lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Có thể khẳng định rằng, sau hơn một thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều th
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành phần, DNNQD mới thực sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với đặc điểm hoạt động linh hoạt, năng động và có tính tự chủ cao DNNQD đã nhanh chóng hoà nhập với kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và là đối tác cạnh tranh sôi động với DNNN, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên em nhận thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNNQD chưa tương xứng với nhu cầu vốn thực tế của các doanh nghiệp này. Vì vậy sau một thời gian nghiên cứu nắm bắt tình hình thực tế em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên” với mong muốn góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Nội dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy chuyên đề này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, đồng thời em cũng mong nhận được những đóng góp của các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và có thực tiễn hơn.
Chương 1
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH và
vai trò của tín dụng ngân hàng đối với
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH
1.1. DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm về DNNQD:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng, được tồn tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật.
Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp vốn hoạt động cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD là vốn do tư nhân bỏ ra hay một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá nhân góp lại. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào qui mô ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật (đựơc quy định trong luật doanh nghiệp). Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, DNNQD phải chịu trách nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả vô hạn và hữu hạn. Điều đó tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại hình sản xuất kinh doanh của DNNQD mà các cá nhân, tổ chức tham gia trong đó.
1.1.1.2. Phân loại DNNQD:
* Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì DNNQD bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã…), các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là công ty trong đó có một thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên góp vốn khác chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi).
* Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn, DNNQD bao gồm các loại hình doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 1 thành viên), sở hữu nhiều chủ (công ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, hợp tác xã...).
Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao gồm các loại hình sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã.
- Doanh nghiệp tư nhân: Điều 99 luật doanh nghiệp quy định “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Công ty TNHH: là doanh nghiệp gồm không quá 50 thành viên góp vốn thành lập, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được hình thành từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam:
Bắt đầu hình thành và phát triển từ năm 1986 cho đến nay, trải qua một giai đoạn hơn mười năm các DNNQD nước ta có những đặc điểm sau:
* Quy mô vốn nhỏ bé:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển, không có sự năng động do đó khẳ năng tích luỹ vốn nội bộ rất thấp. Người dân vẫn chưa có thói quen để đồng tiền nhàn rỗi của mình có thể sinh lời bằng cách đầu tư vào sản xuất kinh doanh, mà chỉ gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng hoặc giữ tiền ở nhà. Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên nguồn vốn mang tính chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại chưa lâu nên chưa có điều kện để tích luỹ vốn. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư nhân, vay Ngân hàng và các TCTD khác. Song do uy tín của các DNNQD chưa cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của chính phủ, NHNN quy định về việc mở rộng cho vay đối với khu vực này. Hầu hết các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ (theo Nghị định số 90/2001/NĐ - CP của Chính Phủ định nghĩa thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không qúa 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Thực tế số DNNQD có số vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 70%, bình quân số vốn thực tế sử dụng 1 DNNQD là 4,7 tỷ đồng, lao động bình quân của DNNQD là 36 người. Mức trang bị tài sản trên 1 lao động chỉ có 44,7 triệu đồng. Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 30% đến 40% yêu cầu.
Vấn đề thiếu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh kéo theo các đặc điểm về trình độ công nghệ lạc hậu, môi trường kinh doanh không thuận lợi.
* Trình độ kỹ thuật công nghệ sản xuất lạc hậu:
Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ, sự hạn chế trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công nghệ của các DNNQD nhìn chung là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ tân trang lại, tuổi của các máy móc thiết vào khoảng 20 tuổi. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh doanh trung ương năm 2003 thì chỉ có 25% doanh nghiệp sử dụng công ngệ tương đối hiện đại, 38,5% doanh nghiệp sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5% doanh nghiệp kết hợp cả công nghệ cổ truyền và hiện đại. Do trình độ công nghệ quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém trên thị trường.
* Môi trường sản xuất kinh doanh không thuận lợi, thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé, bấp bênh:
Kể từ năm 1986 cho tới nay hàng loạt các chính sách, chủ trương liên quan đến phát triển DNNQD đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lí cho các DNNQD hoạt động như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990; luật doanh nghiệp năm 2000. Nhưng để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho kinh doanh thì vẫn còn thiếu như luật chống độc quyền, luật doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Mặc dù quyền bình đẳng pháp lí giữa DNNN và DNNQD đã được thừa nhận nhưng trong các chính sách kinh tế, điều này vẫn chưa nhất quán, đặc biệt trong chính sách thuế, tín dụng, vốn, mặt bằng...
Một khó khăn lớn của các DNNQD là thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp không ổn định, mặc dù thị trường trong nước có nhu cầu khá lớn, nhưng do vốn đầu tư ban đầu ít, công nghệ sản xuất lạc hậu nên sản phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém ngoại trừ một số mặt hàng truyền thống có uy tín. Cùng với đó là sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập tràn lan, hàng nhập lậu với giá rẻ. Mặt khác, các doanh nghiệp ít có sự giao lưu trên thị trường quốc tế, thiếu hiểu biết về công nghệ mới, về kiến thức kinh doanh và pháp luật quốc tế dẫn tới nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản.
* Trình độ quản lý kinh doanh kém đặc biệt là trình độ yếu kém trong việc lập kế hoạch tài chính, năng lực của người lao động thấp.
Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả phụ thuộc và nhiều nhân tố: trình độ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, khả năng dự đoán về sự biến động của ngành, của nền kinh tế... Người chủ của các DNNQD đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu quản trị bằng kinh nghiệm, theo cách suy nghĩ hiểu biết riêng của mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít am hiểu về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức vì vậy rất khó khăn trong việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành.
Các sổ sách kế toán của DNNQD thường quá đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và không chính xác. Do vậy, việc đánh giá các doanh nghiệp (để Ngân hàng quyết định cho vay) thực sự khó khăn đối với Ngân hàng, nhất là hiện nay sổ sách của các doanh nghiệp hầu hết đều chưa được kiểm toán.
Thêm vào đó đội ngũ lao động trong các DNNQD nói chung đều có kỹ năng thấp, rất ít được qua đào tạo, hầu hết là lao động phổ thông. Điều này cũng là đặc điểm chung của đội ngũ lao động ở nước ta ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các đặc điểm trên đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay, vì thế để có thể tiếp cận được vốn tín dụng DNNQD cần khắc phục những nhược điểm và phát huy những lợi thế của mình. Cũng như Ngân hàng khi cho vay cần thẩm định khách hàng một cách kỹ lưỡng, tư vấn cho khách hàng nhằm tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
1.1.1.4. Vai trò của các DNNQD trong tiến trình đổi mới.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển trong nền kinh tế thị trường, các DNNQD chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên rất linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh chóng với sự biến động của thị trường. Nó huy động tối đa nguồn vốn trong dân cư để phát triển kinh tế đất nước. Với tính tự chủ và khả năng thích nghi cao, DNNQD đóng một vai trò không thể thiếu được trong nền kinh tế, thể hiện qua các mặt sau:
* DNNQD góp phần thu hút tối đa mọi nguồn vốn trong dân, giải quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế.
- Trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong khi tiềm năng phát triển còn lớn song khả năng khai thác còn hạn chế. Sự độc chiếm của hình thức sở hữu Nhà nước và tập thể không cho phép khai thác những tiềm năng lớn đó của đất nước, do đó vẫn còn một lượng vốn lớn còn nằm trong dân cư. Chỉ có con đường phát triển DNNQD mới có thể khai thác chúng.
- DNNQD tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế từ công nghiệp, thương mại đến dịch vụ, với đặc tính nhạy bén, tổ chức gọn nhẹ nên đã thu hút được rất nhiều lao động có trình độ khác nhau. Đặc biệt trong quá trình cải cách các DNNN đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành kinh tế và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hoặc không có tầm quan trọng sống còn. Chính các DNNQD với đặc tính của mình sẽ tạo ra công ăn việc làm giải quyết các vấn đề thất nghiệp, điều tiết lực lượng phân giải trên các khu vực còn nhiều khoảng trống góp phần dãn cách, điều hoà nhu cầu lao động. Sự hoạt động đa dạng trên nghiều ngành nghề của các DNNQD đã tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
* DNNQD phát triển tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Với đặc điểm là được tổ chức gọn nhẹ, ít nhân công, dây chuyền công nghệ đơn giản, có mối quan hệ sẵn có về cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm nên DNNQD có đặc điểm nổi bật là năng động, linh hoạt thay đổi nhanh mặt hàng và phương hướng kinh doanh, Do vậy các DNNQD đáp ứng khá nhanh nhậy các nhu cầu phong phú, đa dạng của thị trường, từ đó tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước. Trên thực tế DNNQD đóng góp mỗi năm khoảng 40% - 45% vào ngân sách Nhà nước.
* DNNQD tạo ra nhiều hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Theo chiến lược phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta, DNNQD với sự đa dạng về quy mô, ngành nghề và hình thức kinh doanh đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Đặc biệt là sự khôi phục của các làng nghề truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản phẩm có giá trị xuất khẩu đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn.
* DNNQD có tác dụng quan trọng đối với quá trình CNH - HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Quá trình phát triển DNNQD cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH - HĐH đất nước không chỉ diễn ra theo chiều rộng mà cả ở chiều sâu. Mặt khác, sự phục hồi các làng nghề ở một số vùng quê đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* DNNQD phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát triển kinh tế.
Với sự đa dạng về lĩnh vực hoạt động, DNNQD đã tạo nên môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế với các DNNN. Theo quy luật thì cạnh tranh sẽ là điểm khởi đầu của sự phát triển. DNNQD có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của DNNN, bù đắp những lỗ hổng do khu vực này tạo ra. Đặc biệt nó có vai trò quan trọng trong việc chống lại xu thế độc quyền đang tác động làm trì trệ, cản trở nền kinh tế phát triển. Việc phát triển DNNQD tạo ra một sức ép lớn đối với DNNN trên cơ sở đó tạo ra hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú đa dạng, chất lượng cao hơn. Khi đó khách hàng sẽ có điều kiện lựa chọn sản phẩm hàng hoá mà mình ưa thích. Bằng con đường đó đã buộc DNNN phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề nâng cao hiệu quả, cải tiến chất lượng sản phẩm, và đây sẽ trở thành định hướng cơ bản cho sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp này, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* DNNQD góp phần tạo ra thị trường vốn rộng lớn cho Ngân hàng.
Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên cho Ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng các DNNQD đã tạo ra một nhu cầu lớn cho Ngân hàng cả về vốn, thanh toán và các dịch vụ qua Ngân hàng. Điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng ngày càng phát triển. Như chúng ta biết, hoạt động Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó DNNQD chiếm một tỷ lệ đáng kể do vậy, trong tương lai DNNQD sẽ là thị trường đầy triển vọng của ngành Ngân hàng.
Nhận thức được vai trò to lớn của DNNQD, Nhà nước ta đã khuyến khích và tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho khu vực này. Sau khi quốc hội thông qua luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân tháng 12/1990 DNNQD đã có sự phát triển nhanh chóng và đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy tính tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm, tạo sự năng động trong kinh doanh và thoả mãn nhu cầu thị trường. Một kết quả nổi bật là các DNNQD tăng lên nhanh chóng, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập khá cao. Đạt được những điều đó lá nhờ những điều kiện khá thuận lợi như cơ chế chính sách của Nhà nước luôn khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của DNNQD. Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp này có điều kiện vươn lên. Hơn nữa, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thành phần kinh tế này.
1.1.2. Thuận lợi và khó khăn của DNNQD trong quá trình đổi mới.
1.1.2.1. Thuận lợi:
* Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích phát triển của Nhà nước. Nhà nước ta đã có chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đặc biệt là tăng tỷ trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh để tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế như: lao động và vốn. Môi trường pháp lý sẽ ngày càng được khai thông để tạo điều kiện tối đa cho khu vực này phát triển; bên cạnh đó Nhà nước có những chính sách ưu đãi cho khu vực này như miễn giảm thuế trong những năm đầu đối với những lĩnh vực được khuyến khích phát triển, giảm giá thuê đất... Như vậy, các DNNQD sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty và luật doanh nghiệp trong đó công nhận quyền bình đẳng của chúng với các hình thức kinh tế khác trước pháp luật. Đặc biệt, đối với ngành Ngân hàng, cơ chế cho vay đối với DNNQD đã thông thoáng hơn: thủ tục cho vay đơn giản hơn, nếu phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khả thi thì có thể sử dụng chính số vật tư hàng hoá hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm; các hình thức cho vay phong phú hơn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
* Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, khoa học kỹ thuật công nghệ... phát triển đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNQD nói riêng. Với sự hình thành và đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần thu hút vốn; là cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn lành mạnh, có hiệu quả.
* Môi trường tài nguyên còn rất nhiều tiềm năng phù hợp với đặc điểm của các DNNQD. Lực lượng lao động dồi dào và tiền công thấp là một thuận lợi cho sự phát triển của các DNNQD. Thị trường trong nước trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng, tuy nhiên các chủng loại hàng hoá vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng, nên đây là những tiềm năng để các DNNQD xâm nhập. Ngoài ra thị trường quốc tế còn chưa có các mặt hàng đặc thù của Việt Nam, điều này cũng tạo ra thị trường đầu ra lý tưởng cho các DNNQD.
* DNNQD bao gồm phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này có những thuận lợi riêng như: dễ triển khai hoạt động, linh hoạt, dễ thích ứng, quay vòng nhanh, chi phí gián tiếp thấp, tận dụng được các nguồn vốn nhỏ.
Mặc dù có những thuận lợi như vậy, nhưng DNNQD cũng gặp phải không ít những khó khăn.
1.1.2.2. Khó khăn:
* Sự non nớt về kinh nghiệm quản lý, thông tin yếu kém. Vì mới khẳng định sự tồn tại trong nền kinh tế thị trường nên kinh nghiệm thương trường của các DNNQD còn rất ít, đặc biệt là trên thương trường quốc tế. Điều này làm cho doanh nghiệp còn lúng túng trong việc chiếm lĩnh thị trường, thất bại trong cạnh tranh, thậm chí bị lừa đảo. Trình độ quản lý và thông tin là những yếu tố kỹ thuật, đòi hỏi phải luôn cập nhật, tuy vậy ở các DNNQD những yếu tố này vẫn chưa đạt yêu cầu để có thể giúp các doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường.
* Thiếu vốn là một trong những căn bệnh kinh niên của các nước đang phát triển, vốn là một trong những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, quyết định đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, quyết định tới phạm vi ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể ví vốn là một nguồn thức ăn để nuôi sống doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thiếu vốn như một cơ thể thiếu dinh dưỡng, tê liệt, không thể hoạt động gì được. Tình trạng thiếu vốn là do nước ta đang trong giai đoạn CNH - HđH. Các nguồn vốn lớn tập trung vào các công trình trọng điểm của quốc gia, cơ sở hạ tầng cần phải tập trung xây dựng vẫn còn nhiều, tích luỹ từ nội bộ còn ít, số vốn có được thì nằm ứ đọng trong dân cư vì thị trường tài chính chưa phát triển.
* Một trong những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường là quy luật cạnh tranh. Quy luật này sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém, không hiệu quả, thiếu năng động, non nớt trên thị trường. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường DNNQD không chỉ cạnh tranh lẫn nhau, mà còn phải cạnh tranh với các DNNN có sự hỗ trợ của Nhà nước, cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn về nhiều mặt.
* DNNQD chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiều về số lượng nhưng lại bị hạn chế về quy mô và ngành nghề kinh doanh. Cơ cấu kinh tế mất cân đối của khối kinh tế ngoài quốc doanh là sản phẩm trực tiếp của cấu trúc thị trường có tính độc quyền. Hầu hết các doanh nghiệp này hoạt động trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ, chế biến lương thực thực phẩm, chưa đến 4% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 70% trong tổng số các doanh nghiệp. Chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn của Ngân hàng. Trước mắt do các doanh nghiệp nhỏ chưa đầu tư vào sản xuất, nên không tạo ra được năng lực cải tiến công nghệ nội sinh và kéo theo nhu cầu đầu tư lớn. Chỉ có cải tiến áp dụng công nghệ mới mới đem lại cơ hội đầu tư nhờ hạ giá thành, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm hay tạo ra sản phẩm mới.
Nắm giữ khoảng gần 30% tổng tài sản của xã hội, nhận được khoảng 35% trong tổng số mức tín dụng của các NHTM, DNNQD đã chứng tỏ hiệu quả việc sử dụng vốn bằng việc đóng góp 40% - 45% vào Ngân sách Nhà nước. Với sự phát triển năng động trong các năm qua, nếu giảm bớt các cản trở về thể chế, DNNQD sẽ nổi nên là khách hàng quan trọng với nhu cầu vốn lớn trong thời gian tới.
1.1.3. Các nguồn vốn của DNNQD:
1.1.3.1. Vốn tự có:
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương của doanh nghiệp là phải có đủ vốn ban đầu theo quy định của pháp luật.
- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, nguồn vốn này là của người chủ đứng lên thành lập doanh nghiệp
- Đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các cổ đông dưới dạng phát hành cổ phiếu.
- Đối với các công ty TNHH, nguồn vốn này là vốn đóng góp của các thành viên đứng lên thành lập công ty.
- Đối với hợp tác xã, nguồn vốn này do sự đóng góp của các xã viên.
Vốn điều lệ là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập doanh nghiệp và được ghi rõ trong điều lệ của doanh nghiệp. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng số vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Vốn pháp định quy định cho mỗi loại hình doanh nghiệp nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô hoạt động hay lĩnh vực kinh doanh . Vốn điều lệ sẽ được tăng và bổ sung dưới các hình thức: huy động thêm vốn của các cổ đông, lợi nhuận bổ sung... Vốn này được dùng vào việc mua sắm tài sản cố định cho doanh nghiệp, một phần dùng làm vốn lưu động phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài vốn điều lệ, các doanh nghiệp còn có thể có các quỹ dự trữ như: quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi...
Nguồn vốn tự có phản ánh sức mạnh tài chính của các doanh nghiệp, phản ánh khả năng chống đỡ với các rủi ro trên thị trường, là cơ sở rất quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển.
1.1.3.2. Nguồn vốn đi vay:
Doanh nghiệp có thể vay từ bạn hàng qua hình thức tín dụng thương mại hay vay Ngân hàng qua hình thức tín dụng Ngân hàng.
* Tín dụng thương mại.
Các doanh nghiệp khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay nguồn vốn tín dụng người cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó còn tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông của hàng hoá. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán. Tuy vậy, đây chỉ là một nguồn vốn ngắn hạn và sẽ gặp rủi ro khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn.
* Tín dụng Ngân hàng.
Các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho các doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vày ngày cho đến vài năm, với lượng vốn theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn (dưới 1 năm), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), vay dài hạn (trên 5 năm) với những mức lãi suất Ngân hàng và những điều kiện ràng buộc khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam thị trường tài chính chưa hoàn chỉnh, việc thu hút vốn từ thị trường này là chưa phổ biến thì tín dụng Ngân hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp. Nó có tác dụng to lớn đối với cả người đi vay và người cho vay. Nó có những đặc điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các DNNQD nói riêng:
- Việc sử dụng tín dụng Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp chia sẻ bớt rủi ro cho Ngân hàng.
- Sử dụng tín dụng Ngân hàng không làm chia sẻ quyền lực của người chủ doanh nghiệp.
- Tiền lãi vay được tính trong chi phí hợp lý do vậy sẽ giảm được thuế cho doanh nghiệp.
1.2. tín dụng ngân hàng đối với các DNNQD
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Sự phân công lao động xã hội tạo điều kiện cho xã hội đẩy mạnh sức sản xuất của mình, làm cho khối lượng hàng hoá tăng lên, nhu cầu trao đổi và sản xuất hàng hoá ngày càng được mở rộng, theo đó nhu cầu về tiền cũng tăng lên. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển nhu cầu tiết kiệm và đầu tư tăng, trong xã hội sẽ xuất hiện các chủ thể làm ăn có hiệu quả, có nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh đồng thời có những chủ thể tạm thời thừa vốn. Tín dụng ra đời đã giải quyết được quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc thông qua thị trường tài chính, nhưng chủ yếu là gián tiếp qua các trung gian tài chính, đặc biệt là NHTM.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu và thường xuyên đó là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả (vốn và lãi), sau đó sử dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán, chiết khấu... nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy ta thấy rằng Ngân hàng là trung gian thanh toán, trung gian tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên ta suy ra các đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Từ đặc trưng này ta thấy sự tín nhiệm là điều kiện cần thiết để phát sinh quan hệ tín dụng. Để có được lòng tin về khách hàng, Ngân hàng luôn thẩm định đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Nếu khâu này được thực hiện một cách khách quan, chính xác thì việc cho vay của ngân hàng có thể mở rộng được mà ít gặp phải rủi ro.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng này của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Như vậy, để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ một cách phù hợp với đối tượng vay.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn để cho vay của Ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ những người tạm thời thừa vốn, nên trong một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm... Nên người vay ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho Ngân hàng một khoản lãi. Đây là nguồn thu nhập chính của Ngân hàng, là cơ sở để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và nhất là đối với các DNNQD. Vai trò đó thể hiện là:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện ra đời các tổ chức kinh tế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này buổi đầu gặp nhiều khó khăn về vốn kinh doanh, về hạch toán kế toán trong kinh doanh, cũng như trong mối quan hệ bạn hàng với nhau, trong đó sự thiếu thốn về vốn hoạt động và sự yếu kém về hạch toán kế toán nổi lên hàng đầu. Về phương diện này, tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ đắc lực trong việc tạo lập cơ sở vật chất cũng như vốn lưu động trong hoạt động sản xuất và lưu thông của họ. Thông qua quan hệ tín dụng, Ngân hàng sẽ giúp cho các tổ chức kinh tế này nâng dần trình độ hạch toán kế toán thống kê của họ. Bởi vì hầu hết các tổ chức kinh tế không tự mình hạch toán, thống kê được quá trình kinh doanh, sẽ không thực hiện được một cách đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước cũng như thiếu những điều kiện cần thiết để vay vốn Ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng có vai trò trong việc tạo điều kiện phát triển ngành nghề mới trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc phát triển từ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng từng lĩnh vực kinh tế, từng chủ doanh nghiệp rất khó có thể thông hiểu một cách rộng khắp nhu cầu của thị trường. Thông qua hoạt động cấp tín dụng, hệ thống Ngân hàng có khả năng thấy được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng hiện tại cũng như tương lai, cùng với nguồn vốn của mình, tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy sự ra đời những ngành nghề mới, đáp ứng cho yêu cầu phát triển ngày càng đi lên của nền kinh tế.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng giúp nhà sản xuất kinh doanh thực hiện đêù đặn quá trình tái sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng cũng như đòi hỏi khắt khe của người sản xuất._..
Thứ tư, tín dụng Ngân hàng có vai trò tích cực trong việc hạn chế, xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi góp phần tích cực vào việc xây dựng, bổ sung hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, thúc đẩy DNNQD phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với DNNQD, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt chính sách khuyến khích lĩnh vực tín dụng này, hệ thống Ngân hàng đã có những thay đổi căn bản tạo sự bình đẳng trong việc cho vay giữa các thành phần kinh tế.
1.2.3. Các hình thức cho vay:
Theo điều 3 của quy chế cho vay của các TCTD quy định: “cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khác hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với các DNNQD có nhiều hình thức:
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
- Cho vay công và thương nghiệp, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng.
* Căn cứ vào thời hạn vay vốn:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng được sử dụng vốn để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp. Đối với các NHTM, loại hình cho vay này thường chiếm tỷ trọng cao.
- Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, đầu tư các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
- Cho vay có bảo đảm: Loại hình cho vay này được Ngân hàng cung ứng vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Việc bảo đảm này sẽ là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Cho vay không có bảo đảm: Đó là các khoản cho vay tín nhiệm, các khoản cho vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay này chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần có điều kiện bổ sung. ở nước ta hình thức cho vay này chủ yếu áp dụng đối với DNNN, việc áp dụng hình thức này đối với DNNQD chưa được rộng rãi.
* Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay:
- Phương thức cho vay từng lần: Là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và Ngân hàng đều phải làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp động tín dụng. Phương thức này được áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên; cho vay vốn lưu động, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời.
- Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Khách hàng và Ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng được duy trì trong một thời gian nhất định. Trong thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không được vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Mỗi lần rút vốn khách hàng phải lập giấy nhận nợ. Phương thức này được áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên hay khách hàng có đặc điểm sản xuất kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với DNNQD
Mở rộng cho vay đối với DNNQD không có nghĩa là tăng khối lượng cho vay, mà mở rộng cho vay phải luôn gắn liền với nâng cao chất lượng cho vay. Có nhiều nhân tố tác động đến việc mở rộng cho vay đối với DNNQD của các Ngân hàng, trong đó có thể chia thành 2 nhóm sau:
1.2.4.1. Các nhân tố khách quan:
Nhóm này thường gồm: tình trạng của nền kinh tế, tình trạng xã hội và hệ thống pháp luật. Đó là những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động cho vay đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với DNNQD nói riêng.
* Nhân tố kinh tế.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau nên bất kỳ một sự biến động của hoạt động kinh tế nào đó cũng gây ảnh hưởng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của các ngành, lĩnh vực còn lại. Hơn nữa, hoạt động của các NHTM được coi như “chiếc cầu nối” giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn định, sự tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến “chiếc cầu nối” đặc biệt là hoạt động cho vay của Ngân hàng.
- Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng lớn đến quy mô tín dụng và chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định, tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ hấp dẫn đầu tư. Lúc đó nhu cầu vay vốn sẽ tăng lên để mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận do vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng có điều kiện để mở rộng. Ngược lại, nếu nền kinh tế không ổn định, tỷ lệ lạm phát tăng cao thì doanh nghiệp sẽ rất khó khăn trong việc kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình vì vậy thường có xu hướng “co cụm” hoạt động và do vậy làm giảm khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng.
- Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động cho vay: nếu nền kinh tế đang ở chu kỳ tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng tăng cao kéo theo nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất cũng tăng cao do vậy làm tăng khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở chu kỳ suy thoái, sản xuất vượt quá nhu cầu của nền kinh tế dẫn tới sự đình trệ trong sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho lớn buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất do vậy làm giảm khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng. Mặt khác, khi nền kinh tế suy thoái các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do vậy không có nguồn để trả nợ Ngân hàng và làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Nhân tố xã hội.
Các nhân tố xã hội ở đây bao gồm: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội, trình độ dân trí...
- Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng dựa trên cơ sở niềm tin. Đối với khách hàng nào hoạt động kinh doanh hiệu quả, có uy tín với Ngân hàng thì được ưu đãi trong quan hệ cho vay. Nếu Ngân hàng nào hoạt động an toàn, hiệu quả, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thì sẽ được khách hàng lựa chọn. Ngược lại, nếu khách hàng không tin tưởng vào hoạt động của Ngân hàng thì sẽ không quan hệ với Ngân hàng và nếu Ngân hàng không tin vào uy tín cũng như năng lực tài chính của khách hàng sẽ không cho khách hàng vay.
- Ngoài ra, an ninh trật tự xã hội cũng có có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thật vậy nếu một nơi nào mà an ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các chủ đầu tư và các chủ đầu tư cũng không đầu tư vào những nơi như thế. Do vậy, nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, làm thu hẹp tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít trộm cướp và tệ nạn xã hội thì sẽ an toàn cho hoạt dộng đầu tư.
- Nếu như trình độ dân trí thấp, người dân sẽ không hiểu biết về các hoạt động của Ngân hàng, không biết các thủ tục khi vay vốn và họ sẽ vay vốn chủ yếu từ thị trương tài chính - tiền tệ trực tiếp và nó cũng là một nhân tố làm thu hẹp trị trường tín dụng của Ngân hàng.
* Nhân tố pháp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo quy định của NHNN, luật các TCTD, luật dân sự và các qui định khác. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, không ổn định, không kịp thời và có nhiều “kẽ hở” thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Ngược lại, những văn bản pháp luật, những qui định rõ ràng sẽ là hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng; tạo cơ sở pháp lý để Ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra đảm bảo an toàn cho tài sản và quyền lợi của Ngân hàng.
Việc mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế nói chung và DNNQD nói riêng không chỉ chịu tác động của các nhân tố khách quan mà còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng và khách hàng như: chính sách tín dụng, thông tin tín dụng, chất lượng nhân sự, cơ sở vật chất thiết bị của Ngân hàng, tình hình huy động vốn, công tác tổ chức của Ngân hàng, thực trạng của chính các DNNQD...
1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan:
* Nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Ngân hàng là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, thực hiện phương châm “huy động để cho vay”. Do vậy, nếu Ngân hàng không huy động được hay không huy động đủ vốn thì không thể có hoạt động cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn, càng đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay phát triển. Nguồn vốn huy động phải chiếm tỷ trọng khoảng 70% - 80% tổng nguồn vốn của Ngân hàng.
Do đó, việc mở rộng vốn huy động của Ngân hàng là tiền đề để mở rộng cho vay đối với các DNNQD.
* Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ.
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố: đối tượng khách hàng có thể vay vốn; nguyên tắc và điều kiện vay vốn; phương thức cho vay; căn cứ xác định mức tiền vay; căn cứ xác định thời hạn và thể loại cho vay,... Tất cả những yếu tố đó tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. Nếu như tất cả các yếu tố của chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt và đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng thì Ngân hàng đó sẽ thành công trong việc mở rộng cho vay, đảm bảo chất lượng các khoản vay. Nếu các yếu tố của chính sách cho vay cứng nhắc, không hợp lý, không đáp ứng được các mong muốn, đòi hỏi của khách hàng thì sẽ rất khó khăn để các Ngân hàng có thể mở rộng cho vay.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng trong việc thu hút khách hàng thì việc đề ra một chính sách tín dụng đúng đắn là rất quan trọng. Đặc điểm các khách hàng của Ngân hàng là rất dễ thay đổi, rất dễ bị lôi kéo. Chỉ cần các Ngân hàng khác tạo ra sự thuận lợi hơn cho khách hàng trong việc vay, trả nợ; lãi suất vay thấp hơn; các hình thức cho vay phong phú hơn... thì khách hàng sẽ đến với Ngân hàng đó ngay lập tức. Do đó các Ngân hàng phải căn cứ vào mục tiêu của mình trong từng thời kỳ khác nhau để xây dựng được một chính sách tín dụng đúng đắn.
* Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng bao gồm:
- Thông tin phi tài chính: tư cách pháp nhân, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội...
- Thông tin gián tiếp: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
- Thông tin tài chính của khách hàng, khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được thông tin chính xác, kịp thời hơn thì người đó sẽ thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng đầu tư chủ yếu dựa vào niềm tin. Lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin có được. Nếu thông tin tín dụng chính xác và kịp thời sẽ giúp Ngân hàng lựa chọn đúng khách hàng để mở rộng cho vay, đồng thời phát hiện những sai phạm trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay từ đó giảm thiểu các rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu thông tin tín dụng không chính xác hoặc không kịp thời sẽ dẫn đến việc Ngân hàng lựa chọn sai khách hàng (khách hàng lừa đảo hoặc không có khả năng hoàn trả nợ); hoặc bỏ sót những dự án có tính khả thi từ đó hạn chế khả năng mở rộng cho vay; hoặc phát hiện không kịp thời những sai phạm trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay dẫn đến việc khách hàng không có khả năng hoàn trả nợ hay trả nợ không đúng hạn từ đó làm giảm chất lượng tín dụng.
* Công tác tổ chức của ngân hàng.
Nếu công tác tổ chức của Ngân hàng được cụ thể hoá và sắp xếp một cách khoa học, không bị chồng chéo, có mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng ban trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tín dụng thì sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động cho vay một cách lành mạnh, hiệu quả an toàn. Ngược lại, nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định cho vay và có thể dẫn tới mất cơ hội mở rộng cho vay; sự phân công không rõ ràng, không hợp lý, chồng chéo lên nhau khiến cho cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm với công việc từ đó làm hạn chế việc mở rộng cho vay
* Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị.
- Chất lượng nhân sự đó chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, marketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc của người cán bộ. Dưới con mắt khách hàng, cán bộ Nngân hàng chính là hình ảnh của Ngân hàng. Nếu khách giao tiếp với cán bộ Ngân hàng họ cảm thấy yên tâm, hài lòng thì họ sẽ tìm đến với Ngân hàng đó.
- Cơ sở vật chất của Ngân hàng tạo ra sự bề thế của Ngân hàng, tạo ra sự yên tâm cho khách hàng. Một Ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch đem lại sự tiện lợi tối đa cho ngân hàng. Đó là tiền đề để Ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng cho vay. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch xây dựng chính sách tín dụng có hiệu quả hơn.
* Hoạt động kiểm soát nội bộ.
Kiểm soát nội bộ là kiểm tra việc thực hiện và chấp hành các chính sách tín dụng và các thủ tục liên quan đến các khoản cho vay. Đây là biện pháp hữu hiệu giúp ban lãnh đạo Ngân hàng có được thông tin chính xác về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện thành công mục tiêu đề ra.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng.
- Đông cơ đầu tư: Động cơ đầu tư của khách hàng bắt nguồn từ lợi nhuận. Lợi nhuận do đầu tư mang lại càng cao thì nhu cầu đầu tư càng lớn. Tuy nhiên, động cơ đầu tư của khách hàng có được thực hiện hay không còn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Trong khi đó các phương án, dự án đòi hỏi khối lượng vốn lớn mà chỉ một mình khách hàng sẽ khó thực hiện được. Điều này tạo điều kiện cho các NHTM tham gia đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy, động cơ đầu tư của khách hàng quyết định việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. Nhu cầu đầu tư càng lớn thì Ngân hàng càng có điều kiện mở rộng tín dụng và ngược lại.
- Năng lực của khách hàng: Năng lực của khách hàng được hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện tín dụng.
Theo quy định của thống đốc NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam, khách hàng vay vốn phải có đủ 5 điều kiện sau
+ Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có kết quả
+ Thực hiện các quy định và đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ, NHNN Việt Nam.
Nếu khách hàng vay vốn đáp ứng đủ các điều kiện trên thì Ngân hàng mới có thể thực hiện việc cho vay mở rộng tín dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng. Nếu khách hàng không đáp ứng tốt các điều kiện trên thì việc mở rộng cho vay có thể dẫn đến làm giảm chất lượng tín dụng
Như vậy có rất nhiều nhân tố tác động đến việc mở rộng cho vay đối với DNNQD của Ngân hàng, mỗi nhân tố có mức độ tác động khác nhau tuỳ theo tính chất và thời gian của hoạt động cho vay. Vấn đề đặt ra là người điều hành NHTM phải nắm vững và kiểm soát sự tác động của các nhân tố đó trong quá trình mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay.
Sau khi tìm hiểu về DNNQD và hoạt động cho vay của Ngân hàng chúng ta thấy rằng nếu như DNNQD là một phần vô cùng quan trọng trong cơ cấu các thành phần kinh tế của một nền kinh tế, có vai trò thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động cho vay của Ngân hàng lại là điều kiện cần để cho DNNQD chứng tỏ vai trò của mình. Chính vì vậy thúc đẩy mối quan hệ tín dụng của Ngân hàng đối với DNNQD là trách nhiệm lớn lao của Nhà nước, của DNNQD và đặc biệt là của Ngân hàng.
1.2.5. Sự cần thiết phải mở rộng cho vay đối với DNNQD ở nước ta
DNNQD đối đầu với những khó khăn: ra đời trong điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý chưa cao nếu không nói là yếu kém. Nhưng khó khăn lớn của các DNNQD đó là vấn đề vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh. Vậy vốn của các DNNQD lấy từ các nguồn nào là hiệu quả nhất. Đây là một vấn đề mà DNNQD đang hết sức quan tâm.
ở nước ta, DNNQD có một vai trò to lớn và phải được khuyến khích phát triển. Trong việc thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, DNNQD góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, khai thác tiềm năng kinh tế, tạo ra và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, DNNQD thường khai thác tối đa mọi khả năng của mình về vốn, sức lao động, trí tuệ để phục vụ sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ, có tính tự chủ và năng động cao, vì vậy để dễ thích nghi với thay đổi của thị trường, có khả năng linh hoạt thay hướng sản xuất, thay đổi công nghệ để hạ giá thành sản phẩm, đem lại hiệu quả cao.
Từ những vấn đề nêu trên, DNNQD cần được tiếp tục phát triển và trở thành một đối trọng với kinh tế quốc doanh, thúc đẩy DNNN sớm có những chuyển biến tích cực phù hợp với xu thế của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển.
Với ngành Ngân hàng, DNNQD là nhóm khách hàng lớn và quan trọng trên các nghiệp vụ như huy động vốn, sử dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng. Đại bộ phận tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng là từ các thành phần dân cư trong xã hội, đây là nguồn vốn có tính chất ổn định cao đối với Ngân hàng. Mặt khác nhu cầu sử dụng vốn của các DNNQD là rất lớn, đối với doanh nghiệp thì vốn tự có của họ rất nhỏ, phần lớn DNNQD phải sử dụng vốn vay để hoạt động. Không những thế, DNNQD phát triển sẽ tạo ra mối quan hệ mua bán, chi trả lớn, tài khoản mở tại Ngân hàng sẽ ngày một tăng và kéo theo các hoạt động dịch vụ khác của Ngân hàng phát triển. Điều này có nghĩa là sự phát triển DNNQD kéo theo sự phát triển của NHTM.
Trong tương lai DNNQD sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, do vậy việc mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD sẽ là một chiến lược phát triển của Ngân hàng.
Tóm lại, chương 1 của chuyên đề đã khái quát toàn bộ cơ sở lý luận về DNNQD và tín dụng Ngân hàng. Từ khái niệm và vài trò của DNNQD; khái niệm tín dụng Ngân hàng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của DNNQD cũng như những nhân tố tác động tới việc mở rộng cho vay đối với DNNQD. Đây là cơ sở cho việc phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên ở chương tiếp theo.
\
Chương 2
Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên
I. khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên.
1. Sơ lược về lịch sử hình thành.
Cùng với việc tái lập tỉnh(1997) hệ thống Ngân hàng tỉnh Hưng Yên cũng được thành lập và đi vào hoạt động. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, các Ngân hàng Thương Mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ gồm: Chi nhánh NHNo, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngoài ra trên địa bàn còn có 45 quỹ tín dụng nhân dân được thành lập ở các xã, phường trong tỉnh cũng tham gia kinh doanh tiền tệ cùng với hệ thống các NHTM
Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên là đơn vị thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam. Từ khi đi vào hoạt động NHNo tỉnh Hưng Yên không ngưngc mở rộng mạng lưới và đổi mới cơ chế nghiệp vụ theo cơ chế thị trường, thực hiện phương châm: “Tăng cường huy động vốn để không ngừng mở rộng cho vay đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu vốn cấp thiết, hợp lý cho các đối tượng, các thành phần kinh tế. Trong đó ưu tiên các đối tượng thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, các đối tượng mua sắm, áp dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp”
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà NHNo&PTNT Việt Nam giao, chi nhánh đã đặc biệt quan tâm công tác tổ chức đào tạo, đến cuối năm 2005 tổng biên chế là 397 cán bộ công nhân viên với mạng lưới hoạt động gồm mộ trụ sở văn phòng tỉnh và 10 Ngân hàng cơ sở ( Ngân hàng cấp II ) được thành lập và hoạt động trên 10 huyện, thị xã trong tỉnh, ngoài ra còn 12 Ngân hàng cấp III trực thuộc các Ngân hàng cơ sở hoạt động theo các cụm dân cư. Ngoài ra toàn chi nhánh tổ chức hơn 420 tổ cho vay lưu động và gần 1.300 tổ tín chấp , tương hỗ làm vệ tinh đã nối dài cánh tay của NHNo xuống nông thôn.
Giám đốc
PGĐ Kế toán
PGĐ Kinh doanh
Phòng kế toán ngân quỹ
Phòng hành chính
Phòng kế hoạch
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng tín dụng
Phòng thẩm định
Phòng tin học
Phòng KTKS nội bộ
3. Một số tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên
Là một chi nhánh còn non trẻ trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, ngay từ khi thành lập chi nhánh tỉnh Hưng Yên đã đối mặt với không ít khó khăn do việc tách tỉnh, kinh nghiệm cũng như vấn đề tổ chức còn kém. Trong những năm gần đây chi nhánh cũng phải đương đầu với không ít khó khăn do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới (chiến tranh tại Iraq, dịch bệnh SARS hồi cuối năm 2003; giá dầu tăng lên mức kỷ lục trong năm 2004...); những biến động trong nước (giá sắt thép, giá phân bón liên tục tăng cao; tỷ giá biến động phức tạp...) và trong tỉnh đó là: Hưng Yờn phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của cỏc tỉnh vốn cú nền kinh tế đó phỏt triển đi trước, trong khi Hưng Yờn cũn là một tỉnh nghốo, mới được tỏi lập, tài nguyờn khoỏng sản khụng cú, kờt cấu hạ tầng nội tỉnh kộm phỏt triển. Những biến động trên ảnh hưởng trực tiếp tiếp tới hoạt động kinh doanh của các khách hàng của chi nhánh do vậy ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay của chi nhánh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó thì cũng có thuận lợi là đơn vị mới thành lập nên trong quá trình hoạt động chi nhánh có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ các Ngân hàng khác, chắt lọc được thành công để học tập.
Nhận thức được những khó khăn cũng như thuận lợi ngay từ khi đi vào hoạt động, với những định hướng đúng và giải pháp điều hành năng động của Ban Lãnh Đạo NHNo&PTNT tỉnh, Giám đốc các NHNo cơ sở và sự ủng hộ của các cấp các ngành đặc biệt là sự chỉ đạo của NHNo tỉnh cũng như sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống, hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, năm 2005 tiếp tục phát triển ốn định, toàn diện, tăng trưởng vững chắc hơn.
3.1. Công tác huy động vốn.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM được thực hiện thông qua hành vi mở tài khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng, hoặc huy động các loại tiền gửi có kỳ hạn, hoặc phát hành giấy tờ có giá. Đây là nguồn vốn chủ yếu để Ngân hàng kinh doanh.
Được xác định là một chi nhánh phát triển tương đối ổn định trong toàn hệ thống, NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ về nguồn vốn huy động.
Cùng với việc phát huy thế mạnh về mạng lưới, chi nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên nhưng năm qua đã có những thay đổi căn bản về phong cách giao dịch, thay đổi căn bản về việc vận dụng lãi suất huy động.
Thông qua việc quy định lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung Ương để quy định mức lãi suất cho từng loại, từng thời gian, từng đối tượng, từng địa phương, hoặc địa bàn và từng mức tiền gửi đồng thời cũng có những quy định linh hoạt trong việc áp dụng các phương thức trả lãi nhằm mục tiêu huy động tối đa nguồn vốn nhàn dỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn để chủ động cho vay góp phần phát triển kinh tế trong tỉnh nói chung và phát triển sản suất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng ( kết quả huy động và tốc độ tăng trưởng được phản ánh qua biểu sau đây:
Nguồn vốn của chi nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên ( 2003 – 2004 – 2005 )
( Nguồn báo cáo hàng năm của chi nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên )
Đơn vị: Tỷ đồng
Biểu đồ: Nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
Năm
So sánh
2003
TH2004
+;- năm 2003
2004
TH2005
+;- năm 2004
Tổng nguồn vốn
1,201,214
1,252,289
51,075
1,252,289
1,683,693
431,404
Trong đó:
Cơ cấu nguồn vốn
876,623
962,630
86,007
962,630
1,259,199
296,569
-TG của KH
876,623
962,630
86,007
962,630
1,259,199
296,569
+ TGKKH
362,259
301,131
-61,128
301,131
289,510
-11,621
+ TG<12T
185,281
175,301
-9,980
175,301
251,151
75,850
+ TG>12T
329,083
486,198
157,12
486,198
718,538
232,340
+Tiền vay TCTD
-
-
-
-
-
-
- NV uỷ thác ĐT
137,056
152,156
15,100
152,156
131,706
-20,450
Qua kết quả huy động nguồn vốn thời kỳ 2003 – 2004 – 2005 ta thấy số dư nguồn vốn huy động ngày càng tăng, bình quân hàng năm tăng nhanh. Số dư tiền gửi tiết kiệm đến cuối năm 2005 đạt 1,259,199 tỷ đồng tăng so với năm 2004 là 296,569 tỷ đồng.
Trong nguồn vốn huy động tại địa phương thì nguồn vốn huy động thông qua hình thức tiết kiệm luôn luôn chiếm vị trí cao và ổng định trong các loại nguồn vốn.
Huy động vốn để có nguồn cho vay là một chức năng quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng, đặc biệt khi ngân hàng chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì người quản lý ngân hàng không thể không quan tâm vấn đề huy động vốn, người quản lý cũng như tất cả những cán bộ làm công tác ở ngân hàng thương mại phải biết khai thác nguồn vốn đó ở đâu? Với khối lượng bao nhiêu và gía cả như thế nào? Đặc biệt là vấn đề giá cả họ phải biết mua vào với giá bao nhiêu để bán ra trên thị trường mà người mua chấp nhận được, ngoài việc tác động trở lại nền kinh tế phát triển đó là quá trình thu hồi vốn mà trong đó có cả phần lợi nhuận để duy trì sự tồn tại và phát triển của chính bản thân ngân hàng. Chi nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên trong những năm qua đã và đang thực hiện như vậy. Kết quả là nguồn vốn huy động ngày càng tăng, nâng cao tính chủ động để mở rộng cho vay góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
* Nhận xét về công tác huy động vốn.
- Kết quả:
+ Nguồn vốn huy động tăng lên qua các năm.
+ Cơ cấu vốn về thời hạn và loại tiền ngày càng hợp lý hơn.
- Tồn tại:
+ Nguồn vốn huy động được chưa tương xứng với tiềm năng huy động trên địa bàn và của ngành.
+ Tiền gửi dân cư còn chiếm tỷ trọng nhỏ.
3.2 Công tác cho vay.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại bao giờ cũng bắt nguồn từ hai mục tiêu: Kinh doanh và tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mục tiêu kinh doanh giúp cho ngân hàng ngoài việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước còn có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì, mở rộng và phát triển hoạt động của bản thân ngành. Mục tiêu phục vụ tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển có ý nghĩa cả trước mắt và lâu dài. Khi mà nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động của ngân hàng càng được mở rộng. Giữa hai mục tiêu này có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó vừa là tiền đề vừa là động lực thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển mà trong đó nền kinh tế phát triển giữ vai trò nền tảng cho hoạt động Ngân hàng phát triển. Chi nhánh NHNo&PTNT Tỉnh Hưng Yên trong những năm qua đã chú trọng cả hai mục tiêu và hàng năm cùng với sự phát triển kinh tế trong tỉnh, khối lượng tín dụng cũng được chú ý tăng trưởng đáng kể vừa hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của ngàng vừa góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Những năm qua tín dụng của chi nhánh NHNo tỉnh Hưng Yên đã tập trung chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đối tượng chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp với hai ngành chính là hộ chăn nuôi, trồng trọt và hộ kinh doanh dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, với sản phẩm chính vẫn là các loại cho vay ứng trước ( ngắn hạn và trung hạn truyền thống ). Như chúng ta biết sử dụng vốn là khâu cuối cùng quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Chỉ có sử dụng vốn có hiệu quả mới thúc đẩy được công tác huy động vốn. Nắm bắt được điều này, trong những năm qua, chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên đã có những bước phát triển tăng cường hiệu quả sử dụng vốn năm sau cao hơn năm trước.Các nguồn vốn để cho vay bao gồm ba nguồn vốn chính đó là nguồn vốn tự huy động, nguồn vốn uỷ thác và nguồn vốn cho vay ngân hàng cấp trên. Kết quả và tỷ trọng được thể hiện qua biểu dưới đây:
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
Năm
So sánh
2003
TH 2004
+;- năm 2003
2004
TH2005
+;- năm 2004
Tổng dư nợ:
1,068,459
1,127,967
59,508
1,127,967
1,499,694
371,727
Trong đó
- DN trung, dài hạn
395,635
476,530
80,895
476,530
579,867
103,337
- DN DNNN
104,880
91,998
-12,882
91,998
36,655
-55,343
- DN DN ngoài QD
115,687
191,835
76,148
191,835
332,745
140,910
- DN HSX
760,174
731,499
-28,675
731,499
1,009,146
277,647
- DN HTX
610
577
-33
577
45
-532
- DN CV đời sống,cầm cố
87,108
112,058
24,950
112,058
121,103
9,045
- DN nội tệ
1,059,214
1,092,361
33,147
1,092,361
1,455,533
363,172
- DN ngoại tệ quy đổi VND
9,245
35,606
26,361
35,606
44,161
8,555
Qua biểu trên ta thấy, cho vay ngành NHNo hàng năm luôn chiếm tỷ lệ bình quân trên 85% tổng dư nợ, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn được giảm dần và tỷ trọng cho vay trung và dài hạn tăng dần. Chi nhánh NHNo&PTNT Hưng Yên đã tích cực mở rộng tín dụng đặc biệt đối với ngàng nông nghiệp, nông thôn. Qua biểu trên ta thấy ty lệ và tốc độ cho vay kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp và nông thôn luôn chiếm ưu thế và có thể nói là bao trùm toàn bộ hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Bên cạnh đó doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp có dư nợ thấp, đặc biệt là kinh tế tập thể không có dư nợ.
Cũng như nhiều Ngân hàng khác hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên chủ yếu là hoạt động tín dụng, trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn. Hoạt động cho vay mang lại nguồn thu lớn nhất cho chi nhánh, do đó nếu mở rộng cho vay và tăng cường các biện pháp phòn._.huy động là rất quan trọng.
Như vậy, để hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhất để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế. Đây là hoạt động đầu tiên, là nền tảng để thực hiện hoạt động cho vay. Khi có nguồn vốn dồi dào thì việc mở rộng cho vay mới có thể thực hiện được, từ đó tăng lợi nhuận cho Ngân hàng.
Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên có thể thực hiện các biện pháp sau:
* Đối với tiền gửi dân cư.
- Đa dạng hoá các hình thức thu hút tiền gửi dân cư như trả lãi trước, trả lãi định kỳ, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm bậc thang; áp dụng nhiều kỳ hạn gửi tiền để phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng, tiếp tục phát triển hình thức thu tiền gửi tại nhà miễn phí. Tuyên truyền quảng bá và làm tốt công tác tiết kiệm dự thưởng.
- Thường xuyên theo dõi biến động lãi suất để đề ra các mức lãi suất huy động phù hợp với diễn biến của thị trường
- Bám sát các dự án nhất là các khu vực giải phóng mặt bằng để làm đại lý chi trả theo hình thức tiết kiệm.
- Phát triển mạnh dịch vụ ATM để thu hút tiền gửi cá nhân, tập trung vào khối các trường đại học, cao đẳng, các cơ quan, xí nghiệp trên địa bàn tỉnh. Mặt khác chủ động triển khai làm tốt dịch vụ chuyển tiền, nhất là chuyển tiền cho sinh viên.
* Đối với tiền gửi của các TCKT.
- Tiếp tục cải thiện phong cách và phương thức cũng như kỹ thuật giao dịch để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn nhằm ổn định số khách hàng hiện có và thu hút thêm các khách hàng mới.
- Tiếp tục mở rộng diện thu tiền mặt không thu phí đối với các doanh nghiệp, các cửa hàng xăng dầu, các đại lý bán hàng trên địa bàn, các điểm vui chơi giải trí, các siêu thị và trung tâm thương mại.
- Triển khai việc chi trả lương hộ cho một số doanh nghiệp thu nhập ổn định.
2. Xây dựng và triển khai chiến lược Marketing trong đó trọng tâm là chính sách khách hàng.
Trở lại với thực tế của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, như đã phân tích ở chương 2 một trong những nguyên nhân khiến quy mô đầu tư tín dụng của chi nhánh chưa tương xứng với nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng DNNQD là trong quá trình đầu tư tín dụng Ngân hàng chưa chủ động xây dựng các chương trình tổng thể, tổ chức điều tra nhu cầu tín dụng theo diện rộng của các DNNQD để có chiến lược cho vay phù hợp. Do đó, để mở rộng cho vay đối với DNNQD Ngân hàng cần phải xây dựng và triển khai chiến lược Marketing trong đó trọng tâm là chính sách khách hàng nhằm tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa chi nhánh với các DNNQD.
Những việc cần thực hiện:
* Ngân hàng cần tạo điều kiện tiếp cận, chọn lọc khách hàng mới đến giao dịch để mở rộng cho vay.
Trong chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng cho vay, Ngân hàng cần tích cực tiếp xúc khách hàng và điều tra, thu nhập thông tin từ phía khách hàng một cách nhanh chóng. Đồng thời, cán bộ tín dụng cần hướng dẫn quy trình tín dụng một cách khéo léo để được khách hàng chấp nhận tạo ra uy tín và độ tin cậy cho khách hàng, thông qua đó lựa chọn khách hàng theo đúng tiêu chuẩn, theo đúng quy định chung. Trong khi tiếp xúc với khách hàng mới, Ngân hàng sẽ có điều kiện khuyếch trương, mở rộng phạm vi hoạt động, nâng cao vị thế của mình. Ngoài ra Ngân hàng cần liên hệ chặt chẽ với trung tâm phòng ngừa rủi ro để có những thông tin cần thiết trước khi quyết định cho vay, nhất là với khách hàng mới. Để có thể thực hiện tốt được vấn đề này, Ngân hàng nên sắp xếp những cán bộ tín dụng có trình độ, kinh nghiệm, khả năng giao tiếp tốt để tiếp xúc với khách hàng. Đây chính là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên dịch vụ chất lượng cao của Ngân hàng. Sự tham gia giao tiếp sẽ tạo nên ấn tượng tốt đẹp về Ngân hàng, giúp sử lý thành thạo các thủ tục, đảm bảo lợi ích của Ngân hàng cũng như của khách hàng.
* Tổ chức tuyên truyền, quảng cáo sâu rộng về chính sách, chế độ, thể lệ tín dụng đối với các DNNQD.
Trong chiến lược khách hàng của mình, Ngân hàng không thể không chú trọng đến hoạt động tuyên truyền, quảng cáo cho khách hàng hiểu thêm về cơ chế hoạt động, nghiệp vụ của Ngân hàng và quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng sẽ dễ dàng hơn. Ngân hàng có thể tổ chức tuyên truyền quảng cáo ngay trong quá trình thực hiện nghiệp cấp tín dụng hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
* Tạo mối quan hệ mật thiết với khách hàng.
Để mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng ngày càng trở nên khăng khít, hàng năm Ngân hàng nên tổ chức nhiều hơn các cuộc hội nghị khách hàng, tổ chức các cuôc hội thảo, toạ đàm giữa Ngân hàng với các Hiệp hội doanh nghiệp, tổ chức ngành hàng, như Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa... ký kết các nghị quyết liên tịch, biên bản hợp tác, các chương trình phối hợp, các nguyên tắc làm việc tạo sự thống nhất trong giao dịch giữa Ngân hàng và các doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua các hội nghị, hội thảo Ngân hàng có thể biết được tâm tư nguyện vọng của khách hàng, những khó khăn mà họ gặp phải để cùng khách hàng tháo gỡ.
3. Hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng đối với DNNQD
DNNQD có hoạt động đa dạng, tham gia vào nhiều ngành nghề với những quy mô khác nhau. Để có thể khai thác triệt để được khu vực này thì Ngân hàng phải tìm mọi cách cải tiến cơ chế, chính sách cho vay theo hướng đơn giản, thuận lợi, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo các yếu tố cần thiết trong quản lý cho vay, thu nợ và trong chính sách chung của toàn Ngân hàng.
* Về Các thủ tục cho vay:
Khi Ngân hàng thực hiện một món vay với khách hàng thì Ngân hàng phải thực hiện theo hàng loạt các thủ tục từ việc lập hồ sơ đến kí hợp đồng tín dụng, trong khi khách hàng phải đáp ứng rất nhiều loại giấy tờ báo cáo hoạt động kinh doanh; báo cáo thu nhập, chi phí trong vài năm gần đây; giấy tờ chứng minh tài sản đảm bảo; phương án sản xuất kinh doanh… mặc dù các thủ tục đó là hết sức cần thiết những dẫu sao vẫn khiến cho khách hàng tỏ ra ái ngại trong quá trình đến vay vốn Ngân hàng. Việc giảm bớt độ cồng kềnh của các thủ tục đó hiện nay vẫn chưa được đẩy mạnh. Trong quá trình tiếp xúc với khách hàng hiểu được tầm quan trọng của các giấy tờ, các thủ tục mà Ngân hàng đặt ra, đồng thời phải tiến hành xác định khẩn trương các loại giấy tờ mà khách hàng cung cấp, tránh để mất thời gian của khách hàng. Nếu khách hàng có ý định nghiêm túc trong việc vay vốn thì họ cũng dễ dàng chấp nhận các thủ tục của Ngân hàng. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các thủ tục của mình, Ngân hàng cần phối hợp các bộ phận để quá trình được tiến hành được nhanh gọn từ khâu phỏng vấn đến khâu thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân…
* Về Lãi suất cho vay:
Ngân hàng phải xây dựng được một chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt, mềm dẻo theo tín hiệu thị trường. Bởi lãi suất Ngân hàng liên quan trực tiếp đến lợi ích của Ngân hàng và khách hàng, đối với khách hàng thì lãi suất cho vay chính là chi phí của họ phải trả cho việc được quyền sử dụng vốn, còn về phía Ngân hàng thì lãi suất thu được từ các món vay là thu nhập chính của Ngân hàng. Để giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa đôi bên, Ngân hàng không nên chỉ dập khuôn theo mức lãi suất do NHNo&PTNT Việt Nam ban hành mà tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của Ngân hàng và môi trường kinh doanh trên địa bàn mà đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác trên địa bàn. Cụ thể:
- Phân loại từng đối tượng khách hàng: đối với khách hàng làm ăn có hiệu quả, dư nợ lớn, không có nguy cơ phát sinh nợ quá hạn thì nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi.
- Đa dạng hoá các loại lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kì kinh doanh của khách hàng, dựa vào từng loại lãi suất và từng kì hạn mà khách hàng có thể lựa chọn các khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt đết quả cao, đảm bảo trả nợ Ngân hàng đúng thời hạn.
- Thực hiện mục tiêu phát triển chung của nền kinh tế, Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi về lãi suất đối với các ngành kinh tế có tầm quan trọng, có vòng quay vốn nhanh, sản xuất kinh doanh những mặt hàng có trọng điểm.
* Hình thức cho vay:
Ngoài các hình thức cho vay truyền thống, chi nhánh cần mạnh dạn áp dụng các hình thức cho vay khác như: cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn.
Tóm lại, trong cơ chế chính sách hoạt động của mình, Ngân hàng nên có những điều chỉnh thích hợp với các khách hàng là các DNNQD để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần vào phát triển định hướng chung của Ngân hàng.
4. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tín dụng.
Nâng cao hiệu quả thẩm định có tính chất quyết định tới chất lượng vốn vay sau này vì kết thúc khâu thẩm định Ngân hàng sẽ đưa ra quyết định có cho vay hay không. Thẩm định gồm hai bước cơ bản là thu thập và xử lý thông tin:
* Thu thập thông tin.
Thông tin có thể thu thập từ nhiều nguồn:
- Từ bộ hồ sơ khách hàng.
- Từ kết quả phỏng vấn.
- Kiểm tra trực tiếp tại trụ sở của khách hàng.
- Từ các phương tiện thông tin đại chúng.
- Từ NHTM khác và trung tâm phòng ngừa rủi ro CIC.
- Từ khách hàng của khách hàng.
Hiện nay chi nhánh thu thập thông tin khách hàng chủ yếu từ bộ hồ sơ khách hàng và qua cuộc phỏng vấn trực tiếp. Nguồn thông tin này có độ tin cậy không cao vì chúng ta biết rằng khách hàng hàng có nhu cầu vay vốn nhiều và nhanh chóng nên những thông tin khách hàng đưa ra có thể đã được điều chỉnh, sửa chữa. Do vậy, Ngân hàng cần chú ý thu thập thông tin từ những nguồn khác:
Thứ nhất: Ngân hàng cử cán bộ tín dụng có kiến thức nghiệp vụ và kiến thức chuyên môn ngành nghề lĩnh vực mà khách hàng xin vay vốn xuống tận địa bàn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để kiểm tra.
Thứ hai: Thường xuyên cập nhật các thông tin thu thập được từ trung tâm phòng ngừa rủi ro CIC.
Thứ ba: Tăng cường mối quan hệ với các công ty kiểm toán, cơ quan thuế, cơ quan quản lý của doanh nghiệp để nắm bắt thông tin về doanh nghiệp.
Thứ tư: Ngân hàng thu thập thông tin qua mạng máy tính với các TCTD khác, thu thập thông tin qua mạng điện tử.
Yêu cầu đối với thông tin là phải đầy đủ, chính xác. Nhưng nếu chỉ có thông tin thôi thì chưa đủ, để đưa ra quyết định đúng đắn Ngân hàng cần thận trọng trong công tác phân tích thông tin tín.
* Phân tích thông tin tín dụng.
Khi có được các thông tin cần thiết thì việc lựa chọn khách hàng là hết sức quan trọng. Khi lựa chọn khách hàng, Ngân hàng chỉ lựa chọn những khách hàng có đủ tiềm lực tài chính, làm ăn có hiệu quả, có uy tín trong việc trả nợ. Ngoài ra, Ngân hàng có thể xem xét quan hệ của khách hàng với các TCTD khác để có cơ sở đánh giá mức độ uy tín của khách hàng.
Để lựa chọn khách hàng một các khoa học, Ngân hàng nên tiến hành phân loại khách hàng theo bốn nhóm tiêu thức: quy mô doanh nghiệp, khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, Ngân hàng có thể tiến hành xếp loại người lãnh đạo quản lý, điều hành doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại các TCTD. Việc xếp loại này dựa trên tiêu thức kỹ năng vf kinh nghiệm của các nhà quản lý.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia, những cán bộ tư vấn về các lĩnh vực giá cả, kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm...
5. Tăng cường công tác kiểm tra sau khi cho vay.
Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên, tuỳ theo quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể kiểm tra ngay sau khi phát tiền vay hoặc khi dự án, phương án của doanh nghiệp hoàn thành. Việc kiểm tra sau khi cho vay không khống chế số lần tuỳ theo dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Nội dụng kiểm tra sau khi cho vay gồm:
- Kiểm tra sử dụng vốn vay theo mục đích đã ghi trong hợp động tín dụng.
- Kiểm tra tiến độ thực hiện dự án phương án.
- Kiểm tra hiện trạng tài sản bảo đảm tiền vay.
Việc kiểm tra sau khi cho vay phải được tiến hành tại doanh nghiệp hoặc nơi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài liệu làm căn cứ để kiểm tra là: phiếu nhập kho vật tư hàng hoá, chứng từ lĩnh tiền mặt, các chứng từ làm căn cứ chi trả... Cán bộ kiểm tra phải xác định giá trị và số lượng nhập kho vật tư hàng hoá có khớp đúng với đối tượng xin vay vốn, số tiền cho vay. Đặc biệt việc kiểm tra hàng hoá, vật tư trong kho phải được coi trọng, tránh trường hợp doanh nghiệp tạo kho hàng hoá giả để lừa Ngân hàng. Khi kiểm tra phải xem xét các vấn đề liên quan đến chất lượng hàng tồn kho như: nguyên, nhiên vật liệu hàng hoá kém phẩm chất, thành phẩm chậm luân chuyển, các yếu tố hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình của tài sản lưu động.
6. Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên.
Công tác tổ chức ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc, có thể phát huy, khơi dậy hay kìm hãm, o ép sự năng động nhạy bén của mỗi người. Chất lượng công tác thẩm định ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, chất lượng công tác thẩm định phụ thuộc cơ bản vào cán bộ thẩm định. Vì thế để nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng đối với DNNQD nói riêng tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên cần phải chú trọng đến công tác tổ chức, phát triển nhân tố con người nhất là cán bộ tín dụng, theo hướng sau:
- Thông qua công tác tổ chức để nắm được khả năng trình độ của cán bộ từ đó bố trí công việc phù hợp, đồng thời cần tổ chức đào tạo bồi dưỡng trình độ cho lãnh đạo, cán bộ chủ chốt trong từng nghiệp vụ.
- Đối với cán bộ tín dụng cần phải giao trách nhiệm một cách rõ ràng, nhưng cũng phải quan tâm hơn đến quyền lợi hợp pháp của họ. Ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất hợp pháp cần tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng hiểu rõ quyền và trách nhiệm của họ trong quan hệ tín dụng, từng thành viên trong hội đồng tín dụng.
- Cần chuyên môn hoá cán bộ tín dụng. Để có một khoản tín dụng có chất lượng, yêu cầu đầu tiên là cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, phân tích được tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng, xác định được tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai và nắm rõ được tư cách đạo đức của khách hàng. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có am hiểu nhất định về lĩnh vực mà mình quản lý.
Hiện nay cán bộ tín dụng đa phần được phân công việc trên cơ sở số lượng khách hàng, địa bàn hoạt động, vì vậy rất khó khăn cho cán bộ thu thập xử lý thông tin, số liệu. Do đó khi cho vay, cán bộ tín dụng sẽ không kiểm soát được việc sử dụng tiền vay của khách hàng, và khả năng rủi ro tiềm ẩn ngay từ khi giải ngân. Cho nên để nâng cao chất lượng tín dụng cần thiết nên chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của khách hàng chứ không nên giao công việc cho cán bộ tín dụng theo số lượng khách hàng.
- Công tác tuyển chọn cán bộ tín dụng cần phải đặt ra một tiêu chuẩn nhất định, đó là:
+ Có trình độ bằng cấp nhất định, có năng lực để giải quyết các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ. Muốn vậy họ phải có kiến thức được đào tạo cơ bản, có kỹ năng xử lý các thông tin liên quan đến công việc của mình.
+ Có năng lực dự đoán kinh tế, đây là tầm nhìn của mỗi cá nhân nhưng nó lại ảnh hưởng đến kết quả hoạt động, từ kinh nghiệm mà họ có được những dự đoán chính xác và đó là sự sáng tạo của người cho vay.
+ Có uy tín trong quan hệ xã hội, điều này thể hiện phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp của người cho vay.
+ Có năng lực tự học tự nghiên cứu và có chính kiến, nó thể hiện ý chí vươn lên không mệt mỏi để khẳng định khả năng của bản thân.
- Việc đào tạo cán bộ không chỉ thực hiện bằng hình thức cử đi học tập trung dài hạn, mà phải quan tâm đến công tác đào tạo tại chỗ vừa tiết kiệm được thời gian, ít tốn kém, người đi trước truyền lại kinh nghiệm cho người đi sau, xây dựng các tủ sách nghiệp vụ để cán bộ có thể tự mình bổ xung kiến thức trong công việc hàng ngày. Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra tay nghề dưới nhiều hình thức khác nhau để khuyến khích cán bộ áp dụng những kiến thức đã học vào công việc thực tế, tạo ra không khí sôi nổi thi đua trong toàn Ngân hàng, tránh tình trạng công việc tập trung quá nhiều vào một người.
- Cùng với việc đề ra những tiêu chuẩn và chất lượng công tác, nên có một chế độ đãi ngộ xứng đáng về lương, thưởng đối với cán bộ, tập thể có thành tích, sáng kiến, đề tài khoa học. Đồng thời xử lý nghiêm minh những cá nhân vi phạm dưới bất kỳ hình thức nào có ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng và kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
- Thường xuyên tổ chức các lớp học nghiệp vụ như học về chế độ kế toán mới, phương pháp thẩm định dự án đầu tư, phân tích hoạt động kinh tế... nhằm nâng cao nghiệp vụ. Cử cán bộ đi học các lớp do NHNo&PTNT Việt Nam tổ chức trong nước cũng như nước ngoài.
7. Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
- Chọn lựa hệ thống công nghệ hiện đại đáp ứng những thông số kỹ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ cho việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh và quản lý điều hành đồng thời cho phép tích hợp các dịch vụ Ngân hàng mới đã được hoạch định và hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
- Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ Ngân hàng, tập trung đầu tư phần mềm ứng dụng với các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng, đào tạo cán bộ đủ khả năng tiếp nhận kỹ thuật mới nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thiết bị hiện có.
- Nâng cấp hệ thống tin học, phát triển và hoàn thiện màng lưới giao dịch trực tuyến giữa trụ sở chính và chi nhánh, tiến tới thực hiện việc khách hàng gửi tiền ở một nơi rút tiền ở nhiều nơi.
- Hoàn thiện và đưa vào ứng dụng hệ thống Ngân hàng bán lẻ, dịch vụ ATM, đẩy mạnh hoạt động thẻ tín dụng.
- Nghiên cứu, thử nghiệm và từng bước thực hiện việc tự động hóa ở các quầy đổi tiền, các phòng giao dịch theo hướng cắt giảm các bước trung gian nhằm phục vụ khách hàng nhanh chóng hơn. Từng bước mở rộng dịch vụ Ngân hàng tại nhà, trước mắt với các khách hàng lớn.
8. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Để nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, đảm bảo hiệu quả an toàn vốn đầu tư, một hoạt động không thể thiếu được đó là công tác kiểm tra, kiểm soát. Bấy lâu nay kiểm tra, kiểm soát chưa phát huy được vai trò của mình, hay nói khác đi là chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát còn yếu kém. Để đẩy mạnh hoạt động công tác kiểm tra kiểm soát, trước hết phải bố trí đội ngũ kiểm tra viên có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu, am hiểu pháp luật và có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp, mặt khác phải có chế độ, điều kiện làm việc và đãi ngộ đúng mức.
Đối với công tác tín dụng DNNQD tại chi nhánh, công tác kiểm tra kiểm soát cần chú ý đến một số vấn đề sau:
- Trước hết là kiểm tra tính hợp pháp, chính xác, đầy đủ của hồ sơ dự án để kịp thời có ý kiến cụ thể để sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện. Các thủ tục chi tiết về quan hệ tín dụng, quan hệ thừa kế, thế chấp, bảo lãnh phải được hoàn thiện về tính pháp lý để khi xảy ra rủi ro sẽ có đủ cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp.
- Thông qua việc kiểm tra trong, sau khi giải ngân, quá trình trả nợ để kịp thời phát hiện những biểu hiện xấu của dự án có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi của Ngân hàng, đề xuất các biện pháp xử lý. Thông qua phân tích số liệu tổng hợp và chi tiết trong từng thời kỳ của tín dụng kinh tế ngoài Quốc doanh để thấy được các khuyết điểm cần uốn nắn.
- Kiểm tra, phát hiện và phối hợp với các cơ quan chính quyền, cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả, kịp thời một số trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, mất khả năng thanh toán nhất là đối tượng hành vi cố ý hoặc có dấu hiệu lừa đảo rất cần sự trừng trị của pháp luật.
- Ngoài bộ máy kiểm soát chiều rộng ở tất cả các nghiệp vụ như hiện nay, cần thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra (có sự tham gia của cán bộ kiểm soát và những cán bộ tín dụng giỏi) chiều sâu về công tác tín dụng nói chung, tín dụng ngoài quốc doanh nói riêng.
9. Xử lý vấn đề nợ quá hạn.
* Thực hiện biện pháp thu hồi từng khoản nợ quá hạn phù hợp: Đối với các khoản nợ quá hạn bình thường, cán bộ tín dụng phải tăng cường đôn đốc, thu hồi nợ kết hợp với việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính và kiểm tra hiện trạng tài sản đảm bảo.
* Thực hiện biện pháp xử lý nợ thích hợp: Song song với việc đôn đốc thu hồi nợ, ngân hàng cần xem xét thực hiện các biện pháp xử lý nợ thích hợp đối với từng khoản vay. Đây là những biện pháp được áp dụng nhằm giúp các DNNQD có nợ quá hạn khắc phục khó khăn tài chính, khôi phục, duy trì sản xuất kinh doanh, trả được nợ cho Ngân hàng. Các biện pháp xử lý nợ theo cơ chế chính sách của Nhà nước hiện nay bao gồm:
- Gia hạn nợ: Trường hợp khách hàng DNNQD không trả được nợ đến hạn và có đơn đề nghị, Ngân hàng có thể xem xét cho gia hạn nợ để tạo điều kiện cho khách hàng trả được nợ. Số lần gia hạn nợ không khống chế nhưng không được vượt quá quy định về thời gian được gia hạn.
- Điều chỉnh kỳ hạn nợ: Trường hợp khách hàng DNNQD có nợ quá hạn hoặc không trả được nợ đến hạn do các nguyên nhân khách quan, khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc do Ngân hàng định kỳ hạn nợ quá ngắn, đối tượng trung dài hạn nhưng lại cho vay ngắn hạn.. nếu xác định lại kỳ hạn nợ, khách hàng có thể ổn định được sản xuất, trả được nợ thì Ngân hàng có thể xem xét, điều chỉnh lại kỳ hạn nợ.
- Miễn giảm tiền lãi vay đối với khách hàng DNNQD bị tổn thất tài sản hình thành từ vốn vay do các nguyên nhân khách quan, nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng trả được nợ gốc và phần lãi còn lại, có điều kiện lập lại quan hệ tín dụng bình thường.
* Khai thác các tài sản bảo đảm nợ vay:
Để xử lý các tài sản bảo đảm tiền vay có hiệu quả, đúng quy định, giảm thấp nợ quá hạn, cần tập trung rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục bảo đảm tiền vay của các khoản nợ quá hạn, từ đó có biện pháp bổ sung, hoàn chỉnh, đảm bảo hợp lệ, hợp pháp, đầy đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý. Đặc biệt, các tài sản là nhà, đất trong những năm qua có nhiều thay đổi trong quy định cấp giấy tờ sở hữu, quyền sử dụng, cần có biện pháp quản lý, bổ sung khi khách hàng đã xin đổi, cấp lại giấy tờ kèm theo mẫu mới, tránh để xảy ra lợi dụng, lừa đảo hoặc thiếu cơ sở xử lý tài sản. Đồng thời, cần tổ chức đánh giá lại hiện trạng, giá trị của các tài sản bảo đảm và tiến hành phân loại các tài sản đó, từ đó đề ra biện pháp xử lý thích hợp.
III - kiến nghị.
Nhằm khắc phục những nguyên nhân tồn tại, hỗ trợ thực hiện các giải pháp đã nêu, em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
1. Kiến nghị đối Nhà nước.
* Hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển.
- Nhà nước cần tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả bằng nhiều hình thức (giải thể, sáp nhập, cổ phần hoá ...), đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ đó sẽ lành mạnh hoá môi trường tín dụng, tạo chỗ dựa vững chắc cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
- Sớm ban hành luật sở hữu tài sản để thông nhất các chuẩn mực giấy tờ sở hữu tài sản của tất cả các thành phần kinh tế. Thông qua đó việc chuyển quyền sở hữu tài sản được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện cho các NHTM trong việc nhận tài sản bảo đảm và phát mại tài sản bảo đảm.
- Sớm ban hành luật lưu thông kỳ phiếu thương mại làm cơ sở cho Ngân hàng trong việc kiểm soát việc mua bán chịu hàng hoá của khách hàng vay vốn Ngân hàng.
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên cơ chế bảo lãnh một phần nhằm khuyến khích các TCTD thông qua việc gánh chịu một phần rủi ro tín dụng.
* Tạo môi trường kinh tế thuận lợi:
- Tiếp tục xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tín dụng, tiền tệ, giá cả. Củng cố thị trường tài chính có hiệu quả đồng thời từng bước vận hành thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả.
- Cải cách chính sách kinh tế đối ngoại tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Dần dần hoàn thiện môi trường đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, cải cách chính sách, chế độ về xuất nhập khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong nước nói chung và cho DNNQD nói riêng.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
- Để giúp đỡ Ngân hàng thương mại trong việc thu nhập thông tin được chính xác, cập nhật không chỉ có sự nỗ lực của mỗi Ngân hàng mà còn cần sự giúp đỡ của NHNN, nên NHNN cần thương mại hoá từng phần và xây dựng hiệu quả hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro trong ngành Ngân hàng. Đổi mới về mô hình tổ chức và màng lưới hoạt động thích hợp để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại.
Phải từng bước nâng cao giá trị của thông tin về rủi ro. Muốn vậy, cần coi thông tin này là "hàng hoá" nên phải trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đào tạo cán bộ vừa sâu về các nghiệp vụ Ngân hàng vừa hiểu biết về quản trị tổng hợp Doanh nghiệp, làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giá trị và lợi ích của công tác phòng ngừa rủi ro, mang tính thương mại và xã hội hoá.
- Ngân hàng Nhà nước nên quan tâm hơn công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động ngân hàng, nên chăng bố trí đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có thực tiễn, có trình độ lý luận làm công tác này.
Việc thanh tra, kiểm soát đối với Ngân hàng thương mại phải được tiến hành thường xuyên liên tục, nhằm phát hiện ngăn ngừa những trường hợp vi phạm chế độ thể lệ tín dụng, có biện pháp sử lý kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro xảy ra, đặc biệt là rủi ro tín dụng và rủi ro trong thanh toán.
- Điều hành một cánh linh hoạt hơn các quy chế quản lý tầm vĩ mô như: cơ chế chính sách lãi suất, điều hành tỉ giá ngoại tệ… mặt khác cũng nên có chính sách hỗ trợ các NHTM trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
- Tăng cường hoạt động thanh tra kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh những sai sót, phòng ngừa rủi ro. Việc kiểm soát phải được thực hiện trong mọi lĩnh vưc hoạt động của chi nhánh.
- Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh cho các đơn vị trực thuộc nhằm khuyến khích, thúc đẩy các đơn vị đó hoạt động có hiệu quả hơn. tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc của Ngân hàng.
- Hỗ trợ chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn cho cán bộ công nhân viên nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng của Ngân hàng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn theo từng chuyên đề như: thẩm định tín dụng, thanh toán quốc tế…hỗ trợ cho các chi nhánh trực thuộc kinh phí để hiện đại hoá cơ sở giúp cho các cơ sở tăng được tính cạnh tranh của mình, hoạt động có hiệu quả hơn.
Tóm lại, chương 3 của chuyên đề đã đề cập quan điểm mở rộng cho vay và các mục tiêu về công tác tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới.
KếT LUậN
Qua việc phân tích, đánh giá, có thể thấy rằng tuy chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên mới thành lập và đi vào hoạt động được 8 năm nhưng đã đạt được nhiều kết quả tốt trong hoạt động kinh doanh của mình, trở thành đơn vị tiên tiến, trong hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và trong hệ thống ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng.
Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên được sự hướng dẫn của T.S Phan Thị Thu Hà, sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các cán bộ tại chi nhánh, cùng với sự nghiên cứu tìm tòi của bản thân, em đã hoàn thành được chuyên đề với các nội dụng:
- Các lý luận cơ bản về DNNQD, hoạt động tín dụng Ngân hàng và vai trò của hoạt động này đối với các DNNQD, từ đó khẳng định tính tất yếu của việc mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế này.
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh, từ đó tìm ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh, để đáp ứng nhu về vốn ngày càng cao của các doanh nghiệp này.
Các đề xuất trên chỉ là số nhỏ trong tổng thể rất nhiều giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNNQD, nhưng em tin rằng đó là các giải pháp mà chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên có thể tham khảo và áp dụng trong tương lai. Tuy nhiên, với thời gian nghiên cứu hạn hẹp và những hiểu biết còn hạn chế nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và ban lãnh đạo chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hừng Yên.
Hưng Yêni ngày 20 tháng 04 năm 2006
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Các sách tham khảo.
Thị trường tiền tệ- J.MISHKIN
Ngân hàng thương mại – TS.Tô Ngọc Hưng
Giáo trình lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng
Đồng chủbiên: TS. Ngô Hướng & Th.S. Tô Kim Ngọc
Giáo trình Quản trị Và kinh doanh ngân hàng
Đồng chủ biên: PGS – TS. Ngô Hướng & TS. Phan Đình Thế
Giáo trình Marketing ngân hàng
Chủ biên: NGƯT – TS. Nguyễn Thị Minh Hiền
II. Các sách báo và tạp chí tham khảo.
1. Tạp chí Ngân hàng số các năm 2001,2002,2003,2004,2005
2. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số các năm 2003,2004,2005
3. Báo doanh nghiệp số các năm 2004,2005
III. Các tài liệu tại nơi thực tập.
1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003,2004,2005
2. Báo cáo hoạt động tín dụng các năm 2003,2004,2005
3. Báo cáo hoạt động TTQT và kinh doanh ngoại tệ các năm 2003,2004,2005
4. Báo cáo công tác huy động vốn các năm 2003,2004,2005
lời cảm ơn
Bài luận văn của em được hoàn thành là nhờ có sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của T.S Phan Thị Thu Hà, cùng các cán bộ công nhân viên tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hưng Yên, đặc biệt là các cán bộ tại phòng tín dụng. Vì vậy, cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới những cô giáo cùng những người đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên
Dương Minh hải
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TCTD : Tổ chức tín dụng
TCKT : Tổ chức kinh tế
CNH- HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
PGĐ : Phó giám đốc
KH : Kỳ hạn
TGDC : Tiền gửi dân cư
GTCG : Giấy tờ có giá
UTĐT : Uỷ thác đầu tư
TTQT : Thanh toán quốc tế
TM&DV : Thương mại và dịch vụ
KTKS : Kiểm tra kiểm soát
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29421.doc