các dự án có vốn đầu tư lớn. Những doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó tiếp cận với vốn Ngân hàng. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn của NHNT VN với đối tượng DN V&N qua từng năm hầu như rất nhỏ so với dư nợ trung dài hạn. Ngân hàng mới chỉ chú trọng cho vay DN V&N từ cuối năm 2000 trở lại đây. Tuy nhiên việc cho vay còn hết sức dè dặt do NHNT VN chịu sự ràng buộc về quy định pháp lý cũng như thông tin về khách hàng hạn chế và bị động. Hơn nữa, những khó khăn từ bản thân các doanh nghiệp cũng có những tác động tiêu cực. Nhìn chung, đội ngũ khách hàng trong nước của NHNT VN còn hạn chế về số lượng, tính đa dạng trong lĩnh vực hoạt động và hình thức sở hữu... do vậy chưa phân tán được rủi ro trong hoạt động, nhất là xu hướng cần đẩy mạnh hoạt động trong nước hiện nay. Lượng khách hàng quan hệ với NHNT VN còn quá mỏng, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, dệt may. - Những qui định pháp lý, cơ chế cho vay còn quá cứng nhắc như qui định của NHNN về hạn mức cho vay (không được cho vay một đối tượng khách hàng vượt quá 15% vốn tự có) trong khi vốn tự có của Ngân hàng lại nhỏ, khiến việc cho vay với những khách hàng có nhu cầu lớn gặp khó khăn. Bên cạnh đó, qui trình tín dụng nghiêm ngặt cộng với qui định chặt chẽ về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đã hạn chế nhiều đến việc mở rộng tín dụng trung dài hạn của NHNT VN và đa dạng hoá khách hàng. - Công tác Marketing Ngân hàng chưa được chú trọng cần thiết, chưa đáp ứng được yêu cầu cho vay của Ngân hàng. Kết quả là NHNT VN đã bỏ đi nhiều cơ hội kinh doanh thuận lợi, bỏ qua nhiều đối tượng khách hàng, điều này có tác động không tốt đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. 2.2.2 Thực trạng mở rộng cho vay trung dài hạn DN V&N 2.2.2.1 Đánh giá về thị trường cho vay DN V&N ở Việt Nam Đối với nền kinh tế Việt Nam, DN V&N đang giữ vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Đặc biệt DN V&N là nhân tố chủ chốt cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp - ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia. Hiện nay, DN V&N chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó các DN V&N thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 33,6%; 65,9% trong các hợp tác xã và liên hiệp HTX; trong các công ty TNHH thì DN V&N chiếm 94,6%, con số này trong các DN tư nhân là 99,4% và trong các DNNN là 65,9%. Gần 100% DN hoạt động ở lĩnh vực nông thôn là các DN V&N. Nếu xét hiệu quả hoạt động, khu vực DN V&N quốc doanh chiếm khoảng 5% GDP cả nước; các DN V&N nói chung chiếm 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá, sản xuất gần 100% sản lượng công nghiệp của nhiều loại hàng hoá tiêu dùng, tạo ra gần 8 triệu công ăn việc làm trong 36 triệu lao động của cả nước. DN V&N đóng góp vào sự sôi động của nền kinh tế và nhờ vậy quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục. Vị trí của DN V&N đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng. Như đã nói ở phần đặc điểm của DN V&N Việt Nam, vướng mắc chính của các DN V&N hiện nay là công nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất xuống cấp nghiêm trọng, hàng hoá kém sức cạnh tranh... Yêu cầu đặt lên hàng đầu đối với các doanh nghiệp là vốn trung dài hạn để cải tạo cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị đã quá cũ kỹ cũng như nhu cầu vốn cho xây dựng mới nhà xưởng, mở rộng hoạt động sản xuất. Nhưng nhu cầu vốn của doanh nghiệp hầu như chưa được đáp ứng. Nguyên nhân là phần lớn các DN V&N chưa thể tiếp cận được vốn vay từ các NHTM và các tổ chức tín dụng. Các NHTM đều rất ngại cho các DN V&N vay vì hầu hết các DN V&N đều không đủ tiêu chuẩn để được vay trong đó chủ yếu là thiếu hoặc không có tài sản thế chấp. Mặt khác, tình hình “co cụm, phòng thủ” của các NHTM sau hàng loạt các vụ án kinh tế lớn liên quan đến các giới chức Ngân hàng như vụ Tamexco, Epco, Minh Phụng... , các Ngân hàng cho vay thận trọng hơn, chặt chẽ hơn, thậm chí một số Ngân hàng cho vay cầm chừng đủ trả chi phí hoạt động để đảm bảo an toàn. Các DN V&N đã khó vay vốn lại càng khó khăn hơn. Tóm lại, nhu cầu vốn của các DN V&N là rất lớn thể hiện qua số lượng đông đảo các DN V&N trong nền kinh tế và tình hình vốn của mỗi doanh nghiệp. Thị trường cho vay các DN V&N là khá mới mẻ, đầy hứa hẹn, mà NHN._.m gay gắt hơn những khó khăn vốn có của xuất khẩu nước ta. Trong bối cảnh như vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta trong năm 2001 chỉ đạt khoảng 4,5% so với 16% mục tiêu kế hoạch. Mặc dù khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng so với năm 2000 nhưng trị giá xuất khẩu không tăng hoặc tăng không tương xứng do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm mạnh như cà phê giảm 28,2%, hạt điều giảm 58,9%, gạo giảm 9,6%... Do đó năm 2002, Ngân hàng Ngoại thương dự báo xuất khẩu của Việt Nam giảm hơn so với năm 2001. Là Ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực thanh toán và tài trợ xuất khẩu, sự sụt giảm xuất khẩu chắc chắn có tác động không thuận lợi đến hoạt động tín dụng của NHNT VN trong năm 2002. * Lãi suất trên thị trường quốc tế liên tục giảm Trong năm 2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục hạ lãi suất 11 lần. Dự đoán xu hướng giảm lãi suất có thể còn tiếp tục trong năm 2002 tới mức thấp hơn 1,5%/năm. Xét trên góc độ người cho vay việc giảm lãi suất quốc tế là một nhân tố thuận lợi. Với tốc độ phát triển kinh tế dự kiến đạt 7,5%, các nhà đầu tư trong nước có thể chấp nhận mức lãi suất vay cao hơn 3-4% nên NHNT có điều kiện tốt để thu hút khách hàng vay mới. * Xuất hiện nhân tố thuận lợi đối với các DNV&N và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tình hình chính trị và trật tự xã hội tại Việt Nam hiện đang được đánh giá là có độ an toàn cao nhất trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục qua các năm, đảm bảo các điều kiện làm ăn yên ổn lâu dài. Chính vì vậy, rất có khả năng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển dịch vùng đầu tư từ các nước kém an toàn hơn như Philippin, Malaysia, Indonesia, ấn Độ...sang Việt Nam. Tiến trình hội nhập quốc tế thông qua việc trở thành thành viên chính thức của các tổ chức AFTA, WTO và ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho các DNV&N, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày. *Nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao trong năm 2002 Căn cứ vào những biến động thực tế trong năm 2001, Chính Phủ đã điều chỉnh các mục tiêu phấn đấu trong năm 2002 tuy giảm xuống so với kế hoạch ban đầu song vẫn khá hơn so với các nước trong khu vực: tăng trưởng GDP 7,5%, sản xuất công nghiệp tăng 13,5%, nông nghiệp 4,5%, dịch vụ 7,5%, xuất khẩu 14%, lạm phát ở mức 3-4%. Đây chính là cơ sở để khẳng định điều kiện hoạt động kinh doanh của NHNT VN tiếp tục có triển vọng trong thời gian tới. * Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi Dự đoán từ năm 2002, thành phần kinh tế tư nhân sẽ dần dần chiếm tỷ trọng cao hơn, nguyên nhân là: Đảng và Chính phủ ngày càng khẳng định chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư nhân. Luật doanh nghiệp ra đời từ 1/1/2000 đã tạo ra môi trường và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Quyết tâm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá DNNN của Chính phủ. Chủ trương tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng giao dịch với nhóm doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong thời gian tới. * Chủ trương nâng cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của các NHTM trong đầu tư cho vay. Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, từ năm 2002 hàng loạt các quyết định về cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của các NHTM sẽ được thay thế một cách căn bản theo hướng tự quyết định và tự chịu trách nhiệm. Như vậy định hướng đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá danh mục đầu tư của NHNT có điều kiện tốt để triển khai. * Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn Để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước, các ngành công nghiệp mũi nhọn như dầu khí, điện lực, viễn thông... đều đang triển khai các dự án lớn. Nhu cầu vốn của mỗi ngành tăng lên hàng tỷ USD. Do môi trường kinh doanh được cải thiện nên thành phần kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỏ ra yên tâm hơn trong đầu tư. Vì thế nhu cầu vay vốn sẽ tăng lên nhanh chóng. * Mức độ cạnh tranh cho vay giữa cácNHTM ngày càng trở lên gay gắt Mặc dù nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn song nhìn chung do tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa thực sự lành mạnh, phát triển sản xuất kinh doanh chưa ổn định, năng lực quản lý còn yếu kém... vì vậy các dự án và phương án khả thi và hiệu quả không nhiều. Trong khi đó số vốn huy động của các Ngân hàng chưa thể cho vay ngay được nên xuất hiện tình trạng cạnh tranh gay gắt, thậm chí đôi khi còn thiếu lành mạnh giữa các NHTM. 3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng t rong những năm tới của NHNTVN * Đổi mới công tác quản lý tín dụng Nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng tại NHNT theo hướng vừa mở rộng tăng trưởng vừa đảm bảo hiệu quả an toàn, công tác quản lý tín dụng trong thời gian tới cần được đổi mới tích cực trên các mặt sau : Chú trọng quản lý rủi ro: theo hướng này, công tác đánh giá và dự báo rủi ro theo ngành hàng, theo khu vực, theo chất lượng hoạt động tín dụng tại từng chi nhánh và theo từng khách hàng, nhóm khách hàng cần được tiến hành thường xuyên . Định kỳ có báo cáo xếp hạng nhằm đảm bảo tính an toàn cao nhất. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát Nâng cấp chất lượng thông tin theo hướng mang tính cảnh báo trước, vừa đầy đủ, kịp thời, chính xác hơn . * Ưu tiên lựa chọn cán bộ tín dụng vừa đủ năng lực chuyên môn, vừa nhiệt tình tâm huyết với nghề nghiệp, vừa có kỹ năng ứng xử trong giao tiếp. * Một số hướng triển khai cụ thể: Tiếp tục tham gia đồng tài trợ đối với một số dự án thuộc lĩnh vực dầu khí, điện lực, viễn thông... nhằm đảm bảo một mức dư nợ cao và ổn định lâu dài Giữ vững thị phần đầu tư đối với ngành thuỷ sản và gạo Mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vừa và nhỏ. Danh mục khách hàng của NHNT khá đơn điệu, chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn và vừa thuộc thành phần kinh tế quốc doanh. Muốn thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, NHNT cần đón bắt xu hướng tăng dần tỷ trọng của nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng thể các thành phần kinh tế. Ngay từ bây giờ, NHNT cần mạnh dạn mở rộng cho vay đối với đối tượng này trên cơ sở có chọn lọc, thận trọng và tiến dần từng bước một. Phấn đấu trong năm 2002, dư nợ cho vay với nhóm đối tượng này thêm khoảng 300 tỷ VNĐ. Mở rộng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hầu hết các tỉnh và thành phố hiện nay đều hình thành các khu công nghiệp và khu chế xuất. Thông thường, các khu công nghiệp và chế xuất này đều nằm xa thành phố, thị xã nên xa địa bàn hoạt động của NHNT VN. Tuy nhiên do số lượng các doanh nghiệp trong mỗi khu công nghiệp thường từ 30 đến 50 và là những doanh nghiệp sản xuất hoặc vừa sản xuất vừa kinh doanh . Vì vậy việc NHNT chiếm lĩnh đối tượng khách hàng ở khu vực này bằng cách mở thêm các phòng giao dịch hoặc chi nhánh tại khu công nghiệp là hết sức cần thiết. Trong đó chú trọng nhóm khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.2. Một số giải pháp mở rộng cho vay trung dài hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHNT VN 3.2.1 Giải pháp trực tiếp 3.2.1.1 Xây dựng cơ chế cho vay phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay khi cho vay các doanh nghiệp, Ngân hàng áp dụng cùng một cơ chế cho vay, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào. Việc này gây bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm số lượng lớn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) muốn xin vay ngân hàng, chưa thực sự tạo ra công bằng trong cho vay với nhóm khách hàng này. Để mở rộng cho vay với các đối tượng là DN V&N, cần đổi mới cơ chế cho vay của ngân hàng theo những hướng sau: * Thành lập quỹ riêng để cho vay DN V&N và có cơ chế xử lý rủi ro thích hợp Việc thành lập một quỹ dành riêng để cho vay như vậy sẽ tạo được nguồn vốn ổn định , chủ động đáp ứng nhu cầu của DN V&N, đồng thời giúp cán bộ bộ tín dụng yên tâm hơn khi cho vay đối với DN V&N. Thực tế là NHNT có chủ trương lập quỹ để cho vay DN V&N, quỹ này đã tỏ ra khá hiệu quả và chủ động đối với Ngân hàng khi cho vay DN V&N. * Cải tiến điều kiện vay vốn Tài sản thế chấp luôn là một vấn đề nan giải đối với các DN V&N khi muốn vay vốn Ngân hàng. Để khơi thông vốn vay cho các doanh nghiệp, Ngân hàng phải có những chính sách giải quyết phù hợp. Thực tế cho thấy tài sản thế chấp những năm qua không phải là vật đảm bảo tiền vay phù hợp và duy nhất mà phải là tính khả thi của dự án. Vì vậy, Ngân hàng nên cho vay dựa vào thực trạng của doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án, coi trọng thông tin kinh tế và kế toán tài chính, tức là cho vay dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp. Trong trường hợp, Ngân hàng thấy doanh nghiệp cần thiết phải có tài sản bảo đảm thì nên phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp như sau: Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì doanh nghiệp phải thực hiện đảm bảo nợ vay theo yêu cầu. Định giá tài sản thế chấp của doanh nghiệp cần theo giá thị trường để đảm bảo công bằng cho cả phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì cho phép dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo cho phần nợ vay còn lại. Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện hai dạng trên thì Ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua hội đồng tín dụng để quyết định đầu tư hay không, mức cho vay là bao nhiêu. Tuy nhiên, để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, Ngân hàng cần quy định mức vốn tự có của doanh nghiệp trong mỗi dự án (thông thường từ 30-40% tổng vốn đầu tư). * Thời hạn cho vay Các DN V&N có nhu cầu về vốn tín dụng trung dài hạn lớn do phải thay đổi công nghệ, thiết bị nhiều, nên Ngân hàng cần xác định thời hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị, Ngân hàng không nên gò ép về thời gian cho vay theo chủ quan sẽ dẫn tới áp lực về tài chính cho doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp trước đây do thiếu vốn nên đã sử dụng vốn lưu động để mua thiết bị, xây dựng cơ bản mà chưa có nguồn bù đắp thì nên tiếp tục cho phép họ được vay vốn trung dài hạn nhằm tháo gỡ khó khăn, tuy nhiên phải hết sức thận trọng và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi cho vay với những doanh nghiệp loại này. 3.2.1.2 Nâng cao chất lượng thẩm định dự án Thẩm định dự án là bước quan trọng trong công tác tín dụng của Ngân hàng để quyết định liệu Ngân hàng có cho vay hay không. Để phù hợp với đặc điểm của các DN V&N và đảm bảo an toàn các khoản cho vay của Ngân hàng, quy trình thẩm định cần tiến hành một cách chặt chẽ, đầy đủ, đúng đắn, khách quan, nhưng vẫn đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng. Để làm được như vậy, Ngân hàng cần tiến hành: Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thông tin Chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng nguồn thông tin thu thập được. Muốn như vậy, Ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin nội bộ có chất lượng cao bằng cách thiết lập mối liên hệ chặt chẽ về thông tin giữa NHNT VN với các chi nhánh và phòng giao dịch. Những thông tin liên quan đến dự án, thẩm định dự án phải được nhanh chóng cung cấp, đảm bảo kịp thời & thông suốt trong toàn hệ thống. Định kỳ các chi nhánh sẽ tiến hành báo cáo cho bộ phận thông tin của NHNT VN để bộ phận này tập hợp thành một ngân hàng dữ liệu chung thống nhất. Bên cạnh đó, phòng Thông tin tín dụng, phòng Thẩm định dự án nên cử ít nhất một cán bộ chuyên trách việc thu thập, xử lý và truyền tin cho các bộ phận khác. Ngoài ra Ngân hàng cần đa dạng hoá nguồn thông tin bằng việc lấy thông tin từ nhiều nguồn: Thông tin trực tiếp do người đi vay cung cấp như các báo cáo tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, luận chứng kinh tế kỹ thuật... Nhưng để đảm bảo thông tin cung cấp phù hợp, Ngân hàng cần tư vấn cho các DN V&N về tuân thủ các quy trình và nguyên tắc tài chính kế toán. Ngân hàng có thể tìm hiểu về khách hàng thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn, quan sát và tìm hiểu trực tiếp tại địa điểm sản xuất kinh doanh của đối tượng thẩm định. Nguồn thông tin này rất quan trọng, nó phản ánh ý thức và thái độ của người vay, điều kiện, năng lực sản xuất cụ thể của doanh nghiệp vay vốn. Thông tin từ trung tâm tín dụng (CIC) của NHNN. Đây là trung tâm đầu mối thu thập thông tin tín dụng liên quan đến khách hàng của các NHTM. Trung tâm này là một bộ phận trực thuộc Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước (NHNN), do đó có nhiều lợi thế trong việc thu thập thông tin. Tuy nhiên hạn chế của trung tâm CIC là mới chỉ cung cấp các thông tin liên quan đến tình hình dư nợ và nợ quá hạn của các doanh nghiệp tại các NHTM, các thông tin về thị trường, kinh tế xã hội... đều không có. Thông tin lấy từ bạn hàng của chủ đầu tư, các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành nghề, cùng địa phương qua đó xác định uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý và các đầu mối cung cấp thông tin quan trọng như Tổng cục Thống kê, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Uỷ ban vật giá Chính phủ, các tổ chức hiệp hội ngành nghề để tạo nguồn thông tin không chỉ về tín dụng mà còn cả thông tin thị trường. Thứ hai: Củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ tín dụng Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những vấn đề có tính quyết định đến chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc vào chất lượng các công việc từ hoạch định chính sách đến việc thẩm định dự án, xét duyệt, cho vay, thu nợ, trong đó con người là chủ thể của mọi hoạt động. Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp và cũng là người đầu tiên tiếp xúc với chủ dự án và dự án. Do vậy để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, Ngân hàng cần xây dựng, đào tạo và phát triển một đội ngũ cán bộ tín dụng đủ về số lượng, tinh về chất lượng theo những yêu cầu đạt được những tiêu chuẩn nhất định về trình độ kiến thức, kinh nghiệm, năng lực làm việc và phẩm chất đạo đức. Trong đó mỗi cán bộ tín dụng phải nắm chắc quy trình nghiệp vụ, nhạy bén trong phân tích để có những quyết định đúng đắn. Kinh nghiệm, tư cách đạo đức, tính trung thực của mỗi cán bộ tín dụng Ngân hàng là những tiêu chuẩn hết sức cần thiết. Để đạt được những yêu cầu trên, Ngân hàng cần tập trung vào những công việc sau: Tuyển dụng cán bộ: Ngân hàng nên chú trọng tuyển dụng các cán bộ có trình độ chuyên môn, hiểu biết về tài chính Ngân hàng tốt, tư duy nhạy bén, sáng tạo, ưu tiên với những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định. Đồng thời Ngân hàng có chính sách thu hút các chuyên gia, các cán bộ thẩm định giỏi về làm việc. Đào tạo cán bộ: Ngân hàng phải thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo nghiệp vụ, nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt chú trọng về khả năng thẩm định và phân tích. Các lớp đào tạo bồi dưỡng có thể trực tiếp do các cán bộ thẩm định có trình độ, kinh nghiệm của Ngân hàng giảng dạy, hoặc thuê các chuyên gia trong và ngoài nước đến giảng dạy. Ngân hàng nên bố trí cho cán bộ đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng khác trong và ngoài nước. Bố trí cán bộ: Ngân hàng cần căn cứ vào tính chất phức tạp, độ quan trọng của dự án, năng lực của mỗi cán bộ để phân công cán bộ thẩm định và phụ trách các dự án phù hợp với trình độ và sở trường của mỗi người. Hơn nữa, Ngân hàng cần tiến hành xem xét và rà soát lại toàn bộ đội ngũ cán bộ thẩm định. Đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những người không đáp ứng được yêu cầu của công việc, chú ý sắp xếp các cán bộ có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao và ý thức vươn lên trong công việc vào những vị trí quan trọng. Thứ ba: Nâng cấp công nghệ Với thực trạng và điều kiện của Ngân hàng hiện nay, việc có một hệ thống công nghệ hiện đại là một giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Để thực hiện được, Ngân hàng cần trang bị cho bộ phận thẩm định đầy đủ các phương tiện làm việc tuỳ theo tính chất công việc để có thể truy cập và xử lý một số lượng thông tin lớn, áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại. Tuy nhiên đầu tư nâng cấp công nghệ phải tuân thủ yêu cầu tiết kiệm, chống lãng phí. Với những biện pháp như vậy, chất lượng công tác thẩm định dự án và khách hàng sẽ được nâng lên một bước. Một khi kết quả thẩm định có chất lượng, có thể tin cậy được thì tin chắc là cán bộ tín dụng sẽ vững tâm và mạnh dạn hơn trong việc quyết định cho vay đặc biệt với đối tượng khách hàng là DN V&N mà họ vốn e ngại. 3.2.1.3 Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn Vai trò và vị thế của các DN V&N ngày càng được khẳng định là rất quan trọng đối với nền kinh tế, vì vậy Ngân hàng cần xác định các DN V&N là những khách hàng quan tâm chủ yếu của Ngân hàng bên cạnh các khách hàng truyền thống. Để làm được điều đó, chiến lược khách hàng của Ngân hàng cần được chuẩn bị tốt với mục đích tạo dựng uy tín của Ngân hàng đối với mỗi khách hàng. Trong công tác này, Ngân hàng cần xác định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng là sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng và ngược lại để thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án hiệu quả. Xây dựng hình ảnh một Ngân hàng luôn gần gũi và hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội. Đồng thời có chính sách lãi suất hợp lý với mỗi khách hàng, ưu đãi về lãi suất và mức vay với các doanh nghiệp có uy tín, lãi 2 năm liền kề, tình hình tài chính được kiểm toán...Ngoài ra, Ngân hàng cần sâu sát với tình hình của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho việc cung ứng vốn, hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Có như vậy tín dụng Ngân hàng mới thực sự tăng trưởng an toàn và ổn định 3.2.2 Một số biện pháp hỗ trợ 3.2.2.1 Huy động vốn trung dài hạn Hiện nay nguồn vốn của NHNT VN để đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn của các DN V&N chưa được đảm bảo. Khả năng của Ngân hàng mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu. Vốn trung dài hạn của Ngân hàng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ bé so với tổng nguồn vốn huy động. Do vậy để mở rộng vốn trung dài hạn, NHNT cần tiến hành Tăng cường phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn. Với công cụ huy động vốn này cần tạo ra thị trường thứ cấp để tăng tính lỏng của các công cụ đó. Ví dụ, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên tham gia niêm yết trái phiếu trên thị trường chứng khoán, đây là một biện pháp hữu hiệu để có một số lượng lớn nguồn vốn ổn định từ nền kinh tế , tạo ra lượng vốn đáng kể để cho vay trung dài hạn. Ngân hàng nên mở thêm chi nhánh và các phòng giao dịch chứ không chỉ tập trung ở một vài địa điểm như hiện nay. Việc này sẽ giúp Ngân hàng có thể thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, đồng thời tiếp cận với các DN V&N được dễ dàng. 3.2.2.2 Tham gia tích cực vào quỹ bảo lãnh tín dụng Mới đây Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DN V&N đã chính thức ra đời. Đây là bước đột phá của Nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển khu vực DN V&N. Tuy nhiên Quỹ mới đi vào hoạt động nên chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều khó khăn. Về phía NHNT để thực hiện chiến lược mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hiệu quả, an toàn, tham gia tích cực và đóng góp vào sự phát triển của Quỹ, cùng Quỹ tháo gỡ khó khăn nhằm tạo điều kiện cho Quỹ hoạt động tốt và hiệu quả. Làm được như vậy, NHNT đã đóng góp vào việc mở rộng cho vay đối với các đối tượng là các DN V&N. 3.3. Kiến nghị 3.3.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước Đến nay, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò to lớn của các DN V&N đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, và đã có một số biện pháp để khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực này. Tuy nhiên để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước phải là thành viên tích cực và quan trọng hơn trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng đến các DN V&N, cũng như các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng nguồn vốn của Ngân hàng. Muốn vậy, chính sách của Nhà nước đề ra phải phù hợp với tình hình chung của các doanh nghiệp và Ngân hàng, trong đó cần được thay đổi và bổ sung như sau: 3.3.1.1 Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DN V&N Nghị định 90/2001 NĐ - CP của Chính phủ là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN V&N. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này cần có một chiến lược lâu dài, ổn định với những biện pháp cụ thể hơn. Do vậy, chiến lược này cần khẳng định và nêu bật được vai trò của các DN V&N trong nền kinh tế Việt Nam, đưa ra những hướng ưu tiên phát triển khu vực này theo ngành, vùng lãnh thổ, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Có biện pháp khuyến khích đối với một số đối tượng là DN V&N sản xuất các sản phẩm thuộc ngành nghề truyền thống (mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, dệt thủ công...) và các sản phẩm tiêu dùng thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời có biện pháp định hướng về công nghệ, thị trường... cho doanh nghiệp. 3.3.1.2 Chính sách tài chính - tín dụng Một trong những khó khăn trực tiếp tác động đến việc mở rộng cho vay vốn trung dài hạn của Ngân hàng đối với DN V&N là chính sách tài chính - tín dụng. Chính sách này thực sự còn bất cập, chưa thông thoáng, chưa tạo điều kiện pháp lý để doanh nghiệp được vay vốn Ngân hàng. Chính sách tài chính tín dụng cần được thay đổi như sau: Một là, thành lập các quĩ hỗ trợ về vốn từ các nguồn Ngân sách trung ương và địa phương. Thu hút sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp lớn và Ngân hàng để giúp đỡ DN V&N có triển vọng kinh doanh hiệu quả, sản xuất mới, đào tạo tay nghề. Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DN V&N trên nguyên tắc vừa đảm bảo an toàn cho vốn của Ngân hàng, vừa đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách thuận tiện và nhanh chóng. Cơ chế tín dụng thay đổi tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp hoặc vốn tự có đủ để tham gia dự án xin vay vẫn được phép vay vốn Ngân hàng nhưng cần có quy định rõ ràng tránh việc gây khó khăn cho cả hai bên, hoặc thay đổi thủ tục vay vốn theo hướng đơn giản hoá, cho phép Ngân hàng được tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động kinh doanh như cho vay, huy động vốn. 3.3.1.3 Chính sách Công nghệ Nhà nước cần có chủ trương biện pháp định hướng công nghệ cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận các thông tin về công nghệ trên thị trường trong và ngoài nước. Mặt khác, Nhà nước thúc đẩy việc tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp bằng cách cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo hướng đơn giản hoá. Các thủ tục đăng ký kinh doanh hợp lý cho phép nhiều DN V&N gia nhập thị trường. Điều này sẽ tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các DN V&N, tạo cơ hội cho các DN V&N có khả năng đầu tư, cải tiến công nghệ. Đồng thời Nhà nước hỗ trợ đào tạo những nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của DN V&N. 3.3.1.4 Chính sách thương mại Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các DN V&N tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc đẩy mạnh sản xuất như xoá bỏ hạn ngạch đối với những mặt hàng mà Nhà nước không cần quản lý và thay thế bằng thuế XNK, bảo hộ sản xuất trong nước. Hỗ trợ các DN V&N thông tin thị trường, giá cả hàng hoá, trợ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Các địa phương trợ giúp việc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm có tiềm năng của các DN V&N. Chính phủ có biện pháp để giúp các doanh nghiệp tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng ngân sách Nhà nước. Các Bộ, các ngành và địa phương ưu tiên đặt mua hàng cho các DN V&N sản xuất hàng hoá và dịch vụ bảo đảm chất lượng. 3.3.1.5 Chính sách đất đai Đất đai và các công trình xây dựng là những yếu tố không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp, gồm cả các DN V&N. Nếu doanh nghiệp không được quyền sử dụng, sở hữu hoặc hoặc thuê đất đai và công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn thì hoạt động sản xuất kinh doanh không thể ổn định. Do vậy Nhà nước nên giải quyết một số vấn đề liên quan đến chính sách đất đai theo hướng mở rộng quyền giao đất, cấp đất cho chính quyền địa phương, tiến hành cho thuê hoặc đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể, thực hiện chính sách cho thuê đất bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế để sử dụng vào mục đích kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển DN V&N, trong đó đặc biệt chú trọng đến hệ thống giao thông vận tải, năng lượng, thông tin liên lạc và các dịch vụ khác 3.3.1.6 Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ các nhà doanh nghiệp Hiện nay đội ngũ quản lý các nhà DN V&N thiếu cả về chất lẫn lượng. Vì vậy đào tạo các nhà quản lý doanh nghiệp là cần thiết và quan trọng. Nhà nước phải có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ các DN V&N ở tỉnh, thành phố để lập các trung tâm đào tạo, cung cấp trang thiết bị và đội ngũ giảng viên cho trung tâm. Mặt khác, lực lượng lao động hiện đang làm việc trong các DN V&N đa số là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, vì vậy đào tạo lại đội ngũ này là vấn đề cần lưu tâm. Kinh phí đào tạo do các doanh nghiệp tự trang trải. Các doanh nghiệp có thể được hỗ trợ một phần chi phí đào tạo từ Chính phủ, chính quyền địa phương hoặc sự đóng góp của các cá nhân, sự tài trợ của các tổ chức quốc tế. 3.3.2. Kiến nghị với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.3.2.1 Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về qui trình cho vay Một trong những khó khăn của NHNT khi cho vay các DN V&N là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về qui trình cho vay còn nhiều hạn chế, nên không đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng, gây ra sự chậm chễ, mất nhiều thời gian cho cả phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Việc hiểu biết về qui trình cho vay sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng được dự án có tính khả thi, cung cấp đầy đủ thông tin Ngân hàng yêu cầu, thực hiện quản lý tài chính chặt chẽ, tạo sự tin tưởng đối với Ngân hàng thông qua quá trình hoạt động và quan hệ vay trả. Đồng thời rút ngắn thời gian xin vay, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Do vậy, các DN V&N cần trang bị kiến thức, kinh nghiệm, phương thức, kỹ năng, thủ tục và quy trình thực hiện các khâu trong quá trình cho vay. 3.3.2.2 DN V&N cần chấp hành nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê Hiện nay, việc thực hiện công tác kế toán ở doanh nghiệp vẫn bị các DN V&N xem nhẹ, báo cáo tài chính nộp lên Ngân hàng sơ sài, không đạt yêu cầu. Hoặc những báo cáo tài chính thiếu minh bạch, trung thực và đúng đắn. Do vậy để đảm bảo thuận lợi cho phía Ngân hàng trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay, các doanh nghiệp cần thiết phải chấp hành đúng, đủ yêu cầu của pháp lệnh kế toán thống kê mà nhà nước ban hành. 3.3.2. Các DN V&N nên khai thác tốt các nguồn lực vốn có Để khơi thông nguồn vốn từ Ngân hàng đến doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần khai thác tối đa vốn tự có của mình cho các phương án sản xuất kinh doanh với yêu cầu tiêt kiệm, sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, có hiệu quả. DN V&N nên có chính sách thu hút, động viên, khai thác tối đa nguồn lực từ đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp, chú trọng đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần cho người lao động. Kết luận Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Có thể nhìn nhận lợi ích của việc gia tăng cho vay nhất là cho vay trung dài hạn đối với ngân hàng và các DN V&N rất lớn. Nó góp phần đa dạng hoá khách hàng và đa dạng hoá danh mục đầu tư của ngân hàng, chia sẻ rủi ro, tăng lợi nhuận, đồng thời hỗ trợ các DN V&N đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả. Ngoài ra, đối với ngân hàng cho vay DN V&N là thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn có thể khai thác hiệu quả vì nhu cầu vay của các doanh nghiệp rất lớn. Vậy nên, mở rộng cho vay trong đó cho vay trung dài hạn đối với nhóm khách hàng này là vấn đề cần được nhanh chóng thực hiện đối với mỗi ngân hàng trong cơ chế thị trường. Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại NHNT VN, tôi nhận thấy Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong việc đa dạng hoá khách hàng cho vay trung dài hạn, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng là các DN V&N. Tuy nhiên hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng còn gặp quá nhiều khó khăn từ cả nhiều phía: Ngân hàng, doanh nghiệp, môi trường pháp lý. Để tháo gỡ những khó khăn này cần sự phối hợp đồng bộ giữa Ngân hàng, doanh nghiệp, các cơ quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Có như vậy tín dụng ngân hàng mới đạt hiệu quả cao, kích thích các doanh nghiệp phát triển và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tôi mong rằng những giải pháp và kiến nghị được nghiên cứu và trình bày ở trên, có thể phần nào giải quyết được yêu cầu cải thiện tình hình cho vay trung dài hạn đối với DN V&N tại NHNT VN. Đồng thời vì sự phát triển chung của Ngân hàng trong các hoạt động tài chính - tín dụng trong nước và quốc tế, cũng như của nền kinh tế quốc gia, đưa đất nước tiến nhanh theo con đường CNH-HĐH, hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và thế giới./. tài liệu tham khảo Frederic Miskin - Sách Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1999 Stephen. A. Rose - Sách Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài Chính, 2001 Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao, Học viện Ngân hàng. Giáo trình Tài trợ dự án, Học viện Ngân hàng. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNT VN các năm 1998, 1999, 2000, 2001 Báo cáo nghiên cứu về thúc đẩy cho vay DN V&N của NHNT VN Quy trình thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn của NHNT VN Các website của NHNT VN, Vietnam economy Luật NHNN và Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam Quí Hào - “Bảo lãnh tín dụng cho các DN V&N”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 105/2000 Thạc sĩ Ngô Gia Lưu - “Tín dụng NHTM QD đối với doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Phân tích Kinh tế, số 74/2000 Đào Tấn Nguyên - “Một số giải pháp hỗ trợ tài chính, tín dụng các DN V&N ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 7/1999 Nguyễn Đào Sơn - Lê Minh Toàn - “Phát triển DN V&N ở Việt Nam”, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, số 4/2002 Thạc sĩ Nguyễn Mỹ Trinh - “DN V&N ở nước ta, tiềm năng và hạn chế”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 114/2000 GS, TS Hồ Văn Vĩnh - “Tín dụng Ngân hàng với DN V&N”, Tạp chí Ngân hàng, số 1+2/1998. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28781.doc
Tài liệu liên quan