Tài liệu Giải pháp khôi phục và phát triển du lịch làng nghề cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo tại làng tranh Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh: Lời mở đầu
“Hỡi cô thắt bao lưng xanhCó về làng Mái với anh thì vềLàng Mái có lịch có lềCó ao tắm mát, có nghề làm tranhNàng về nàng ở với anhCùng nhau vẽ, khắc in tranh Lợn, Gà”
Câu hát dân gian trên nghe thật mộc mạc trữ tình, thoạt đầu ta cứ ngỡ như mình đang nghe một đôi trai gái đang tán tỉnh nhau nhưng thực chất nó lại khơi gợi ta nhớ đến một làng nghề truyền thống, một di sản văn hóa hàng trăm năm của dân tộc Việt Nam. Chắc hẳn các bạn cũng như tôi đều đoán ra được đó chính là làng... Ebook Giải pháp khôi phục và phát triển du lịch làng nghề cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo tại làng tranh Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải pháp khôi phục và phát triển du lịch làng nghề cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo tại làng tranh Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tranh dân gian Đông Hồ. Quả thật, khi xem những bức tranh dân gian đặc sắc này đã đem đến cho tôi một cảm giác thanh bình hòa lẫn với những xao xuyến, bồi hồi về ký ức của tuổi thơ, về làng quê Việt Nam. Tranh dân gian của chúng ta là một món ăn tinh thần vô giá, rất được sự quan tâm của bạn bè quốc tế. Nhiều người biết đến tranh dân gian Đông Hồ nhưng dần dần mọi thứ đều mai một và chìm vào quên lãng trong tâm thức của giới trẻ hôm nay, đồng thời trước thực trạng không mấy tươi sáng của làng tranh đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài này – “Đề tài nghiên cứu giải pháp khôi phục và phát triển du lịch làng nghề cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo tại làng tranh Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh”. Tôi hy vọng đề tài của tôi sẽ đem đến cho các bạn những hiểu biết hơn về làng tranh, về du lịch cộng đồng, bạn sẽ yêu thích tranh dân gian Đông hồ hơn, yêu những truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương Việt Nam hơn nữa.
Chương I : Lý thuyết chung về du lịch cộng đồng.
1. Một số khái niệm về du lịch cộng đồng, du lịch làng nghề.
1.1 Khái niệm :
Du lịch cộng đồng được hiểu là một cộng đồng dân cư tham gia vào làm du lịch. Bắt đầu là tự phát tại nơi có các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, đặc điểm vùng miền mà dân cư tại chỗ tham gia vào các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của du khách.
Hay “Du lịch cộng đồng về cơ bản đó là sự đưa môi trường sống, xã hội, và nền văn hoá của một địa phương nào đó vào một bản tài khoản (nhằm duy trì tính Bền vững), nó được quản lý và sở hữu bởi cộng đồng và vì lợi ích của chính cộng đồng đó, với mục đích là làm cho du khách tăng nhận thức và học hỏi được tính cộng đồng và lối sống của địa phương đó.”
1.2 Ý nghĩa của du lịch cộng đồng :
Trên thực tế, phát triển du lịch cộng đồng là một hướng mở cho việc tìm kiếm đầu ra cho các sản phẩm thủ công hay truyền thống tại hầu hết các làng nghề, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho người dân và làm cho lợi nhuận kinh tế gia tăng. Nếu không có du lịch làng nghề cộng đồng thì việc tiêu thụ các sản phẩm thủ công gặp vô vàn khó khăn và thách thức. Hơn nữa, có thể khẳng định rằng chỉ có du lịch đồng đồng mới có khả năng tốt nhất trong việc duy trì, bảo tồn cũng như khôi phục và phát huy những giá trị văn hoá ngàn đời của ông cha tại các vùng miền nói riêng cũng như trên toàn đất nước Việt Nam nói chung. Nếu như chúng ta không phát triển du lịch cộng đồng tại các làng nghề thì sớm hay muộn chúng sẽ bị mai một, các giá trị văn hoá tinh thần sẽ bị phai nhạt dần theo thời gian. Điều này rất dễ hiểu vì, trước hết người dân không thể đảm bảo cho cuộc sống của họ nếu chỉ dựa vào những ngành nghề truyền thống không có khả năng phát triển, không đem lại đủ thu nhập cho cuộc sống thiết yếu hàng ngày thì vì miếng cơm manh áo họ vẫn phải từ bỏ dù có yêu nghề đến mấy. Thứ hai, theo xu hướng hiện nay, các khu công nghiệp tư nhân cũng như liên doanh mọc lên như nấm, nhu cầu về nhân lực rất lớn, mức lương cũng khá cao có khả năng thu hút thế hệ trẻ tại các làng nghề truyền thống là rất mạnh nếu như họ không có được thu nhập cao do nghành nghề đem lại. Chính vì vậy, ý nghĩa của du lịch cộng đồng là rất lớn và du lịch cộng đồng chỉ phát triển đúng hướng khi người dân tại điểm du lịch được hưởng các lợi ích do du lịch đem lại, đồng thời phải nhận được sự hướng dẫn cách thức làm du lịch từ ngành du lịch và văn hoá.
2 Mục đích của du lịch làng nghề cộng đồng.
Việc phát triển du lịch làng nghề cộng đồng luôn hướng tới một mục tiêu lớn và quan trọng nhất là xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cũng như cải thiện đời sống kinh tế xã hội cho người dân địa phương. Phát triển du lịch cộng đồng nhằm tạo công ăn việc làm cho dân cư sở tại, thu hút toàn bộ các nguồn lực tại điểm du lịch vào công cuộc phát triển du lịch của địa phương, đảm bảo cuộc sống cho những thợ thủ công và người lao động nói chung. Thợ thủ công là những người lao động có công cụ lao động giản đơn với những thao tác bằng tay là chủ yếu, không có trang thiết bị hiện đại, nguồn vốn ít. Chính vì vậy, phát triển du lịch cộng đồng không chỉ nhằm mục đích đưa tất cả người lao động vào hoạt động du lịch mà đồng thời với nó là phải huy động các nguồn lực khác ngoài nguồn lực con người vào trong du lịch. Đó chính là các nguồn nguyên vật liệu đầu vào, phát triển du lịch cộng đồng là làm sao để có thể tận dụng mọi nguồn tài nguyên của địa phương vào trong du lịch. Phải khai thác tối đa những đặc điểm, thế mạnh của hệ thống du lịch trong vùng rồi kéo người dân vào cùng làm du lịch để họ có thể tăng thu nhập từ chính những mặt có sẵn, tự nhiên của mình. Cộng đồng dân cư là những người nắm rõ các nguồn tài nguyên tại địa phương mình nhất, du lịch cộng đồng nhằm giúp cho họ nhận thức được rõ giá trị và tầm quan trọng của nó hơn, đồng thời nhằm tìm ra cách tận dụng nó một cách hữu hiệu nhất để có thể đem lại lợi ích tối đa cho mọi tầng lớp dân cư.
Phát triển du lịch cộng đồng nhất thiết phải nhằm mục đích đảm bảo lợi ích cho tất cả các đối tượng hữu quan ( stakeholders ), có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý giữa các bên như : chính quyền địa phương, người lao động, các công ty du lịch, các cơ quan hữu quan... Du lịch cộng đồng không thể phát triển bền vững nếu có sự xung đột lợi ích giữa chính quyền địa phương với cộng đồng dân cư cũng như giữa người lao động với các công ty du lịch, lữ hành… Để có thể phát triển thì điều quan trọng nhất là phải có sự hợp tác đồng bộ giữa các bên tham gia, phải cho họ thấy được lợi ích của mình khi tham gia phát triển du lịch. Trước hết, đối với người lao động hay cộng đồng dân cư thì bằng mọi cách phải để cho dân làm, dân được hưởng lợi vì phát triển du lịch cộng đồng phải xem người dân là trung tâm, là thành phần quan trọng nhất, nếu họ không thấy được lợi ích của mình thì chắc chắn họ sẽ không tham gia vào công cuộc phát triển. Còn nếu chúng ta không xây dựng được cơ chế phân chia lợi nhuận hợp lý giữa người dân và các công ty du lịch thì không những không giải quyết được vấn đề xóa đói giảm nghèo mà còn làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư tăng lên. Nếu các công ty du lịch không thu được lợi nhuận nhờ phát triển du lịch cộng đồng thì họ sẽ không thể tiếp tục đem khách đến cho địa phương có du lịch, hoặc nếu có sự chênh lệch quá lớn về lợi nhuận giữa các bên thì cũng không thể đạt tới sự phát triển lâu dài cho du lịch cộng đồng. Mặt khác, lợi ích của chính quyền địa phương cũng cần phải được đảm bảo vì nếu thiếu sự quản lý của chính quyền địa phương thì các hoạt động của người dân chỉ là tự phát, manh nhúm, lẻ tẻ thiếu sự đồng bộ và chắc chắn sẽ không thể đạt được kết quả tốt. Có thể nói rằng lợi ích là động lực, là mục tiêu quan trọng. Chính vì vậy, để có thể phát triển du lịch cộng đồng vững mạnh cần phải có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý giữa các bên hữu quan.
Một số giải pháp nhằm đảm bảo xây dựng thành công cơ chế phân chia lợi ích giữa các bên :
- Hỗ trợ giới nữ tham gia vào các hoạt động phát triển du lịch bằng cách đào tạo cho họ các kỹ năng để tham gia vào các hoạt động như hướng dẫn du khách, liên kết với các hộ dân phục vụ khách du lịch, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ… nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao vị thế của người phụ nữ.
- Kết hợp với chính quyền địa phương quy hoạch làng nghề một cách tập trung, bài bản nhằm tránh tình trạng tự phát, manh nhúm khi thấy nguồn lợi từ du lịch, nâng cao nhận thức cho người dân về phát triển du lịch cộng đồng .
- Tăng cường phát triển các sản phẩm truyền thống, hợp với du khách, một mặt nhằm tạo công ăn việc làm cho các bộ phận dân cư và tăng thu nhập cho người dân, đồng thời nhằm thu hút lượng du khách đến với địa phương nhiều hơn .
- Xây dựng bảng giá hợp lý, rõ ràng cho các sản phẩm thủ công nhằm tránh tình trạng lợi ích bị chênh lệch quá lớn giữa người lao động và công ty du lịch.
Phát triển du lịch cộng đồng nhằm làm tăng giá trị gia tăng do hoạt động của làng nghề mang lại. Có thể nói rằng, việc phát triển du lịch cộng đồng làng nghề đã góp phần tích cực trong việc gia tăng GDP, đóng góp tỉ lệ lớn trong tổng sản phẩm quốc nội vì các sản phẩm từ làng nghề không những được bán cho du khách rất nhiều mà còn chiếm một giá trị lớn trong xuất khẩu. Phát triển du lịch cộng đồng đòi hỏi các làng nghề cần phải tạo ra một lượng lớn các sản phẩm truyền thống phù hợp với du khách, sản phẩm không bị hiện đại hóa, không làm mất đi bản sắc văn hóa của vùng miền, dân tộc.
3. Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng.
Du lịch cộng đồng muốn phát triển ở một nơi nào đó thì điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất chính là điều kiện về tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch gồm có hai loại là tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên thiên nhiên có thể là các danh lam thắng cảnh. Tài nguyên nhân văn có thể là các lễ hội, các phong tục tập quán, các làng nghề truyền thống, các di tích lịch sử…Bất cứ một địa phương nào có sẵn một trong hai loại tài nguyên trên thì đều có khả năng rất lớn để phát triển du lịch. Nếu không có sẵn tài nguyên du lịch thì dù cho nguồn nhân lực rất dồi dào hay chính quyền địa phương tại địa bàn đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch thì du lịch tại đó cũng không thể phát triển. Có thể nói rằng tài nguyên du lịch là linh hồn tại mỗi điểm du lịch, tài nguyên càng phong phú bao nhiêu thì du lịch càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ bấy nhiêu. Tài nguyên rất quan trọng với du lịch nói chung và lại càng đặc biệt quan trọng đối với du lịch cộng đồng, bởi vì cộng đồng dân cư đa phần là phải phát triển du lịch dựa trên nguồn tài nguyên có sẵn tại địa phương mình.
Điều kiện quan trọng thứ hai là cơ sở vật chất kỹ thuật. Du lịch cộng đồng cũng không thể phát triển được nếu như hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng không tốt. Cơ sở hạ tầng là yếu tố vô cùng quan trọng trong du lịch, yếu tố này có thuận lợi thì khách du lịch mới có thể đến được điểm du lịch. Nếu hệ thống đường xá hiểm trở, khó đi, độ an toàn thấp thì không thể thu hút được khách du lịch dù cho cảnh có đẹp đến mấy, và khi không có khách thì tất nhiên du lịch không thể phát triển.
Thứ ba, chúng ta không thể không nhắc tới các tổ chức của cộng đồng dân cư (điển hình là chính quyền địa phương ). Phải nói rằng, các tổ chức này đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành và phát triển du lịch cộng đồng địa phương nói riêng cũng như toàn ngành du lịch nói chung. Nó có thể tạo điều kiện cho du lịch cộng đồng phát triển vững mạnh nhưng cũng có thể cản trở sự phát triển của du lịch cộng đồng nếu như nó không giữ đúng vai trò. Điều đó được thể hiện như sau :
- Tài nguyên du lịch dù có hấp dẫn đến mấy mà không có đơn vị nào đứng ra tổ chức, triển khai, điều hành cho cộng đồng dân cư cùng tham gia, đóng góp thì du lịch cộng đồng cũng không thể phát triển. Du lịch chỉ phát triển khi có sự quản lý và điều hành một cách đồng bộ từ trên xuống dưới, được sự quan tâm và tạo điều kiện đúng mức của chính quyền địa phương.
- Muốn du lịch phát triển và đi đúng hướng thì mỗi địa phương cần phải có những quy định hay luật lệ rõ ràng cụ thể, phù hợp với hoàn cảnh, hiện trạng từng vùng cũng như phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cộng đồng địa phương đó. Đặc biệt, trong mọi trường hợp đều phải xử lý công bằng, dân chủ, có như vậy du lịch cộng đồng mới phát triển vững mạnh.
- Vấn đề phân phối lợi ích luôn luôn phải được đảm bảo vì mục đích đầu tiên và cũng là mục đích cuối cùng của du lịch cộng đồng là xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho dân cư sở tại. Có cơ chế phân bổ lợi ích cho cộng đồng tốt là một trong những điều kiện quan trọng để du lịch cộng đồng tồn tại và phát triển.
- Một khó khăn rất lớn cho việc phát triển du lịch cộng đồng là sự kết nối giữa du lịch và cộng đồng. Vì không phải ai cũng có nhận thức rõ về du lịch bền vững cũng như ý nghĩa của việc phát triển du lịch, chính vì vậy khả năng kết nối du lịch vào sự phát triển của cộng đồng là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển du lịch cộng đồng. Muốn du lịch cộng đồng phát triển được ở một địa phương nào đó thì trước tiên cần phải cho người dân nơi đó nhận thức rõ được tầm quan trọng của du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng. Cho họ biết được việc phát triển du lịch gắn liền với lợi ích của chính bản thân họ. Đây là một trong những điều kiện cho du lịch cộng đồng phát triển.
4. Case study về phát triển du lịch cộng đồng .
Để có thể thấy được sự khác biệt trong cách phát triển du lịch cộng đồng giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới thì sau đây tôi sẽ đưa ra một case study về phát triển du lịch cộng đồng tại khu vực Đông Nam Á. Ở đây tôi chọn đất nước Thái Lan – đất nước có ngành du lịch vô cùng phát triển.
* Du lịch Chieng Mai ( Thai Lan ) : Thái Lan đã rất thành công khi xúc tiến mô hình du lịch “ mỗi làng nghề một sản phẩm “ nhằm phát triển các sản phẩm trong tương lai có chất lượng văn hóa và đặc trưng của từng địa phương góp phần phát huy bản sắc riêng của các cộng đồng. Chiềng Mai được coi là một điểm đến lý tưởng không thể bỏ qua cho những ai muốn tìm hiểu bản sắc dân tộc của các dân tộc thiểu số ở Thái Lan, muốn khám phá vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp tại đất nước chùa vàng. Chiềng Mai là một thung lũng ở độ cao trên 310m so với mực nước biển, nơi đây được thiên nhiên ưu ái, với vị trí thuận lợi trên cao, khí hậu ở đây quanh năm ôn hòa, mát mẻ, chính vì thế Chiềng Mai rất thích hợp cho các loài động vật, thảo mộc, đặc biệt là các loài hoa lan sinh sống, Thái Lan đã biến Chiềng Mai trở thành trung tâm sản xuất các giống hoa lan và hoa hồng nổi tiếng, quý hiếm, đồng thời là nơi có nhiều trang trại bướm quý. Bên cạnh thiên nhiên tươi đẹp Chiêng Mai còn hút hồn du khách bởi lịch sử văn hóa của mình ( cái nôi của nền văn minh lana ). Đất nước Thái Lan là một đất nước làm du lịch rất tốt. Điều đó được thể hiện ở chỗ chính phủ Thái đã đầu tư xây dựng Chiêng Mai thành một địa điểm du lịch từ rất sớm, ở đây cơ sở hạ tầng đều rất tốt, các khu du lịch, khách sạn vui chơi giải trí được quy hoạch khoa học nhằm đem lại sự thuận tiện nhất cho khách du lịch (Thí dụ điển hình nhất như : điểm nào cũng có nhà ăn sạch sẽ, đẹp mắt phục vụ các đoàn khách tham quan liên tục, cả ngàn người ăn một lúc vẫn không hết chỗ, ai vào ăn cũng có cảm giác là người ta chỉ có chờ mình đến để phục vụ )
Chính phủ Thái đã đầu tư cho Chiềng Mai nguồn vốn rất lớn, năm 2005 Chiềng Mai nằm trong chương trình phát triển du lịch phía Bắc của Thái Lan với nguồn ngân sách gần 10 triệu USD nhằm đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường khả năng liên kết giữa các địa danh du lịch, đẩy mạnh quảng cáo tiếp thị ( theo mangdulich.com ). Thành phố Chiêng Mai tuy hiện đại nhưng luôn ngập trong sắc áo váy nhiều màu của các thiếu nữ dân tộc mèo cùng với sắc hoa rực rỡ. Hàng năm tại đây đã tổ chức rất nhiều lễ hội truyền thống và hiện đại nhằm tôn vinh ngành nông nghiệp, cả chăn nuôi và trồng trọt được diễn ra vào mùa xuân và các dịp tết. Bên cạnh lễ hội truyền thống của người dân Thái, hàng năm Chiềng Mai còn tổ chức các lễ hội hoa khi các loài hoa đua nhau khoe sắc rực rỡ nhất ( thường vào 3 ngày thứ sáu, thứ bẩy, chủ nhật đầu tiên của tháng 2 ). Các trò vui diễn ra trong suốt mùa lễ hội, Khách du lịch đến Chiêng Mai vào dịp này luôn được hòa vào cảm giác vui tươi, say sưa cùng người bản xứ. Có thể nói ở nơi đây nét truyền thống nằm ngay trong dòng chảy của cuộc sống hiện đại. Điều đặc biệt ở chỗ mặc dù mỗi ngày có đến hàng nghìn du khách đến Chiềng Mai nhưng nơi đây luôn đảm bảo giữ gìn được một môi trường trong sạch, gọn gàng, không bao giờ để xảy ra tình trạng hỗn loạn. ( Năm 2004 lượng du khách đến Chiềng Mai lên đến 7,6 triệu lượt đem lại doanh thu 56.1 triệu bat trong khi đó du lịch Việt Nam đang cố gắng đến năm 2008 thu hút được khoảng 4 triệu du khách– mangdulich.com ). Theo kết quả cuộc thăm dò được công bố mới đây, đa số du khách nước ngoài tới Thái Lan coi tỉnh Chiềng Mai (miền Bắc Thái Lan) là địa điểm nghỉ ngơi được ưa chuộng nhất ở nước này, có tới 94.3 % du khách đều cảm thấy hài lòng khi đến đây. Tạp chí Travel and Leisure (Mỹ) đã bình chọn 10 thành phố du lịch tốt nhất châu á, Chiềng Mai được đánh giá là thành phố đẹp và có khả năng thu hút du khách nhiều thứ nhì sau thành phố Bangkok.
* Nguyên nhân thành công của du lịch Chiềng Mai Thái Lan : Có thể nói rằng du lịch Chiềng Mai đã rất phát triển và những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thành công đó có thể kể đến là :
- Chính phủ Thái đã quy hoạch phát triển du lịch theo từng vùng rộng ( cả miền bắc Thái Lan trong đó có Chiềng Mai ) nhằm hạn chế tính thời vụ, đảm bảo đón khách trong cả năm. Đồng thời Thái Lan quy hoạch các khu du lịch cũng rất đồng bộ và thống nhất.
- Hàng năm Thái lan tổ chức rất nhiều lễ hội và sự kiện, Điều này một mặt không chỉ giúp cho du lịch Thái diễn ra hết sức phong phú, sôi nổi và luôn thu hút được một lượng lớn khách du lịch đến Thái, mặt khác qua đó đã gián tiếp tạo ra rất nhiều khoản thu nhập lớn cho cộng đồng dân cư nhờ vào việc khai thác từ du lịch.
- Chính phủ Thái đã đầu tư rất nhiều cho toàn ngành du lịch nói chung và khu du lịch Chiềng Mai nói riêng ( ngân sách để quảng bá cho du lịch Thái Lan là 150 triệu USD / năm )
- Thái Lan rất mạnh về Quảng cáo và tiếp thị cho du lịch.
- Hàng không Thái Lan rất phát triển và thuận tiện cho du khách nước ngoài đến Thái, các thủ tục hành chính tại Thái không quá rườm rà.
- Đa số người Thái đều biết nói ngoại ngữ ( khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam họ nói họ rất thích đến Thái vì người Thái giao tiếp tiếng anh rất tốt )
- Người Thái nhận thức rất rõ về vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển du lịch nên thái độ phục vụ của họ rất chuyên nghiệp, thực sự coi khách hàng là thượng đế.
- Các cơ quan quản lý du lịch tại Thái hoạt động rất hiệu quả và luôn sáng tạo nhằm làm cho du lịch cộng đồng phát triển mạnh nhất. Điều đó được thể hiện qua mỗi lễ hội hay sự kiện, các sản phẩm thủ công của các miền lân cận đều có mặt bên cạnh những mặt hàng của địa phương tổ chức. Điều này một mặt làm tăng thu nhập cho cộng đồng dân cư, mặt khác làm cho các sản phẩm thủ công khác được lưu truyền mãi mãi, không bị mai một.
* Một số mặt hạn chế của khu du lịch Chiềng Mai : Qua cuộc điều tra về khách du lịch của tổng cục du lịch Thái Lan, bên cạnh những thành công rất lớn của du lịch Chiềng Mai là một số mặt còn yếu kém như không có đặc trưng văn hóa rõ nét, giao thông tắc nghẽn, không khí ô nhiễm, hàng hóa dịch vụ đắt và khó thông tin liên lạc. Mặt khác, một điểm hạn chế lớn của du lịch Thái Lan là những bất ổn về chính trị, yếu tố này sẽ tạo ra những tiêu cực cho ngành du lịch Thái Lan.
è Bài học cho việc phát triển du lịch cộng đồng ở Việt Nam:
Chiềng Mai ( Thái Lan ) về điều kiện tự nhiên hay con người thì cũng giống như Sapa, Đà Lạt hay nhiều địa danh khác ở Việt Nam, nhưng Thái Lan đã biến những điều không thể thành có thể, biết cách thực hiện những điều mà Việt Nam chưa làm được. Chính phủ Thái đã đầu tư phát triển đúng hướng biến Chiềng Mai thành một điểm du lịch cộng đồng hiệu quả và lý tưởng. Qua việc nghiên cứu case study này chúng ta có thể rút ra được một số bài học bổ ích cho việc phát triển du lịch ở Việt Nam như sau :
- Trước hết về vấn đề quy hoạch thì chúng ta nên quy hoạch các khu du lịch ( đặc biệt là du lịch làng nghề ) một cách thống nhất, đồng bộ, không lẻ tẻ, rời rạc. Trong quá trình quản lý nên có sự phối hợp, hỗ trợ giữa các khu du lịch khác nhau nhằm đạt đến mục tiêu lớn nhất là phát triển du lịch một cách hài hòa đồng bộ trên diện rộng.
- Thứ hai, nhà nước cần phải đầu tư nhiều hơn cho du lịch và đầu tư một cách hợp lý, đúng chỗ ( hiện nay chính phủ Việt Nam mới chỉ đầu tư cho ngành du lịch trung bình là 2 triệu USD/ năm ). Cần tăng cường cho quảng cáo để du khách nước ngoài biết đến du lịch Việt Nam hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch cộng đồng phát triển.
- Tăng cường tổ chức các sự kiện, các lễ hội qua đó tạo điều kiện cho người dân tăng thêm thu nhập đồng thời nhằm bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa của dân tộc.
- Nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển du lịch, tăng cường đạo tạo nguồn nhân lực hơn nữa nhằm đảm bảo cho toàn cộng đồng có thể phục vụ du khách một cách tốt nhất.
Trên đây mới chỉ là một vài giải pháp cơ bản rút ra được qua việc nghiên cứu case study. Phần giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại làng tranh Đông Hồ tôi sẽ đi phân tích sâu và rõ nét hơn nữa.
Chương II : Giới thiệu tổng quan về làng tranh Đông Hồ.
Tranh đông hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Tranh đông hồ có lẽ không hề xa lạ đối với mỗi người dân đất Việt, nhưng để hiểu rõ về nguồn gốc cũng như giá trị của thể loại tranh này thì không phải ai cũng biết. Sau đây tôi sẽ giới thiệu qua về loại tranh dân gian này nói riêng cũng như về làng tranh Đông Hồ nói chung.
1. Giá trị của tranh dân gian Đông Hồ.
Tranh Đông Hồ là một trong những di sản văn hóa mang đậm giá trị dân gian đặc sắc. Hầu hết chúng đều phản ánh ước nguyện về một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, thịnh vượng của người dân. Các hình ảnh trong tranh là những hình ảnh vô cùng thân quen và gần gũi với mọi người dân Việt Nam ( trâu, gà, lợn, chuột…) Không có gì ngạc nhiên nếu như ai đó thắc mắc rằng tại sao tranh đông hồ nhìn vẻ ngoài thì không bóng đẹp, màu mè không sặc sỡ, chất liệu không cứng cáp và mịn đẹp như những bức tranh tàu hay các bức tranh vẽ khác mà giá thành của nó lại đắt hơn cũng như giá trị của nó lại rất lớn. Đó là bởi vì bạn chưa đến làng tranh, bạn chưa hiểu được quá trình tạo ra những bức tranh dân gian này (cầu kỳ và phức tạp đến cỡ nào. Tôi tin chắc một
( Quá trình in tranh Đông Hồ )
điều rằng, nếu ai đã từng đến làng tranh một đôi lần thì khi trở về bạn sẽ hiểu được giá trị của nó hơn cũng như thêm yêu và gắn bó với giá trị dân gian trong mỗi bức tranh hơn rất nhiều. Có thể nói rằng, nét độc đáo nhất của tranh Đông Hồ được thể hiện ở chất liệu làm tranh, thứ chất liệu mà không một loại tranh nào có được. Được chế biến thủ công từ các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên như : giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ gạch non, màu vàng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng từ vỏ nghêu sò được nghiền vụn. Nếu lần đầu thấy tranh đông hồ mà chưa từng biết đến quá trình làm tranh thì có thể ai cũng nghĩ rằng những bức tranh này được vẽ bằng các màu sắc khác nhau mà không hề biết rằng mỗi một màu trên bức tranh là một lần in bằng bản khắc. Bức tranh có bao nhiêu màu thì cần bấy nhiêu bản khắc, mỗi một bản khắc được khắc rất điêu luyện, công phu và tốn khá nhiều thời gian. Trên cơ sở các màu cơ bản được tạo từ thiên nhiên, các nghệ nhân kết hợp, pha trộn khéo léo tài tình tạo lên những phông màu rất lạ mắt và có một cái gì đó rất thân quen, gần gũi. Trải qua nhiều công đoạn in phức tạp, các nghệ nhân làng tranh đã tạo lên những bức tranh dân gian vừa giản dị, vừa tinh tế lại có sức lôi cuốn đặc biệt đối với người thưởng thức. Tranh đông hồ có sức sống lâu bền và sức hút đặc biệt đối với nhiều thế hệ người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài đến Việt Nam bởi hòa lẫn trong tranh là cái hồn của dân tộc, nó phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, bình dị, gần gũi gắn liền với văn hóa người Việt.
2. Thực trạng làng tranh Đông Hồ hiện nay.
2.1. Thực trạng làng tranh :
Tranh đông hồ có nguồn gốc từ làng Mái nay gọi là làng Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Có thể nói, từ cuối thế kỉ 19 đến trước năm 1945 thể loại tranh dân gian này rất phát triển, làng tranh Đông Hồ ở trong giai đoạn cực thịnh, nhà nhà làm tranh, người người làm tranh. Người làm tranh thường tất bật và nhộn nhịp nhất mỗi khi tết đến, xuân sang, đặc biệt vào các tháng 7, tháng 8 trong năm. Trước đây làng Mái có đến 17 dòng họ thì cả 17 dòng họ đều làm tranh, nghề làm tranh là niềm tự hào lớn đối với mỗi gia đình. Nhưng từ sau năm 1945 trở lại đây thì nghề làm tranh dân gian tại làng Mái đã bị mai một dần, người dân đã ít thiết tha với nghề hơn. Hiện nay cả làng Đông Hồ chỉ còn khoảng 3 nhà làm tranh gắn bó sâu sắc với nghề. Do người đặt hàng không nhiều, lượng tranh bán ra không được bao nhiêu nên hầu như ( thực trạng làm vàng mã ở Đông Hồ)
cả làng đã chuyển sang làm vàng mã, vì nghề này giúp cho người dân có thu nhập cao hơn rất nhiều. Một thực tại đáng tiếc là thay vì làm tranh dân gian, làng Đông Hồ lại chuyển sang làm vàng mã một cách rất chuyên môn hóa. Ngày nay, làng Đông Hồ quanh năm làm vàng mã, chỉ khi nào có khách đặt hàng thì họ mới chuyển sang làm tranh, biển quảng cáo thì rất nhiều nhưng không phải quảng cáo cho tranh mà là cho vàng mã. Làng tranh Đông Hồ đang ngày ngày bị lãng quên và mai một không chỉ do người dân chuyển nghề do thu nhập thấp mà còn do tranh nhái giá rẻ đang tồn tại rất nhiều trên thị trường, lấn át giá trị đích thực của tranh dân gian đông hồ. Mặt khác, các thế hệ sau cũng ít muốn theo nghề truyền thống của cha ông vì quá vất vả mà lợi nhuận lại không cao. Có thể nói rằng, cũng như những làng nghề truyền thống khác, làng tranh dân gian Đông Hồ đang ở trong một thực trạng rất u ám và gặp khó khăn lớn trong việc tìm ra hướng đi đúng đắn cho sự phát triển vững mạnh của mình.
2.2. Thực trạng khai thác du lịch làng nghề tại Đông Hồ
Đông Hồ rất có tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng nhưng thực trạng cho thấy nơi đây khai thác tiềm năng này rất yếu kém. Như trên đã một phần nào cho chúng ta thấy rõ được thực trạng làng tranh Đông Hồ. Khi bạn đặt chân tới đây có thể bạn sẽ hụt hẫng vì không như bạn tưởng tượng là cả làng cùng làm tranh mà thực tại toàn làng Đông Hồ chỉ còn xót lại 3 nghệ nhân hay 3 gia đình ông Nguyễn Hữu Sam, Nguyễn Đăng Chế và Trần Nhật Tuấn đang theo nghề truyền thống này. Vừa đến đầu làng Đông Hồ chúng ta có thể nhìn thấy ngay khu triển lãm của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và ngay bên cạnh nhà ông Chế là 2 gia đình ông Sam và ông Tuấn.Có thể nói rằng du lịch làng nghề nơi đây được khai thác rất hẹp, tuy ngôi làng này không nhỏ nhưng khi du khách đặt chân đến đây chỉ được đi tham quan tại 2,3 nhà cạnh nhau, không có được cảm giác đi tham quan làng nghề mà đơn giản chỉ giống như đi thăm một hay hai khu triển lãm tranh, không thấy hết được giá trị làng quê nơi đây, nét văn hóa làm tranh theo quy mô làng xã. Khai thác du lịch yếu kém còn được thể hiện ở chỗ không thể huy động đa số người dân vào phát triển du lịch làng nghề, không quy hoạch được làng Đông Hồ thành làng du lịch. Tuy làng có truyền thống, có điều kiện phát triển du lịch cộng đồng nhưng 90% dân số trong cộng đồng không khai thác du lịch, và tất nhiên rằng chỉ có 10% dân cư địa phương được hưởng lợi do du lịch đem lại. Theo ông Vũ Thế Bình vụ trưởng vụ lữ hành ( tổng cục du lịch ) nhận xét : tuy làng tranh Đông Hồ đã thu hút được khá nhiều du khách nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tự phát. Cũng có thể do số người được hưởng lợi từ du lịch ít, lợi ích không bị phân bổ nhiều cho nên đa số những người trước đây gắng gượng sống chết với nghề thì bây giờ đã được đền đáp xứng đáng, khai thác du lịch từ nghề làm tranh dân gian truyền thống đã đem đến cho họ những lợi ích tương đối lớn. Qua điều tra cho thấy khách du lịch đến với làng tranh Đông Hồ rất đa dạng, không chỉ có khách trong nước mà còn có rất nhiều du khách nước ngoài. Khách trong nước thường gồm các đoàn học sinh, các cán bộ nhà nước, các nhà nghiên cứu, khách lẻ yêu thích tranh dân gian…Giá bán tranh thường không giống nhau giữa các loại khách, giá cho khách trong (Tranh khắc gỗ Đông Hồ)
nước là 5000vnđ một bức nhưng đối với du khách nước ngoài là 1 USD. Ngoài ra thu nhập chủ yếu không phải từ các bức tranh làm bằng giấy dó mà chúng ta thường nhìn thấy mà là từ các bản khắc hay các bức tranh được vẽ dưới hình thức khắc trên gỗ. Giá của mỗi bức tranh này thường rất cao ( vài trăm nghìn hoặc lên đến vài triệu ). Như vậy, tuy mới chỉ dừng lại ở mức khai thác du lịch tự phát nhưng các nghệ nhân làng Đông Hồ đã biết cách thu được lợi nhuận từ sản phẩm truyền thống. Thực trạng khai thác du lịch tại làng tranh Đông Hồ trong giai đoạn hiện nay còn được đề cập ở những phần tiếp theo.
Chương III : Điều kiện và xu hướng phát triển của làng tranh Đông Hồ.
Nhìn vào thực trạng của làng tranh ở trên chúng ta có thể thấy rất rõ một thực tế làng tranh đang trên đà suy thoái và mai một. Do ảnh hưởng của xu hướng thương mại hóa, dòng tranh đang dần đánh mất đi những gì vốn có. Việc khôi phục, phát triển làng tranh sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy các làng nghề truyền thống chiếm một vai trò vô cùng quan trọng đối với ngành du lịch nói riêng và đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung ( Việt Nam có tới 2017 làng nghề ). Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam đang và sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội cho việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.
1. Điều kiện phát triển du lịch cộng đồng tại làng Đông Hồ.
- Làng Đông Hồ vốn có nền tảng rất vững chắc để phát triển du lịch cộng đồng. Nền tảng đó chính là nghề thủ công truyền thống vốn có từ rất lâu đời khoảng 500 trăm năm về trước. Nghề vẽ tranh dân gian chính là một trong những tài nguyên nhân văn có giá trị văn hóa to lớn của dân tộc Việt Nam. Tuy trong thời gian gần đây, nghề làm tranh đã dần bị mai một nhưng công cụ, cách thức vẽ
( Các bản khắc cổ còn sót lại ) tranh dân gian đông hồ chỉ có duy nhất ở ngôi làng này. Không chỉ có nghề làm tranh dân gian truyền thống, làng Đông Hồ còn có rất nhiều giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp được thể hiện qua các ngày lễ, ngày hội ( ngày hội Đông Hồ diễn ra vào các ngày 14,15,16 tháng 3 âm lịch ). Không chỉ riêng ở Đông Hồ có lễ hội mà trên toàn tỉnh Bắc Ninh lễ hội diễn ra liên tục từ tháng riêng đến tháng ba, tháng tư âm lịch, đây có thể được coi là động lực để du khách đến với Bắc Ninh nói chung và làng tranh Đông Hồ nói riêng. Chính vì thế nơi đây có thuận lợi về nguồn khách do vậy có khả năng rất lớn để phát triển du lịch cộng đồng.
- Về vị trí địa lý : Làng tranh dân gian Đông Hồ thuộc huyện Thuận Thành,tỉnh Bắc Ninh ( nay là thành phố Bắc Ninh ) có vị trí rất gần với thủ đô Hà Nội, đặc biệt khoảng cách từ thủ đô đến làng tranh cũng rất gần ( khoảng 35 km hay gần một giờ đi ô tô ). Không chỉ gần về vị trí địa lý, mà hệ thống đường bộ từ Hà Nội về Đông Hồ cũng rất tốt, đi lại không khó khăn là mấy, đa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12872.doc