Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế mở đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực trong sản xuất kinh doanh để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, đáp ứng cho yêu cầu tồn tại và phát triển. Bên cạnh các DNNN, yêu cầu của nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hàng loạt các loại hình DNNQD hình thành và phát triển chiếm một tỉ trọng cao trong số lượng các doanh nghiệp và đón
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hành thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g góp một phần giá trị lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới, thì thách thức đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD nói riêng càng lớn cả về quy mô hoạt động và chất lượng sản phẩm sản xuất. Các doanh nghiệp cần phải có một năng lực tài chính mạnh để có thể đáp ứng những nhu cầu cần thiết của mình trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có đủ vốn theo nhu cầu của mình, điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải huy động vốn từ các nguồn bên ngoài. Đối với các DNNN, vốn của doanh nghiệp là do Nhà nước cấp, đối với các DNNQD, vốn của doanh nghiệp là do các thành viên sáng lập tự góp và khi có nhu cầu về vốn lớn vượt quá khả năng của doanh nghiệp thì bắt buộc doanh nghiệp phải huy động từ các nguồn bên ngoài và đi vay ngân hàng được coi là một giải pháp chủ yếu và tối ưu nhất trong điều kiện của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu của DNNQD cũng được đáp ứng vì nhiều lí do khác nhau do đó nhiều khi doanh nghiệp đã mất đi những cơ hội kinh doanh của mình. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để các DNNQD thoả mãn được các nhu cầu về vốn của mình, đặc biệt là bằng nguồn vay ngân hàng.
NHTMCP Quân Đội được thành lập với mục đích là đáp ứng nhu cầu vốn của các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp Quân đội. Nhưng sau hơn 13 năm trưởng thành và phát triển, phạm vi hoạt động của NHTMCP Quân Đội đã mở rộng ra và đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi thành phần kinh tế. Trong thời gian qua ngân hàng đã từng bước tăng trưởng về số lượng tín dụng đối với các DNNQD với chất lượng tín dụng khá cao và đã duy trì được một số khách hàng truyền thống có tiềm lực mạnh. Tuy nhiên, với những gì đạt được chưa phải là đã tương xứng với tiềm năng của ngân hàng cũng như của các DNNQD, việc không ngừng mở rộng cho vay đối với các DNNQD là rất cần thiết để NHTMCP Quân Đội không ngừng mở rộng và phát triển, chính vì vậy Tôi đã chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội"
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu vai trò của TDNH cũng như của các DNNQD đối với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời đề tài cũng chú trọng vào việc phân tích tình hình cho vay của NHTMCP Quân Đội đối với các DNNQD trong những năm gần đây, từ đó đưa ra những vấn đề còn tồn tại và đi tìm hiểu những nguyên nhân của những tồn tại để đề ra những giải pháp góp phần mở rộng hơn nữa doanh số cho vay đối với các DNNQD của NHTMCP Quân Đội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đề tài phân tích một cách khái quát về những vấn đề chung như: những vấn đề cơ bản về Tín dụng ngân hàng, về DNNQD và hoạt động chung của NHTMCP Quân Đội trong thời gian vừa qua và tập trung vào việc phân tích thực trạng cho vay đối với DNNQD và đưa ra các giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, so sánh và đặc biệt là sử dụng lý luận, nghiên cứu các chính sách marketing, quản trị trong ngân hàng để rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu.
5.Tên và kết cấu luận văn.
- Tên luận văn:
“Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng TMCP Quân đội”.
- Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm:
Chương I: DNNQD và vai trò của TDNH đối với sự phát triển của các DNNQD.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD của NHTMCP Quân Đội.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội.
Chương 1
tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời tồn tại và phát triển của của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín dụng ra đời là một yếu tố khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm “tín dụng“ có nguồn gốc từ thuật ngữ La tinh credittum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Hiểu một cách nôm na thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai bên (Bên cho vay và Bên vay).
Theo từ điển thuật ngữ tín dụng, tín dụng là một phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Trong quan hệ này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Người đi vay tới kỳ hạn trả nợ có nghĩa vụ hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có kèm hoặc không kèm một khoản lãi.
Theo Các Mác thì "tín dụng - dưới hình thức biểu hiện của nó - là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái hàng hoá được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn đã được ấn định"
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: Số tiền hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi...
Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm:
Hình thái hiện vật - hàng hoá: đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán trong quan hệ mua bán.
Hình thức giá trị: thực chất là việc “ứng trước” hay “đầu tư” trực tiếp bằng tiền (cho vay bằng tiền ).
Những điều kiện mà hai bên thường thoả thuận là:
Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng.
Thời hạn sử dụng vốn của người vay.
Thu nhập (lợi tức) mà người cho vay được hưởng.
Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay...
Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy, tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản:
Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng.
Sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu: thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi.
Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng của người chuyển nhượng với người sử dụng.
Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác cần đề cập như khả năng rủi ro, tính bảo đảm, quy luật cung cầu, cạnh tranh, giá trị và quy luật lưu thông tiền tệ...
Cũng trong từ điển thuật ngữ tín dụng có đề cập đến khái niệm “tín dụng Ngân hàng”: “Đó là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và TCTD khác với doanh nghiệp, cá nhân. Trong quan hệ tín dụng này, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Khác với tín dụng Thương mại, tín dụng ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hoá”
Luật Các Tổ chức Tín dụng đã được sửa đổi bổ sung năm 2004 quy định cụ thể về hoạt động tín dụng và cấp tín dụng của TCTD như sau: “Hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Như vậy, Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc, thiết bị).
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ "credo" hoặc "tín" để đặt tên cho "credit" hoặc "tín dụng" không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở lòng tin và uy tín trong thanh toán.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lí, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
TDNH góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội:
Thứ nhất: Vai trò quan trọng nhất của TDNH là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Một hệ thống các hình thức TDNH đa dạng không những thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba: Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức TDNH sẽ tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
Thứ tư: Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo quan hệ lâu dài với các tổ chức cung ứng tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô.
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kì. Như vậy thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.
Tín dụng ngân hàng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội.
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn lại có xu hướng bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn việc tài trợ vốn cho người nghèo ngày nay được thực hiện phổ biến bằng tín dụng đối với người nghèo với lãi suất thấp. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kĩ năng lao động của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3.2. Đối với NHTM.
Tín dụng là hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của các NHTM (chiếm trên 80% nguồn vốn của ngân hàng) và đem lại một phần lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM, thể hiện:
+ Hoạt động tín dụng giúp ngân hàng ngày càng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động vốn từ các đơn vị kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh khi tham gia tín dụng vào các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế, từ đó góp phần giảm bớt được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng của ngân hàng càng phát triển, ngân hàng càng tạo được vị thế của mình trên thị trường. Việc đáp ứng nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường đảm bảo cho sự phát triển ngày càng vững mạnh của ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng là một hoạt động truyền thống đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hoạt động này càng phát triển thì ngân hàng càng có điều kiện vững mạnh về vốn để mở rộng hoạt động cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng trên thị trường.
1.1.3.3. Đối với khách hàng.
Khách hàng đến giao dịch với ngân hàng rất đa dạng bao gồm các khách hàng cá nhân, các khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khác. Khách hàng của NHTM luôn cần tới nghiệp vụ tín dụng của NHTM để khắc phục sự chênh lệch về thời gian cũng như qui mô các nguồn vốn của mình.
Khi các khách hàng của NHTM có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi do khách hàng trả tiền trước, được chậm trả đối với hàng hoá đầu vào, chưa đến kì hạn thanh toán các khoản nợ… họ sẽ cần đến nghiệp vụ tín dụng như một biện pháp giúp mang lại sự an toàn và một mức lãi suất nhất định cho nguồn vốn đó. Việc gửi khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vào NHTM sẽ giúp cho khách hàng yên tâm về sự an toàn của vốn, đồng thời mang lại cho họ khoản lãi suất tiền gửi tại đây.
Ngược lại, khi khách hàng của NHTM lâm vào tình trạng thiếu vốn do chưa thu được tiền hàng, phải đặt tiền trước để mua nguyên liệu đầu vào, phát sinh một số khoản chi ngoài dự toán…tín dụng của NHTM sẽ giúp họ có được giải pháp tốt để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời, duy trì hoạt động ổn định. Đây chính là một nguồn tài trợ phổ biến trong mọi nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng có vai trò quan trọng đối với khách hàng thể hiện ở chỗ:
- TDNH đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế trong xã hội khi nguồn vốn tự có của họ không đủ để đáp ứng được nhu cầu. Chính nhờ có nguồn vốn này mà các chủ thể có được vốn để thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng, sản xuất hoặc chi trả cho các khoản cần thiết.
- Nhờ được đáp ứng nhu cầu về vốn khi cần thiết trong quá trình sản xuất kinh doanh mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được diễn ra liên tục đảm bảo cho quá trình cung ứng sản phẩm, góp phần ổn định cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội.
- TDNH góp phần phát huy tối đa nội lực và thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả hơn và khai thác triệt để được các tiềm năng kinh doanh: tổ chức hoạt động kinh doanh với chi phí thấp nhất, nâng cao vòng quay của vốn để có lợi nhuận cao nhất... theo quy định của Nhà nước.
- TDNH đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu nhờ đáp ứng nhu cầu vốn cho tiêu dùng của các cá nhân trong xã hội, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng nền kinh tế.
Tóm lại, TDNH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi chúng không đủ điều kiện để tham gia vào các thị trường vốn trực tiếp. Cao hơn thế, khả năng cung ứng vốn của tín dụng ngân hàng còn góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng còn được sử dụng như công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của Chính phủ.
1.2. Những vấn đề cơ bản về DNNQD.
1.2.1. Khái niệm DNNQD.
Hiện nay, Việt Nam bao gồm các thành phần kinh tế : kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu chia theo hình thức sở hữu thì nền kinh tế Việt Nam bao gồm 2 loại hình doanh nghiệp chính: doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp Nhà nước.
DNNN là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nước giao. DNNN được ngân sách Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Ngoài số vốn nhà nước đầu tư, doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới các hình thức khác, nhưng không được thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế ( lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Kinh tế quốc doanh được xác định là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo; làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, liên kết hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lí vĩ mô nền kinh tế.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bao gồm toàn bộ những đơn vị kinh tế mang hình thức sở hữu phi Nhà nước về tư liệu sản xuất, những đơn vị kinh tế này dựa trên cơ sở do tư nhân ( bao gồm một hoặc một tập thể các cá nhân) bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của các chủ đầu tư. Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này rất đa dạng, và tạo ra các thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân và được tổ chức dưới hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh, hợp tác xã, cá nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình… Các doanh nghiệp này hoạt động dựa trên số vốn của mình và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở lãi hưởng lỗ chịu. Các DNNQD được pháp luật quy định rất chặt chẽ đối với mọi hoạt động vì đây là là khu vực kinh tế phức tạp và liên quan đến nhiều vấn đề xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho kinh tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng mà trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn cơ hội phát triển, đều có thể có quyền bình đẳng. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Các DNNQD ở nước ta mang một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, các DNNQD phân bố không đều trên các vùng và các ngành kinh tế. Trên 70% số lượng các DNNQD tập trung ở các tỉnh và thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai…Đây là những khu vực kinh tế mạnh của cả nước, là những nơi đông dân với mức thu nhập rất cao, là những điểm mạnh để thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước. Mặt khác, các DNNQD cũng tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, là những ngành đang có xu hướng phát triển mạnh ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các ngân hàng cổ phần, còn hầu hết các DNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ hẹp. Bởi đa số các DNNQD là do các tư nhân bỏ vốn ra để thành lập với số vốn hạn chế và chủ yếu là để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng trong nước, hơn nữa các chủ đầu tư còn thiếu mạnh dạn trong việc quyết định đầu tư do thị trường còn nhiều bấp bênh và công nghệ còn lạc hậu.
Thứ ba, phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát, đa số hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, khách sạn chiếm 50 - 70%; trong lĩnh vực công nghiệp chiếm 10 - 20 %; trong lĩnh vực xây dựng chiếm 2 - 6%; trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, khai thác và phân phối điện chiếm từ 0,5 - 1%; còn lại là trong lĩnh vực tài chính - tín dụng.
Thứ tư, cơ sở sản xuất của đa số các DNNQD đều bị phân tán, manh mún, thường phải sử dụng đất ở, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất kinh doanh; cùng với tình trạng trang bị kĩ thuật lạc hậu nên cơ sở sản xuất của DNNQD thường gây ô nhiễm môi trường, gây ra những khiếu kiện, làm cho doanh nghiệp khó mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, khả năng tài chính còn yếu. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì vốn sử dụng vào sản xuất kinh doanh của một hộ phi nông nghiệp là 29,78 triệu đồng, của một trang trại là 94 tỉ đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỉ đồng, DNNQD vay vốn tại các ngân hàng thương mại và vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tại Quỹ hỗ trợ phát triển còn ít và chiếm tỉ trọng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu, thiếu thông tin về sản phẩm, giá cả, nhu cầu thị hiếu thị trường. Mặc dù là khối kinh tế năng động, phản ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường nhưng do nền kinh tế của Việt Nam còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh trong đó có vấn đề về thông tin thị trường nên sự nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Việc thiếu thông tin còn do một nguyên nhân nữa là do các DNNQD mặc dù luôn chú trọng trang thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại nhưng do điều kiện của Việt Nam hiện nay thì những công nghệ đó chưa thể sánh kịp được với thế giới và còn rất nhiều lạc hậu( trừ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Thứ bảy, thị trường hẹp, bấp bênh, nhiều rủi ro. Đây là điều dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, kinh tế hộ… Hầu hết các DNNQD mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngay tại thị trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân do đó rủi ro là không thể tránh khỏi.
1.2.3. Vai trò của DNNQD đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, thu hút lao động, tận dụng, khai thác tiềm năng của đất nước… Nhận thức tầm quan trọng của khu vực kinh tế này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế theo hướng “kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Sự khẳng định này khiến cho kinh tế Quốc doanh không còn giữ vị trí độc tôn như trước nữa, thay vào đó là sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh tế nhà nước.
Trong gần 20 năm thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, DNNQD gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào nền kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm; cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác sự phát triển của DNNQD đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, phát triển kinh tế thị trường theo hướng XHCN, tăng thêm sản lượng công nghiệp, lao động và doanh nhân Việt Nam… Nghiên cứu hoạt động của DNNQD trong mối quan hệ với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ta sẽ thấy rõ vai trò quan trọng của DNNQD trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể là:
Một là: DNNQD ngày càng chiếm tỉ trọng lớn và ổn định trong tổng sản phẩm quốc nội ( khoảng 50% GDP), tạo nên nguồn tài chính cho Nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng. Đồng thời nó cũng góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế nước ta để nước ta có thể sánh vai các nước trên khu vực và thế giới.
Bảng 1.1: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
TỔNG SỐ
416.562,8
487.492,1
117%
578.945,20
119%
Kinh tế Nhà nước
141.116,6
154.230,5
109%
171.282,06
111%
Trung ương
104.371,5
116.750,4
112%
131.927,95
113%
Địa phương
36.745,1
37.480,1
102%
39.354,11
105%
Kinh tế ngoài Nhà Nước
120.127,1
148.782,5
124%
186.288,22
125%
Tập thể
1.969,4
2.032,1
103%
2.072,74
102%
Tư nhõn
79.900,9
103.016,8
129%
133.921,84
130%
Cỏ thể
38.256,8
43.733,6
114%
50.293,64
115%
Khu vực cú vốn đầu tư nước ngoài
155.319,1
184.479,1
119%
221374,92
120%
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005 - 2006)
Hai là: Kinh tế ngoài quốc doanh tạo sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực phát triển nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành nghề sản xuất kinh doanh đều do khu vực quốc doanh đảm nhận. Hiện nay, trừ một số ít các lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước giữ vai trò độc quyền, còn lại hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với mức độ ngày càng lớn. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tác động mạnh mẽ đến các DNNN, buộc các doanh nghiệp này phải đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Nói cách khác, kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh mẽ hơn thông qua cạnh tranh lành mạnh, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Như vậy, sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nên kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách DNNN cải tổ cơ chế quản lí theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: DNNQD góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế, sự hình thành DNNQD đã tạo điều kiện tập trung những bộ phận kinh tế nhỏ lẻ trở thành các HTX, các doanh nghiệp. Tổng số vốn đầu tư phát triển cho khu vực ngoài quốc doanh đã liên tục tăng lên trong các năm vừa qua năm 2005 là 130645 tỉ đồng; năm 2006 là 197321 tỉ đồng; năm 2007 là 279350 tỉ đồng. (nguồn: kinh tế 2004- 2005 thời báo kinh tế Việt Nam).
Bốn là: DNNQD là một khu vực kinh tế có tiềm năng lớn của đất nước. Nền kinh tế nước ta còn đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường do đó các DNNQD ở Việt Nam mới được khôi phục và còn ở trình độ phát triển thấp nên có nhiều khả năng chưa được khai thác, còn nằm ở dưới dạng tiềm năng.
Năm là: DNNQD có nhiều đóng góp vào quá trình lành mạnh hoá hoạt động kinh tế. Bởi các loại hình doanh nghiệp quốc doanh thường gắn liền với sự quản lí trực tiếp của chủ sở hữu nên trong các quyết định quản trị có sự cân nhắc cẩn thận, cũng như sự ổn định trong nội bộ, ít có hiện tượng quan liêu, cửa quyền.
Sáu là: DNNQD phát triển góp một phần đáng kể trong việc tăng thu cho NSNN. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho NSNN. Do vậy, để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận đóng góp to lớn cho NSNN (khoảng 30%) thông qua thuế và các khoản khác. Nguồn này sẽ được dùng để đầu tư cho các ngành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào NSNN.
Bảy là: Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp thuộc DNNQD là lợi ích kinh tế, tuy nhiên sự hình thành và phát triển của nó đã tạo ra không ít những lợi ích xã hội và một trong những tác động đó là sự góp phần đáng kể của nó vào việc giải quyết công ăn việc làm. Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá nhân, gia đình hay một số tổ chức cùng với việc sử dụng kĩ thuật sản xuất cần tương ứng nhiều lao động, vì vậy, đây là nơi cung cấp việc làm nhanh nhất, giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn. Vì vậy, hàng năm có khoảng hơn một triệu lao động có việc làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực kinh ._.tế này.
Tám là: DNNQD góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tăng tỉ trọng dịch vụ, công nghiệp nhẹ trong tổng GDP cả nước, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy cạnh tranh, tăng thêm sản lượng công nghiệp vào doanh nghiệp Việt Nam. Chủ trương của nhà nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời xu hướng của nhà nước ta là muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó ở giai đoạn đầu là theo cơ cấu công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ sau đó hướng tới cơ cấu dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp.
Chín là: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, sự phát triển của khu vực kinh tế này đa dạng về ngành nghề, quy mô và hình thức kinh doanh đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ trống cho những thiếu hụt từ kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Bằng việc sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng góp to lớn vào việc tạo ra sự phong phú về chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Do đó cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của nhân dân tăng lên và các doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh với nhau để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhiều nhất.
Cuối cùng, một vai trò đặc biệt của DNNQD đối với riêng ngành ngân hàng đó là DNNQD đang trở thành một trong những thị trường vốn tín dụng rộng lớn đầy tiềm năng. Với sự phát triển ngày càng mạnh của DNNQD thì nhu cầu về vốn sẽ ngày càng tăng, như vậy, tạo thị trường có tiềm năng lớn cho các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng như huy động tiền gửi, cho vay, thanh toán… Tuy nhiên, trên thực tế, thật đáng tiếc là các NHTM hiện nay còn ngần ngại khi lựa chọn DNNQD làm khách hàng, đặc biệt là trong hoạt động cho vay.
1.2.4. Xu hướng phát triển của DNNQD tại nước ta và đường lối của Đảng trong việc phát triển DNNQD.
Xu hướng phát triển của DNNQD.
Qua nghiên cứu hoạt động của DNNQD, nghiên cứu tình hình thị trường, tình hình kinh tế Việt Nam những năm qua và định hướng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, chúng ta có thể nhận định một số xu hướng phát triển chính của DNNQD trong thời gian tới như sau:
Chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách tạo điều kiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của DNNQD nói riêng. Trong điều kiện tiếp xúc với thị trường bên ngoài, với kĩ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến, mô hình tổ chức và phương pháp quản lí mới, hiện đại…thì DNNQD sẽ có nhiều ưu thế hơn vì đây được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trong nền kinh tế. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các DNNQD sẽ phát triển với số lượng lớn, loại hình kinh doanh đa dạng trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của nền kinh tế và có xu hướng mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động không chỉ trong nước mà còn vươn ra tầm quốc tế đặc biệt là sau khi nước ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Sự cạnh tranh do đó ngày càng trở nên mạnh mẽ và quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một sức mạnh thật sự và tự chủ trong kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển.
DNNQD đang có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước nhưng vẫn chưa tương ứng với tiềm năng của thành phần kinh tế này, nhiều khi, sự phát triển còn mang tính tự phát, vì vậy trong thời gian tới DNNQD cần được hướng dẫn, tạo điều kiện để phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Trên thực tế, DNNQD cũng đang rất được sự quan tâm của Nhà nước trong việc phát triển và mở rộng, Nhà nước cũng tạo điều kiện để khu vực kinh tế này có thể phát triển hết khả năng mà nó vốn có. Việc ra đời của các văn bản quy định, việc sửa đổi các văn bản pháp luật... thể hiện sự quan tâm rất lớn của Nhà nước trong việc điều chỉnh hoạt động của các DNNQD.
Các DNNQD ngày càng phát triển mạnh và hiệu quả kinh tế mà nó đem lại đã ngày càng khẳng định vị thế của các DNNQD trong nền kinh tế, thể hiện ở bảng tổng hợp doanh thu của các doanh nghiệp:
Bảng 1.2: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu.
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2006 so với 2005 (%)
Năm 2007 so với 2006 (%)
Tổng mức (tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng mức (tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng mức (tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng số
480,202
100
580,710
100
714,421
100
120.9
123.0
Doanh nghiệp Nhà nước
66,631
13.88
72,095
12.41
77,423
10.84
108.2
107.4
Doanh nghiệp ngoài QD
413,571
86.12
508,615
87.59
636,998
89.16
123.0
125.2
- Tập thể
4,669
1.13
5,640
1.11
6,945
1.09
120.8
123.1
- Cá thể
296,834
71.77
363,325
71.43
404,044
63.43
122.4
111.2
- Tư nhân
99,625
24.09
124,531
24.48
204,512
32.11
125.0
164.2
- KV có vốn đầu tư nước ngoài
12,443
3.01
15,119
2.97
21,497
3.37
121.5
142.2
(Nguồn: Con số và sự kiện số 1+2 năm 2007)
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được mức tăng trưởng lớn về doanh thu hàng hoá cả về số lượng và tỉ lệ, và mức tăng trưởng đó còn có xu hướng tăng lên trong thời gian sắp tới, trong đó khu vực tư nhân đạt được mức tăng trưởng cao nhất, điều đó chứng tỏ khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta đang có sự phát triển mạnh mẽ.
Đặc biệt, luật doanh nghiệp mới sửa đổi đã cho phép các chủ thể kinh tế quyền tự do gần như tuyệt đối trong kinh doanh. Nghị định NĐ 109/2004/NĐCP của chính phủ về đăng kí kinh doanh và thông tư liên tịch số 07/2001/BKH- TCTK của Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê về hướng dẫn ngành nghề đăng kí kinh doanh, quy định: người kinh doanh có thể làm bất cứ gì mà pháp luật không cấm miễn là tự chịu trách nhiệm với hoạt động của mình, do đó các doanh nghiệp có xu hướng sẽ đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình theo hướng có lợi. Điều đó dẫn đến một xu hướng mang tính chất vừa là cơ hội vừa là thách thức cho hệ thống ngân hàng đó là trong thời gian tới DNNQD sẽ cần một khối lượng vốn tín dụng cả trong ngắn hạn cũng như trung dài hạn. Trong thời gian tới, buôn bán dịch vụ, thương mại, sản xuất của DNNQD sẽ phát triển mạnh, đây sẽ là một đối tượng khách hàng quan trọng trong tương lai gần của hệ thống NHTM. Ngoài ra, việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh có thể gây khó khăn trong quá trình cung ứng vốn của các ngân hàng, đó là: giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp sẽ khẳng định điều gì? Năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh đa năng được thể hiện như thế nào? và những phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức...của ngân hàng còn phù hợp nữa hay không khi doanh nghiệp luôn cần vốn trong vòng quay sản xuất của mình? Nó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện và đổi mới mình để có thể tồn tại và phát triển hơn nữa trong điều kiện mới của thị trường.
Đường lối của Đảng trong việc phát triển DNNQD.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã xác định:” Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế cá thể, tiểu chủ được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; kinh tế tư bản Nhà nước được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất không bị pháp luật cấm.” Nghị quyết Đại hội IX cũng đề ra một số nhiệm vụ, chủ trương chính sách chủ yếu trong thời kì tới như sau để phát triển DNNQD:
Thống nhất các quan điểm chỉ đạo phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà cụ thể hơn là DNNQD. Phát triển DNNQD là chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển chung của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Tạo môi trường thuận lợi về thể chế trong tâm lí xã hội cho sự phát triển của DNNQD. Thời gian tới sẽ sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến DNNQD theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi vừa chặt chẽ trong cấp đăng kí kinh doanh theo yêu cầu “một cửa - một dấu”, nghiên cứu, rà soát lại, bãi bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho đăng kí kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp. Làm tốt công tác phổ biến tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển DNNQD, cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh làm ăn có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước bảo đảm lợi ích của người lao động.
Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển, chú trọng tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số chính sách sẽ được sửa đổi, bổ sung là: chính sách đất đai, chính sách tài chính, tín dung; chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại…
Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lí Nhà nước, xác định rõ chức năng quản lí Nhà nước đối với DNNQD. Chính phủ giao cho một cơ quan làm đầu mối ở trung ương, uỷ ban nhân dân các tỉnh giao cho một cơ quan đầu mối ở địa phương để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của DNNQD.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp với việc phát triển DNNQD. Các cấp uỷ Đảng có trách nhiệm quán triệt và phổ biến sâu rộng trong Đảng và nhân dân về quan điểm của Đảng đối với sự phát triển của DNNQD, hoàn thiện về công tác tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ trong các DNNQD.
Như vậy, trong thời gian tới cùng với những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế của Nhà nước và trước yêu cầu mới của thị trường, các DNNQD sẽ phát triển như vũ bão và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên thị trường, đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển nền kinh tế đất nước.
1.3. Vấn đề cho vay đối với các DNNQD.
1.3.1. Vai trò của TDNH đối với các DNNQD.
Các DNNQD có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên các DNNQD lại rất thiếu vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính vì vậy, để phát huy tính năng động trong kinh doanh, khai thác tối đa nguồn lực sẵn có trong khu vực kinh tế này Nhà nước cần hỗ trợ cho họ để tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh. Một giải pháp hữu hiệu nhất là đầu tư vốn hỗ trợ cho khu vực kinh tế này thông qua kênh TDNH bởi TDNH là hình thức hỗ trợ vốn phổ biến trong điều kiện ở nước ta hiện nay, nó có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các DNNQD, thể hiện:
TDNH thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các DNNQD theo mục tiêu phát triển đất nước. Mỗi doanh nghiệp khi muốn được thành lập đều phải cần có một lượng vốn tối thiểu để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật, trong nhiều trường hợp lượng vốn mà các thành viên sáng lập đóng góp không đủ và khi đó họ tìm cách vay ngân hàng để có đủ lượng vốn cần thiết. Và trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp luôn có nhu cầu về vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được diễn ra liên tục và hiệu quả do đó trường hợp thiếu vốn là không thể tránh khỏi, chính vì vậy, TDNH sẽ đáp ứng các nhu cầu này của doanh nghiệp. Như vậy, TDNH có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các DNNQD, cung cấp vốn cho họ để họ đáp ứng kịp thời các nhu cầu, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các DNNQD nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
TDNH là đòn bẩy kinh tế giúp cho các doanh nghiệp nói chung và DNNQD nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học công nghệ... thông qua các khoản TDNHTM. Khi nền kinh tế phát triển, tái sản xuất mở rộng là yêu cầu tất yếu của các doanh nghiệp, TDNH cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất của các doanh nghiệp. Khoa học kĩ thuật phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải kịp thời tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ mới vào trong sản xuất để nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra, TDNH cũng là một cách để nhờ đó doanh nghiệp có thể trang bị cho mình các máy móc thiết bị hiện đại cho quá trình sản xuất thông qua các khoản vay trung dài hạn.
TDNH góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNQD. Khi doanh nghiệp đi vay để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong một thời gian nhất định từ đó mới đảm bảo được mối quan hệ lâu dài với ngân hàng, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Điều đó yêu cầu các doanh nghiệp phải chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh và kích thích các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả để vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp vừa đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Vai trò này rất quan trọng vì nó là động lực thúc đẩy các DNNQD tăng cường hoạt động sao cho có hiệu qủa cao, nó giúp các doanh nghiệp xác định được mục tiêu trong kinh doanh và đòi hỏi một sự nỗ lực cao trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
TDNH là công cụ tài trợ cho các dự án, tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu của Chính phủ là phát triển kinh tế đa thành phần. Trong điều kiện của một nước đang phát triển như nước ta hiện nay, các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH đất nước ngày càng nhiều và cần một lượng vốn đủ lớn để được đưa vào thực thi, điều đó rất cần đến sự giúp đỡ của các ngân hàng. Khi các dự án được thực hiện thì rất cần đến lao động do đó góp phần tạo công ăn việc làm cho lao động thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân thực hiện mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Hơn nữa, nước ta đang tiến hành xây dựng các khu công nghiệp, các vùng kinh tế, điều đó tạo ra rất nhiều cơ hội kinh doanh và tìm kiếm việc làm đồng thời cũng mở ra nhiều hội cho các ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và DNNQD càng phát triển lâu dài thì cũng tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ khác như quan hệ trong hoạt động thanh toán, bảo lãnh. Quan hệ tín dụng muốn phát triển lâu dài thì doanh nghiệp phải đảm bảo được sự phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng uy tín và hình ảnh của mình trên thị trường... từ đó mới tạo được niềm tin trong ngân hàng khi quyết định cho vay. Khi doanh nghiệp đã phát triển đến mức độ cao thì các nhu cầu trong sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như: thanh toán qua ngân hàng, tư vấn trong kinh doanh, sử dụng séc, thẻ thanh toán...cũng tăng lên. Điều đó không chỉ giúp doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng các mục tiêu hoạt động của mình mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động, tăng lợi nhuận, do đó làm cho mối quan hệ của ngân hàng và doanh nghiệp càng ngày càng phát triển.
Như vậy, TDNH có vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD, nó góp phần kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp này, đáp ứng các nhu cầu của xã hội và mục tiêu phát triển của nền kinh tế để nước ta tiến những bước vững chắc vào quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.
1.3.2. Sự cần thiết của việc cho vay đối với các DNNQD.
Trong quá trình hoạt động, các DNNQD luôn luôn cần vốn để đáp ứng cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh của mình. Có hai loại nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp đó là nhu cầu về vốn trong ngắn hạn và nhu cầu về vốn trong dài hạn.
Nhu cầu về vốn ngắn hạn.
Nhu cầu về vốn ngắn hạn xuất phát từ độ lệch của lưu chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp, tức là lưu chuyển tiền vào và tiền ra thường không ăn khớp về mặt thời gian và qui mô.Đây là một hiện tượng tất yếu do chu kì hoạt động và ngân quỹ của doanh nghiệp quyết định. Chu kì hoạt động là khoảng thời gian từ khi mua nguyên liệu đưa vào tồn kho cho đến khi thu được tiền từ bán hàng tồn kho. Chu kì hoạt động gồm hai giai đoạn: giai đoạn tồn kho là khoảng thời gian từ khi mua hàng tồn kho cho đến khi bán hàng tồn kho, giai đoạn tồn kho càng dài thì số dư hàng tồn kho càng tăng trong mối tương quan với doanh số bán và ngược lại, giai đoạn tồn kho dài hay ngắn phụ thuộc vào khoảng cách giữa các lần mua nguyên liệu, thời gian sản xuất, khoảng cách và quy mô giữa các lần tiêu thụ sản phẩm và tất cả các yếu tố trên lại phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của mỗi ngành, qui mô của doanh nghiệp và hoạt động của thị trường; giai đoạn thực hiện khoản phải thu là khoảng thời gian từ khi bán hàng tồn kho cho đến khi thu được tiền bán hàng, thời gian thu tiền phụ thuộc vào tỉ trọng bán chịu so với doanh số bán và thời gian bán chịu. Chu kì ngân quỹ được xác định bằng chu kì hoạt động trừ đi giai đoạn phải trả người bán (giai đoạn phải trả người bán là khoảng thời gian mua chịu hàng hoá của doanh nghiệp). Sự không ăn khớp đó đòi hỏi phải có nguồn tài trợ về ngân quỹ để đáp ứng mức chênh lệch đó và cho vay ngắn hạn sẽ giải quyết nhu cầu đó cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, cho vay ngắn hạn còn để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ của các doanh nghiệp, tức là nhu cầu tài sản lưu động thời vụ, trong đó chủ yếu là hàng tồn kho (tồn kho nguyên liệu, tồn kho trong quá trình chế biến và tồn kho thành phẩm) và các khoản phải thu. Tỉ trọng cho vay của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ của doanh nghiệp phụ thuộc vào chiến lược quản trị tài chính của doanh nghiệp là chiến lược quản trị bảo thủ hay chiến lược quản trị năng động: trong chiến lược tài chính bảo thủ phần lớn nhu cầu vốn thời vụ được tài trợ bằng vốn lưu động ròng và các khoản nợ ngắn hạn khác, khi đó vốn vay ngân hàng chiếm tỉ trọng thấp; trong chiến lược tài chính năng động, vốn lưu động ròng chỉ tham gia để đầu tư cho tài sản lưu động thường xuyên, còn tài sản lưu động dao động sẽ được tài trợ bằng nợ phải trả người bán, nợ khác và vay ngân hàng, như vậy, vốn vay ngân hàng sẽ chiếm phần lớn nhu cầu vốn thời vụ.
Mặt khác, cho vay ngắn hạn của ngân hàng còn vì các lí do khác như: cho vay tạm thời để chờ giải ngân các khoản tín dụng dài hạn hoặc phát hành trái phiếu; cho vay để xử lí các tình huống đặc biệt, như cho vay để thay thế các khoản nợ khác, cho vay để bổ sung vốn do thua lỗ hoặc lợi nhuận giảm... Những nhu cầu vay đặc biệt này chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong cho vay ngắn hạn của các NHTM và được ngân hàng xét duyệt cho vay một cách cẩn trọng, đồng thời giám sát một cách nghiêm ngặt.
Nhu cầu về vốn dài hạn.
Nhu cầu về vốn dài hạn của doanh nghiệp là các nhu cầu về tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên; trả các khoản nợ hiện hữu như thanh toán cho các khoản nợ khi không thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ vay đến hạn, hoặc do sự tăng trưởng liên tục trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ đó làm phát sinh nhu cầu duy trì khoản nợ cũ, hoặc để thanh toán cho các trái phiếu được quyền mua lại có lãi suất lúc phát hành cao; và thành lập doanh nghiệp mới hoặc mua lại doanh nghiệp đang hoạt động. Đó là các nhu cầu rất chính đáng và cần được đáp ứng đầy đủ để doanh nghiêp không bị bỏ qua các cơ hội trong kinh doanh.
Đặc trưng của các nhu cầu này là thường có giá trị lớn và trong một thời gian dài nên cần phải được đáp ứng bằng các nguồn vốn mang tính chất dài hạn. Ngoài vốn chủ sở hữu, đi vay trung dài hạn từ các định chế tài chính và phát hành chứng khoán ra thị trường tài chính là hai nguồn tài trợ dài hạn chủ yếu của các doanh nghiệp. Lí do các doanh nghiệp chọn vay trung dài hạn thay vì phát hành chứng khoán để huy động vốn là:
Các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thị trường tài chính vì tiềm lực tài chính không mạnh và có uy tín không cao trên thị trường, vì vậy khi có nhu cầu họ phải đi vay các ngân hàng hoặc các định chế tài chính tài chính khác.
Vay trung dài hạn trong nhiều trường hợp tốt hơn phát hành chứng khoán vì các doanh nghiệp có thể có quyền lựa chọn phương thức vay, điều kiện vay, điều kiện trả nợ, thời hạn vay phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp mình và đôi khi chi phí đi vay có thể thấp hơn phát hành trái phiếu; trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp không muốn phát hành chứng khoán vì ngại công khai thông tin về minh hoặc điều kiện thị trường không có lợi cho việc phát hành; một lí do nữa là cho vay trung dài hạn buộc doanh nghiệp nhỏ phải tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, mặt khác doanh nghiệp có thể có được mối quan hệ mật thiết với ngân hàng và điều này có thể có lợi cho doanh nghiệp sau này.
Mặt khác, trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay, NHTM vẫn là nơi cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế do thị trường tài chính (phát hành chứng khoán) chưa thực sự phát triển mạnh, do đó việc tìm kiếm vốn trên thị trường tài chính còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế, chỉ có các doanh nghiệp lớn, có uy tín cao trên thị trường mới có khả năng huy động được vốn bằng cách này, còn lại đa số các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi thiếu vốn họ phải tìm cách đi vay các tổ chức kinh tế khác.
Như vậy, có thể thấy việc cho vay đối với các DNNQD là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời khi cần thiết trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình từ đó góp phần quan trọng vào sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc cho vay các DNNQD.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc cho vay của các ngân hàng đối với các DNNQD và được chia ra thành hai nhóm chính là các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
Nhóm nhân tố khách quan.
F Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhân tố này chính là các quy định, cơ chế, quy chế... đặt ra về giới hạn phạm vi hoạt động, mục đích hoạt động, các hình thức kinh doanh... của các ngân hàng cũng như các DNNQD. Chính sách càng mở rộng thì hoạt động của các tổ chức càng dễ dàng, và từ đó doanh nghiệp có thể nhận được nguồn tài trợ theo nhu cầu mà không cần phải nhiều thủ tục phức tạp; hơn nữa điều đó cũng làm cho các doanh nghiệp không ngần ngại khi đi vay vốn ngân hàng do thủ tục vay rườm rà, từ đó kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, tạo điều kiện sử dụng vốn có hiệu quả và đảm bảo cho sự phát triển của DNNQD. Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay, nhà nước đang có xu hướng phát triển nền kinh tế đa thành phần, kích thích các DNNQD hình thành và phát triển, đây là một điều kiện rất thuận lợi cho các DNNQD cũng như cho ngân hàng tăng cường mọi hoạt động của mình, tăng lợi nhuận, góp phần phát triển nền kinh tế.
F Môi trường kinh tế. Đây chính là môi trường sống của DNNQD và của cả các NHTM. Nhân tố này ảnh hưởng đến nhu cầu vay của DNNQD và chính sách cho vay của ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp cần mở rộng hoạt động để phát triển cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, do đó họ cần có nhiều vốn để phát triển sản xuất cũng như ứng dụng khoa học công nghệ; bên cạnh đó, ngân hàng cũng phát triển và mở rộng các nghiệp vụ của mình, điều đó dẫn đến các khoản vay sẽ tăng lên. Ngược lại, với nền kinh tế suy thoái, mọi cơ hội đều hạn chế, hoạt động sản xuất kinh doanh thu hẹp, nhu cầu vay ngân hàng cũng giảm xuống, ngân hàng cũng hạn chế hoạt động của mình, do đó các khoản cho vay cũng giảm. Nước ta là một nước đang phát triển do đó cơ hội kinh doanh là rất lớn, nó đòi hỏi các tổ chức kinh tế phải chủ động nắm bắt mọi thời cơ để đứng vững trong thị trường và phát triển.
F Môi trường chính trị- xã hội. Một môi trường chính trị ổn định sẽ làm cho các doanh nghiệp yên tâm khi đầu tư và kích thích họ tăng cường mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, quan điểm, nhận thức của xã hội về DNNQD cũng có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các DNNQD. Hiện nay, các DNNQD nhận được rất nhiều sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân bởi hiệu quả kinh tế mà nó đem lại nhiều khi còn lớn hơn so với các DNNN. Đặc biệt, khi trình độ dân trí càng ngày càng tăng lên thì DNNQD càng được đánh giá cao trong xã hội. Chính vì vậy, các DNNQD càng có điều kiện để mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, do đó càng cần nhiều vốn và ngân hàng là một nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho các DNNQD.
Nhóm nhân tố chủ quan. Đây chính là những nhân tố nằm trong hai đối tượng trong quan hệ cho vay: DNNQD và các NHTM.
Đối với các NHTM. Hoạt động cho vay phụ thuộc vào các NHTM thể hiện ở một số điểm sau:
à Chính sách cho vay của ngân hàng. Nhân tố này chính là các quy định riêng của ngân hàng về hoạt động cho vay, bao gồm: hạn mức cho vay, kì hạn các khoản vay, lãi suất cho vay, các loại hình cho vay...và còn bao gồm các quy định về điều kiện cho vay, điều kiện đảm bảo... Những nhân tố này có thể thay đổi theo từng thời kì phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, điều kiện của ngân hàng, mục tiêu kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kì... Và đối với mỗi chính sách cho vay khác nhau sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD có được vay vốn ngân hàng hay không, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
à Nguồn vốn của ngân hàng. Đây là nhân tố quyết định đến khả năng cho vay của ngân hàng. Nguồn vốn để cho vay của ngân hàng ngoài nguồn vốn tự có ra thì một phần chủ yếu là đi huy động từ bên ngoài. Do đó, quy mô, chi phí, thời hạn và tính lỏng... của nguồn vốn huy động sẽ đóng vai trò quyết định trong việc cho vay của ngân hàng. Hoạt động cho vay phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động huy động vốn do đó ngân hàng cần phải biết kết hợp hai loại hoạt động này để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian tới, nhu cầu về các khoản vay trung dài hạn của các DNNQD sẽ tăng lên, trong khi đó nguồn vốn ngắn hạn lại chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các NHTM, điều đó đòi hỏi các NHTM phải có chính sách thu hút và sử dụng vốn hợp lí tránh tình trạng dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn vì điều đó đem lại rủi ro cao cho ngân hàng.
à Trình độ của đội ngũ cán bộ. Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và ra quyết định doanh nghiệp có được vay vốn hay không do đó trình độ của cán bộ tín dụng là rất quan trọng. Ngoài ra, phong cách giao tiếp và thái độ làm việc của cán bộ tín dụng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút thêm khách hàng đến với ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh của hệ thống NHTM đang có xu hướng tăng mạnh như hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngân hàng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường công tác tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, từ đó đáp ứng các nhu cầu đó một cách nhanh chóng và hiệu quả.
à Cơ sở vật chất, trang thiết bị của NHTM. Nhân tố này không chỉ ảnh hưởng tới các mặt hoạt động của ngân hàng mà nó còn nâng cao hình ảnh của ngân hàng trong tâm lí khách hàng. Trang thiết bị hiện đại sẽ giúp ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác, giảm bớt thời gian và công sức, đồng thời thu thập và xử lí các thông tin chính xác, nâng cao hiệu qủa hoạt động. Một ngân hàng có cơ sở vật chất vững mạnh, hiệ đại sẽ tăng lòng tin đối với khách hàng vay hơn là một ngân hàng có cơ sở vật chất lạc hậu.
Đối với các DNNQD. Không phải lúc nào ngân hàng mở rộng cho vay đối với các DNNQD cũng được kết quả như ý muốn. Nếu như DNNQD không đủ điều kiện để quan hệ tín dụng với ngân hàng thì liệu ngân hàng có thể mở rộng cho vay không? Vì vậy, ngoài những yếu tố chủ quan từ phía ngân hàng thì những yếu tố từ phía DNNQD cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc ngân hàng mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế này, các yếu tố đó bao gồm:
ỹ Trình độ của những người lãnh đạo DNNQD. Nhân tố này ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Những người lãnh đạo đóng vai trò quan trọng từ khi doanh nghiệp được hình thành cho tới khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể, nó quyết định đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Những thông tin về nhân tố này cũng là những thông tin cần thiết đối với ngân hàng khi xét duyệt một khoản vay, do đó nó ảnh hưởng đến việc khoản vay có được hình thành hay không.
ỹ Uy tín của DNNQD. Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay đối với những doanh nghiệp đã làm ăn lâu dài với ngân hàng( những khách hàng truyền thống) hoặc những doanh nghiệp tuy chưa bao giờ quan hệ với ngân hàng nhưng rất có uy tín trên thị trường và trong quan hệ với các ngân hàng khác. Uy tín đó sẽ phần nào giúp ngân hàng yên tâm hơn khi tiến hành cho vay đặc biệt khi mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh- khu vực mà yếu tố rủi ro luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhân tố này liên quan đến nhiều vấn đề của doanh nghiệp như: lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, hiệu quả hoạt động... Uy tín của doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân đối với sản phẩm do mình sản xuất ra, cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, thực hiện tốt mọi nghĩa vụ đối với nhà nước, hoàn trả các khoản vay đúng hạn,... Một doanh nghiệp có uy tín cao sẽ có khả năng đáp ứng được các nhu cầu về vốn của mình cao.
Như vậy, có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng tới việc cho vay đối với các DNNQD. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đan xen vào nhau trong việc quyết định khoản vay có được hình thành hay không. Để tăng cường các khoản vay để đáp ứng các nhu cầu của DNNQD thì không chỉ phụ thuộc vào các nhân tố chủ quan thuộc về bản thân DNNQD và ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan thuộc về môi trường bên ngoài.
Chương 2:
Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD
của NHTMCP Quân Đội
2.1. Khái quát về NHTMCP Quân Đội.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
NHTMCP Quân đội ra đời và hoạt động trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá trình đổi mới. Cuối năm 1989 những tiến bộ trong nền kinh tế cho phép Việt Nam chuyển thời kỳ, đưa ra những chính sách và mô hình Ngân hàng thích hợp với cơ chế thị trường trong nền kinh tế nhiều thành phần. Nhà nước chủ trương cải cách hệ._.p, các nhà máy đang hình thành và phát triển mạnh ở khắp các tỉnh thì việc mở rộng mạng lưới hoạt động sẽ giúp ngân hàng phát triển hoạt động của mình một cách nhanh chóng hơn.
Điểm yếu của các NHTMCP là do mới được thành lập nên chưa thể có được một mạng lưới hoạt động rộng như khối các NHNN. Đối với NHTMCP Quân Đội, hàng năm, mạng lưới hoạt động của ngân hàng lại được mở rộng ra trên các đô thị lớn và các khu kinh tế phát triển. Tuy nhiên, mạng lưới hoạt động của ngân hàng hiện nay vẫn còn hẹp chỉ tập trung ở một số những đô thị lớn. Tại một số khu công nghiệp phát triển như khu công nghiệp Nội Bài, khu công nghiệp Từ Sơn, khu công nghiệp Gia Lâm, khu công nghiệp Hải Dương... ngân hàng chưa có một chi nhánh nào. Chính vì vậy, trong thời gian tới, ngân hàng sẽ phải phát triển mạng lưới hoạt động của mình ra những khu công nghiệp phát triển đó.
Việc mở rộng mạng lưới hoạt động đòi hỏi ngân hàng phải có một lượng vốn đủ lớn do đó mở rộng cần phải dựa trên những nghiên cứu rõ ràng và chính xác đồng thời phải dựa trên tình hình thực tế của ngân hàng để đảm bảo đạt được hiệu quả cao trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, ngân hàng cần phải bố trí nhân lực một cách phù hợp theo trình độ và kinh nghiệm công tác và phải phù hợp với tình hình phát triển của từng khu vực cụ thể.
Với những biện pháp đó sẽ giúp khách hàng dễ tiếp cận hơn với ngân hàng và ngân hàng đáp ứng nhanh hơn các nhu cầu vay vốn của khách hàng. Mặt khác, với một mạng lưới hoạt động rộng rãi cũng giúp ngân hàng gây được tiếng tăm trên thị trường và tăng hình ảnh và uy tín của mình trên thương trường trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay.
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực.
Con người là một yếu tố quan trọng và có tính quyết định đến hiệu quả của mọi hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thẩm định, thu hồi nợ vay... đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực dễ biến động và có nhiều phức tạp càng đòi hỏi cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải hết sức linh hoạt, nhạy bén và có trình độ vững vàng. Đồng thời với trình độ khoa học công nghệ phát triển như hiện nay đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ nhất định về công nghệ thông tin để sử dụng được các máy móc hiện đại, ngoài ra cũng cần phải am hiểu về những lĩnh vực nhất định liên quan đến quá trình thẩm định khoản vay như: máy móc của doanh nghiệp, công nghệ của doanh nghiệp....
Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng là một yêu cầu quan trọng nếu như ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cho vay của mình cũng như hoạt động cho vay DNNQD nói riêng. Để làm được như vậy, ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp sau:
Hàng năm, ngân hàng có kế hoạch tuyển dụng nhân viên vào làm việc tại ngân hàng sao cho đủ đáp ứng nhu cầu của công việc. Mặt khác, công tác tuyển dụng phải đảm bảo công bằng và nghiêm minh để tuyển dụng được những nhân viên có năng lực thật sự không chỉ về nghiệp vụ mà còn cả về trình độ tiếng Anh và vi tính bởi yêu cầu của quá trình hội nhập và công nghệ thông tin phát triển như hiện nay.
Nâng cao chất lượng nhân viên bằng cách tăng cường đào tạo cho các cán bộ nhân viên tại trung tâm đào tạo nghiệp vụ ngân hàng (BTC), chương trình phát triển dự án Mekong (MPDF) và các trường đại học tổ chức các khoá học chất lượng cao phù hợp với yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng. Đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để các cán bộ nhân viên không ngừng học tập nâng cao trình độ. Ngân hàng cũng có thể cử nhân viên tham gia các khoá học đào tạo nghiệp vụ tại các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở nước ngoài để tìm hiểu và học hỏi thêm kinh nghiệm.
Cán bộ nhân viên không chỉ được đào tạo về nghiệp vụ mà cần phải được đào tạo về phẩm chất đạo đức. Phong cách phục vụ, thái độ của nhân viên có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng và việc mở rộng các khoản cho vay. Chính vì vậy, ngân hàng cần phải có biện pháp thích hợp để kích thích nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên như có chính sách khen thưởng phù hợp với những nhân viên phục vụ tốt, và có biện pháp xử lí thích đáng đối với những nhân viên không làm vừa lòng khách hàng. Ngân hàng có thể tiến hành các cuộc thăm dò ý kiến của khách hàng về phong cách phục vụ của nhân viên để từ đó rút ra được kinh nghiệm và kịp thời có biện pháp xử lí phù hợp.
Sắp xếp nhân viên vào các vị trí sao cho vừa phù hợp với trình độ chuyên môn vừa phù hợp với vị trí công viêc. Đối với những nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng và trực tiếp tiến hành công tác thẩm định thì đòi hỏi phải có một kĩ năng giao tiếp tốt, có hiểu biết về thực tế để có thể hướng dẫn khách hàng và làm hài lòng khách hàng. Họ cần phải khéo léo trong việc đàm phán, thương lượng với khách hàng về các điều kiện vay vốn, làm sao đảm bảo được lợi ích của ngân hàng mà vẫn thu hút được khách hàng.
Ngân hàng cũng cần xây dựng một chính sách tiền lương và tiền thưởng hợp lí không chỉ phù hợp với chức vụ mà còn phù hợp với năng lực và mức độ công việc của nhân viên để khuyến khích nhân viên nhiệt tình chủ động trong công việc. Đồng thời với một chính sách lương hấp dẫn sẽ thu hút được nhiều nhân tài đến tham gia dự tuyển từ đó giúp ngân hàng chọn lọc được những nhân viên có năng lực cao vào làm việc tại ngân hàng.
Với những biện pháp trên sẽ giúp cho NHTMCP Quân Đội tạo dựng được một đội ngũ cán bộ nhân viên vững vàng về nghiệp vụ, khéo léo trong giao tiếp với khách hàng để nâng cao chất lượng phục vụ. Đồng thời với những biện pháp thích hợp trong cách đối xử với nhân viên sẽ giúp cho đội ngũ nhân viên gắn bó với ngân hàng từ đó khuyến khích họ hết mình phấn đấu vì sự nghiệp phát triển chung của ngân hàng.
3.2.5. Phát triển công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin ngày càng phát triển như vũ bão nhưng đối với NHTMCP Quân Đội nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung trình độ công nghệ thông tin hiện nay vẫn còn ở trong tình trạng lạc hậu và còn kém xa so với trình độ chung của thế giới. Công nghệ hiện đại sẽ giúp cho ngân hàng giải quyết công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả. Vì vậy, phát triển công nghệ thông tin là một yêu cầu cần thiết hiện nay, đòi hỏi ngân hàng cần phải tập trung đầu tư, phát triển. Ngân hàng cũng đã có kế hoạch phát triển công nghệ thông tin như sau:
+ Thuê tư vấn đánh giá thực trạng của hệ thống công nghệ thông tin và đề xuất các giải pháp để pháp triển hệ thống công nghệ thông tin phù hợp với chiến lược phát triển của Ngân hàng.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống lõi (core banking), hệ thống xử lí dữ liệu thông minh (datawarehouse), hệ thống thông tin quản lí (MIS), hệ thống thông tin quản trị rủi ro.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống dự phòng về công nghệ thông tin (back_ up system)
+ Phát triển các ứng dụng phục vụ các sản phẩm bán buôn, bán lẻ, các sản phẩm ngân hàng điện tử như Kiosk banking, Phone- banking, Home- banking, Mobile banking...
+ Phát triển mạng liên kết WAN diện rộng, thực hiện kết nối online trong toàn hệ thống và cơ sở dữ liệu khách hàng tập trung.
+ Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực quản trị thông tin.
Trong thời gian tới ngân hàng nên tập trung chú trọng hiện đại hoá lại những máy móc hiện có và trang bị thêm những máy móc mới cần thiết cho quá trình hoạt động và làm việc của nhân viên. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ ngân hàng, tập trung đầu tư phần mềm ứng dụng với các dịch vụ tiện ích của ngân hàng, đào tạo cán bộ đủ khả năng tiếp nhận kĩ thuật mới nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thiết bị hiện có.
Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang bị kĩ thuật hiện đại mà nó phải gắn bó với việc đổi mới quy trình "sản xuất" của ngân hàng, điều đó có nghĩa là máy móc hiện đại phải tương ứng với trình độ của nhân viên sao cho có thể sử dụng được máy móc một cách có hiệu quả. Đổi mới quy trình "sản xuất" thể hiện ở chỗ: ngân hàng hiện đại hoá hệ thống thanh toán sao cho nhanh chóng, tiện ích để thu hút được nhiều khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng; phát triển các dịch vụ tiên tiến phục vụ khách hàng như: giao dịch qua điện thoại, qua mạng máy tính...
Công nghệ thông tin phát triển do đó việc thực hiện giao dịch qua mạng internet ngày càng trở nên phổ biến. Hiện nay, NHTMCP Quân Đội đã có một trang web giới thiệu về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng như về mạng lưới kinh doanh và nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay trang web này chưa được phong phú và cập nhật vì thế ngân hàng nên đầu tư nhiều hơn đối với nội dung, hình thức sao cho sinh động và chi tiết hơn bởi vì qua trang web sẽ giúp cho khách hàng biết được các thông tin về ngân hàng cũng như các vấn đề liên quan các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu để từ đó họ tìm đến ngân hàng. Mặt khác, khách hàng cũng có thể thực hiện giao dịch thông qua mạng internet, điều này góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.
Để phát triển được một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại đòi hỏi ngân hàng cần phải có một lượng vốn đủ lớn và ngân hàng cũng cần phải có một vị thế nhất định trên thị trường. Phát triển công nghệ thông tin không thể là giải pháp có thể tiến hành trong một thời gian ngắn và sẽ được thực hiện trong một thời gian dài dựa trên những nghiên cứu kĩ càng và cụ thể.
3.2.6. Tổ chức tốt mạng lưới thu thập, xử lí thông tin và phân tích thông tin tín dụng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với cách thức xử lí thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định là khá phức tạp, song vô cùng cần thiết. Sự chính xác của thông tin ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của khoản vay và ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của ngân hàng. Vì vậy trong công tác thu thập, xử lí, phân tích thông tin trong thời gian tới ngân hàng có thể thực hiện một số công việc sau:
Để có thể có đủ thông tin cần thiết cho việc đánh giá khách hàng, trước tiên, cần thiết lập hệ thống thông tin đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau. Cùng với những thông tin khách hàng cung cấp, ngân hàng cũng nên chủ động trong việc tìm hiểu thêm các thông tin có liên quan đến khách hàng và liên quan đến khoản vay trên các báo, tạp chí, mạng internet... để hiểu rõ hơn về khách hàng. Cần đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm để quản lí khách hàng, thống kê, nghiên cứu, lưu trữ thông tin từ đó bổ sung cho việc phân tích đánh giá khách hàng từ các lần vay sau.
Ngân hàng cần tìn hiểu kĩ các thông tin về hoạt động của khách hàng qua các bạn hàng, đối tác của khách hàng vay cũng như các cơ quan chức năng trên địa bàn doanh nghiệp hoạt động. Các DNNQD luôn có một số lượng bạn hàng rất đông đảo do đó việc ngân hàng tìm hiểu khách hàng trực tiếp vay vốn ngân hàng qua những đối tượng này sẽ giúp ngân hàng tìm hiểu thêm được những thông tin cần thiết và có ích đối với ngân hàng.
Ngân hàng nên tập trung vào những thông tin trực tiếp liên quan đến chất lượng khách hàng và khoản vay, đối với những thông tin đã có từ những khoản vay trước chỉ cần xem xét sơ qua và có thể bỏ qua một số thông tin mà đã chắc chắn độ chính xác. Việc này sẽ giúp ngân hàng dành thời gian để phân tích những thông tin cần thiết, rút ngắn thời gian xét duyệt khoản vay từ đó đưa ra quyết định nhanh chóng cho khách hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc thu thập, xử lí, phân tích thông tin cần phải được giao cho những cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và có những hiểu biết nhất định về từng lĩnh vực, từng ngành nghề cụ thể. Việc này sẽ giúp cho việc phân tích thông tin được tổ chức một cách chuyên nghiệp hơn, mang lại kết luận chính xác hơn.
Từ những việc làm trên sẽ giúp cho ngân hàng có được những khoản vay có chất lượng tốt từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng các khoản vay tiếp theo, tăng uy tín của ngân hàng.
3.2.7. Xử lí nợ quá hạn.
Mở rộng cho vay luôn đi kèm với nâng cao chất lượng cho vay. Hiện nay, nợ quá hạn của các DNNQD không cao, tuy nhiên đối với mỗi khoản nợ quá hạn mà ngân hàng không thu hồi được đều gây những tổn thất nhất định cho ngân hàng. Do đó việc xử lí nợ quá hạn thế nào để vẫn đảm bảo vừa thu hồi được nợ cho ngân hàng vừa không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề rất khó khăn đặt ra cho ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp. Ngân hàng có thể giải quyết nợ quá hạn theo những cách sau:
Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản vay, kiểm tra hạn mức tín dụng, thường xuyên gặp gỡ khách hàng và thăm quan thực địa... để kịp thời phát hiện ra những dấu hiệu bất thường ngay khi chúng mới phát sinh để kịp thời điều chỉnh, giải quyết kịp thời nhanh chóng, tránh trường hợp khi xảy ra rủi ro mới phát hiện ra, gây tổn thất cho ngân hàng.
Đối với những khoản nợ có vấn đề mới phát sinh ngân hàng cần nhanh chóng tìm nguyên nhân, nếu do nguyên nhân khách quan thì ngân hàng phải xem xét lại kế hoạch sản xuất kinh doanh, điều chỉnh lại phương án, dự án để phù hợp với điều kiện mới, cử những cán bộ có kinh nghiệm xuống từng đơn vị để giúp đỡ doanh nghiệp; nếu do tính toán nhầm chu kì sản xuất kinh doanh mà khi tới hạn doanh nghiệp vẫn chưa thu hồi được vốn để trả ngân hàng, thì tuỳ từng trường hợp ngân hàng có thể đốc thúc doanh nghiệp trả nợ hoặc thực hiện gia hạn nợ cho doanh nghiệp; đối với những trường hợp cố tình có ý lừa đảo, cần phải nộp hồ sơ báo cáo các cơ quan hữu quan để kịp thời xử lí. Ngân hàng nên chủ động và linh hoạt trong việc giải quyết nợ quá hạn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Đối với những khoản nợ khó đòi, ngân hàng có thể thu hồi những khoản thanh toán của khách hàng cử cán bộ xuống xem xét lại tình hình thực tế của khách hàng để đưa ra quyết định xiết nợ kịp thời tránh tình trạng để khách hàng không có khả năng trả nợ hoàn toàn mới xiết nợ. Đối với những khoản nợ khó đòi đã được xử lí bằng quỹ dự phòng rủi ro, ngân hàng tiếp tục tiến hành thu hồi bằng cách giao cho Công ty quản lí nợ và khai thác tài sản. Chỉ sau khi áp dụng mọi biện pháp thu hồi mà vẫn không thu hồi được nợ ngân hàng mới nhờ tới sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật.
Tóm lại, để hoạt động xử lí nợ quá hạn của ngân hàng đạt hiệu quả cao và đảm bảo sự an toàn trong ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải có hoạt động kiểm soát nội bộ tốt, công tác kiểm soát phải được tiến hành dưới hình thức định kì kiểm tra việc tuân thủ các quy chế nội bộ , luật... Ban lãnh đạo ngân hàng thông qua các báo cáo quản lí kiểm tra tình hình tín dụng.
3.3. Một số kiến nghị.
Việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD của NHTMCP Quân Đội không chỉ tạo điều kiện để khuyến khích các DNNQD phát triển hoà mình vào sự phát triển chung của đất nước mà còn góp phần giúp cho NHTMCP Quân Đội ngày càng mở rộng và phát triển hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập. Những năm trở lại đây, ngân hàng đã cố gắng tăng mức dư nợ đối với các DNNQD và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên là một ngân hàng hoạt động trong sự quản lí vĩ mô của Nhà nước cùng với việc phải tuân theo những quy định mà NHNN đề ra thì một mình NHTMCP Quân Đội cố gắng là chưa đủ mà cần phải có sự giúp đỡ hướng dẫn của các cấp, ngành có liên quan. Mặt khác, để mở rộng cho vay đối với DNNQD thì đòi hỏi các DNNQD phải phát triển cả về quy mô và trình độ. Từ những nhận xét ở trên Tôi xin được đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan
Nhà nước là một cơ quan quản lí vĩ mô và trực tiếp điều hành hoạt động của các DNNQD. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các DNNQD phát triển, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần:
Tạo môi trường thuận lợi cho các DNNQD phát triển.
Vai trò của các DNNQD ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế nước ta bởi đó là một khu vực hoàn toàn tự chủ và năng động trước những biến động của thị trường do đó hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn so với các DNNN. Tuy nhiên, có đến trên 90% các DNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động sản xuất còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để tạo điều kiện phát triển các DNNQD thì Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ đối với khu vực kinh tế này. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hội cho các DNNQD tham gia vào các hình thức đầu tư thích hợp, mở rộng thị trường tiêu thụ cho khu vực này.
Chính phủ chỉ đạo các ngành và địa phương sớm có chương trình, kế hoạch triển khai cụ thể, các chính sách về đất đai, tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại, đầu tư... theo đúng như các quy định tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có chính sách hỗ trợ vốn cho các địa phương thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ về vốn và ban hành cơ chế, chính sách về đào tạo chủ DNNQD và cung cấp thông tin cập nhật, đầy đủ về thị trường ở trong và ngoài nước với chi phí hợp lí.
Khuyến khích mở rộng hoạt động của các DNNQD dựa trên cơ sở mục tiêu tổng thể của nền kinh tế quốc gia. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực đóng vai trò là ngành mũi nhọn của nền kinh tế thì Nhà nước nên có chính sách khuyến khích, và có sự ưu tiên, ưu đãi đối với những chủ đầu tư và có biện pháp hỗ trợ cụ thể.
Nhà nước cần thống nhất giữa các văn bản điều chỉnh hoạt động của các DNNQD để hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra thuận lợi. Cải tiến thủ tục hành chính trong việc quyết định thành lập cũng như hoạt động của các doanh nghiệp. Các cơ quan hành chính Nhà nước nên nhanh chóng giải quyết các giấy tờ liên quan đến thủ tục vay vốn cho DNNQD để doanh nghiệp hoàn tất thủ tục một cách nhanh chóng.
Các Bộ, ngành có liên quan phối hợp rà soát Luật Doanh nghiệp, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thuế, Luật Hải quan, Luật các TCTD... và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tạo một môi trường kinh tế, chính trị ổn định, thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động và khuyến khích đầu tư.
Tăng cường công tác quản lí đối với DNNQD
Hoạt động của các DNNQD có đạt hiệu quả hay không ảnh hưởng rất lớn đến việc ngân hàng quyết định mở rộng cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp này như thế nào vì vậy tăng cường giám sát góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNQD là một biện pháp hữu hiệu để ngân hàng mở rộng cho vay đối với khu vực này.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn thấp của sự phát triển, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn đang ở trong tình trạng yếu kém, ít có sức cạnh tranh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhỏ lẻ và mang tính chụp giật do đó các cơ quan quản lí phải tăng cường giám sát để có những giải pháp kịp thời. Tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
+ Tiến hành kiểm tra thường xuyên về điều kiện đăng kí kinh doanh của DNNQD, xử lí nghiêm các trường hợp đăng kí kinh doanh không đúng với thực tế, Bộ Tài chính cần ban hành cơ chế quản lí và kiểm soát thích hợp, bắt buộc DNNQD ghi chép, cập nhật sổ sách, phản ánh đúng tình hình tài chính, giúp cho các TCTD rút ngắn thời gian thẩm định khoản vay của doanh nghiệp.
+ Tăng cường sự quản lí bằng cách ban hành và hướng dẫn thực hiện các điều luật và có biện pháp xử lí thích đáng đối với những trường hợp vi phạm các điều luật đã đưa ra. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với các DNNQD trong việc thực hiện các điều luật đã ban hành.
+ Thống nhất trong các văn bản, quy định; giảm bớt thời gian và giấy tờ trong việc cấp giấy phép kinh doanh nhưng vẫn phải đảm bảo đủ những giấy tờ cần thiết và doanh nghiệp thành lập phải đủ điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, cán bộ điều hành phải đủ năng lực, phẩm chất đạo đức.
Việc thẩm định của ngân hàng đối với mỗi dự án cho vay được dựa trên những báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp cung cấp. Các báo cáo tài chính này phải được lập theo chế độ hạch toán thống kê được quy định chung. Hiện nay kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán đối với các bộ, ngành, các tổng công ty 90- 91 và các công ty thành viên của các công ty này. Các công ty kiểm toán khác được thuê kiểm toán theo yêu cầu của các cơ quan chức năng hoặc tự nguyện của doanh nghiệp. Các DNNQD hiện nay đại đa số là chưa thuê kiểm toán để kiểm tra hoạt động tài chính của mình. Do vậy Nhà nước nên có các biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ.
Nhà nước không chỉ là cơ quan quản lí vĩ mô đối với các DNNQD mà còn quản lí các hoạt động của các NHTM. Việc đầu tư vào các DNNQD của các NHTM có độ rủi ro rất cao do đó Nhà nước cũng cần phải tạo một môi trường pháp lí tốt để hoạt động cho vay của các ngân hàng diễn ra thuận lợi:
Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động tín dụng
Hoạt động cho vay của ngân hàng hiện nay chủ yếu dựa trên các tài sản đảm bảo của khách hàng, tài sản bảo đảm đó bao gồm đất đai, nhà cửa, tài sản... Chính vì vậy, các cơ quan hữu quan nên nhanh chóng trong việc cấp giấy tờ sở hữu đối với các tài sản đó để tạo điều kiện cho ngân hàng nhanh chóng và thuận lợi trong việc thẩm định.
Triển khai việc đăng kí thế chấp bất động sản của các doanh nghiệp, cá nhân tại Sở Tài nguyên- Môi trường và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ở những nơi đủ điều kiện theo đúng quy định của pháp luật; công bố công khai những nơi chưa thực hiện việc đăng kí doanh nghiệp để TCTD biết.
Khi có rủi ro phát sinh do không đòi được nợ mà sau khi ngân hàng thực hiện mọi biện pháp thu hồi nợ mà vẫn không thu hồi được nợ buộc ngân hàng phải nhờ đến sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật để giải quyết. Khi đó các thủ tục xét xử phải đơn giản và thuận tiện, việc điều tra phải chính xác và nhanh chóng để kịp thời khắc phục những hậu quả phát sinh, đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng.
Các thủ tục trong việc công chứng phải diễn ra nhanh chóng, tránh gây lãng phí thời gian và sức lực không cân thiết. Hiện nay các phòng công chứng đang hoạt động trong tình trạng quá tải, không đáp ứng được hết nhu cầu, gây nhiều phiền phức vì thế Nhà nước nên cải tiến thủ tục công chứng sao cho đơn giản, gọn nhẹ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chứng.
Trong giai đoạn sắp tới, khi nước ta bước chân vào tổ chức thương mại thế giới, hoạt động của các DNNQD cũng như các NHTM sẽ càng gặp phải nhiều khó khăn hơn khi phải đương đầu với một sức cạnh tranh mạnh mẽ. Chính vì vậy Nhà nước cần phải xem xét lại hệ thống các văn bản pháp luật đã ban hành để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mới.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy định, quy chế, nghị định... của NHNN. Để tạo điều kiện cho các NHTM nói chung và NHTMCP Quân Đội nói riêng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động, em có một số kiến nghị đối với NHNN như sau:
Hiện nay, các văn bản pháp luật mà NHNN ban hành để điều chỉnh hoạt động của các NHTM vẫn còn mang tính chung chung, chưa có sự quy định cụ thể, rõ ràng đối với từng hoạt động cụ thể. Trong khi đó, hoạt động của các NHTM ngày càng đa dạng, phong phú và có nhiều phức tạp, chính vì vậy còn nhiều khó khăn cho các NHTM khi hoạt động trong những lĩnh vực mới. NHNN nên rà soát lại những văn bản hiện hành để điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, đối với những văn bản đã không còn phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và xu hướng của thị trường thì nên được thay bằng những văn bản mới. Ngoài ra, có những văn bản để điều chỉnh những lĩnh vực hoạt động mới của ngân hàng như cho thuê tài chính, hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Thị trường liên ngân hàng là thị trường giải quyết mối quan hệ về vốn giữa các NHTM. Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường này trước khi cần sự giúp đỡ của NHNN. Như vậy, hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng điều hòa vốn giữa các NHTM, sử dụng tiềm năng vốn một cách triệt để nhất trước khi yêu cầu đến tiền của NHNN. Chính vì vậy, NHNN nên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng, hiệp hội ngân hàng cũng như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
NHNN nên có chính sách hỗ trợ cho ngân hàng khi có nhu cầu về vốn đột xuất, đảm bảo cho ngân hàng có đủ lượng vốn cần thiết đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khi cần thiết, NHNN có thể giúp đỡ để ngân hàng tiếp tục hoạt động tránh tình trạng dẫn đến phá sản vì nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
Có những biện pháp hỗ trợ các NHTM trong việc sử lí các khoản nợ có vấn đề. Hiện nay các NHTM gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lí tài sản đảm bảo khi có rủi ro xảy ra. Chính vì vậy, NHNN cần phối hợp với các cơ quan chức năng để giúp đỡ NHTM giải quyết vấn đề này.
3.3.3. Kiến nghị đối với các DNNQD
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNQD có đạt hiệu quả thì việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD mới diễn ra thuận lợi. Trong thời gian qua, các DNNQD đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số không nhỏ những doanh nghiệp làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật, làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế. Hoạt động cho vay của NHTMCP Quân Đội nói riêng và đa số các NHTM nói chung đối với các DNNQD hiện nay còn nhiều dè dặt và hạn chế cũng bởi những nguyên nhân đó. Chính vì vậy, để hoạt động cho vay đối với DNNQD đạt hiệu quả cao và ngày càng phát triển hơn nữa phụ thuộc rất nhiều vào chính các DNNQD. Theo đó các DNNQD cần phải cố gắng hơn nữa trong hoạt động của mình theo những hướng sau:
Ngay từ khi có ý định đi vào sản xuất kinh doanh các chủ đầu tư phải xác định được mục đích kinh doanh chính dáng, lành mạnh, đầu tư vào những lĩnh vực phát triển mạnh và có xu hướng bền vững, tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư. Từ đó mới đạt được hiệu quả cao trong đầu tư.
DNNQD phải có kế hoạch và chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế, ngành nghề sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; chủ động tiếp cận các thông tin về thị trường, xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả, sản phẩm có khả năng cạnh tranh; hợp tác và liên kết với các doanh nghiệp khác; bảo đảm tính minh bạch về tài chính, hoàn thiện giấy tờ chứng minh quyền sở hữu về tài sản để doanh nghiệp có đủ điều kiện thế chấp.
Trình độ của người lãnh đạo là rất quan trọng đóng vai trò quyết định trong việc đạt được hiệu quả đầu tư. Một người quản lí tốt sẽ biết nắm bắt thời cơ, tận dụng tối đa nguồn lực hiện có và có những phương pháp điều hành hoạt động kinh doanh sao cho đạt được hiệu quả tốt nhất. Trình độ của cán bộ quản lí như thế nào cũng là một vấn đề mà ngân hàng xem xét khi thẩm định phương án dự án vay vốn. Chính vì vậy, cán bộ quản lí phải không ngừng nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu kiến thức thực tế... từ đó dẫn dắt doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Các DNNQD phải chủ động trong việc đi tìm kiếm nguồn vốn và phải nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn vay từ ngân hàng, lãi suất phải trả ngân hàng là một chi phí mà doanh nghiệp được trừ đi khi tính thuế do đó doanh nghiệp phải nhận thức được vấn đề "tiết kiệm thuế nhờ lãi suất ngân hàng".
Các DNNQD phải tạo được uy tín của mình trên thị trường không chỉ đối với khách hàng mà còn với các đối tác kinh doanh của mình, tăng cường mối quan hệ để tìm hiểu phương pháp sản xuất kinh doanh, học hỏi thêm kinh nghiệm. Thành lập các hiệp hội để cùng phối hợp giúp đỡ nhau cùng phát triển.
DNNQD phải thực hiện hạch toán theo đúng chuẩn mực kế toán hiện hành để. Lập các báo cáo tài chính phải đảm bảo chính xác, từ đó tạo dựng lòng tin đối với ngân hàng để ngân hàng mở rộng cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất.
Trên đây Tôi đã đề ra một số những biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội. Có thể nhận thấy, hoạt động cho vay đối với DNNQD muốn được mở rộng ra không phải là một yếu tố đơn giản và có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Những giải pháp và kiến nghị Tôi đưa ra trên đây đều xuất phát từ tình hình thực tế cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới.
Kết luận
Trải qua hơn 13 năm trưởng thành và phát triển, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHTMCP Quân Đội từ mục tiêu ban đầu là đáp ứng nhu cầu các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp Quân đội đã không ngừng lớn mạnh, mở rộng đối tượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu vốn của mọi thành phần kinh tế, đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công của khách hàng. Trong vài năm trở lại đây, doanh số cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ, thị phần cho vay DNNQD đang dần chiếm tỉ lệ cao trong hoạt động cho vay của ngân hàng với chất lượng các khoản vay là khá tốt. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, dư nợ cho vay DNNQD vẫn chiếm một tỉ trọng nhỏ (khoảng 40%) trong tổng dư nợ của ngân hàng, điều đó có nghĩa là, khu vực ngoài quốc doanh vẫn còn nhiều tiềm năng để ngân hàng khai thác.
Qua phân tích tình hình cho vay của NHTMCP Quân Đội đối với DNNQD trong thời gian qua, đề tài: "Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTMCP Quân Đội" đã đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn hiện tại, phát triển hơn nữa hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng, góp phần tăng lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh và thế mạnh của ngân hàng trên thị trường. Hi vọng đề tài sẽ được ngân hàng xem xét và đóng góp một phần nhỏ bé trong việc mở rộng cho vay DNNQD tại ngân hàng, nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.
Do đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp, bản thân tác giả còn nhiều hạn chế, chắc chắn trên góc độ nào đó luận văn còn khiếm khuyết. Tác giả mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các đồng nghiệp và các bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này để công trình nghiên cứu được tiếp tục hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ths-1.doc