Giải pháp mở rộng cho vay, gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Yên Châu
Lời Nói Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực có tính nhạy cảm cao, ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế xã hội. Ngân hàng là trung tâm phân phối vốn cho nền kinh tế, đóng vai trò thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ những người tạm thời thừa vốn và đem cho những người hiện tại đang có nhu cầu về vốn vay.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho kinh doanh
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay, gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Yên Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và tiêu dùng càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của NHTM. Như vậy ngân hàng một mặt phải tìm kiếm khai thác khách hàng để mở rộng quy mô hoạt động tín dụng đồng thời cần xây dựng các chính sách đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro tín dụng.
Qua thời gian nghiên cứu học tập cùng với quá trình công tác tại chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Yên Châu - Tỉnh Sơn La, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cho vay đối với Ngân hàng, tôi quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo &PTNT Huyện Yên Châu" làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận
Nghiên cứu lý luận về tín dụng để có cái nhìn khái quát về hoạt động tín dụng của ngân hàng, Các biện pháp mở rộng và phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Yên Châu từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để mở rộng hoạt động tín dụng đồng thời phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ đề cập đến mở rộng và rủi ro tín dụng và các biện pháp mở rộng và phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chi nhánh NHNo & PTNT Yên Châu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết hợp phương pháp duy vật lịch sử sử dụng số liệu thực tế để luận chứng thông qua các phương pháp: So sánh, thống kê, đồ thị...
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khoá luận được kết cấu thành :
Chương I: Tín dụng ngân hàng và việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Yên Châu.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Yên Châu.
Do kiến thức và trình độ lý luận còn nhiều hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi có những thiếu sót. Tôi rất mong nhận sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo, các cán bộ ngân hàng cùng các bạn đọc để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo của Học viên Ngân hàng cùng các đồng nghiệp tại NHNo&PTNT Huyện Yên Châu tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt bài chuyên đề này.
Sơn La, ngày 01 tháng 10 năm 2008
Sinh Viên
Đào Quang Hào
Chương 1Tín dụng ngân hàng và nâng cao Chất lượng Tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1 ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại (NHTM), các nhà kinh tế đều nhất trí với nhau về lịch sử ra đời cũng như tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế, nhưng khi đưa ra định nghĩa “thế nào là một NHTM?”, thì họ lại có rất nhiều quan điểm khác nhau:
Có quan điểm cho rằng: “NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền”. Có quan điểm khác lại nhận định: ”NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các tài khoản có thể dùng séc”...
Theo Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng xác định "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” trong đó “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của NHTM.
Hoạt động kinh tế trong xã hội xuất hiện những người thừa tiền muốn cho vay và những người thiếu tiền muốn đi vay. Tuy vậy, khi những người cho vay và người đi vay giao dịch trực tiếp với nhau, thì họ gặp phải những khó khăn. Những khó khăn xuất phát từ sự không trùng hợp về thời gian (người cho vay chỉ thích “cho vay ngắn hạn”, còn người đi vay mong muốn “khoản vay dài hạn”), số lượng vốn (những người tiết kiệm có thể chỉ có những khoản vốn nhỏ muốn cho vay, trong khi người vay lại có thể yêu cầu một khoản vay lớn) và những rủi ro,.v.v.. Đây chính là lí do cơ bản cho sự hình thành và phát triển các sản phẩm ngân hàng
Ngoài sản phẩm truyền thống là huy động vốn và cho vay khách hàng, các NHTM ngày nay còn phát triển các dịch vụ tài chính như quản lí ngân quỹ, chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn tài chính,...
1.1.2 Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.1 Khái niệm.
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, nó xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành những sự kiện nợ nần lẫn nhau phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Như vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là một quan hệ kinh tế hình thành trong quá trình chuyển hoá giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ từ tổ chức này sang tổ chức khác hay từ tay người này sang tay người khác theo nguên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời hạn nhất định. Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng.
Theo nghĩa rộng, quan hệ tín dụng gồm hai mặt: huy động vốn và tiến hành cho vay. Hình thức sơ khai của tín dụng là tín dụng nặng lãi, với đặc điểm nổi bật là lãi suất cao, tín dụng nặng lãi nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tiêu dùng bức thiết (mua lương thực, thuốc men, đóng tô, thuế...) của người vay không có tác dụng phục vụ cho sản xuất. Tiếp theo là tín dụng thương mại, đây là tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với công cụ là kỳ phiếu thương mại dựa trên cơ sở hàng hoá. Đến mức độ cao hơn là tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa một bên là ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư.
Xét về bản chất, tín dụng ngân hàng cũng có đặc chưng chung của quan hệ tín dụng. Nó thể hiện thể hiện mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng dụng với các doanh nghiệp và cá nhân trên nguyên trắc hoàn trả và có lãi. Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, đã mở rộng mối quan hệ cá nhân - cá nhân thành các mối quan hệ: cá nhân - tổ chức, tổ chức - tổ chức, cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế, tạo ra nguồn tài trợ cho các hoạt động công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp của đất nước phát triển. Đồng thời nó cũng thể hiện rõ ưu thế của mình so với các hình thức tín dụng khác, đó là:
- Nguồn vốn cho vay rất lớn, vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà NH có thể tập trung và huy động được.
- Đây là hình thức tín dụng linh hoạt vì đối tượng vay mượn là tiền tệ.
Vì vậy, TDNH đã trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời.
1.1.2.2 Tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng góp phần giảm chi phí lưu thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Vai trò của đồng tiền rất quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Không có tiền thì sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá không được thực hiện và phát triển. Song tiền đúc bằng kim loại quý đem đi lưu thông vừa đắt vừa không tiện lợi lại bị hao mòn tự nhiên trong quá trình vận động nên giảm giá trị. Nhờ có hoạt động của NH mà giảm được những chi phí đó. Bởi vì tín dụng ngân hàng (TDNH) đã gạt tiền ra và chiếm lấy vị trí của tiền. Trong nhiều trường hợp tiền không sử dụng trong giao dịch, người ta có thể thanh toán nợ cho nhau bằng cách bù trừ không dùng tiền mặt nếu còn chênh lệch mới sử dụng thanh toán phần chênh lệch đó. Trong mối quan hệ với ngân hàng, khách hàng không những có nhu cầu phát sinh chi trả thường xuyên mà còn vừa là người đi vay vừa là người cho vay, do đó ngân hàng có thể khấu trừ những khoản nợ lẫn nhau một cách rễ ràng.
Mặt khác việc phát hành các giấy bạc ngân hàng, dùng trong thanh toán giao dịch đã làm giảm đi và không cần thết phải sử dụng đến tiền mặt trong lưu thông mà chủ yếu dùng để cất trư trong kho. Đồng thời TDNH làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vì TDNH giúp cho dự trữ vốn tiền tệ trong mỗi doanh nghiệp giảm xuống mức tối thiểu, không cần thiết phải dự trữ nhiều. Hơn nữa lại có thể tạo điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả. Tóm lại nhờ có hoạt động TDNH mà vốn được sử dụng triệt để và hiệu quả hơn.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn đầu tư cho sản xuất, lưu thông hàng hoá và làm tăng tốc độ chu chuyển vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, TDNH đã trở thành một kênh thu hút các nguồn tài chính riêng lẻ, tạm thời nhàn rỗi ngắn- trung và dài hạn từ mọi tầng lớp dân cư trong xã hội thông qua việc áp dụng chính sách lãi suất tiền gửi hợp lý và các phương thức khuyến khích tiết kiệm, đầu tư hấp dẫn khác. Làm như vậy, TDNH đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, tập trung vốn cho tái sản xuất mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy, TDNH được coi là nguồn bổ sung nguồn vốn thiếu hụt cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội, tạo ra tốc độ vòng quay vốn nhanh, làm thúc đẩy hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển sôi động.
Tín dụng NH góp phần tăng cường chế độ hoạch toán, kế toán của đơn vị kinh tế.
Đặc chưng cơ bản của TDNH là sự vận động trên cơ sở hoàn trả có lợi tức. Do vậy, mà hoạt động TDNH phản ánh phần nào kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, TDNH đã thúc đẩy các đơn vị sản xuất sử dụng vốn có hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ vòng quay vốn, tạo ra lợi nhuận cao...Các đơn vị kinh tế khi vay vốn NH đều phải cam kết thực hiện đầy đủ cam kết của ngân hàng, để đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Muốn thực hiện điều này, các đơn vị kinh tế phải dùng mọi biện pháp như: tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất, tăng vòng quay vốn... Điều này gián tiếp tăng cường sự tập trung của các đơn vị kinh tế vào khấu hao hoạch toán, kế toán nhằm đảm bảo sự chính xác và tạo ra doanh lợi ngày càng cao.
Tín dụng NH góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, chính sách tài chính -tiền tệ, chống lạm phát.
Với một nền kinh tế thị trường có sự kiểm soát, quản lý của nhà nước như nước ta, TDNH thực sự là công cụ hữu hiệu giúp nhà nước điều tiết sản xuất, cung ứng tiền tệ và kiềm chế lạm phát nhằm phục vụ cho các chiến lược phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ đã được đề ra.
Tín dụng NH tạo điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế
Ngày nay, xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển. Các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đang phát triển và đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Chính sách mở cửa của nhà nước ta nhằm mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế là nhân tố bên ngoài đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước nói riêng. TDNH trở thành một trợ thủ đắc lực của nhà đầu tư, một trong những phương tiện nối liền kinh tế giữa các nước. Thông qua TDNH, nhà nước sẽ mở rộng quan hệ vốn với các tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ trên thế giới nhằm đầu tư phát triển kinh tế, tăng nhanh hàng xuất khẩu, mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Tín dụng NH góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi, nó như một luồng gió mới thổi nền kinh tế tạo ra một bước ngoặt phát triển nền kinh tế nước nhà. Thực tế trong những năm qua nền kinh tế nước ta đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đặc biệt là năm 2001 tốc độ tăng trưởng là 6,8% đứng thứ hai Châu á (sau Trung Quốc 7%) và được bình chọn là “nước có môi trường đầu tư an toàn nhất”, đời sống nhân dân được cải thiện ... Nhưng bên cạnh đó nẩy sinh những vấn đề xã hội: sự phân hoá giầu nghèo ngày càng rõ rệt, tăng trưởng kinh tế giữa các vùng không đồng đều, thất nghiệp ngày càng gia tăng...
Nhận thức sâu sắc được thực trạng này, các ghị quyết của Đảng luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng với công bằng; giải quyết các yêu cầu công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng. Thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục tình trạng này.
Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta khắc phục được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên (là tập trung cho một vùng, ngành trong một thời gian nhất định với một mục tiêu nào đó), tín dụng ưu đãi (là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi xuất thấp hơn lãi suất thị trường)
Bằng cách ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi xuất ưu đãi cho người nghèo, người khó để họ có điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh áp dụng kĩ thuật mới, mở rộng thị trường, tằng thu nhập. Với mức lãi suất ưu đãi, tín dụng ưu đãi có vai trò to lớn giúp đỡ người nghèo tự vươn lên, tự giải quyết được tình trạng nghèo đói của mình. Đồng thời chúng ta khẳng định rằng giúp đỡ người nghèo bằng tín dụng là giải quyết vấn đề công bằng theo quan điểm hiện đại, coi trọng nỗ lực tham gia của bản thân người nghèo. Đó là sự giúp đỡ tích cực “cho cần câu chứ không cho xâu cá “. Song để đạt được mục đích trên các NH cần phải có một cơ chế giám sát chặt chẽ, bởi thực tế cho thấy do lãi suất ưu đãi thấp cán bộ tín dụng lạm dụng quyền hạn cho vay, đã có những đòi hỏi ngoài lãi suất làm cho người nghèo khó lòng đáp ứng.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta mong rằng TDNH sẽ phát huy tốt vai trò của mình trong việc cung cấp nguồn lực phát triển kinh tế đất nước.
1.1.2.3 Các loại hình tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Trong quản lý tín dụng các nhà quản lý kinh tế thường dùng các chỉ tiêu sau đây để phân loại:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm (một số nước quy định dưới 2 năm). tín dụng ngắn hạn thường được cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ các nhu cầu của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 nằm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắp tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thường được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới ,các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay...), cải tiến và mở rông sản xuất có qui mô.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm cho vay: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: Mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như tủ lạnh, máy điều hoà, máy giặt...
Căn cứ vào mức độ đảm bảo
Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
Ngoài ra còn một số tiêu thức khác như căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng...
1.2 chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm là điều tất yếu. Trong ba yếu tố: chất lượng, giá cả và lượng hàng bán thì chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu, vì nếu chất lượng được nâng lên thì sẽ đảm bảo cho khách hàng thoả mãn về chất lượng với mức giá cả hợp lý, tạo điều kiện nâng cao thị phần.
Với nhiều cách đề cập về chất lượng, nhiều nhà kinh tế, nhiều nhà kinh doanh đã đề cập bằng nhiều cách: chất lượng là “sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dụng" là “ một trình độ dự kiến trước về đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hay theo Hiệp hội tiêu chuẩn hoá của Pháp ( Tiêu chuẩn NFX 50 - 109 ) thì cho rằng " Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng".
Như vậy, có thể hiểu: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
Từ khái niệm này chúng ta có thể thấy: NHTM, khách hàng, nền kinh tế -xã hội là ba nhân tố được tính đến khi xem xét chất lượng hoạt động tín dụng của một NHTM. Cả ba nhân tố này trong hoạt động thực tiễn đều có tác động qua lại hoặc thúc đẩy hoặc kiềm chế lẫn nhau, gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến chất lượng hoạt động tín dụng. Vì vậy chúng phải xem xét vấn đề này qua ba cách thể hiện:
Đối với NHTM: Chất lượng hoạt động tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phù hợp với khả năng, với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Ngoài ra nó còn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ tăng trưởng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn phải nhỏ hơn mức quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn - trung và dài hạn hợp lý.
Đối với khách hàng: Tín dụng tham gia phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản; thuận tiện, thu hút nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo quy chế cho vay, nguyên tắc tín dụng, phù hợp với tốc độ tăng trưởng của xã hội.
Đối với sự phát triển kinh tế -xã hội: Tín dụng phục vụ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác tiềm năng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, giải quyết tốt mối quan hệ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Từ phân tích trên ta có thể nhận thấy một số đặc trưng của chất lượng tín dụng:
+ Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, vừa cụ thể vừa trìu tượng, chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan và chủ quan.
+ Chất lượng tín dụnglà chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NH với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của NH trong quá trình cạnh tranh và phát triển.
+ Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, nợ quá hạn thấp, mức độ an toàn cao...
+ Chất lượng tín dụng là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. Vì vậy, để có chất lượng tín dụng thì cần phải có sự quản lý đồng bộ.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn. Để có được nó thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Chúng ta đều biết, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa hai chủ thể một bên là ngân hàng, một bên là khách hàng của ngân hàng. Như vậy, khi xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng chúng ta không chỉ đơn thuần là nhìn nhận từ một phía là ngân hàng mà không nhìn phía thứ hai đó là khách hàng. Bởi vì, không một ngân hàng nào nghĩ được hết mọi sự bất ngờ sẽ xẩy ra khi nó viết ra những quy định hạn chế vào hợp đồng cho vay, mặc dù kể cả các giới hạn trong luật tín dụng thành văn bản và các quy định hành chính đều không đem lại câu trả lời cho nhiều câu hỏi liên quan đến việc cho vay an toàn, lành mạnh và có lợi cho ngân hàng. Nhưng có một điều thật sự thiếu xót nữa, khi chúng xem xét, nhìn nhận chất lượng tín dụng từ hai đối tượng của một vấn đề mà không xét đến môi trường hoạt động của chúng.
Như vậy, để xem xét đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại tốt xấu hay chấp nhận được, điều đó phải đánh giá từ ba phía: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Sau đây là hệ thống các chỉ tiêu để làm căn cứ nhìn nhận một cánh khách quan, toàn diện về chất lượng tín dụng và đây cũng là cơ sở cho việc phân tích thực trạng tín dụng tại NHNo&PTNT Sơn La cũng như cho việc đề ra một số giải pháp mở rộng cho vay, gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng.
1.2.2.1 Xét góc độ nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ của mình sẽ thực sự là một công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế để mở rộng quy mô chiều sâu và chiều rộng của sản xuất, lưu thông hàng hoá. Như vậy, ngân hàng đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo ra nguồn vốn lớn. Từ đó ngân hàng lại huy động các nguồn vốn, thực hiện dẫn dắt các nguồn tiền và phân chia vốn một cách hiệu quả, ngân hàng thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “ Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng điều tiết thị trường”.
Chất lượng của các khoản tín dụng là tấm gương phản chiếu tốc độ phát triển của nền kinh tế. Nếu chất lượng tín dụng kém có nghĩa là sản xuất và tiêu dùng đang bế tắc không luân chuyển được, tín dụng không có khả năng hoàn trả đúng kỳ hạn dẫn tới hành vi lừa đảo phát sinh, chức năng trung tâm thanh toán, trung tâm tiền mặt bị rối loạn không kiểm soát được và lạm phát rất dễ xảy ra. Nếu chất lượng tín dụng tốt thì tốc độ phát triển của nền kinh tế sẽ tăng vì hoạt động của ngân hàng nhằm mục đích thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Một nước có nền kinh tế ổn định và phát triển đồng nghĩa với sự ổn định về chính trị và xã hội. Với ý nghĩa lớn lao như vậy ngân hàng cần phải đánh giá xát sao tới các khoản tín dụng đã phục vụ chính sách phát triển kinh tế của chính phủ và địa phương, xem nó tác động tới tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành như thế nào? Các sản phẩm sản xuất ra có đáp ứng được nhu cầu cuả xã hội và thị trường không? Mức độ giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dôi thừa nước được bao nhiêu phần trăm.
Như vậy các khoản tín dụng của ngân hàng thực sự có chất lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và ngược lại.
1.2.2.2 Xét trên góc độ ngân hàng
Khi phân tích và đánh giá chất lượng tín dụng, công việc đầu tiên của các nhà phân tích là phân loại nợ. Ba tiêu chuẩn thường được dùng để phân loại nợ là khả năng trả nợ của người vay, mức độ đảm bảo của khoản nợ và thời gian quá hạn của khoản nợ. Theo tiêu chuẩn trên, các khoản nợ của ngân hàng thương mại được phân thành năm loại chủ yếu sau theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN:
Nợ lưu đủ tiêu chuẩn: là những khoản nợ được đảm bảo an toàn cả gốc lẫn lãi bằng các công cụ thay thế tiền như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu chính phủ hay các cam kết bảo lãnh.
Những khoản nợ cần chú ý: các khoản nợ này nói chung là có đảm bảo nhưng có một số nhược điểm, tuy chưa đến mức xếp vào loại kém tiêu chuẩn nhưng nếu không được quan tâm, điều chỉnh có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến việc thanh toán không đúng hạn cả lãi và gốc. Những biểu hiện xấu đi của các khoản này có thể là do con nợ con nợ rơi vào tình trạng lợi nhuận ngày một giảm, thay đổi ban lãnh đạo hay do chính sách của nhà nước thay đổi đột ngột, chính trị bất ổn làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh dẫn đến ảnh hưởng đến việc trả nợ của con nợ…
Nợ dưới tiêu chuẩn: là những khoản nợ không đảm bảo đủ giá trị hiện hành, hoặc khả năng thanh toán của người vay không đủ chi trả những khoản nợ đúng hạn. Nói chung, nguồn trả nợ chính của người vay không đảm bảo, buộc ngân hàng phải chông chờ vào nguồn chi trả thứ hai là tài sản thế chấp. Các khoản nợ bị xếp vào loại này thường quá hạn trên 90 ngày.
Nợ nghi ngờ: loại này có đầy đủ nhược điểm của nợ kém tiêu chuẩn, nhưng nó còn có thêm đặc chưng quan trọng là tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Nhược điểm này làm cho việc thu hồi nợ trở nên có vấn đề và khó thực hiện, khả năng bị tổn thất tài sản ở mức độ cao. Tuy nhiên, vì loại này còn có khả năng khắc phục, nên chưa được xếp vào loại nợ mất trắng. Thông thường, những khoản nợ bị xếp vào loại này khi nó quá hạn trên 180 ngày và phải được xử lý bằng pháp luật, hoặc bằng tài sản thế chấp, hoặc bằng cam kết nào đó.
Nợ mất trắng: là những khoản nợ được xem là không có khả năng thu hồi, không còn giá trị và không có lý do biện luận nào tiếp tục là tài sản của ngân hàng mặc dầu xếp loại này không có nghĩa là khoản nợ đã tuyệt đối không thu hồi được không cứu vãn được. Những khoản nợ bị xếp vào loại này thường quá hạn trên 360 ngày, loại trừ những khoản nợ có đủ thế chấp và đang xử lý theo pháp luật, hoặc cưỡng chế theo cam kết. Các khoản nợ này không nên trì hoãn việc xoá sổ mà phải xử lý ngay khi phát hiện.
Ba loại nợ sau được xem là nợ xấu, trong đó nợ kém tiêu chuẩn, nợ có nghi ngờ là nợ có khả năng thu hồi, còn nợ mất trắng là nợ không có khả năng thu hồi.
Để đánh giá khái quát về chất lượng tín dụng, các nhà phân tích thường xem xét qua các chỉ tiêu chủ yếu:
+Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
+Tỷ lệ nợ bị mất trắng trên tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao không chỉ báo động sự phát sinh những khoản phải thanh lý lớn trong tương lai mà còn thể hiện sự giảm sút thu nhập ở hiên tại do các khoản nợ này không đem lại lợi nhận, hoạc lợi nhuận ít không đáng kể. Do vậy, mức mong muốn đối với các nhà quản trị ngân hàng về tỷ lệ nợ quá hạn thường từ dưới 5%.
Như vậy, mặc dù nợ quá hạn là khả năng là mầm mống của rủi ro cho vay song chưa phải là tất cả tất cả thiệt hại mà ngân hàng phải ngánh chịu. Trong thực tế, một số khoản nợ quá hạn (nợ kém tiêu chuẩn, nợ có nghi ngờ) vẫn có khả năng thu hồi được bằng các biện pháp cưỡng chế hoặc phát mại tài sản thế chấp. Bởi vậy để đánh giá tính chất nghiêm trọng của các khoản nợ quá hạn hiện có và mức độ thiệt hại mà ngân hàng phải gánh chịu thì cần đặc biệt quan tâm đến nợ quá hạn khó có khả năng thu hồi (nợ mất trắng) và tỷ trọng của nó trong tổng dư nợ quá hạn hoặc tổng dư nợ của ngân hàng.
Bên cạnh đó, trong quá trình phân tích chất lượng tín dụng các nhà phân tích còn đánh giá thêm một số chỉ tiêu khác:
+ Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn huy động (H1).
H1
=
Tổng dư nợ tín dụng
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Chỉ số này càng lớn thì vốn tồn động càng ít, đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn.
+ Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng (H2).
H2
=
Doanh số thu nợ
Dư nợ tín dụng bình quân
Chỉ tiêu nay cho thấy ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng là bao nhiêu để có thể lại cho vay với dự án mới. Vòng quay càng lớn chứng tỏ ngân hàng càng thu được nhiều nợ và như vậy nguồn vốn mà ngân hàng đầu tư có hiệu quả.
+ Chỉ tiêu lợi nhuận.
Hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, các ngân hàng thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Lợi nhuận vẫn là điều kiện cần thiết đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng không thể nói là cao nếu lợi nhuận từ hoạt động này mang lại thấp.
H3
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng dư nợ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhận từ hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đồng thời nó phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
H3
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng lợi nhuận trước thuế
Chỉ tiêu này nói lên mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng vào toàn bộ kết quả kinh doanh của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhận từ hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đồng thời nó phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
1.2.2.3 Xét góc độ khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp quản lý, sủ dụng vốn. Đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng được biểu hiện ở các chỉ tiêu sau:
+ Doanh thu từ dự án.
+ Lợi nhuận tăng từ dự án.
+ Lao động tăng lên từ dự án.
Các chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt mức cao. Đó là tiền đề để doanh nghiệp không những thực hiện đúng cam kết trả nợ cho ngân hàng mà còn có thể đổi mới công nghệ, cải thiện chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao vị thế của mình trên thị trường…
Tóm lại, chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải được xem xét, phân tích cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trong hệ thống quan điểm của ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có sự ưu tiên chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, cho chủ thể này hay chủ thể khác.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Muốn xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, chúng ta xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất luợng tín dụng là những nhân tố gây ra sự biến động tốt hay sấu của các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nhưng chủ yếu tập chung vào những nhân tố sau._. đây :
1.2.3.1 Từ phía môi trường kinh doanh
Môi trường kinh tế:
Có ảnh hưởng đế sức mạnh tài chính của người đi vay và thiệt hại hay thành công đối với người cho vay. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, người vay hoạt động tốt do vậy lợi nhuận thu được tương đối cao, do đó khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay không biến động lớn. Trong trường hợp này chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản lý chất lượng tín dụng của bản thân NH. Nhưng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng hoàn trả của người đi vay bị giảm sút. Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng và cường độ của khủng hoảng mà việc ảnh hưởng đến các cá nhân và doanh nghiệp sản xuất lưu thông, cũng như khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức khác nhau: mức độ khủng hoảng càng cao, sức mua của người tiêu thụ càng giảm sút gây ra hiện tượng hàng hoá bán ra với lợi nhuận của doanh nghiệp lưu thông cũng giảm theo, đồng thời lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất cũng vì thế mà tăng lên một cách miễn cưỡng, dẫn đến doanh thu giảm khả năng trả nợ của các doanh nghiệp kém, kéo theo sự đi xuống của chất lượng tín dụng .
Môi trường pháp lý:
Nếu môi trường này đồng bộ, đầy đủ, thống nhất, ổn định sẽ tác động mạnh tới chất lượng tín dụng. Một mặt, nó giúp người vay vốn cũng như ngân hàng dễ dàng trong giao dịch và tránh sự lợi dụng khe hở của những đối tượng làm ăn không chân chính. Mặt khác, nó giúp NH và người vay vốn đưa ra các chính sách đầu tư vào một ngành nào đó mà không sợ bị mất vốn do cơ chế thay đổi.
Môi trường chính trị -xã hội:
Sự bất ổn về chính trị -xã hội sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng. Bởi sự hoạt động của nền kinh tế luôn gắn liền với những biến động về chính trị, do vậy khi tình hình chính trị diễn biến xấu đi cũng có nghĩa là màn đêm sẽ bao trùm toàn bộ nền kinh tế, gây lên sự mất lòng tin vào việc đầu tư của dân chúng, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, cũng như NH khó có thể yên tâm tập chung vào sản xuất kinh doanh, duy trì hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Môi trường tự nhiên:
Điều kiện tự nhiên diễn ra không thuận lợi, sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của người vay vốn, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. Điển hình ở nước ta trong các năm gần đây đã xảy ra hàng loạt các cơn báo, lũ lụt lớn; khô hạn, cháy rừng ở đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên… động đất ở Điện Biên -Lai Châu, đã gây thiệt hại thiệt hại đến mùa màng, kinh tế, của cải. Làm cho cho người dân không trả được nợ ngân hàng.
1.2.3.2 Từ phía khách hàng
Các khách hàng có năng lực tài chính yếu kém: Do hoạt động với quy mô lớn. Song vốn tự có của mình chiếm tỷ trọng thấp. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc kinh doanh thua lỗ, nợ nần chồng chất, không trả được nợ ngân hàng.
Người vay sử dụng vốn vay sai mục đích.
Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính do yếu tố khách quan hoặc chủ quan, dẫn đến thiếu hoặc không có khả năng thanh toán
Các tài sản đảm bảo tín dụng bị mất, giảm giá, khó phát mại hoặc không tương đương với mức vốn thu hồi .
Trình độ quản lý, năng lực chuyên môn còn yếu kém cho nên không thích nghi được với sự thay đổi của thị trường, dẫn đến có tình trạng; quyết định những phương án sản xuất kinh doanh không phù hợp với nhu cầu thị trường. Sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ lâm vào tình trạng có nguy cơ bị phá sản, không trả được nợ vay.
Do sự có tính lừa gạt ngân hàng của khách hàng: Thực tế cho thấy có rất nhiều khách hàng vì muốn lao vào những cuộc kinh doanh buôn bán đầy phiêu lưu mạo hiểm hoặc vì muốn sử dụng tiền vay phục vụ riêng cho lợi ích cá nhân mà đã có tính lừa gạt ngân hàng đưa ra những phương án kinh doanh giả hòng chiếm dụng vốn ngân hàng. Với sự lừa gạt đó khách hàng có thể nhận được nguồn vốn từ phía ngân hàng điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng rơi vào tình trạng nguy hiểm, nguồn vốn đó sẽ trôi theo sự may rủi của khách hàng và ngân hàng rất có thể gặp rủi ro tín dụng bất cứ lúc nào.
Do khách hàng không cung cấp thông tin không đầy đủ và chính xác cho ngân hàng.
Do quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn:
+ Người vay gặp phải những bất trắc trong kinh doanh, những thiệt hại trên thị trường tiêu thụ và thị trường cung cấp.
+ Do cơ chế chính sách thay đổi đột ngột: làm cho hàng hoá của doanh nghiệp lâm vào khê đọng, kéo theo vốn ngân hàng cũng khê đọng theo. Chẳng hạn như, chính sách xuất nhập khẩu, khai thác và chế biến gỗ…
1.2.3.3 Từ phía ngân hàng
Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định tín dụng:
Thẩm định dự án đầu tư là việc xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư .
Mục đích của việc thẩm định là nhằm giúp ngân hàng rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xẩy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời cũng từ việc thẩm định ngân hàng cũng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, thời hạn cho vay, mức thu nợ hợp lí phù hợp với năng lực của doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả .
Với những mục đích quan trọng như vậy nên thẩm định là khâu phức tạp là khâu hay mắc sai sót nhất của ngân hàng. Như vậy, nếu khâu công tác thẩm định được thẩm định tốt, thì NH sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra quyết định can thiệp có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tiền vay. Thông tin tín dụng càng nhanh, chính xác và toàn diện thì thuận lợi cho công việc kinh doanh của ngân hàng bấy nhiêu và rủi ro có thể hạn chế ở mức thấp nhất có thể có.
Do ngân hàng quá chú trọng gia tăng lợi nhuận:
Đã là kinh doanh thì lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu khích lệ các doanh nhân. Đặc biệt trong kinh doanh tín dụng, với nguồn lợi nhuận hứa hẹn khổng lồ, khiến các ngân hàng càng lao sâu vào mạo hiểm, tìm mọi cách thu hút vốn và cho vay để tìm kiếm lợi nhuận. Trong cuộc đua chạy theo lợi nhuận, càng ngày có càng nhiều ngân hàng tham gia dẫu biết rằng rủi ro luôn rỉnh rập họ.
Chất lượng nhân sự:
Con người, ở đâu cũng vậy, luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của công việc. Với ngành ngân hàng các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển, mở rộng đòi hỏi nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các công cụ hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, thị trường ... phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, những người làm ngân hàng phải vừa là nhà phân tích vừa là nhà dự đoán kinh tế. Trên cơ sở thông tin thu nhập được họ sàng lọc ra khách hàng có đủ phẩm chất tín dụng, những dự án khả thi, lập được những hợp đồng chất lượng tốt có lợi cho ngân hàng và sẽ tránh được những khách hàng lừa đảo, những dự án ma...
Phẩm chất đạo đức của các bộ tín dụng ngân hàng:
Khi phẩm đạo đức chất của cán bộ tín dụng có vấn đề thì nó sẽ ảnh hưởng không những đến chất lượng tín dụng mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động khác trong ngân hàng. Hậu quả của nhân tố này sẽ làm thiệt hại đến danh tiếng và sự an toàn tài chính của ngân hàng. Họ không chỉ cấu kết, cố tình làm sai quy trình tín dụng để có lợi cho khách hàng và được hưởng một khoản hoa hồng, mà còn tỏ ra không nghiêm túc trong việc chấp hành các quy chế tín dụng của NHNN. Đây chính là tình trạng đang diễn ra ở nhiều ngân hàng đã làm cho nợ quá hạn gia tăng, trong đó có một phần khó thu hồi và có khả năng làm thất thoát tài sản của ngân hàng.
Tổ chức bộ máy:
Bộ máy của ngân hàng được xắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhành giữa các phòng ban trong ngân hàng cũng như giữa NH với các cơ quan tài chính, pháp lý... Sẽ tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng các yêu cầu về quản lý, theo rõi sát sao những khoản vốn huy động cũng như vốn cho vay. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng.
Tiêu chuẩn tín dụng :
Tiêu chuẩn tín dụng là yêu cầu mà doanh nghiệp phải đạt được để thiết lập quan hệ tín dụng tuỳ theo quy mô của quan hệ tín dụng giới hạn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn tín dụng được đưa ra để so sánh những mặt, mục tiêu của doanh nghiệp cần đạt được. Trên cơ sở đó, ngân hàng phân loại doanh nghiệp để mở rộng, hay thu hẹp qui mô tín dụng, đồng thời đưa ra những biện pháp phù hợp để đảm bảo an toàn tín dụng .
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng luôn là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng, nó phải thu hút được nhiều khách hàng tốt, đảm bảo khả năng sinh lợi cho hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, chính sách của nhà nước, đảm bảo công bằng và hấp dẫn đối với khách hàng. Điều này có ý nghĩa là chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào xây dựng chính sách tín dụng của NHTM có đúng đắn hay không? có rõ ràng? Thích hợp cho ngân hàng mình hay không?
Chương 2Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Yên Châu
2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội huyện Yên Châu
2.1.1 Những thuận lợi
Yên Châu là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La, có diện tích tự nhiên: 86.000km2 và có đường biên giới giáp với nước bạn Lào. Dân số hiện nay gần 65.000 người.
Những năm qua huyện Yên Châu đã nhận được sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ - Ngành TW, các tổ chức phi chính phủ cũng như sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện, như: Chính sách đầu tư phát triển 6 tỉnh miền núi phía bắc đặc biệt khó khăn, Khởi công thuỷ điện Sơn La, nâng cấp quốc lộ 6, nhựa hoá các đường liên xã, nâng cấp và cải tạo các đường liên bản, chương trình nước sạch, nâng cấp và xây dựng mới các trường học, đầu tư phát triển lưới điện vươn tới từng bản, chính sách hỗ trợ lãi suất, ưu đãi đầu tư cho phát triển các loại cây con như Chè, Mía, Dâu tằm, Bông, chăn nuôi đại gia súc…
Từ những chủ chương đúng đắn trên, những năm qua nền kinh tế huyện luôn tăng trưởng cao, năm 2007 vừa qua tuy gặp nhiều khó khăn nhưng nền kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng theo hướng tích cực và khá toàn diện. Tổng sản phẩm GDP của Huyện tăng 12,4% so với năm 2004, chất lượng tăng trưởng của một số ngành và lĩnh vực kinh tế đã có cải thiện. Cơ cấu kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực đã có sự chuyển dịch tích cực. Trong đó: khu vực Nông - Lâm nghiệp chiếm 56% tăng 9,5% so với năm 2006, khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 19% tăng 15,2%, dịch vụ chiếm 25% tăng 18.6%.
Sản xuất nông nghiệp được duy trì và phát triển khá toàn diện, diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt 6.112 ha bằng 96% kế hoạch năm, sản lượng lương thực đạt 43.990 tấn.
Các loại cây công nghiệp chủ yếu như: Chè, Dâu tằm, Bông, Mía... tiếp tục được củng cố. Tổng diện tích đạt: 826 ha tăng 4,7% so năm 2004 trong đó Chè: 190 ha, Bông 112 ha, Dâu 86 ha... Ngoài ra diện tích cây ăn quả: 430 ha tăng so năm 2006 là 2,01%.
Chăn nuôi được quan tâm phát triển kể cả về cơ cấu đàn và nâng cao chất lượng con giống, so với năm 2006 đàn Trâu tăng 5,8%, đàn Bò tăng 9,2%, đàn Lợn trên 2 tháng tuổi tăng 6,15%, gia súc khác tăng 6,3%, riêng gia cầm giảm 1,6% do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm trong năm 2006.
2.1.2 Những tồn tại và khó khăn
Mặc dù tốc độ kinh tế tăng trưởng cao nhưng thực tế Yên Châu vẫn là một Huyện nghèo đặc biệt khó khăn của Sơn La, thu nhập bình quân đầu người vẫn chi đạt 1/3 GDP của cả nước, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. Nền kinh tế Huyện phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hoá tập trung còn chậm, mức tăng trưởng giữa các vùng, các ngành chưa đồng đều, lợi thế về đất đai - khí hậu chưa được khai thác triệt để tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Công tác điều tra cơ bản quy hoạch sản xuất nhất là sản xuất Nông - Lâm nghiệp còn yếu, cùng trên một vùng hoặc tiểu vùng quy hoạch còn trùng lặp các loại cây trồng vật nuôi, nên gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng đầu tư. Khi có sự biến động của khí hậu - thời tiết hay của thị trường thì thường thường có tình trạng hộ sản xuất tự ý phá bỏ để chuyển sang cây trồng, vật nuôi khác làm gây khó khăn cho việc thu hồi vốn đầu tư.
Năm qua có nhiều chương trình dự án được hoạch định, xây dựng nhưng mới chỉ dừng ở hình thức tổng thể, thiếu các dự án chi tiết cụ thể. Do vậy, không có đủ điều kiện để Ngân hàng tham gia đầu tư làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Dịch bệnh H5N1 ở gia cầm, tuy chỉ xẩy ra một số địa điểm nhỏ nhưng nhưng đã gây tâm lý lo lắng cho người dân, làm người dân lúng túng trong chuyển dịch vật nuôi ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập và đời sông của nông dân.
Các cơ sở chế biến trên địa bàn huyện không có; còn các cơ sở chế biến của tỉnh chưa đủ năng lực thực hiện thu mua, chế biến. Nên hầu hết các sản phẩm chăn nuôi, trồng trọt người sản xuất phải tìm cách tự tiêu thụ. Do đó họ chịu ảnh hưởng trực tiếp của giá cả, nhất là những thời kỳ giá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất.
Bên cạnh đó nhiều vấn đề xã hội bức xúc: tình trạng nghiện hút, cờ bạc, chưa được đẩy lùi; ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa được nâng lên một cánh rõ rệt.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện hoạt động có Ngân hàng CSXH và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có cùng mục tiêu kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng theo cơ chế mở. Cho nên đã ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, nhất là đối với hoạt động huy động vốn.
2.2 Khái quát tình hình hoạt động của NHNo&ptnt Yên Châu
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển ngân hàng NHNo&PTNT Yên Châu
2.2.1.1 Hoàn cảnh ra đời NHNo&PTNT Huyện Yên Châu
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Yên Châu (NHNo Yên Châu ) trước năm 1988 được gọi là Chi Điếm Ngân hàng Nhà nước Yên Châu trực thuộc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Sơn La, hoạt động với chức năng là một Chi nhánh ngân hàng trung ương cơ sở. Sau khi chuyển đổi nền kinh tế năm 1986, đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển các nghành nghề, các lĩnh vực khác nhau của đất nước nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng, ngày 08/07/1988 Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 66/NHNN trong đó quyết định tổ chức lại NHNN tỉnh Sơn La thành ngân hàng chuyên doanh mang tên (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Sơn La) trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam còn các Chi Điếm ở các huyện được tổ chức lại thành các chi nhánh NHNo&PTNT trực thuộc sự quản lý của NHNo&PTNT Tỉnh Sơn La và là chi nhánh cấp 2 của NHNo&PTNT Việt Nam.
Đến nay NHNo Huyện Yên Châu là một Chi nhánh ngân hàng thương mại Nhà nước cấp 2 của NHNo Việt Nam và trực thuộc sự quản lý của NHNo Tỉnh Sơn La, có trụ sở hiện nay tại Tiểu khu I - Thị trấn Yên Châu - Huyện Yên Châu - Tỉnh Sơn La.
NHNo&PTNT Huyện Yên Châu hoạt động với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là:
Huy động tiền gửi tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn huyện bằng đồng việt nam và đồng ngoại tệ.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khai thác theo quy định của NHNo Việt Nam.
Dùng số vốn huy động được cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế trên địa bàn.
Thực hiện một số chức năng và nhiệm vụ khác được giao.
2.2.1.2 Bộ máy tổ chức
Ban lãnh đạo NHNo Yên Châu gồm có: 01 giám đốc và 01 phó giám đốc
+ Giám đốc phụ trách công tác chung và công tác Kế toán - Ngân quỹ.
+ Phó giám đốc phụ trách công tác Tín dụng.
Cơ cấu tổ chức NHNo Yên Châu được bố trí thành 2 phòng: Phòng Nghiệp Vụ - Kinh doanh 13 cán bộ và phòng Kế toán - Ngân quỹ 8 cán bộ.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức NHNo Huyện Yên Châu
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng
Nghiệp vụ- Kinh doanh
Phòng
Kế toán -Ngân quỹ
2.2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh NHNo Yên Châu
Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của NHNo Yên Châu, đã có những bước tăng trưởng khá cao, điều này thể hiện rõ thông qua công tác huy động vốn, cho vay...
2.2.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đối với bất kì một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác NH không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiêp vụ kinh doanh của mình. Bởi vì với đặc chưng hoạt động của NH, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà lại là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó ngoài vốn ban đầu cần thiết - tức là vốn điều lệ theo luật định - thì NH phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Tăng trưởng tín dụng trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn.
Nhận thức được tầm quan trọng này, những năm qua công tác huy động vốn của NHNo Yên Châu không ngừng được nâng cao:
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động huy động vốn của NHNo Yên Châu
Đơn vị :Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Thay đổi (%)
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
06/05
07/06
I.Tổng nguồn vốn KD
37.970
100%
42.040
100%
49.088
100%
11%
17%
1.Huy động tại địa phương
26.470
70%
37.840
90%
45.488
93%
43%
20%
-Phân loại theo thời gian
+TG không kì hạn
15.600
41%
19.500
46%
21.730
44%
25%
11%
+TG có KH <12 tháng
4.280
11%
6.240
15%
9.700
20%
46%
55%
+TG có KH >12 tháng
6.590
17%
12.100
29%
14.058
29%
84%
16%
2.Vốn uỷ thác đầu tư
11.500
30%
4.200
10%
3.600
7%
-63%
-14%
Nguồn: Phòng tín dụng - NHNo&PTNT Yên Châu
Biểu 2.1: Cơ cấu nguồn vốn theo nguồn gốc huy động tại NHNo Yên Châu
Qua bảng, biểu trên ta thấy. Tổng nguồn vốn của NHNo Yên Châu hàng năm có mức tăng trưởng khá cả về tỷ lệ và số lượng, cụ thể:
+Năm 2006 là 42.040 triệu đồng, tăng so với năm 2005 là 11%
+Năm 2007 là 49.088 triệu đồng, tăng so với năm 2006 là 17%
Trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn vốn huy động từ địa phương có mức tăng trưởng nhanh, ổn định và luôn chiếm tỷ lệ từ 70% - 93% trong tổng nguồn vốn. Kết quả này có được là do ngân hàng vận dụng linh hoạt các mức lãi suất, đa dạng các hình thức huy động theo thời gian, cải tiến tác phong giao dịch, trang bị các phương tiện thanh toán hiện đại, bố trí cán bộ có tác phong giao dịch ân cần tận tụy đã có tác động đến tâm lý khách hàng. Do vậy mặc dù các tổ chức phi ngân hàng trên địa bàn thường xuyên đưa mức lãi suất cùng loại cao hơn nhưng nguồn vốn tiền gửi dân cư vẫn khá ổn định và có mức tăng trưởng khá.
Cùng với việc thu hút nguồn vốn từ các tầng lớp dân cư chi nhánh đã duy trì và củng cố mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, các tổ chức đoàn thể xã hội, để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng, phục vụ tốt nhu cầu nộp lĩnh, thanh toán chính xác kịp thời tạo niềm tin và tăng tín nhiệm với khách hàng. Do vậy nguồn vốn huy động này đã tăng lên đáng kể qua các năm.
Bên cạnh những kết quả đạt được công tác nguồn vốn những năm qua còn bộc lộ một số hạn chế đó là: Trong nguồn vốn huy động tại địa phương thì nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn là 62%, hơn nữa nguồn vốn này chỉ đáp ứng được 52 - 58% trong tổng dư nợ. Bên cạnh nguồn vốn huy động tại địa phương và nguồn vốn uỷ thác đầu tư thì nguồn vốn đi vay của ngân hàng cũng chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng nguồn vốn, bình quân các năm là 43%, mà chủ yếu là ngắn hạn, nhưng nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế là vay trung và dài hạn.
Như vậy có thể thấy rằng, nguồn vốn của NHNo Yên Châu chỉ giới hạn chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn với mức lãi suất bình quân đầu vào trên một đồng vốn là hơi cao. Đây là vấn đề ngân hàng cần chú ý quan tâm giải quyết.
2.2.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Bất cứ một doanh nghiệp nào, kinh doanh trong lĩnh vực nào đi chăng nữa đều phải mang lại lợi nhuận. Bởi vì, lợi nhận quyết định đến sự "tồn vong" của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại cũng vậy, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực Tài chính - Tiền tệ, đối tượng kinh doanh chính là tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Nhưng chủ yếu không phải bằng vốn tự có mà chủ yếu bằng vốn của người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi giới cho các nhà đầu tư và những người tích luỹ. Thực hiện các chức năng chung gian của mình, nắm trong tay một khối lượng vốn của xã hội nhưng không có quyền sở hữu, mà chỉ có quyền sử dụng với điều kiện dàng buộc về vật chất, sau một thời gian nhất định phải hoàn lại với một khối lượng lớn hơn. Gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề, vậy ngân hàng phải sử dụng những đồng vốn làm sao cho thật hiệu quả để thực hiện đúng ràng buộc và đồng thời vẫn duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
NHNo Yên Châu là là một ngân hàng thương mại hoạt động vẫn còn mang tính chất truyền thống, cho nên hoạt động sử dụng vốn chủ yếu là cho vay “Độc canh tín dụng”. ý thức được yêu cầu trên, những năm qua ngân hàng xác định tư tưởng đầu tư tín dụng với phương châm “Tín dụng - hiệu quả - an toàn, tăng trưởng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn, tận dụng triệt để nguồn vốn uỷ thác đầu tư”.
Thực hiện tư tưởng trên, những năm qua NHNo Yên Châu đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp cụ thể: Không quá thiên về lợi nhuận, khách hàng của ngân hàng luôn được lựa chọn kỹ càng. Ngân hàng đã kiên quyết từ chối các khách hàng không đảm bảo đầy đủ các điều kiện vay vốn theo quy định hoặc dự án, phương án kinh doanh không có hiệu quả. Do vậy, những năm qua với sự nỗ lực của các cán bộ, nhân viên NHNo HUyện Yên Châu. Công tác đầu tư tín dụng tốc độ tăng trưởng nhanh, chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ quá hạn luôn ở mức dưới 0,1%, cụ thể:
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng NHNo Yên Châu.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Thay đổi (%)
06/05
07/06
1.Doanh số cho vay
20.610
32.160
38.200
56%
19%
2.Doanh số thu nợ
12.540
14.668
17.466
17%
19%
3.Tổng dư nợ
44.884
62.376
83.110
39%
33%
+ Ngắn hạn
16.125
29.055
45.540
80%
57%
+ Trung và dài hạn
28.759
33.321
37.570
16%
13%
Doanh số cho vay có tốc độ tăng nhanh năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 2006 doanh số cho vay là 32.160 triệu, tăng so với năm 2005 là 56% với số lượng tăng 11.550 triệu, đến năm 2007 doanh số cho vay đạt 38.200 triệu với tốc độ tăng 19% so với năm 2006. Có thể thấy rằng, ngân hàng rất nỗ lực trong công tác cho vay.
So với doanh số cho vay thì doanh số thu nợ của ngân hàng cũng đạt ở mức cao và không kém. Nếu năm 2006 doanh số thu nợ đạt ở mức cao là 14.668 triệu với tốc độ tăng là 17% với số tiền là 2.128 triệu so với năm 2005. Nhưng bước sang năm 2007 con số này đạt cao hơn với doanh số thu nợ là 17.466 triệu với tỷ lệ tăng 19%. Như vậy, ngoài việc nỗ lực trong công tác cho vay thì NHNo Sơn La còn tập trung sức lực vào công tác thu nợ để tăng nhanh vòng quay của vốn. Với sự nỗ lực trên có thể thấy rằng dư nợ tín dụng của ngân hàng ngày một tăng:
Biểu 2.2: Tăng trưởng của dư nợ, Doanh số cho vay và thu nợ NHNo Yên Châu
Thông qua dư nợ và biểu trên, cho ta thấy trong những năm qua dư nợ tín dụng của NHNo Yên Châu luôn tăng trưởng khá bình quân 15% và đạt dư nợ cao nhất 83.110 triệu vào năm 2007. Sự tăng trưởng này, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế huyện Yên Châu.
Những năm qua ngân hàng NHNo Yên Châu đã tập chung hàng vài chục tỷ đồng đầu tư cho những dự án kinh tế trọng điểm của tỉnh có vai trò làm nền tảng cho phát triển kinh tế huyện: dự án trồng chè, bông, dâu, Cà Phê, các loại cây ăn quả, dự án cải tạo đàn bò địa phương… Với sự thành công trên bên cạnh đó còn những vấn đề nổi cộm đang là nỗi chăn trở đối với ban lãnh đạo cùng với cán bộ nhân viên ngân hàng, đó làm thế nào để mở rộng cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất nợ xấu; Nhằm đưa hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng ổn định và có hiệu quả, nâng cao vị thế của mình để có một hành trang tốt nhất trước khi bước vào hội nhập với những cơ hội mới và thánh thức mới.
2.3 Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng tại NHNo huyện Yên Châu.
2.3.1 Kết quả hoạt động tín dụng của NHNo Yên Châu
Xuất phát từ tư tưởng đầu tư tín dụng “ Tín dụng - hiệu quả - an toàn, tăng trưởng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn, tận dụng triệt để nguồn vốn uỷ thác đầu tư”. Trong nhưng năm qua, mặc dù hoạt động trên một địa bàn hết sức khó khăn nhưng NHNo Yên Châu đã cố gắng chấn chỉnh, đổi mới hoạt động để cho phù hợp với tình hình thực tế nên đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế huyện.
Bảng 2.3: Cho vay theo thời gian, thành phần kinh tế tại NHNo Yên Châu.
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
So Sánh (+/-)
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
06/05
07/06
Tổng dư nợ
44.884
100
63.376
100
84.110
100
41
33
1. Ngắn hạn
16.125
36
29.055
46
45.540
54
80
57
-Doanh nghiệp ,HTX
0
0
0
0
0
0
-
-
-Hộ gia đình, cá thể
16.125
36
29,055
46
45.540
54
80
57
2.Trung - dài hạn
28.759
64
34.321
54
38.570
46
19
12
-Doanh nghiệp, HTX
0
0
1.000
2
1.000
1
-
0
-Hộ gia đình, cá thể
28.759
64
33.321
53
37.570
45
16
13
Nguồn: Phòng tín dụng - NHNo&PTNT Yên Châu
Xem bảng 2.3 ta có thể thấy được bức tranh khá cụ thể về tình hình dư nợ tín dụng của NHNo Yên Châu. Trong những năm qua ngân hàng đã không ngừng mở rộng cho cho vay, nếu năm 2005 dư nợ chỉ có 44.884 triệu thì đến năm 2007 con số này tăng lên 84.110 triệu.
Trong tổng dư nợ, thì dư nợ ngắn hạn có xu hướng ngày càng chiếm ưu thế, tốc độ tăng cao, ở năm 2005 dư nợ ngắn hạn chiếm 36% trong tổng dư nợ với số tiền là 16.125 triệu, bước sang năm 2006 với tốc độ tăng 80% đã đưa dư nợ ngắn hạn tăng lên; chiếm 46%, tiến đến năm 2007 với mức tăng 57% đã đẩy mức dư nợ ngắn hạn lên 45.540 lớn hơn tổng dư nợ năm 2005, chiếm 54% tổng dư nợ. Bên cạnh dư nợ ngắn hạn thì dư nợ trung và dài hạn tuy tỷ trọng ngày một giảm dần, nhưng nó vẫn tăng cả về tốc độ lẫn số lượng.
Khi xem xét kỹ kết cấu dư nợ của ngân hàng phân theo thành phần kinh tế, có thể thấy ngân hàng rất chú trọng tậm trung đầu tư nguồn vốn của mình vào thành phần kinh tế hộ sản xuất, theo đúng tinh thần chỉ đạo của đảng, nhà nước và của ngành, Ngân hàng nông nghiệp Yên Châu đã xác định nông nghiệp, nông thôn và nông dân là đối tượng đầu tư chính, dư nợ qua các năm luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư, còn đối với các thành phần kinh tế khác thì không đáng kể chỉ chiếm trong khoảng từ 1 - 2% trong tổng dư nợ.
Cùng với sự tăng trưởng dư nợ nhanh hàng năm và được tập trung vào thành phần hộ gia đình, cá thể. Thì Nợ quá hạn của ngân hàng có dấu hiệu giảm vào năm 2006 nhưng lại có dấu hiệu tăng vào năm 2007; đặc biệt là là nợ cơ cấu lại thời hạn nợ có xu hướng tăng mạnh (Do ngân hàng thực hiện nghiêm túc quy định về phân loại nợ theo quyết định của thống đốc Ngân hàng nhà nước) Nếu năm 2005 nợ quá hạn, nợ cơ cấu là 587 triệu, sang năm 2006 nợ quá hạn, nợ cơ cấu giảm xuống còn 395, đối với nợ quá hạn không có. Khi đến năm 2007 thì nợ quá hạn, nợ cơ cấu đều tăng chiếm 1,7% trong tổng dư nợ, trong đó nợ cơ cấu là 1.460 triệu, còn nợ quá hạn 7 triệu.
Nguyên nhân: khách hàng vay vốn chăn nuôi bị dịch bệnh, sản phẩm nông nghiệp làm ra chưa tiêu thụ kịp do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm; Ngân hàng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ do đó nợ phải chuyển sang nhóm 2.
2.3.2 Thực trạng chất lượng tín dụng NHNo&PTNT Huyện Yên Châu.
Để có rút ra nhận xét đúng về thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo Huyện Yên Châu trước tiên phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
2.3.2.1 Phân tích chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Theo quan điểm của ngân hàng: chất lượng tín dụng được xem xét qua nhiều chỉ tiêu chung như: Nợ cơ cấu lại thời hạn nợ, nợ quá hạn, nợ xấu, hiệu xuất sử dụng vốn, vòng quay vốn tín dụng, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng tại NHNo Yên Châu
Chỉ tiêu
Năm2005
Năm 2006
Năm 2007
1.Hiệu suet sử dụng vốn
1,18
1,48
1,69
2.Vòng quay vốn tín dụng
0,6
0,46
0,46
3.Nợ cơ cấu và QH/tổng dư nợ
1,3%
0,6%
1,7%
5.Lợi nhuận/Tổng dư nợ
0,013
0,011
0,008
Nguồn: Tính toán của tác giả trên cơ sở cácBCTC của ngân hàng
Hiệu suất sử dụng vốn
Đây là chỉ tiêu cho biết hiệu quả đầu tư từ những đồng vốn huy động. Nó giúp ta biết khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn. Đồng thời nó phản ánh đúng bản chất trong từng thời gian cụ thể, bởi vì nếu tiền gửi ít hơn cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng phải tìm kiếm những nguồn vốn khác có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.
Theo số liệu từ bảng 2.4 cho thấy hiệu suất sử dụng vốn giao động trong khoảng 0,5; Năm 2005 hiệu suất sử dụng vốn là 1,18 năm 2006 tăng mạnh 1,48, đến năm 2007 tăng lên 1,69. Như vậy, hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng đã tăng từ 1,18 lên 1,69; cho thấy ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, tăng dần nhận vốn điều hoà từ NHNo Trung ương phải chịu mức lãi suất đầu vào cao. Như vậy hiệu suất sử dụng vốn này đang tăng ở mức cao, do vậy ngân hàng đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động vốn.
Vòng quay vốn tín dụng:
Trong 3 năm qua từ năm 2005 đến năm 2007, cho thấy vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng có xu hướng giảm từ 0,6 xuống 0,46 cụ thể năm 2005 là 0,6 vòng, năm 2006 là 0,46 vòng, năm2007 tiếp tục duy trì là 0,46 vòng. Chứng tỏ, trong thời gian qua vốn tín dụng của ngân hàng sử dụng có dấu hiệu chưa được như mong muốn, vốn được quay vòng ngày một giảm. Điều này, minh chứng ngân hàng cần đẩy mạnh công tác thu nợ để tăng nhanh hiệu xuất đầu tư không đạt. Như vậy, ngân hàng cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thu nợ đến hạn, hạn chế thấp nhất gia hạn nợ.
Nợ cơ cấu lại thời hạn nợ, nợ quá hạn
Nhìn vào tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng qua các năm luôn ở mức dưới 0,01%, có thể thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất tốt (nếu so với tiêu chuẩn quốc tế thì nó luôn nhỏ hơn 3%, kể cả theo tiêu chí mới của Ngân hàng Nhà Nước quy định tại QĐ493 tháng 04 năm 2005 là không quá 5%).
Nhưng khi xem xét tổng thể bao gồm n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7592.doc