Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Sơn

Mục lục Lời mở đầu Những năm cuối thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Điều đáng chú ý là những ngành kinh tế then chốt chủ yếu đã góp phần đắc lực kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường lành mạnh cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong nước, đưa

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Từ Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế nước ta từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Thành công to lớn này được khẳng định và ghi nhận không những ở trong nước mà còn được các nước trên thế giới đánh giá cao về thành tựu cải cách, phát triển kinh tế Việt Nam sau thời kỳ chuyển đổi. Có được thành tựu đó, không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các ngành kinh tế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua ngành Ngân hàng đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt động của mình. Về mô hình tổ chức, từ hệ thống Ngân hàng một cấp chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, hệ thống các Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng, tăng cường huy động, khai thác mọi nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác thanh toán và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Do đó đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định. Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT nói riêng là một trong những ngành cung ứng vốn lớn nhất để giúp cho nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng phát triển, góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Định hướng đầu tư vốn của NHNo & PTNT là tiếp cận khách hàng, đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá. trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghệ chế biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm, tận dụng mọi nguồn lao động trong nông thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội, nhất là trong khu vực nông thôn hiện nay. Hệ thống NHNo & PTNT nhận thấy rõ sự cần thiết phải chú trọng tới đối tượng tín dụng từ khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của NHNo & PTNT. Thị trường tín dụng nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà NHNo & PTNT cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói- giảm nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa NHNo & PTNT đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và cách tháo gỡ là rất cần thiết. Qua thời gian học tập tại trường Dân lập Đông Đô và quá trình thực tập, nghiên cứu tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn. Em chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn” làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp. Nội dung luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về mở rộng Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Chương 2: Thực trạng mở rộng hoạt động Tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn trong thời gian qua. Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị mở rộng hoạt động Tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế hộ sản xuất. Tuy nhiên, đây là đề tài phong phú và rất phức tạp. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tiễn, bản thân em còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong muốn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong Khoa Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là cô Nguyễn Thuỳ Dương cùng với sự giúp đỡ của các cô chú tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Cơ sở lý luận về mở rộng Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất 1.1: Kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là “ mặt trận hàng đầu”, tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm thực hiện sự đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn và mô hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi, đối với hộ sản xuất trong hệ thống ký thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời. 1.1.1: Khái niệm hộ sản xuất. Để sự tồn tại của HSX trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng HSX không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất tồn tại qua nhiều phương thức mà vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về HSX, trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, HSX là tất cả những người có cùng huyết thống cùng sống chung trong một mái nhà, có cùng tư liệu sản xuất và quyền lợi ngang nhau. Ngày nay HSX đang trở thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định 499A ngày 02/09/1993, theo đó thì khái niệm HSX được hiểu như sau: Hộ sản xuất được hiểu là hộ kinh tế tự chủ, phải có đủ tư cách pháp nhân, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo vệ quyền làm ăn chính đáng của kinh tế hộ. Với mọi chính sách của Đảng và Chính phủ cũng như Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi để họ chủ động trong quá trình sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành dịch vụ. Hộ sản xuất còn là thành viên nhận khoán đối với các tổ chức hợp tác có quyền liên hệ với Ngân hàng để vay vốn, tổ chức sản xuất các doanh nghiệp nhà nước, HSX hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chế biến, dịch vụ lưu thông hàng hoá trong ngành nông, lâm, thuỷ sản. Ngày nay chỉ thị khoán cho HSX là một vai trò chủ yếu, họ là người chủ nhận khoán đất lâu dài. Hộ sản xuất là hộ cá thể, tư nhân nếu trong sản xuất mang tính chất tư nhân vì thế trong sản xuất không theo sự hướng dẫn chung là HSX mang tính chất thừa kế. Về mặt pháp lý hộ gia đình là người nhận khoán, đối với hợp tác xã sản xuất cái gì, bao nhiêu là do kinh tế tập thể chi phí thì nay đã có sự thay đổi đáng kể, HSX là chủ thể kinh tế trực tiếp sản xuất, kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật. Hộ gia đình nông dân tự kinh doanh, tự sản xuất và tự chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. 1.1.2: Sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hộ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất chưa cho phép thu hút được hết tất cả đất đai vào sản xuất tập trung trong các hợp tác xã, DNNN thì kinh tế hộ sản xuất còn tồn tại là một tất yếu, điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường được thể hiện ở ba đặc trưng sau: - Mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp. -Tỷ lệ tích luỹ thấp chỉ đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu. - Hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Kinh tế hộ sản xuất tồn tại vì nông dân chúng ta ngoài trồng trọt còn chăn nuôi và các ngành nghề truyền thống chưa được công nghiệp hoá, chưa được đưa vào làm ăn quy củ và tập thể chưa phát huy được thế mạnh, chưa thực sự có hiệu quả đối với một số lĩnh vực, chưa thu hút hết lực lượng lao động dư thừa trong xã hội. Do đó kinh tế hộ sản xuất là một loại hình kinh tế bổ sung rất quan trọng. ở nước ta việc phát triển kinh tế hộ sản xuất là một việc làm cần thiết và thực tế cho thấy là nó đưa lại một kết quả không nhỏ trong việc phát triển kinh tế hộ nông thôn. Kinh tế HSX tạo công ăn việc làm, thu hút được vốn nhàn rỗi, tạo ra sản phẩm có ích cho xã hội và duy trì được các ngành nghề truyền thống mà các loại hình kinh tế khác hoạt động còn kém hiệu quả. 1.1.3: Đặc điểm của nền kinh tế hộ sản xuất. Kinh tế HSX ở nước ta tạo ra thu nhập chính đáng cho người lao động tiến tới giàu có thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là phát triển kinh tế hộ theo hướng nào? Đây là một vấn đề quan trọng và phức tạp cần phải tập trung thời gian, công sức và trí tuệ một cách đầy đủ nghiêm túc. Nếu xét về mặt quan hệ sở hữu kinh tế HSX phát triển theo hai hướng sau: Thứ nhất: Số hộ có vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất sẽ vươn lên trở thành giàu có, một số hộ thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu kinh nghiệm sản xuất dần dần bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất nhất là đất đai. Xu hướng này sẽ xuất hiện sở hữu tư nhân, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong nông thôn. Thứ hai: Các hộ gia đình sản xuất biết kết hợp với nhau để phát triển sản xuất trở thành các tổ chức hợp tác tự nguyện, xu hướng này phát triển sẽ xuất hiện các hình thức hợp tác mới. Đứng trên góc độ của phân công lao động xã hội và theo quy luật của sản xuất hàng hoá kinh tế hộ phát triển sản xuất theo xu hướng là: nền sản xuất tự cấp tự túc sẽ vươn lên sản xuất hàng hoá cho xã hội. Những xu hướng phát triển kinh tế hộ trên đây không đối lập với nhau mà cùng tồn tại, phát triển và quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau quá trình phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần tạo nên những đặc trưng, đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất theo kiểu mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta cụ thể: Đặc trưng 1: Các HSX ở nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cung tự cấp lên nền kinh tế hàng hoá, tiếp cận với nền kinh tế thị trường, chuyển từ nghề nông thuần tuý sang nền kinh tế đa dạng, kết hợp với phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Dưới sự tác động của các quy luật thị trường tất yếu dẫn đến cạnh tranh và hệ quả tất yếu sẽ có sự phân chia giàu nghèo trong nông thôn. Từ đó đặt ra đối với quản lý và điều tiết từ phía Nhà nước là phải làm sao vừa cho kinh tế hộ phát triển và đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ giàu, giảm số hộ nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo vươn lên khá giả. Đặc trưng 2: Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau khá lớn giữa các vùng và ngay cả trong một số vùng cũng có sự chênh lệch nhau về quy mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật lao động. Do đó, một tất yếu của sự phát triển kinh tế HSX là nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng tăng để giảm bớt tính chất sản xuất phân tách, lạc hậu của kinh tế hộ sản xuất. Đó chính là yêu cầu của sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được coi là hợp lý còn phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Đặc trưng 3: Trong quá trình chuyển hoá của kinh tế HSX sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế hộ khác nhau trong đó phổ biến là các hộ như: hộ nhận khoán trong các hợp tác xã, nông lâm trường. Đây là hình thức kinh tế hộ trong đó các hộ nhận khoán là các thành viên của tổ chức kinh tế tập thể và quốc doanh. Sự tồn tại và phát triển của các hình thức kinh tế này gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các tổ chức kinh tế đó. 1.1.4: Vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế HSX trong nền kinh tế thị trường được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế hàng hoá ở nông thôn. Vai trò của nền kinh tế hộ thể hiện vai trò của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế, cụ thể: - Kinh tế hộ tạo ra một nền nông nghiệp phát triển ổn định góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc, với đại bộ phận hộ gia đình sống ở nông thôn, kinh tế hộ phát triển vững chắc sẽ đáp ứng được nhu câu lương thực, thực phẩm cho nhân dân. Khi tạo ra được sự ổn định trên mặt trận lương thực, thực phẩm thì sẽ không gây ra sự xáo trộn trong nền kinh tế, làm cho giá cả lương thực, thực phẩm được giữ ở mức ổn định tạo tâm lý tốt đến người dân, lạm phát sẽ bớt căng thẳng. - Kinh tế hộ là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho toàn bộ nền kinh tế. Có thể nói nông thôn là nơi cung cấp lao động chủ yếu cho các ngành kinh tế quốc dân. Về lâu dài cơ cấu kinh tế sẽ dần được thay đổi, khi công nghiệp phát triển sẽ diễn ra quá trình chuyển hoá từ nông nghiệp sang công nghiệp. Là một địa bàn rộng lớn với nguồn nhân lực dồi dào, nông thôn sẽ cung cấp nguồn lực, con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn. - Kinh tế hộ phát triển sẽ là nơi tạo ra một kim ngạch xuất khẩu lớn cho đất nước. Nước ta đã và đang tiến hành xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Nổi lên chủ yếu hiện nay là xuất khẩu gạo đã mang lại những kết quả to lớn về ngoại tệ cho Nhà nước. - Nông nghiệp nông thôn là nơi trực tiếp bảo vệ môi trường và cải tạo môi trường thông qua việc trồng trọt, chăn nuôi phát triển cây con mùa vụ thích hợp. Nếu như nông nghiệp - nông thôn là nơi trực tiếp bảo vệ môi trường mà không làm tốt vấn đề này thì môi trường sống của chúng ta sẽ bị huỷ hoại một cách nhanh chóng. Vì hiện nay hàng ngày, hàng giờ các ngành sản xuất đang làm tổn hại đến môi trường. Với ưu thế số đông dân số sống ở nông thôn nên cần phải sản xuất, phải nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong hộ nông dân để có thể thực hiện tốt vấn đề môi trường đang nhức nhối hiện nay. - Nông nghiệp nông thôn là một địa bàn rộng lớn mà ở đó đại đa số là nông dân, nên việc coi trọngvà phát triển nông nghiệp nông thôn thì sẽ phát triển đất nước, nâng cao dân trí, áp dụng được khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nếu như giảm bớt được số hộ nghèo thì mức sống chung sẽ tăng lên, sức mua thị trường sẽ cao hơn. Đây sẽ là yếu tố tích cực cho phép các ngành mở rộng được sản xuất và nó tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động. Tóm lại: kinh tế hộ là một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường song nền kinh tế hộ còn nhiều khó khăn về mọi mặt, đặc biệt là vốn, đây là thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng để phát triển hoạt động Tín dụng Ngân hàng, do đó các Ngân hàng Thương mại cần quan tâm phát triển hoạt độngTín dụng đối với thành phần kinh tế này. 1.2: Tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế hộ sản xuất. 1.2.1: Khái niệm Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: Tín dụng thương mại, Tín dụng Ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng. Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Theo điều 20 Luật tổ chức tín dụng quy định: “ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”. “ Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khẩu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác”. Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có. Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ “ tín dụng hộ sản xuất”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội có thừa kế quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện vay vốn Ngân hàng. Chỉ thị 202/ chính trị ngày 28 tháng 6 năm 1991 của Chính phủ ban hành về việc cấp tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn, tiếp đến là chỉ thị 14/CP ngày 02/03/1993 của Chính phủ ban hành về chính sách cho hộ nông dân vay vốn để phát triển Nông- Lâm- Ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngày 30 tháng 3 năm 1999 Chính phủ ban hành QĐ 67/QĐ/1999 và 148/QĐ/1999 về chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ nông nghiệp nông thôn. Ngày 19/11/1999 Nghị định 165/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. NĐ 178/1999/NĐ- CP của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo tiền cho vay. NĐ 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngày 31/07/2000 Chính phủ ta QĐ số 11/2000/NQ-CP về giải pháp đảm bảo tiền vay. Ngày 25/8/2000 chính phủ ra quyết định số 103/2000/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển nông thuỷ sản. Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, Chính phủ Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã cụ thể hoá bằng Thông tư 01/TD-NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện NĐ 14 CP, văn bản số 320/CV Ngân hàng nhà nước ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc chủ đạo thực hiện QĐ 67; QĐ 198/QĐ (1994) về thể lệ cho vay vốn kinh tế gia đình và cho vay tiêu dùng. QĐ 324/QĐ (1998) về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tiếp sau đó ra đời một loạt các Thông tư văn bản mới để phù hợp với tình hình kinh tế từng thời kỳ như QĐ 283/QĐ/NHNN1 ngày 25/08/2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn bản số 284/QĐ-NHNN1 ngày 25/08/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nông nghiệp, về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ, Thông tư số 10/NHNN1 ngày 31/08/2000 của Thống đốc MHNo&PTNT Việt Nam ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Về phía Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có quy định 499A/NHNN (1993) về biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. QĐ 1317/NHNN/1996 về cho vay tiêu dùng; QĐ 180/QĐ/HĐQT ngày 15/12/1998 của hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về quy định cho vay đối với khách hàng, trên căn cứ QĐ 324/1998/QĐ NHNN Việt Nam. Văn bản 791/ NHNN-06 ngày 26/04/1999 về việc thực hiện một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Công văn 1555/NHNN-06 ngày 20/07/1999 hướng dẫn thực hiện công văn 320 của NHNN. Văn bản 1099/NHNN-06 ngày 01/06/1999 hướng dẫn nghiệp vụ cho vay HTX; Văn bản 3202/NHNN-05 ngày 18/12/2000 hướng dẫn cho vay phát triển giống thuỷ hải sản theo QĐ số 103 của Thủ tướng Chính phủ. QĐ 06/QĐ-HĐQT ngày 08/01/2001 của HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam thay thế cho số 180 cũ. QĐ số 72/QĐ-HĐQT, ngày 31/01/2002 thay thế cho QĐ 06/QĐ- HĐQT; CV 704/NHNN-05 hướng dẫn cho vay cơ sở hạ tầng ngày 26/03/2001 của NHNo&PTNT; CV 733/NHNN-06 ngày 28/03/2001 của NHNN Việt Nam hướng dẫn cho vay kinh tế trang trại; 749/NHNN Việt Nam - 06 ngày 29/03/2001 của NHNN Việt Nam hướng dẫn cho vay thông qua tổ vay vốn; 750/NHNN-06 ngày 29/03/2001 hướng dẫn thêm cho vay và phát triển ngành nghề ở nông thôn; 1111/NHNN-06 ngày 04/05/2001 của NHNN Việt Nam, về việc hướng dẫn bổ sung cho vay theo hạn mức tín dụng đối với hộ gia đình, cá nhân. Từ đó giải quyết những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển Ngày 24/9/2003 NHNo&PTNT Việt Nam ban hành QĐ số 300/QĐ-HĐQT - Tín dụng thay thế cho quyết định số 167/QĐ- HĐQT-03 ngày 7 tháng 9 năm 2000 quyết định về đảm bảo tiền vay trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam với các văn bản trên, đã mở rộng ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng, trong khi đó hộ sản xuất kinh doanh đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên trị trường và được môi trường xã hội, pháp luật cho phép. 1.2.2: Vai trò của Tín dụng đối với hộ sản xuất. Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành “ bà đỡ” trong quá trình phát triển của nền kinh tế hành hoá. Nhờ có vốn tín dụng, các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất cảI tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. 1.2.2.1: Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, cùng với sự chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này, các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn , các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp , tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống, vật chất cũng như tinh thần cho mọi người. Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường rất lớn của Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của Ngân hàng ngày càng tăng. 1.2.2.2: Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ . Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay. Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó các hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. 1.2.2.3: Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động. Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế, đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề thu hút được số lao động nhàn rỗi, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư, diêm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ . 1.2.2.4: Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội. Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động, đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập, sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hóa, kinh tế xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau, hạn chế bớt sự phân hóa bất hợp lý trong xã hội, giữ vững an ninh, trính trị. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở lên khá giả hơn, hộ khá trở lên giàu hơn, chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như: rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan...Nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. 1.2.3: Các hình thức tổ chức tín dụng đối với hộ sản xuất. Căn cứ vào nghị định số14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ Tướng Chính Phủ và thông tư số 01/TT-NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định “Về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn và phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn”. Với mục đích là tạo điều kiện và khuyến khích những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh, vay vốn để phát triển sản xuất hàng hoá nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. công nghiệp, mở ngành nghề mới và kinh doanh dịch vụ có hiệu quả thiết thực, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng xã hội văn minh dân giàu nước mạnh. Nông nghiệp nông thôn là ngành khu vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao, cho nên để đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất thì Ngân hàng cần tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng quy định: Hộ sản xuất phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái trong quá trình sử dụng vốn vay, vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn, ngoài ra vốn vay còn phải được đảm bảo bằng giá trị tài sản thế chấp. * Quy trình cấp tín dụng đối với hộ sản xuất. Khi các hộ sản xuát có nhu cầu vay vốn, Ngân hàng sẽ yêu cầu họ lập hồ sơ vay vốn, hồ sơ gồm: Giấy tờ chứng minh tính pháp lý của khách hàng, phương án, dự án sản xuất kinh doanh ( riêng đối với các khoản vay nhỏ, khách hàng chỉ cần khai báo các thông tin liên quan đến ngành, nghề sản xuất và các điều kiện vật chất khác ), giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo và giấy đề nghị vay vốn. Trong quá trình thẩm định hồ sơ vay, Ngân hàng sẽ xét duyệt cho vay nếu các hộ có đầy đủ các điều kiện mà Ngân hàng quy định như: - Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch với Ngân hàng là chủ hộ hoặc người đại diện của hộ; chủ hộ hoặc người đại diện phải có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. - Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. - Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật. - Có khả năng tài chính và có các nguồn thu nhập hợp pháp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng. - Cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu vay từ 10 triệu đồng trở lên và các hộ sản xuất phải có vốn tự có bằng tiền, giá trị vật tư, hay ngày công lao động đóng góp vào tổng số vốn của dự án sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương, những hộ ở địa phương khác đến phải có xác nhận của UBND nơi có hộ khẩu thường trú và được Uỷ ban nhân dân nơi đến cho phép sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của Ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay. Đồng thời hộ sản xuất phải cung cấp cho Ngân hàng những tài liệu có liên quan đến việc sử dụng vốn vay đó. Tùy vào loại hình sản xuất và quy mô số tiền xin vay mà Ngân hàng phân cấp người ra quyết định tín dụng. Hợp đồng tín dụng được ký trực tiếp với các hộ hoặc với tổ trưởng, trong hợp đồng tín dụng ghi rõ thời hạn vay, lãi suất vay... Thời hạn cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gồm có: Cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) đối tượng là vật tư, chi phí trồng trọt, chăn nuôi, chi phí các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vật tư, hàng hoá đối với các hộ làm dịch vụ và kinh doanh thương nghiệp. Cho vay trung hạn (từ 1năm- 5 năm) đối tượng cho vay là chi phí mở rộng diện tích canh tác xây dựng cơ bản đồng ruộng để gieo trồng cây hàng năm, chi phí đào đắp ao hồ, xây dựng chuồng trại, chi phí cải tiến, đổi mới công nghệ, chi phí sửa chữa lớn tàu thuyền, phương tiện vận tải loại nhỏ. Cho vay dài hạn (trên 5 năm) đối tượng là chi phí xây dựng mới đồng ruộng, đồi cây, ao hồ, nhà xưởng, máy móc thiết bị tàu thuyền, phương tiện vận tải vừa và lớn, chi phí trồng và chăm sóc cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm... Khi xét duyệt cho vay Ngân hàng yêu cầu các hộ vay vốn phải nộp đầy đủ các thủ tục theo từng loại hộ vay và thời hạn cho vay. Mức lãi suất cho vay thỏa thuận phù hợp với thị trường vốn trên địa bàn và từng loại cho vay đồng thời phải ph._.ù hợp với khung lãi suất đầu vào tối thiểu, lãi suất đầu ra tối đa do Tổng giám đốc công bố hoặc ủy quyền cho giám đốc Ngân hàng tỉnh, Thành phố, khu vực công bố. Sau khi cho vay, Ngân hàng cần tiến hành giám sát tiền vay và thu hồi nợ. Việc giải ngân phụ thuộc vào phương thức cho vay và quy mô của số tiền cho vay. Sau khi giải ngân thường Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra tại chỗ việc sử dụng vốn vay theo mục đích xin vay. Ngân hàng tiến hành thu nợ theo định kỳ, thường là sau kỳ thu hoạch. Trong trường hợp không trả được nợ thì tùy vào nguyên nhân mà xử lý theo quy định. * Phương thức cho vay trực tiếp hộ sản xuất: - Cho vay tại trụ sở: Sau khi Ngân hàng đã nhận đủ thủ tục, hồ sơ vay vốn của các hộ sản xuất nếu không có thiếu sót nào thì cán bộ chuyên quản viết phiếu hẹn khách hàng chậm nhất là 15 ngày phải giải quyết. Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ đi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ghi rõ ý kiến của mình đồng ý hay không đồng ý, nếu không phải đi thẩm định thì giải quyết ngay trong ngày, khi cán bộ tín dụng đã thẩm định xong trình trưởng phòng tín dụng nếu không phải tái thẩm định thì trình giám đốc phê duyệt và thông báo cho khách hàng biết. Khi đã có quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng để hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn sau đó bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ vay vốn cho bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân và sau mỗi định kỳ cán bộ tín dụng phải đi kiểm tra để sử dụng vốn vay. Vì đây là cho vay trực tiếp nên Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng nhanh chóng, tạo thuận lợi trong việc ra quyết định cho vay tuy nhiên cũng gây tốn kém, tăng chi phí nghiệp vụ đối với Ngân hàng. - Cho vay theo tổ hợp tác vay vốn. Theo phương thức này, 10-40 hộ sản xuất lập thành một tổ hợp tác vay vốn. Để trở thành thành viên của tổ, các thành viên phải gần gũi nhau ở một số mặt như cùng ấp, cùng canh tác, nuôi một loại cây, con hay sản xuất cùng một loại mặt hàng hoặc cùng mục đích vay vốn. Tổ phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các hộ thành viên và bầu tổ trưởng để đại điện pháp lý trong quan hệ giao dịch với Ngân hàng. Trên cơ sở các quy định cho vay của Ngân hàng, mỗi hộ làm giấy đề nghị vay vốn, tổ tiến hành họp, xét theo các điều kiện và nhất trí số tiền được vay của từng hộ. Sau đó tổ trưởng gửi giấy đề nghị vay cho cả tổ tới Ngân hàng cùng các giấy tờ khác. Trên cơ sở đó nhân viên cho vay sẽ tiến hành thẩm định, thông báo số tiền cho vay của từng hộ cũng như cho cả tổ. Tổ trưởng là người trực tiếp nhận tiền, theo dõi nợ vay và thu nợ để chuyển trả cho Ngân hàng. Tuy nhiên từng hộ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc hoàn trả số tiền được vay cho Ngân hàng. - Cho vay thông qua tổ liờn danh, liên đới vay vốn. Về cách thức thành lập tổ tương tự như thành lập tổ hợp tác vay vốn. Theo phương thức này, tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn, lập danh sách thành viên được chọn đề nghị Ngân hàng cho vay, cán bộ tín dụng cùng tổ trưởng trực tiếp thẩm định hộ vay vốn hoặc thẩm định điển hình, hướng dẫn làm hồ sơ, kiểm tra việc sử dụng vốn vay. Ngân hàng trực tiếp giải ngân đến từng hộ sản xuất và thu nợ trực tiếp khi đến hạn. Trong trường hợp có thành viên trong tổ không trả nợ đúng hạn thì các thành viên khác phải chịu liên đới trách nhiệm. Trường hợp chưa trả dứt nợ cũ, Ngân hàng sẽ không cho tổ vay món mới. Hai phương thức cho vay theo tổ hợp tác và tổ liên danh, liên đới vay vốn giúp Ngân hàng giảm bớt được thời gian nhận và thẩm định hồ sơ vay, giúp khách hàng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong giao dịch vay vốn Ngân hàng, quan tâm hơn nữa đến việc sử dụng vốn có hiệu quả tuy nhiên cũng gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay. - Cho vay thông qua tổ vay vốn lưu động. Theo phương thức này, các tổ vay vốn lưu động được thành lập ở những nơi chưa có chi nhánh Ngân hàng cấp 4 hoạt động, đó là các làng, xã vùng sâu, vùng xa dân cư không nhiều và họ không có điều kiện tiếp cận vốn đầu tư của Ngân hàng. Tổ cho vay này gồm có cán bộ tín dụng, kế toán, thủ quỹ làm nhiệm vụ thông báo lịch hoạt động của tổ, hướng dẫn tiếp nhận hồ sơ cho vay, thẩm định cho vay, giải ngân cho vay, thu nợ và thu lãi khi đến hạn đối với hộ vay vốn. Qua đó sẽ giúp Ngân hàng mở rộng địa bàn cho vay của mình, từ đó tăng trưởng dư nợ mặt khác các hộ sản xuất ở các địa phương này sẽ có điều kiện tiếp cận vốn Ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. - Phương thức cho vay ba bên. Theo phương thức này, hợp đồng tín dụng có nhiều bên tham gia, trong đó bên thứ ba (ngoài Ngân hàng và khách hàng) là những tổ chức có trách nhiệm cung ứng vật tư, hàng hoá cho khách hàng và tiền vay sẽ được Ngân hàng giải ngân để thanh toán trực tiếp cho các tổ chức này, khách hàng sẽ trực tiếp trả nợ cho Ngân hàng hoặc bên thứ ba là các đơn vị bao tiêu mà họ có trách nhiệm thanh toán nợ cho Ngân hàng nhân danh khách hàng đi vay, còn khách hàng sẽ được Ngân hàng cấp tiền vay và giao sản phẩm cho tổ chức bao tiêu. Phương thức này tạo điều kiện cho Ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay. * Phương thức cho vay gián tiếp hộ sản xuất: - Cho vay thông qua các tổ chức trung gian kinh tế. Trong phương thức cho vay này, Ngân hàng cấp tín dụng cho hộ sản xuất thông qua tổ chức trung gian. Các tổ chức trung gian trong trường hợp này thường là các công ty chế biến nông sản được Ngân hàng cấp tín dụng sau đó sẽ ứng vốn cho các hộ sản xuất, đến vụ thu hoạch các công ty trung gian mua các sản phẩm của hộ sản xuất đồng thời thu các khoản nợ đã ứng từ đầu vụ sản xuất và trả nợ cho Ngân hàng. Thực chất Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở phương án tài chính của công ty và phụ thuộc vào việc cho vay mà Ngân hàng áp dụng còn việc ứng vốn cho hộ sản xuất là quyền quyết định của công ty trên cơ sở thoả thuận với hộ sản xuất. Cho vay theo phương thức này đảm bảo hộ vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích giúp Ngân hàng giảm bớt thời gian kiểm tra, giám sát sau giải ngân. - Cho vay qua các tổ chức trung gian tài chính. Các tổ chức trung gian tài chính trong trường hợp này thường là Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Thực chất của phương thức này là sự uỷ thác cho vay giữa Ngân hàng và tổ chức trung gian tài chính khi đối tượng khách hàng là hộ sản xuất mà Ngân hàng cần đầu tư không nằm trên địa bàn hoạt động của Ngân hàng hoặc không nằm trong lĩnh vực đầu tư thường xuyên của Ngân hàng. Theo phương thức này, Ngân hàng sẽ chuyển vốn cho tổ chức trung gian tài chính và tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm giải ngân đối với hộ sản xuất , thu nợ, thu lãi khi đến hạn và hoàn trả vốn cho Ngân hàng. Phương thức này sẽ giúp cho Ngân hàng thâm nhập vào lĩnh vực mới một cách thuận lợi để mở rộng thêm chi nhánh nhưng quan trọng hơn cả là Ngân hàng sẽ không phải bỏ ra chi phí cho việc tìm hiểu thông tin về lĩnh vực này khi mà các tổ chức trung gian tài chính luôn phải báo cáo số liệu từng thời kỳ cho Ngân hàng. Tuy nhiên các tổ chức trung gian tài chính cũng thu được lợi nhuận từ dịch vụ này và khách hàng là hộ sản xuất cũng có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng một cách dễ dàng hơn khi phương thức cho vay này được áp dụng. Tóm lại: Để thực hiện mục tiêu mở rộng hiệu quả đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất thì đòi hỏi các Ngân hàng phải thực hiện phối hợp các phương thức nêu trên bởi mỗi phương thức cho vay đều có những ưu, nhược điểm riêng và chúng sẽ bổ trợ cho nhau để giúp Ngân hàng đạt được mục tiêu đã đề ra. 1.3: Mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. 1.3.1: Khái niệm. Mở rộng tín dụng hộ sản xuất của Ngân hàng thương mại là quan hệ mở rộng tín dụng giữa các Ngân hàng thương mại đối với hộ sản xuất. Như vậy, khái niệm về mở rộng tín dụng hộ sản xuất của Ngân hàng thương mại cũng hoàn toàn nhất quán với khái niệm mở rộng tín dụng Ngân hàng thương mại, chỉ khác ở đối tượng quan hệ được giới hạn chỉ có thành phần hộ sản xuất. Quan hệ mở rộng tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với hộ sản xuất không phải là quan hệ xin cho, quan hệ trợ cấp, mà nó phải đáp ứng lơi ích kinh tế của cả hai bên. Tuy nhiên trong thời gian qua việc hiểu đúng và thực hiện đúng khái niệm về mở rộng tín dụng hộ sản xuất của các hộ vay vốn và ngay cả Ngân hàng thương mại cũng còn chưa chuẩn. Điều đó đưa lại không ít khó khăn cho việc mở rộng quan hệ tín dụng hộ sản xuất. Do vậy, ở đây ta có thể hiểu: Mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất thể hiện việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tới các hộ sản xuất để có khả năng sản xuất, kinh doanh và phát triển. 1.3.2: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng mở rộng Tín dụng đối với hộ sản xuất. * Tốc độ mở rộng khách hàng là chỉ số phản ánh số lượng HSX. Đề nghị vay vốn qua Ngân hàng mà được Ngân hàng cho vay. Được thể hiện qua công thức: Tốc độ mở rộng khách hàng là HSX = HSXnăm t - HSXnăm t-1 HSXnăm t-1 Tỷ trọng khách hàng được vay vốn = Số lượng HSX được vay vốn Số lượng HSX đề nghị vay vốn * Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất: Là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là 1 năm. Ngoài ra, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm. Tỷ trọng doanh số cho vay HSX = Doanh số cho vay HSX * 100% Tổng doanh số cho vay Bên cạnh đó chỉ tiêu phần trăm của doanh số cho vay và chỉ tiêu phần trăm của hộ sản xuất vay cũng giúp cho Ngân hàng đánh giá khả năng mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất. % tăng Doanh số cho vay = Doanh số cho vay HSXnăm t -Doanh số cho vay HSXnăm t - 1 Doanh số cho vaynăm t - 1 * Dư nợ cho vay đối với HSX là số tiền mà Ngân hàng đang cho khách hàng vay (kể cả trong hạn và được ra hạn nợ) được thể hiện qua công thức Tỷ trọng dư nợ cho vay HSX = Dư nợ cho vay HSX Tổng dư nợ cho vay Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay HSX = Dư nợ HSXnăm t - Dư nợ HSX năm t-1 Dư nợ HSX năm t-1 * Một chỉ tiêu khác = Dư nợ HSX * 100% Tổng dư nợ hộ sản xuất Đây là chỉ tiêu tương đối phản ảnh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30(%) tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo&PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung, dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng. 1.3.3: Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng mở rộng hoạt động Tín dụng đối với hộ sản xuất. Mở rộng hoạt động tín dụng hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại và của toàn xã hội. Để mở rộng hoạt động tín dụng hộ sản xuất đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của từng nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động tín dụng hộ sản xuất. 1.3.3.1: Các nhân tố về kinh tế xã hội. a) Nhân tố kinh tế. Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng hộ sản xuất, đồng thời làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các hộ tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng giá cả tăng quá mức hay khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng không biến động lớn. Trong trường hợp này, mở rộng hoạt động tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của bản thân các Ngân hàng Thương mại. Để mở rộng hoạt động tín dụng còn phụ thuộc vào việc huy động vốn và các khách hàng. Bởi nó là cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế. Do đó mỗi biểu hiện xấu hay tốt của khách hàng sẽ ảnh hưởng tương ứng đến hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín dụng. Với khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu hướng phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường (vay trả nợ sòng phẳng) thì cầu nối giữa vay và cho vay sẽ thông suốt và ngày càng mở rộng. Bằng cơ chế chính sách tín dụng phù hợp các Ngân hàng Thương mại sẽ tìm được khách hàng tốt để vay và cho vay, tạo sự hợp lý giữa nguồn vốn huy động được với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng. Mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với mức lợi nhuận của hộ sản xuất cũng ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động Tín dụng. Lợi tức của Ngân hàng thu được và hoạt động tín dụng bị giới hạn do lợi nhuận của hộ sản xuất sử dụng vốn vay Ngân hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các hộ sản xuât thu được từ hoạt động sản xuất, các hộ sản xuất sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng, ảnh hưởng đến qúa trình sản xuất của các hộ nói riêng và tình hình phát triển kinh tế nói chung. b) Nhân tố thuộc về khách hàng: Ngoài nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với HSX thì có rất nhiều nhân tố từ chính khách hàng mở rộng tín dụng. - Trình độ của khách hàng: bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên nếu khách hàng không có khả năng quản lý đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng mở rộng tín dụng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đây là nhân tố thuộc về chủ quan của khách hàng. Nhân tố này rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ khi vay hoặc khi đã được vay. Tuy nhiên việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã làm ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng của Ngân hàng. c): Nhân tố thuộc về Ngân hàng: - Bên cạnh nhân tố kinh tế thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hướng tới mở rộng tín dụng. Những nhân tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế. - Chính sách tín dụng của Ngân hàng là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với yêu cầu, thu hụt được khách hàng đồng thời khuyến khích được khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới mở rộng tín dụng. - Chấp hành quy định thể chế tín dụng: Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt, làm tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá mở rộng tín dụng có được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng. - Cho vay một số khách hàng với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay làm cho mở rộng tín dụng bị ảnh hưởng. - Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp với mở rộng cho vay. - Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời lắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho việc mở rộng tín dụng bị giảm sút. - Hệ thống thông tin Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định mở rộng tín dụng, nhân tố này rất quan trọng và góp phần ngăn chặn những khoản cho vay tràn nan ngay từ khi chưa xảy ra. Tóm lại: tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng hết sức to lớn đối với HSX cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của nhà nước là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy phát triển HSX một cách toàn diện từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với HSX còn có nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ do đó việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với HSX là điêù rất quan trọng đối với NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT huyện Từ Sơn nói riêng. 1.3.3.2: Môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ của văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với qúa trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Thực tiễn kinh tế thị trường qua nhiều thập kỷ đã có nhiều hồ sơ kết luận rằng: Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật, hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Với vai trò đảm bảo cho việc chuyển một nền kinh tế thị trường từ tự phát, kém tổ chức chuyển sang nền kinh tế thị trường văn minh, hoàn hảo, pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao, là cơ sở để giải quyết các vấn đề thu hồi nợ khó đòi. Vì vậy, nhân tố pháp luật có vị trí quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng hộ sản xuất nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai phía và việc mở rộng hoạt động tín dụng mới được đảm bảo. Chương 2: Thực trạng mở rộng hoạt động Tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Từ Sơn trong thời gian qua: 2.1: Một vài nét về Ngân hàng và tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn huyện. 2.1.1: Tổng quan và sự phát triển của Ngân hàng. 2.1.1.1: Lịch sử hình thành. NHNo&PTNT khu vực Từ Sơn trước đây là một phòng giao dịch thuộc NHNo & PTNT huyện Tiên Sơn, tiền thân là chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện Tiên Sơn trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Tỉnh Bắc Ninh. Khi Chính phủ ban hành nghị định 53/HĐBT ngày 26 tháng 3 năm 1988 về chuyển hoạt động của hệ thống Ngân hàng thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng chuyên doanh. Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện Tiên Sơn được chuyển thành chi nhánh NHNo & PTNT huyện Tiên Sơn (hoạt động từ tháng 7 năm 1988). Đến năm 1999 huyện Tiên Sơn được tách ra làm hai huyện đó là: huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn. Cũng từ đây theo quyết định của NHNo tỉnh Bắc Ninh, NHNo huyện Từ Sơn đã đi vào hoạt động riêng với quản lý 11xã, thị trấn trực thuộc khu vực của huyện. 2.1.1.2: Cơ cấu tổ chức- bộ máy cán bộ. Cơ cấu các phòng, tổ: NHNo&PTNT khu vực Từ Sơn với 41 cán bộ được tổ chức như sau: - Ban Giám đốc. - Phòng kế hoạch kinh doanh. - Phòng kế toán- Ngân quỹ. - Phòng hành chính. - Tổ thẩm định. Chức năng nhiệm vụ: - Ban Giám đốc gồm 3 đồng chí, trong đó: Giám đốc điều hành chung trực tiếp phụ trách phòng hành chính, tổ thẩm định. 01 Phó giám đốc phụ trách tín dụng, 1Phó giám đốc phụ trách kế toán- Ngân quỹ - Phòng kế hoạch kinh doanh: Với 1 đồng chí trưởng phòng và 1 phó phòng cùng 5 cán bộ ( tổng số 7 cán bộ), có 5 người trình độ đại học và tương đương, 2 người có trình độ trung cấp. Thực hiện tổ chức cho vay trực tiếp các doanh nghiệp, hộ sản xuất và lập kế hoạch kinh doanh, tổng hợp báo cáo toàn Ngân hàng. - Phòng kế toán- ngân quỹ: với một trưởng phòng, 1 phó phòng, 1 quỹ trưởng và 9 cán bộ. Trong đó 7 người có trình độ đại học và tương đương, 5 người có bằng trung cấp. Thực hiện chức năng giao dịch trực tiếp với khách hàng và tổng hợp công tác hạch toán kế toán, báo cáo kế toán Ngân hàng. Đồng thời thực hiện vai trò cân đối tiền mặt và ngân phiếu thanh toán trong việc điều hoà tiền mặt với NHNo&PTNT tỉnh. - Phòng hành chính: Gồm 3 đồng chí, trong đó có một đồng chí lãnh đạo phòng và 2 cán bộ. Đảm nhiệm công tác nhân sự và công tác hành chính của Ngân hàng. - Phòng giao dịch Đồng Quang: Tổng số có 8 người: trong đó lãnh đạo phòng là 1 người, 1 phó trưởng phòng phụ trách và 6 cán bộ. Có 4 người trình độ đại học và tương đương, 4 người có bằng trung cấp. - Tổ thẩm định: Có 1 người và có trình độ đại học. Sơ đồ bộ máy tổ chức hoạt động của Ngân hàng: Ban giám đốc PGD Đồng Quang NH cấp III Châu Khê Phòng hành chính Phòng KT Ngân quỹ Phòng Tín dụng Với việc bố trí cán bộ từng loại nghiệp vụ như trên đã đảm bảo thực hiện đúng định hướng kinh doanh của NHNo&PTNT tỉnh là: tăng cường cán bộ làm nghiệp vụ tín dụng chiếm 56,8% tổng số cán bộ công nhân viên chức toàn đơn vị ( quy định tối thiểu là 50%), mặt khác đảm bảo mỗi cán bộ làm công tác Tín dụng phải được lựa chọn kỹ lưỡng cả đạo đức, độ tuổi, trình độ, kỹ sảo, năng lực trong công tác tín dụng. 2.1.2: Một vài nét về tình hình kinh tế của huyện Từ Sơn. Từ Sơn là một huyện đồng bằng của Tỉnh Bắc Ninh. Với diện tích tự nhiên 61,4 km2, dân số 116.386 người. Huyện Từ Sơn có 11 xã, thị trấn. Vị trí địa lý tự nhiên của huyện khá thuận lợi nằm trên quốc lộ 1A tiếp giáp và là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội. Ngoài đường quốc lộ 1A còn có đường sắt tạo ra một mối giao lưu kinh tế văn hoá- xã hội khá phát triển. Trên địa bàn huyện có đầy đủ các thành phần kinh tế như DNNN, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và hộ gia đình cá nhân. Thuộc các ngành nghề CN- TTCN , dịch vụ đặc biệt là các ngành nghề truyền thống như đồ gỗ, sản xuất sắt thép, dệt vải.. ngày càng phát triển. Năm 2004 tình hình kinh tế của huyện có nhiều chuyển biến tích cực và thu được kết quả khá khả quan, đặc biệt là trên các lĩnh vực sau: - Về sản xuất CN-TTCN: Phát triển với tốc độ khá, đến nay toàn huyện có 499 doanh nghiệp ( trong đó Công ty trách nhiệm hữu hạn: 325; doanh nghiệp tư nhân: 161; Công ty cổ phần: 13) và 1 hợp tác xã cùng với trên 1300 hộ sản xuất tiểu thủ CN đã góp phần đưa giá trị sản xuất CN-TTCN năm 2004 đạt 1353 tỷ đồng tăng 5,4% kế hoạch, trong đó: Giá trị sản xuất CN-TTCN ngoài quốc doanh ước đạt 1300 tỷ đồng, bằng 102,8% kế hoạch năm, tăng 23,64% so với năm 2003. Một số ngành hàng có mức tăng trưởng cao là: sản phẩm may mặc tăng23,8%, vật liệu xây dựng tăng 18,5%.. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, huyện đã hình thành 5 cụm CN làng nghề và đa nghề tập trung với diện tích 73,1 ha. Đến nay đã có 434/494 cơ sở được thuê đất đã và đang xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc, thiết bị, với tồn tại giá trị đầu tư trên 700 tỷ đồng, trong đó có 361 cơ sở đã đi vào hoạt động có hiệu quả. - Hoạt động thương mại- du lịch và dịch vụ: Trên địa bàn huyện phát triển sôi động và đa dạng. Trong năm 2004 huyện đã cấp 410 giấy phép hoạt động kinh doanh đưa số hộ các thể được cấp Đăng ký kinh doanh lên 3439 hộ. Góp phần đưa tổng giá trị hàng hoá bán lẻ và dịch vụ thương mại trên địa bàn huyện ước đạt 530 tỷ bằng 111,6 % kế hoạch và tăng 18% so với năm 2003. Ngân hàng và qũy tín dụng nhân dân hoạt động mạnh, đảm bảo cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp và nhân dân vay để phát triển sản xuất. Xuất nhập khẩu vẫn được duy trì: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 10,122 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu: 6,423 triệu USD, nhập khẩu: 3,699 triệu USD. Dịch vụ bưu chính viễn thông năm 2004 phát triển khá, ước lắp đặt được 3450 máy đạt 104% kế hoạch, đưa tổng số máy điện thoại trên địa bàn huyện lên 17.270 thuê bao ước đạt bình quân 14 máy/ 100 dân, đáp ứng cơ bản nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân. - Về công tác tài chính: Tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện năm 2004 ước đạt 87.245 triệu đồng bằng 116% kế hoạch tăng 64% so với năm 2003, một số khoản thu đạt khá là: Thu tiền sử dụng đất các dự án đô thị 174%, thu chống lậu đạt 148%, tiều thu thuế đất đạt 6,7 tỷ đồng. Chi ngân sách huyện ước thực hiện 41.340 triệu đồng đạt 10,05% kế hoạch tăng 17,6% so với năm 2003, đã cơ bản đảm bảo kịp thời chi cho các hoạt động thường xuyên, nhiệm vụ đột xuất, chương trình thực hiện mục tiêu và chi đầu tư phát triển của huyện. Bên cạnh những thành tựu đạt được còn có những khó khăn sau. Trên địa bàn huyện có nhiều tổ chức tín dụng cùng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Đầu năm dịch cúm gia cầm bùng phát và lan rộng trong toàn huyện, chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng tăng cao. Đặc biệt là giá nguyên vật liệu đầu vào của sản phẩm các làng nghề ở huyện Từ Sơn như sắt thép và đồ gỗ mỹ nghệ tăng, trong khi đó giá thành của sản phẩm sản xuất ra tăng không kịp so với nguyên vật liệu đầu vào. Do đó đã ảnh hưởng nhiều đến công tác huy động nguồn vốn và đầu tư trên địa bàn. Các khu, cụm CN mặt bằng sản xuất mặc dù đã được cải thiện song vấn còn chật hẹp, công nghệ lạc hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục. Tốc độ triển khai các dự án cụm CN mới còn chậm, một số doanh nghiệp, hợp tác xã có đăng ký kinh doanh nhưng hoạt động không hiệu quả đã ảnh hưởng đến công tác đầu tư vốn của Ngân hàng. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại các cụm CN , làng nghề, hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn tiến triển chậm đã ảnh hưởng nhiều đến tốc độ, quá trình đầu tư của NHNo Bắc Ninh nói chung và huyện Từ Sơn nói riêng. Tóm lại: tình hình kinh tế xã hội năm 2004 của huyện có nhiều chuyển biến tích cực. Sản xuất CN-TTCN vượt chỉ tiêu kế hoạch giá trị sản lượng. Xây dựng cơ bản, giao thông vận tải nhất là chương trình làm đường giao thông nông thôn đạt kết quả khá. Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, văn hoá xã hội phát triển, đời sống nhân dân ổn định. Công tác tài chính được đảm bảo duy trì, ổn định. Công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực được tăng cường. 2.1.3: Tình hình hoạt động kinh doanh của NHN0&PTNT huyện Từ sơn. 2.1.3.1: Công tác huy động vốn. Công tác huy động vốn không những quyết định đến hiệu quả hoạt động của công tác tín dụng mà còn quyết định đến quá trình hoạt động của Ngân hàng. Vốn quyết định quy mô hoạt động của Ngân hàng, quyết định việc mở rộng loại hình hoạt động hay thu hẹp, quyết định năng lực cạnh tranh và vị thế của Ngân hàng trong thương trường.. Với phương châm xác định NHNo&PTNT huyện Từ Sơn là một Ngân hàng Thương mại quốc doanh thực hiện kinh doanh tiền tệ- tín dụng trên địa bàn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và các làng nghề truyền thống, NHNo&PTNT Từ Sơn đã luôn trú trọng công tác huy động vốn để có nguồn vốn chủ động cho vay. Ban lãnh đạo Ngân hàng đã đề ra nhiều biện pháp huy động vốn như: tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị, củng cố đội ngũ nhân viên, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật.. qua đó khách hàng thấy được hình ảnh tốt đẹp của Ngân hàng từ đó tạo uy tín, vị thế, lòng tin của khách hàng. Biểu 01: Kết quả huy động vốn. ĐVT:Triệu đồng TT Chỉ tiêu 2002 2003 2004 ± 03/02 ± 04/03 I Nguồn vốn nội tệ 194.625 231.514 219.314 36.899 (12.200) 1 Tiền gửi không kỳ hạn 27.931 21.728 23.932 (6.203) 2.204 2 Tiền gửi có kỳ hạn 166.694 209.786 178.547 43.092 (31.239) 2.1 Tiền gửi dưới 12 tháng 52.499 58.133 57.512 5.634 (621) 2.2 Tiền gửi trên 12 tháng 114.195 151.653 121.035 37.458 (30.618) II Nguồn vốn ngoại tệ 27.375 55.651 42.163 28.276 13.488 Tổng cộng 222.000 287.165 261.477 65.165 25.688 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Từ Sơn). Biểu kết quả huy động vốn Kết quả huy động vốn. Nhìn vào bảng kết quả huy động vốn cho thấy năm 2003 so với năm 2002 nguồn vốn tăng ở hầu hết các loại tiền gửi. Để đạt được điều đó là do NHNo&PTNT huyện Từ Sơn đã tích cực tuyên truyền, tiếp thị và phổ biến các nghiệp vụ huy động vốn của NHNo cho khách hàng biết bằng nhiều hình thức. Nắm bắt thông tin về khách hàng có tiền nhàn rỗi, bố trí xắp xếp nơi giao dịch thuận lợi, phong cách phục vụ. NHNo&PTNT Từ Sơn đã tổ chức huy động vốn dưới nhiều hình thức như: tiền gửi tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm lãi suất luỹ tiến, tiết kiệm dự thưởng nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Đến năm 2004 tổng nguồn vốn tại NHNo&PTNT Từ Sơn giảm đi so với năm 2003là do: trên địa bàn Từ Sơn có nhiều Ngân hàng cùng thành lập (Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng công thương, Ngân hàng Sài Gòn thường tín..), năm 2004 lại xuất hiện Ngân hàng cổ phần á Châu. Hơn nữa, năm 2004 là năm các khu công nghiệp (Khu công nghiệp TiênSơn, Đa Hội, Đồng Quang) đã đi vào hoạt động, do vậy việc mua sắm trang thiết bị đồng bộ quá lớn, nhu cầu vốn nhiều là tất yếu. Khó khăn là vậy song NHNo&PTNT vẫn chiếm được ưu thế cạnh tranh lớn trên thị trường,bởi NHNo Từ Sơn đã đề ra nhiều biện pháp tích cực hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng phục vụ tới khách hàng. 2.1.3.2: Công tác hoạt động cho vay: Từ khi có chỉ thị 202/HĐBT, Nghị định 14, quyết định 67 của Chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn, nghị quyết liên tịch 2308, quyết định 1627 của Ngân hàng Nhà nước, quyết định 72 của NHNo&PTNT Việt Nam. Hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Từ Sơn nói riêng đã tập trung đầu tư cho thị trường nông nghiệp, nông thôn, trên cơ sở sàng lọc khách hàng đầu tư phát triển kinh tế hộ sản xuất, mở rộng cho vay thông qua tổ tương hỗ thực hiện cho vay, thu nợ lưu động tại xã, tạo thuận lợi cho bà con nông dân thực thuận tiện trong việc giao dịch vốn Ngân hàng. 2.1.3.2.1: Cơ cấu cho vay tại NHNo&PTNT Từ Sơn. Biểu 02: Tình hình sử dụng vốn qua các năm. Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 ±03/02 ±04/03 1: Vay ngắn hạn. Doanh số cho vay 94.554 113.246 110.659 18.692 (2587) Dư nợ 78.057 94.748 81.360 16.691 (13.388) 2: Vay trung và dài hạn Doanh số cho vay 101.882 140.092 132.062 38.210 (8.030) Dự nợ 63.522 144.719 130.892 81.197 (13.827) 3: Tổng số Tổng số cho vay. 196.436 253.338 242.721 56.902 (10.617) Tổng dư nợ 141.579 239.467 212.252 97.888 (27.215) (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn). Trong 3 năm từ năm 2002-2004 bằng vốn huy động tại chỗ, một phần vốn điều hoà của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn - NHNo&PTNT huyện Từ Sơn đã cho vay được: 692.495 triệu đồng. Dư nợ cuối năm 2004 đạt 212.252 triệu đồng, tốc độ tăng dư nợ năm 2003 so với năm 2002 là 69,1%, năm 2004 tốc độ tăng dư nợ giảm so với năm 2003 là (11,36%). Trong năm 2003 NHNo&PTNT huyện Từ Sơn đã mở rộng đầu tư bám sát chương trình kinh tế của Tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tập trung đầu tư cho các vùng có trọng điểm của địa phương như nuôi trồng, chế biến thuỷ sản chăn nuôi, ngành nghề phụ, tận dụng lao động lúc nông nhàn góp phần tạo thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Qua số liệu cho ta thấy doanh số cho vay ngắn hạn và trung dài hạn._.ịnh cơ cấu cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành, thiết lập đường lối tín dụng Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư, nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững đối với các ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động, phân tán rủi ro trong cho vay. - Đối với NHNo&PTNT Từ Sơn đường lối tín dụng được xác định là đầu tư cho vay phát triển, nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hóa, đầu tư cho chương trình thay đổi cơ cấu kinh tế của huyện, mở rộng cho vay nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành nghề phụ tận dụng lao động trong lúc nông nhàn. Việc lập kế hoạch căn cứ vào mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của Tỉnh, huyện cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng ro ràng với từng đơn vị cơ sở các chi nhánh Ngân hàng cấp 3, cung cấp dữ liệu thông tin kinh tế, xã hội báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra là: Thông tin phải đảm bảo độ chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên cập nhật, NHNo&PTNT Từ Sơn sẽ sàng lọc thông tin, lập kế hoạch tín dụng hàng năm, 3 năm, 5 năm. Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ giúp cho nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính của mình một cách có hiệu quả nhất. 3.3.1.2: Tăng cường tiếp cận hộ sản xuất. Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng rộng khắp với nhiều chi nhánh khu vực và các tổ cho vay, thu nợ lưu động đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho Ngân hàng tiếp xúc gần hơn với các hộ gia đình. Tuy nhiên vẫn còn không ít khách hàng chưa đến với Ngân hàng một số lý do các hộ sản xuất chưa tiếp cận với tín dụng Ngân hàng như sau: Thiếu lòng tin về Ngân hàng và các chương trình tín dụng. Chi phí cho vay còn cao ( Như lệ phí của Uỷ ban nhân dân xã, công chứng, lãi xuất). - Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo, giấy tờ hồ sơ đã giảm bớt song với hộ sản xuất vẫn cho là phức tạp, nhiều hộ chưa lập được dự án, phương án sản xuất kinh doanh, chưa hạch toán kinh tế được. - Ngành nông nghiệp chịu rất lớn ảnh hưởng của thiên tai do một số còn e sợ rủi ro có thể dẫn đến không trả được nợ Ngân hàng. Do vậy việc tiếp xúc với từng hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận với khách hàng, Ngân hàng cần có những thông tin, tuyên truyền rộng rãi đến hộ sản xuất về lợi ích khi đến với Ngân hàng, Ngân hàng sẽ cùng họ tìm ra vướng mắc để tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận với hộ sản xuất Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau: - Triển khai việc mở rộng đăng ký vay vốn đến tất cả các thôn, xóm. Mở rộng cho vay thông qua tổ tương hỗ không chỉ đối với hộ nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh mà còn các tổ chức khác nữa. - Thành lập và duy trì các tổ cho vay, thu lưu động, cải tiến các phòng giao dịch của đội ngũ cán bộ, xoá bỏ phiền hà tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay trả tổ chức cho cán bộ công nhân viên học tập trau dồi kiến thức Marketinh để hoà nhập kinh tế thị trường. - Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ, xây dựng các mô hình mẫu trong sản xuất nông nghiệp để đơn giản hoạt động phân tích dự án. 3.3.1.3: Đa dạng hoá loại hình cho vay, phương thức cho vay. Đa dạng hoá các hình thức cho vay, mạnh dạn áp dụng các phương tiện cho vay mới khi có điều kiện. Hiện nay NHNo&PTNT Từ Sơn cho hộ sản xuất vay theo phương thức cho vay từng lần. Phương thức này phù hợp cho vay vốn không thường xuyên, sản xuất theo mùa vụ, chu chuyển vốn chậm. Hiện nay những hộ vay vốn sản xuất theo quyết định 67/QĐ- TTg, vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp chỉ nộp cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thủ tục vay vốn đã đơn giản rất nhiều. Với những khách hàng co vòng quay vốn nhanh có nhu cầu vốn thường xuyên qua quá trình vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm trong quan hệ giao dịch với Ngân hàng khách hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức này cho phép khách hàng có thể duy trì một mức tín dụng trong thời gian nhất định (tối đa là 12 tháng) theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi của hạn mức tín dụng và thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay vốn, khách hàng chỉ cần lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo bộ chứng từ vay phù hợp với mục đích sử dụng với vốn trong hợp đồng tín dụng. Phương thức này tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí quản lý hồ sơ của Ngân hàng. Đối với vùng chuyên canh trồng lúa, có hai vụ liền kề, Ngân hàng có thể cho vay lưu vụ nếu xét thấy sự án sản xuất của các hộ có hiệu quả và hộ đã trả đủ lãi món vay trước, thời gian cho vay lưu vụ tối đa bằng một chu kỳ sản xuất (một vụ). Lãi suất cho vay lưu vụ được áp dụng lãi suất hiện hành. Theo phương thức này hộ dân sau một chu kỳ sản xuất chỉ cần trả hết lãi và lập giấy đề nghị vay lưu vụ mà không cần làm thủ tục vay. Đầu tư cho vay theo phương thức này giúp cho hộ sản xuất chủ động về vốn, giảm chi phí giao dịch, giảm các thủ tục về giấy tờ làm người nông dân gắn bó với Ngân hàng hơn. Bám sát chương trình kinh tế xã hội của địa phương, tập chung chỉ đạo nắm chắc tình hình kinh tế trên địa bàn, điều tra các phân loại khách hàng để có hướng đầu tư phù hợp với từng địa bàn và thực hiện chính sách khách hàng của NHNo&PTNT Từ Sơn để đạt kết quả cao nhất. 3.3.1.4: Rà soát nợ đến hạn, phân tích nguyên nhân nợ quá hạn để đề ra biện pháp xử lý hữu hiệu, không nên để nợ quá hạn kéo về thời gian. - Nếu nợ đến hạn do nguyên nhân khách quan chưa trả được cần tiến hành xem xét nếu có thể cho gia hạn nợ, cho vay thêm để giúp người vay có thời gian khôi phục lại sản xuất hoặc có thêm vốn để sản xuất (Đối với những trường hợp xét thấy có hiệu quả) hoặc đề nghị Ngân hàng cấp trên có biện pháp xử lý theo quy định. Không tiến hành chuyển nợ quá hạn dẫn đến nợ quá hạn kéo dài mà không thu hồi được. - Nợ đến hạn hoặc nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan của khách hàng vay cần có biện pháp tích cực, kiên quyết trong việc xử lý để thu hồi vốn, kể cả phải xử lý tài sản thế chấp để thu hồi vốn hoặc khởi kiện trước pháp luật. 3.3.1.5: Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát: Ban Giám đốc và lãnh đạo các phòng tổ cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát. Nhằm kiểm tra việc chấp hành chế độ thể lệ của cán bộ tín dụng phụ trách các địa bàn. Thực tế đã xảy ra (số ít) trường hợp cho vay trực tiếp đến hộ có tổ tín chấp, tổ trưởng đã lợi dụng xâm chiếm tiền (Các trường hợp tổ viên trả nợ nhưng tổ trưởng đã lợi dụng không nộp cho Ngân hàng..), đem cho vay trực tiếp đến hộ không có tổ tín chấp nhưng do khâu thẩm định kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay của cán bộ tín dụng sơ sài đã dẫn đến những trường hợp hộ vay sử dụng vốn sai mục đích. Qua kiểm tra của lãnh đạo mới phát hiện ra nhưng rất khó khăn thu hồi. 3.3.1.6: Thực hiện cơ chế khoán tài chính đối với từng cán bộ. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh về hoạt động tín dụng hiện nay trên địa bàn. Thực hiện trả lương theo kết quả lao động có như vậy mới khuyến khích được đội ngũ cán bộ tín dụng làm trực tiếp, có trách nhiệm cao trong công việc của mình. Từ đó phát huy trình độ và năng lực trong công việc. 3.3.1.7: Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm mở rộng thẩm định tín dụng. Thông tin chính xác sẽ giúp Ngân hàng đánh giá khách hàng một cách toàn diện chính xác có thể thấy được những ưu nhược điểm của họ từ đó Ngân hàng có những kết luận đúng đắn về khách hàng của mình, thông tin đầy đủ có nhiều chiều với độ tin cậy cao sẽ góp phần mở rộng tín dụng thẩm định dự án. Thông tin có thể thu thập được từ nhiều nguồn sau. Thông tin từ khách hàng vay vốn: Trong quá trình hoàn tất hồ sơ thủ tục xin vay khách hàng vay vốn có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết cho Ngân hàng, dự án đầu tư, kế hoạch vay vốn, trả nợ và các thông tin khác. Để tránh được khả năng trả nợ của người vay Ngân hàng có thể phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn với mục đích để xem khách hàng có trung thực hay không, tuy nhiên sẽ không cần thiết nếu khách hàng là người quen thuộc có tín nhiệm. Cuộc phỏng vấn có thể là trao đổi những khó khăn vướng mắc về thủ tục vay vốn hay những khó khăn trong những đáp ứng về điều kiện vay vốn.. qua đó có thể nhận xét về tư cách, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm của người vay có thể thông tin phỏng vấn để làm sáng tỏ những điều còn mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng trong hồ sơ vay vốn. Qua phỏng vấn Ngân hàng có thể tìm hiều về nguồn gốc của sự tăng thu nhập, hay chi phí và lợi nhuận của khách hàng, bên cạnh đó Ngân hàng cần tìm hiều về loại hình sản phẩm mà khách hàng sản xuất và hoạt động trên thị trường như thế nào. Khi đặt ra các câu hỏi phỏng vấn các cán bộ tín dụng cần tạo ra không khí thoải mái như một cuộc trò truyện trao đổi làm sao cho khách hàng cảm thấy không bị phỏng vấn, có thể gây ra sự gượng ép trả lời sai sự thật. Đặc biệt NH phải chú ý nắm bắt tâm lý và nắm bắt những vấn đề thuộc về Ngân hàng. Khả năng tạo điều kiện cần và đủ để tạo ra thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh từ vốn vay của Ngân hàng để trả nợ. Các nguồn tiền khác có thể thay thế trả nợ Ngân hàng trong trường hợp phương án xin vay vốn bị rủi ro, không có nguồn trả nợ. Những khó khăn, thuận lợi và những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng vốn của Ngân hàng và có những biện pháp khắc phục. - Thông tin thu thập từ các nguồn khác. Ngoài các thông tin trực tiếp từ khách hàng vay vốn Ngân hàng có thể khai thác nhiều nguồn thông tin khác như: Thông tin từ khách hàng có quan hệ với khách hàng cần vay vốn, thông tin từ các thông tin tín dụng hay trung tâm phòng ngừa rủi ro.. nguồn thông tin có nhiều nhưng Ngân hàng cần biết chọn lọc và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn và Ngân hàng khác đều tập trung tại đây. Sau khi thu thập thông tin Ngân hàng cần lưu trữ thông tin liên quan đến khách hàng vay vốn cùng với hồ sơ vay vốn làm cơ sở để phân loại khách hàng. Do yêu cầu phải thu thập thông tin nhanh và chính xác đầy đủ, việc lưu trữ thông tin và phân loại khách hàng là cần thiết. Đối với khách hàng có quan hệ lâu dài và thường xuyên với Ngân hàng thì Ngân hàng cần lưu giữ những tài liệu đã thu thập từ các lần vay trước để khi tiến hành thẩm định dễ dàng. Công việc lưu trữ thông tin của khách hàng cần được tiến hành thường xuyên và tập trung thành những hồ sơ để dễ dàng tìm kiếm, có thể lưu trữ trong máy tính. Theo định kỳ Ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng theo chỉ tiêu đánh giá chất lượng khoản tiền vay và hiệu quả sản xuất kinh doanh.. qua đó giúp cán bộ thẩm định có căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn. 3.3.2: Những đề xuất đối với Ngân hàng, UBND huyện: 3.3.2.1: Đối với Ngân hàng. Sau khi học tập và nghiên cứu trong nhà trường đối chiếu với văn bản 791 của Thống đốc Ngân hàng và nghị quyết 67- CP của Chính phủ và nghị định 1627/QĐ- NHNN về việc hướng dẫn cho vay vốn trực tiếp tới hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh và làm dịch vụ. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT em xin mạnh dạn có những đề xuất sau. - Trên một huyện nhỏ với nhiều tổ chức tín dụng ra đời, do đó việc huy động cho vay với lãi suất khác nhau để tạo điều kiện cho Ngân hàng hoạt động tốt thì Ngân hàng Nhà nước khu vực phải là người trung gian quy định cho các Ngân hàng Thương mại áp dụng lãi suất huy động và cho vay thống nhất. Có như thế mới tạo được niềm tin cho khách hàng, không có sự cạnh tranh khách hàng. - Do đặc điểm cho vay vốn hộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu việc đầu tư vốn theo thời vụ cây trồng vật nuôi dẫn đến việc thu sản phẩm còn phụ thuộc vào thời tiết khi hậu. Trong quá trình đó không tránh khỏi những rủi ro trong việc sản xuất. Vì vậy đề nghị Nhà nước chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại phải có quỹ đề phòng rủi ro, có như vậy thì mới tạo được điều kiện cho hộ sản xuất yên tâm sản xuất, yên tâm lao động. - Trong quá trình đầu tư vốn của Ngân hàng tới hộ sản xuất, để đảm bảo việc thu nợ tốt. Tỷ lệ quá hạn thấp thì phải có sự kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa Ngân hàng và chính quyền Nhà nước như chính quyền địa phương các cấp, các ngành pháp luật (công an, viện kiểm soát..) có sự phối hợp này mới gắn trách nhiệm giữa người vay vốn với Ngân hàng thông qua việc sác nhập thế chấp tài sản, các đoàn thể đứng lên tín chấp cho người vay. Do việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư vốn trong sản xuất Nông nghiệp và có sự chuyển dịch từng vùng, từng dự án, từng địa phương để khuyến khích hộ sản xuất Nông nghiệp phát huy được kinh nghiệm trong sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm cho xã hội, đưa mặt hàng truyền thống của địa phương phát triển thì Nhà nước phải có kế hoạch giao cho từng địa phương sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, có thị trường tiêu thụ. Vì thế, Nhà nước phải trợ giá cho người sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước kết hợp với địa phương giao đất lâu dài cho nông dân chủ động trong thâm canh tăng vụ. Các Ngân hàng Thương mại tăng cường công tác giáo dục cho cán bộ thấy được việc chuyển vốn đầu tư cho Nông nghiệp, Nông thôn đối với NHNo&PTNT là chủ yếu. Vì vậy phải luôn bám sát địa bàn hoạt động cho vay đúng quy định, đúng thời hạn, đảm bảo thu nợ đúng hạn, thu lãi hàng tháng, hạn chế nợ quá hạn, tìm được lãi suất huy động thấp. Đẩy mạnh cho vay chung dài hạn đồng thời cải tiến trong lề lối làm việc, hạn chế tiêu cực xảy ra trong nghiệp vụ của mình. Có như vậy thì công tác tín dụng của Ngân hàng mới đạt hiệu quả cao cả về chất lượng tín dụng và số lượng tín dụng. 3.3.2.2: Đối với Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn. Cần chỉ đạo các xã, thôn tăng cường trách nhiệm của mình trong việc cho vay của Ngân hàng đến hộ sản xuất. Như trên đã trình bày ở một số xã cấp uỷ, chính quyền xã, thôn còn thiếu trách nhiệm của mình trong việc cho vay hộ sản xuất, coi việc làm này là việc làm của Ngân hàng không thực sự giúp đỡ Ngân hàng mở rộng cho vay cũng như giúp đỡ Ngân hàng thu hồi vốn... Đồng thời chỉ đạo các xã (Uỷ ban nhân dân) tiến hành rà soát điều tra phân loại các hộ sản xuất có mức thu nhập cao, trung bình hay thấp một cách nghiêm túc theo tiêu chuẩn, từ đó làm cơ sở để NHNo mở rộng cho vay có cơ sở. Chỉ đạo các ngành, ban hội của huyện phối hợp chặt chẽ với NHNo Từ Sơn (Như ngành nông nghiệp, Hội phụ nữ, Hội nông dân..) trong việc cho vay hộ sản xuất để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất.. và các cơ quan nội chính có biện pháp tích cực giúp đỡ Ngân hàng trong việc thu hồi vốn, phòng tư pháp trong việc công chứng tài sản thế chấp . 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ. Chính phủ nên sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy trong lĩnh vực hoạt động tài chính, tiền tệ, đặc biệt là Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản dưới luật và các văn bản có liên quan đến công tác tín dụng để nâng cao hiệu quả . Chính phủ nên sớm ban hành các nghị định về đảm bảo tiền vay và khi có nghị định của Chính phủ cần nhanh chóng có văn bản hướng dẫn thực hiện. Bởi đây là một vướng mắc rất lớn hiện nay đối với hoạt động Ngân hàng đang diễn ra ở các chi nhánh cơ sở, làm ảnh hưởng nhiều đến việc mở rộng cho vay cũng như thu hồi vốn. Chính phủ nên sớm ban hành quy chế giúp trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro áp dụng tại các Ngân hàng Thương mại để xử lý kịp thời các khoản rủi ro loại ra khỏi tài sản có những khoản không thể thu hồi được. 3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 3.4.2.1. Hoàn thiện và phát triển trung tâm phòng ngừa rủi ro. Để giúp đỡ các Ngân hàng Thương mại trong công việc thu thập thông tin được chính xác và cập nhật thì không chỉ có nỗ lực của mỗi Ngân hàng mà còn càn đến sự giúp của trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức trung tâm phòng ngừa rủi ro theo một mô hình thích hợp để đảm bảo cho hoạt động của trung tâm có hiệu quả, phải trang bị cơ sở vật chất hiện đại để làm tốt côn tác thu thập thông tin cũng như mở rộng truyền để nâng cao nhận thức về lợi ích của công tác này đến các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan. Tăng cường sự hợp tác giữa vụ tín dụng Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan thông tin quốc tế để có những thông tin phục vụ tốt công tác của Ngân hàng. Để đảm bảo thuận tiện cho các Ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc phân loại theo các tiêu thức thống nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Phải xây dựng được phương pháp phân loại khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt động của công tác tín dụng Ngân hàng, bám sát các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tài chính và phi tài chính, phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu phân loại khách hàng phù hợp, hệ thống này được chia làm hại loại. - Các chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến rủi ro tài chính, các chỉ tiêu thuộc loại này gồm hai nhóm, đánh giá chất lượng tài chính và nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng chi trả của khách hàng. Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu thuộc hai nhóm này các tổ chức tín dụng có thể đánh giá được tình hình tài chính của khách hàng và khả năng trang trải các khoán nợ Ngân hàng khi đến hạn thanh toán qua đó có thể phòng ngừa hạn chế rủi ro. Các chỉ tiêu cần có tham khảo trước khi phán quyết tín dụng, các chỉ tiêu này có liên quan đến rủi ro phi tài chính đối với các khoản tín dụng. Loại chỉ tiêu này được căn cứ để xem xét thứ tự ưu tiên khi có nhiều khách hàng thuộc diện xem xét cho vay. 3.4.2.2. Cần có quy định thống nhất trong việc xử lý tài sản thế chấp. Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản hướng dẫn thủ tục xử lý tài sản thế chấp đối với khách hàng có dự nợ tại Ngân hàng Thương mại để các Ngân hàng thực hiện thống nhất. Trên cơ sở có được sự phối hợp kết hợp giữa các cơ quan chức năng như: Chính quyền sở tại, cơ quan bảo vệ pháp luật..Trong việc thi hành giám sát phát mại tài sản thu hồi vốn vay cho Ngân hàng. 3.4.2.3. Cần hoàn thiện cơ chế về trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo số dư bình quân của toàn bộ tài sản có của hoạt động tín dụng bằng một tỷ lệ nhất định dựa vào nguyên tắc: Chi phí dự phòng rủi ro phải có nguồn tài chính bù đắp, tức là chi phí này được bù đắp bằng nguồn thu từ hoạt động tín dụng và nằm trong khoản chênh lệch lãi suất mà tổ chức tín dụng có thể khai thác được. Có như vậy, thì việc trích lập dự phòng rủi ro mới không đẩy tổ chức tín dụng và tình trạng thâm thủng tài chính và quỹ phòng ngừa rủi ro mới được đảm bảo bằng các giá trị đích thực có khả năng thanh toán. Nếu việc trích lập dự phòng rủi ro làm cho tổ chức tín dụng kháng kiệt thì chẳng khác nào buộc tổ chức tín dụng lấy vốn điều lệ, thậm trí vôn huy động để trích lập dự phòng rủi ro, từ đó cơ chế phòng ngừa khủng hoảng nợ, khủng hoảng Ngân hàng bị mất tác dụng. Ngân hàng trung ương, nên nới lỏng quy định về sử dụng dự phòng xử lý rủi ro. Tại điều 9 quyết định 48 quy định tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro sau khi đã tận thu mọi khoản thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghiệp vụ phát mại tài sản thế chấp, cầm cố nếu có và các giải pháp khách theo quy định của pháp luật để thu nợ. Trong thực tế thì có nhiều trường hợp sau khi đã tận thu mọi khoản thu tổ chức tín dụng không thể phát mại được các tài sản khác đành phải treo nợ tồn đọng nhiều năm. Những khoản nợ này đúng ra cần được xử lý bằng dự phòng rủi ro để làm trong sạch cân đối tín dụng của các tổ chức tín dụng trước khi kiểm toán tài sản thế chấp, cầm cố sẽ được tổ chức tín dụng theo dõi để thanh lý thu hồi khi có điều kiện. 3.4.2.4: Quy định một khách hàng chỉ được vay vốn tại một tổ chức tín dụng. Quy định một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng là một vấn đề mới, nhưng việc thực hiện có chế này còn chưa nghiêm túc dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng do không nắm được đầy đủ thông tin về khách hàng có dư nợ tại nhiều tổ chức tín dụng. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta với hình thức truyền tin chưa kịp thời đầy đủ, biện pháp phòng ngừa còn hạn chế thì Ngân hàng Nhà nước có thể tạm thời nghiên cứu huỷ bỏ quy định mọt khách hàng được vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng mà quy định nhiều Ngân hàng cho một khách hàng vay theo hưởng đồng tài cho một Ngân hàng đứng đầu làm mối, như vậy thông tin về khách hàng được Ngân hàng nắm đầy đủ và chắc chắn hơn 3.4.3: Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam. Cần nhanh chóng tháo gỡ và giải quyết nhứng vướng mắc của quyết định 67/TTG. Cần sớm có văn bản về mô hình cụ thể cho vay hộ nông dân đảm bảo tính pháp lý. Do đặc thù cho vay hộ nông dân chi phí quá lớn, tốn nhiều sức lực cán bộ đề nghị xem xét trình Chính phủ nên sớm cần có sự ưu đãi đối với NHNo & PTNT về đơn giá tiền lương, chính sách đối với cán bộ tín dụng, để họ yên tâm công tác và từ đó một phần nào sẽ tránh được những tệ nạn tham ô gây thất thoát vốn của Nhà nước. Mở rộng hơn nữa việc tập huấn chuyên môn cho cán bộ tín dụng để hộ hoàn thành tốt hơn công việc được giao. + Nhà nước với chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế có vai trò quản lý hoạt động kinh tế và đầu tư chỉ một thay đổi nhỏ trong chính sách quản lý nhà nước cũng có thể dẫn đến sự đảo lộn của hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Chính vì vậy, để Ngân hàng có thể thuận lợi hơn và dễ dàng hơn Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp sau. + Tạo môi trường khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Nhà nước cần đưa ra những chính sách thích đáng để phát triển nông nghiệp nông thôn, đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng để nâng cao đời sống của nhân dân ở các vùng nông thôn, cần có các biện pháp khuyến khích nông dân làm kinh tế trang trại, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản.. Muốn vậy, nhà nước cần phải có các dự án mới để hỗ trợ từng vùng, từng miền. Đối với những doanh nghiệp, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực phục vụ nông nghiệp nhà nước cần phải có chính sách thế thích hợp để khuyến khích họ và nhà nước cần phải tìm đầu ra cho sản phẩm của nông nghiệp tránh tình trạng lương thực sản xuất ra không tiêu thụ được bị thương nhân ép giá.. Do vậy nhà nước cần bổ sung các giải pháp kích cầu mới để hỗ trợ nông thôn như miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân trong mức hạn điền, bỏ thuế các khoản thu thuế nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu phần lớn để giảm giá bán phân bón cho nông dân, giảm hoặc cho nợ thuỷ lợi phí.. Tăng hỗ trợ mua tạm trữ đối với gạo, cà phê, mở rộng ra một số mặt hàng và giá xuống quá thấp như tiêu , điều.. Tạo điều kiện cho nông dân trực tiếp được hưởng giá bán theo quy định, bù nỗ cho các doanh nghiệp sau thời hạn tạm trữ mà giá xuất khẩu vẫn còn thấp hơn lúc mua. Nhà nước cần các biện pháp tập trung hơn nữa kích cầu nông thôn. Kích cầu vừa là biện pháp để gia tăng đầu tư, yếu tố vật chất quyết định, tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa là thời cơ để nâng cao mức tiêu dùng của dân cư, thực hiện mục tiêu phát triển vì con người, và đến lượt nó tạo đầu ra để tăng trưởng kinh tế. Cũng như công nghiệp hoá hiện đại hóa đối tượng của kích cầu phải nhằm vào trọng điểm số một là nông thôn vì: + Nông thôn là địa bàn có mức sống thấp hơn và ngày một cách xa so với thành thị. Tỷ lệ thiếu việc làm của nông thôn khoảng 30%, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cũng cao hơn ở thành thị, dân số ở nông thôn đông gấp ba lần dân số ở thành thị lên cùng một mức bình quân thu nhập tăng lên thì dung lượng ở nôn thôn cao gấp trên ba lần thành thị. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn rất thấp kém cả về nước, điện, đường, trường trạm, chợ, công trình vệ sinh.. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp trên địa bàn. Cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội để tăng thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp, tạo động lực mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, khả năng tích tụ tập chung tích tụ tập chung vốn rất hạn chế, còn trông vào cấp phát từ ngân sách hoặc bao cấp qua tín dụng Ngân hàng. Vấn đề mà Ngân hàng lo ngại nhất hiện nay khi tiến hành cho vay vốn là năng lực tài chính của khách hàng do đó dễ giúp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện an toàn vốn kinh doanh. Nhà nước cần đổi mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp, các doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ tạo hoạt động thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh tăng trưởng với hiệu quả cao hơn, từ đó dẫn tới nhu cầu tín dụng tăng. Ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay vốn vì khách hàng có triển vọng trong quá trình sản xuất kinh doanh vì các doanh nghiệp cổ phần hoá có bộ máy quản lý linh động sáng tạo, hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm trước cổ đông và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên buộc phải làm ăn có hiệu quả, không thể trông chờ vào những cấu cáng khác. Tuy vậy tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp còn rất chậm. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá nhà nước cần nhanh chóng chấp hành pháp luật và pháp lệnh trong chuyển đổi trong sở hữu, đơn giản hoá trong thủ tục hàng hoá như: Đăng ký giấy phép kinh doanh, đăng ký con dấu có như vậy mới góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình khẳng định dự án của Ngân hàng. Nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các cơ quan chức năng cần phải tiến hành nhanh chóng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và để khách hàng được vay vốn Ngân hàng một cách thuận tiện theo đúng QĐ67/TTP của Thủ tướng Chính phủ và chỉ được cấp một bản duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp đi vay vốn nhiều nơi gây nên rủi ro mất vốn cho Ngân hàng, đồng thời Nhà nước cần nghiêm chỉnh những trường hợp cố ý làm sai phạm. Đề nghị nhà nước cần sớm ban hành luật phát mại tài sản. Để đưa vào sử dụng rộng rãi hiện nay việc xử lý các tài sản thế chấp của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Khi muốn xử lý các tài sản thế chấp Ngân hàng phải qua cơ quan trung gian gây mất thời gian và chi phí không cần thiết. Kết luận Kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất trong giai đoạn hiện nay đã và đang chứng minh được vai trò của nó không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những kết quả mà kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được còn đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách lớn. Với những chủ trương, chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước cùng với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới thì kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là những đối tượng có nhiều dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và kinh tế ngoài quốc doanh sẽ mau chóng trở thành khách hàng chính của Ngân hàng. Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp nông thôn. Đầu tư phát triển của kinh tế hộ sản xuất cũng chính là để thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông- lâm- ngư- diêm nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến, của thị trường trong và ngoài nước. Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng liên tục cả về năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương thực đã được giải quyết, từ chỗ thiếu ăn nay đã có dư thừa về xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề đã hình thành tương đối rõ nét, đã có các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu thế chung của cả nước, cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi được quan tâm, đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn nước ta đã được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, làm cho dân giàu, nước mạnh. Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp nông thôn là do có sự nỗ lực phấn đấu đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó có vai trò to lớn của NHNo & PTNT huyện Từ Sơn nói riêng, trong việc đầu tư tín dụng- một sự cần thiết tất yếu khách quan và không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cho vay hộ sản xuất- một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHNo & PTNT và đó cũng là khách hàng tiềm năng của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn. Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với quá trình thực tập tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn, em đã chọn đề tài : “Biện pháp mở hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn”. Trong đề tài ngiên cứu đã thực hiện được một số nội dung sau: Đã khái quát được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được một số biện pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ sản xuất của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn. Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại trong quá trình cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng. Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đã đưa ra được hệ thống các giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất nhằm góp phần mở rộng hiệu quả tín dụng cũng như các vấn đề cho vay hộ sản xuất. Hoàn thành bản luận văn này, bản thân em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào công tác cho vay hộ sản xuất. Song đây là nội dung nghiên cứu hết sức rộng lớn và phức tạp, cho nên bài viết còn cần phải hoàn thiện nhiều cả về nội dung lý luận và công tác thực tiễn. Vậy bản thân em rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng với các cô chú tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn để bản luận văn của em được hoàn thiện. Tài liệu tham khảo. 1: Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn. 2: Báo Bắc Ninh năm 2002, 2003, 2004. 3: Chỉ thị 202/ chính trị ngày 28 tháng 06 năm 1991 của Chính phủ, luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng. 4: Các tạp trí NHNN Việt Nam. 5: Quyết định 72/ QĐ- HĐQT- TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. 6: Ngân hàng thương mại- NXB Thành phố HCM 7: Luật các tổ chức tín dụng. 8: Sổ tay tín d ụng- Hà nội, tháng 7 năm 2004. 9: Thời báo kinh tế, báo đầu tư. 10: Tiền tệ Ngân hàng và TT tài chính nhà xuất bản khoa học kỹ thuật năm 1994. Danh mục các từ viết tắt NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước. HSX : Hộ sản xuất. CN-TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0018.doc
Tài liệu liên quan