Giải pháp huy động vốn ở Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài

LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện nay vốn sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nó vừa là yếu tố cần thiết đầu tiên cho sự ra đời của một doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là yếu tố không thể thiếu để duy trì sự tồn tại của một doanh nghiệp. Mặt khác mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận do đó vốn là nhân tố vô cùng quan trọng quyết định khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, nâ

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp huy động vốn ở Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ DNNN sang CTCP đã tạo không ít những cơ hội và đông lực phát triển cho các DN, sau khi chuyển sang CTCP, hầu hết các chỉ tiêu về tài chính, kết quả hoạt động của DN như tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận... đều tăng rất nhanh. Tuy nhiên, không ít các DN làm ăn kém hiệu quả đã không thích ứng được và lâm vào tình trạng bế tắc. Thực tế này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là DN bị động trong huy động vốn và công tác quản lý vốn của DN còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Chính vì vậy, huy động, sử dụng vốn SXKD một cách hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng để các DN khẳng định được vị trí của mình trong có chế thị trường. Chính vì những lý do đó, việc chủ động nghiên cứu nhằm đưa ra giải pháp huy động và sử dụng vốn là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở mỗi DN. Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài là một DN hạch toán độc lập, đồng thời là thành viên của Tổng công ty Hàng không Việt Nam -là tổng công ty nhà nước. Hơn một nửa số vốn điều lệ của công ty cổ phần dịch vụ hàng không thuộc Tổng công ty hàng không Việt Nam. Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã chọn cho mình đề tài và hoàn thành chuyên đề thực tập “Giải pháp huy động vốn ở công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài” Chuyên đề gồm ba phần: Chương I: Cơ sở lý luận chung về vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn ở công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài Chương III: Một số giải pháp huy động và sử dụng vốn ở Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bày Nội Bài Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Nguyễn Tiến Dũng đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong thời gian thực tập nghiên cứu đề tài. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Công ty cùng các cô chú anh chị công tác tại công ty cổ phần dịch vụ hàng không đã giúp đỡ chỉ bảo trong công việc cũng như nghiên cứu đề tài và hoàn thành bài viết này. Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP I. Một số vấn đề lý luận chung về vốn trong doanh nghiệp 1.1 Khái niệm về vốn SXKD 1.1.1 Khái niệm Có rất nhiều quan niệm khác nhau về vốn, theo sự phát triển của lịch sử các quan điểm về vốn xuất hiện ngày càng hoàn thiện. Mỗi trường phái kinh tế khác nhau đưa ra những cách hiểu khác nhau về vốn. Đứng trên quan điểm tài sản quốc gia thì vốn của doanh nghiệp được chia làm hai loại là vốn sản xuất và vốn đầu tư. Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Ở giác độ vĩ mô vốn sản xuất luôn biểu hiện dưới dạng hiện vật, phản ánh năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Vốn đầu tư là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất. Hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, nói một cách khác đó là quá trình thực hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Như vậy, vốn đầu tư trong thời kì này sẽ trở thành vốn SXKD của doanh nghiệp trong thời kì sản xuất sau. Vốn đầu tư là điều kiện là cơ sở hình thành nên vốn sản xuất. Xét chung thì vốn SXKD trong doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng vốn phải gắn liền với một chủ sỡ hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền là vốn phải có những tiêu chuẩn như: phải đến một lượng nhất định, phải luôn vận động sinh lời... 1.1.2 Đặc trưng của vốn XSKD Vốn kinh doanh đại diện cho một lượng giá trị nhất định bao gồm tài sản cố định hoặc là tài sản lưu động. Vốn kinh doanh luôn luôn vận động để sinh lời. Trong quá trình vận động, hình thái biểu hiện của vốn luôn thay đổi giữa hiện vật và giá trị, nhưng sau mỗi vòng tuần hoàn vốn phải tồn tại dưới hình thái tiền và quan trọng hơn là giá trị của vốn phải lớn lên hay ta gọi đây là hoạt động sinh lời của vốn. Vốn kinh doanh không tách rời chủ sở hữu trong quá trình vận động. Bất kì một lượng vốn kinh doanh dù lớn hay nhỏ đều gắn liền với mọt chủ sở hữu nhất định. Có như vậy trong quá trình quản lý, bảo tồn cũng như phát triển vốn mới có hiệu quả vì nó gắn liền trách nhiệm của chủ sở hữu với quyền sử dụng vốn. Vốn kinh doanh có giá trị về mặt thời gian. Trong quá trình huy động và sử dụng vốn, bên cạnh yếu tố về lượng là tính tương thích về thời gian của vốn. Sau mỗi chu kì SXKD, lượng vốn ban đầu bỏ ra không những giữ nguyên được sức mua hay giá trị thực của nó mà còn lớn lên về mặt quy mô. Hay ta nói vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có khả năng phát huy tác dụng. Tiền cho dù có nhiều nhưng tồn tại rải rác khắp nơi thì cũng không thể trở thành vốn được. Chỉ khi nào lượng tiền được tích tụ đến một khối lượng nhất định có thể thực hiện một dự án kinh doanh để sinh lời. Vốn là một loại hàng hóa đặc biệt có thể trao đổi trên thị trường tài chính hay thị trường chứng khoán. Tại đó, chủ sở hữu thực sự của vốn có thể bán quyền sử dụng vốn cho những người cần vốn và họ nhận được chi phí của vốn tương ứng với phần lãi xuất trên mỗi khoản tiền vay. 1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có ba yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lao động, vốn và khoa học công nghệ. Thì vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tốn tại phát triển của doanh nghiệp. Vốn quyết định sự thành lập ban đầu của doanh nghiệp: Bất kể một doanh nghiệp nào muốn khởi sự kinh doanh hợp pháp thì đều phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn này không chỉ là phương tiện cho doanh nghiệp tiến hành những hoạt động đầu tiên trong quá trình chuẩn bị thành lập doanh nghiệp như nghiên cứu thị trường, tuyển dụng nhân công, chuẩn bị mặt bằng… mà còn là điều kiện xác nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp thông qua hoạt động đăng kí kinh doanh. Duy trì hoạt động SXKD diễn ra bình thường và liên tục: một chu kì SXKD của DN chia làm 3 giai đoạn: mua sắm _ sản xuất _ tiêu thụ. Ở mỗi giai đoạn nào cũng cần có vốn để hoạt động. Sản xuất thì cần có vốn để mua nguyên vật liệu, thiết bị máy móc kết hợp với lao động để làm ra sản phẩm. Trong quá trình tiêu thụ thì lại cần vốn để xúc tiến các hoạt động như quảng cáo, khuyến mại, vận chuyển, chăm sóc khách hàng… nếu một giai đoạn bị ngừng trệ không xúc tiến kịp thời thì hoạt động SXKD của DN sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới hiệu quả SXKD của DN. Quyết định trực tiếp tới sự tồn tại của DN: Nền kinh tế thị trường luôn biến đổi nhanh chóng và sự cạnh tranh giữa các ngành, các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy một DN muốn đứng vững và có chỗ đứng trên thị trường đòi hỏi DN phải luôn đổi mới theo sự thay đổi mạnh mẽ của KHCN. Ứng dụng CN hiện đại tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, đặc biệt là nâng cao năng xuất lao động, giảm thiểu chi phí. Muốn vậy thì doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn là yếu tố quyết định trực tiếp đến hoạt động đổi mới của DN. 1.3. Phân loại vốn Mỗi loại vốn có các đặc trưng đặc điểm khác nhau, vì vậy muốn quản lý tốt các nguồn vốn ta phải phân loại các nguồn vốn. Có nhiều tiêu thức để phân loại vốn SXKD 1.3.1 Phân loạiTheo phương thức luân chuyển Theo phương thức phân loại này có 2 loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động Vốn cố định: Vốn cố định của DN là bộ phận vốn được sử dụng để hình thành tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp. Nó chính là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Đặc điểm của VCĐ trong sản xuất kinh doanh: VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ SXKD quyết định. VCĐ luân chuyển từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ SXKD. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị dần dần tăng lên song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm xuống cho đến khi hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. VCĐ được chia thành hai loại là VCĐ hữu hình và VCĐ vô hình: VCĐ hữu hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể, có đủ những tiêu chuẩn về thời gian luân chuyển và giá trị, bao gồm: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện truyền tải, phương tiện truyền dẫn… VCĐ vô hình: là biểu hiện bằng tiền của những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả, cho phí nhằm có được những lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế mà giá trị của nó xuất phát từ những những đặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, bản quyền, phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy vi tính, giấy phép, giấy nhượng quyền… Vốn lưu động Để hiểu vốn lưu động ta xem xét các cách phân loại vốn lưu động sau: Phân loại theo hình thái biểu hiện: Theo tiêu thức này, vốn lưu động được chia thành: vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán, vốn vật tư hàng hóa, vốn về chi phí trả trước. Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán Vốn bằng tiền: Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, kể cả kim loại quý (Vàng, bạc, đá quý…) Vốn trong thanh toán: Các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản tạm ứng, các khoản phải thu khác… Vốn vật tư hàng hóa (hay còn gọi là hàng tồn kho) bao gồm: nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo, phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản… Phân loại vốn theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động được chia thành 3 loại: Vốn lưu động trong khâu dự trữ; Vốn lưu động trong khâu sản xuất và vốn lưu động trong khâu lưu thông. Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động nhỏ. Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn về chi phí trả trước. Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn…) các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng…) Như vậy, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp. Nó là một bộ phận của vốn kinh doanh được ứng ra để hình thành nên TSLĐ của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành thường xuyên, liên tục. VLĐ được biểu hiện chủ yếu là vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn, phải thu của khách hàng, vật tư hàng hóa và tài sản lưu động khác. Do đặc điểm của TSLĐ chi phối. VLĐ của doanh nghiệp có những đặc điểm sau: VLĐ tham gia vào một chu kỳ SXKD, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vốn sản xuất như vật tư, hàng hóa và kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm, VLĐ lại trở về hình thái ban đầu là vốn tiền tệ. Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu qua các hình thái khác đến khi trở về hình thái ban đầu gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá trình SXKD của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục nên sự tuần hoàn của VLĐ cũng lặp đi lặp lại có tính chu kỳ. Trong quá trình SXKD, VLĐ chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm mới. VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền bán hàng. 1.3.2 Phân loại theo nguồn huy động Trong doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào các nhân tố như: Trạng thái của nền kinh tế, ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của DN, quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý; chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp, thái độ của chủ doanh nghiệp, chính sách thuế… Nhưng có đặc điểm chung đối với mọi loại hình doanh nghiệp là vốn chủ sở hữu bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn. Đối với Công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông. Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Vốn góp ban đầu Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ DN cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông – chủ sở hữu góp. Tùy theo hình thức sở hữu của DN mà hình thức hình thành và tính chất của vốn đóng góp ban đầu là khác nhau. Với Công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của Công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các CTCP cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Lợi nhuận để lại Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, và số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của DN. Trong quá trình hoạt động SXKD, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguốn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng SXKD của DN. Nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các DN, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các CTCP thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi Công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không nhận được cổ tức nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của Công ty. Phát hành cổ phiếu Công ty huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh công ty có thể phát hành cổ phiếu. Nguồn huy động bằng phát hành cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ. Công ty không phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh toán của Công ty cũng sẽ giảm đi rất nhiều. Khi một Công ty gọi là vốn, số vốn đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có Công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu là hình thức làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thông qua mối quan hệ với thị trường chứng khoán đồng thời làm tăng số lượng chủ sở hữu của Công ty. Có hai loại cổ phiếu phổ biến là: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên. Cổ phiếu thường: các cổ đông sở hữu cổ phiếu thường có quyền hạn trách nhiệm đối với công ty như: được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, và chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hay phá sản của công ty tương ứng với số vốn mình góp. Cổ phiếu ưu tiên: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một Công ty, đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Thông thường cổ phiếu này chỉ chiếm một khối lượng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu đãi thường ấn định mức cổ tức cố định và người nắm giữ cổ phiếu ưu tiên có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cho cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức. Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp Trong hoạt động SXKD việc tái đầu tư SX, mở rộng quy mô diễn ra liên tục, nhưng một doanh nghiệp dù lớn đến đâu cũng không thể tự đảm bảo được nguồn lực cho quá trình mở rộng đó bằng chính nguồn vốn chủ sở hữu của mình. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức khác và DN có nghĩa vụ thanh toán theo đúng thỏa thuận. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại: nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền Kinh tế quốc dân Phát hành trái phiếu Công ty: Trái phiếu là một tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn. Khi phát hành trái phiếu đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ có thêm môt khoản nợ và có trách nhiệm thanh toán khi đến hạn. II. Một số vấn đề về huy động vốn sản xuất kinh doanh Khái niệm về huy động vốn Huy động vốn là một nội dung quan trọng trong hoạt động tài chính của DN nhằm thu hút nguồn lực tài chính từ bên trong và bên ngoài DN thông qua một số kênh huy động như thị trường vốn, thị trường tài chính, trung gian tài chính và một số biện pháp khác, nhằm đáp ứng nhu cầu SXKD của mình. Hiệu quả huy động là khái niệm dùng để đánh giá chất lượng Công tác huy động vốn xét về mặt thời gian, chi phí cũng như giá trị của vốn huy động. Tính hiệu quả trong huy động vốn được xác định bằng mức độ đáp ứng mục tiêu của việc huy động vốn có thể đạt được bao nhiêu phần trăm mục tiêu đặt ra, cũng như so sánh chi phí của nguồn vốn đó mang lại. Trong quá trình huy động vốn các DN phải luôn xét tới tính hiệu quả của nó, bởi hiệu quả huy động vốn liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn và qua đó quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Mặt khác, với sự hoàn thiện và phát triển không ngừng của thị trường tài chính thì việc cân nhắc lựa chọn nguồn huy động vốn phù hợp với năng lực tài chính hiện tại của mình là chính sách hàng đầu đối với doanh nghiệp. Hiệu quả huy động được thể hiện ở một số khía cạnh sau: Huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời: Như chúng ta đã biết, khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn cũng là lúc họ nhận thấy cơ hội kinh doanh mới trên thị trường. Cơ hội đó có thể là một nhu cầu tiêu dùng mới, một ý tưởng về sản phẩm mới ưu việt và kinh tế hơn hay một phát kiến mới trong sản xuất. Vì vậy, DN rất cần vốn để triển khai ý tưởng. Nếu vốn không được huy động kịp thời cơ hội kinh doanh sẽ nhanh chóng qua đi và khả năng tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh sẽ không còn nữa đồng nghĩa với việc huy động vốn là không hiệu quả. Lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả cao nhất trong những điều kiện nhất định. Thị trường tài chính càng phát triển thì doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, do vậy cần lựa chọn nguồn vốn cho phù hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiệu quả huy động vốn không chỉ thể hiện ở hiệu quả đầu tư mà nguồn vốn mang lại mà còn thể hiện ở khả năng dễ dàng tiếp cận và huy động, ở lợi ích của chủ doanh nghiệp khi sử dụng nguồn vốn đó. Huy động vốn cần đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời gian. Một ý đồ đầu tư sẽ không thể thực hiện được nếu không có đủ một lượng vốn nhất định. Vì vậy, khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và theo đó là tương thích về thời gian. Huy động vốn phải đảm bảo được tính độc lập, chủ động trong SXKD của doanh nghiệp. Tức là doanh nghiệp phải có quan điểm huy động tối đa nguồn lực bên trong như trích từ lợi nhuận để lại, nguồn vốn khấu hao, quỹ đầu tư phát triển, từ cán bộ công nhân viên… Phần còn lại sẽ được huy động từ bên ngoài như: vay ngắn hạn, dài hạn, thuê mua tài chính… Cơ cấu nguồn tài trợ phải đảm bảo có chi phí vốn bình quân thấp nhất. Mức độ huy động vốn phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu hình thành TSCĐ và TSLĐ thường xuyên cần thiết. Huy động vốn cần bảo đảm giảm thiểu chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch phát sinh từ các thủ tục hành chính phức tạp, quy trình giải ngân “phiền toái”, chi phí tư vấn cao hoặc đôi khi còn xuất hiện một số chi phí “ngầm”. Vì vậy, khi huy động vốn, DN cần xét đến quy mô vốn vay sao cho giảm thiểu được các chi phí giao dịch, từ đó làm giảm chi phí vốn vay, vì đôi khi nguồn vốn vay càng lớn thì chi phí cho giao dich lại càng cao. 2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn Chi phí vốn được hiểu là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn được tính bằng số lợi nhuận kì vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Đây là tiêu thức quan trọng được áp dụng phổ biến để đánh giá hiệu quả huy động vốn. 2.2.1 Chi phí của nợ vay Chi phí nợ vay trước thuế (Kd): Được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay, lãi suất này thường được ấn định trong hợp đồng vay tiền. Chỉ tiêu này phản ảnh chi phí thực tế mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay nợ của mình theo tỷ lệ lãi suất ghi trong hợp đồng vay. Nếu mức lãi suất cao thì chi phí của nợ vay trước thuế thấp và ngược lại. Kd = (1+r/k)^k Trong đó: r là lãi suất tiền vay 1 năm (được quy định trong hợp đồng vay) k là số kì tính lãi trong năm Chi phí nợ vay sau thuế (K’d): được xác định bằng chi phí nợ trước thuế trừ đi khoản tiết kiệm nhờ thuế, khoản tiết kiệm này được xác định bằng chi phí trước thuế nhân với thuế suất. Chỉ tiêu này phản ánh phần chi phí mà doanh nghiệp tiết kiệm được nhờ thuế. Chi phí lãi vay là khoản chi phí hợp lệ nên được khấu trừ thuế, di đó chi phí lãi vay được giảm thuế, có nghĩa là khi doanh nghiệp sử dụng lãi vay thì tiết kiệm được một khoản nhờ thuế. K’d = Kd* (1-T) Trong đó: T là thuế suất 2.2.2 Chi phí vốn chủ sở hữu Chi phí cổ phiếu ưu tiên Kp Chỉ tiêu này phản ánh chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra khi phát hành một cổ phiếu ưu tiên và được xác định bằng mức lợi tức ưu tiên mà DN trả cho mỗi cổ đông trên giá trị mà DN nhận được từ việc phát hành cổ phiếu ưu tiên (đã trừ đi chi phí phát hành). Dp Kp= —— Pn Trong đó: Kp là chi phí của cổ phiếu ưu tiên Dp là cổ tức ưu tiên Pn là giá phát hành của cổ phiếu, là giá mà DN nhận được sau khi đã trừ đi chi phí phát hành. Chi phí của lợi nhuận không chia (Ks) Chi phí vốn của lợi nhuận không chia liên quan đến chi phí cơ hội của vốn. Lợi nhuận không chia của doanh nghiệp thuộc về người nắm giữ cổ phiếu thường, dùng để bù đắp về việc sử dụng vốn của họ. Doanh nghiệp có thể trả phần lợi nhuận này dưới hình thức cổ tức hoặc là dùng lợi nhuận đó để đầu tư, nếu doanh nghiệp quyết định không chia lợi nhuận thì sẽ có một cho phí cơ hội liên quan. Do đó, tỷ suất lợi nhuận mà cổ đông mong muốn trên phần vốn này chính là lợi nhuận của nó. Đó là tỷ suất lợi nhuận mà người nắm giữ cổ phần mong đợi kiếm được từ những khoản đầu tư có mức rủi ro tương đương. Ta có thể tính được chi phí của lợi nhuận không chia theo công thức sau: D1 Ks = + g P0 Trong đó: Di: cổ thức mong đợi được trả vào cuối năm thứ i P0: giá hiện tại của cổ phiếu g: tỷ lệ tăng trưởng Chi phí cổ phiếu thường mới Chỉ tiêu này phản ánh chi phí thực tế phát sinh của DN khi phát hành một cổ phiếu thường. Việc phát hành thêm cổ phiếu mới phải tính đến nhiều chi phí, vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu mới phải được sử dụng sao cho cổ tức của các cổ đông cũ ít nhất không bị ảnh hưởng, ít nhất là không bị giảm xuống Dt Pn= ∑—————— với t bằng từ 1 đến n (1 + Ke)^t Trong đó Pn: giá thuần của một cổ phiếu Ke: chi phí của cổ phiếu mới Dt: cổ tức mong đợi trong năm thứ t F: chi phí phát hành g: tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức D1 Mặt khác: P1= P0(1-F)= ————— Ke-g Khi đó chi phí của cổ phiếu mới sẽ là: D1 Ke = + g P0 (1 – F) Chỉ tiêu này phản ánh chi phí thực tế phát sinh của DN khi phát hành một cổ phiếu thường. Việc xác định chi phí cho phát hành thêm cổ phiếu thường là rất phức tạp nên xác định chi phí mới cũng không hề đơn giản. Khi tính toán chi phí cần tính đến những biến động hay tăng trưởng của giá cổ phiếu sao cho huy động vốn từ phát hành cổ phiếu đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra còn có chỉ tiêu chi phí trung bình của vốn: dựa trên cơ cấu vốn tính toán thường sử dụng chi phí bình quân gia quyền của vốn Một số vấn đề về sử dụng vốn Khái niệm về sử dụng vốn Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi DN trong nền KTTT. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các DN phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý SXKD. Trong đó, quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả SXKD. Do đó, các doanh nghiệp phải quan tâm đúng mức đến cách sử dụng vốn. Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhằm có biện pháp tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố của sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Từ các góc độ nhìn nhận khác nhau, quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng có những cách hiểu khác nhau. Xét trên góc độ kinh tế: chính là tối đa hóa lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu là với một lượng vốn nhất định bỏ vào hoạt động SXKD sẽ đem lại lợi nhuận cao nhất và làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi, tức là hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở hai mặt là bảo toàn được vốn và tạo ra được các kết quả theo mục tiêu kinh doanh, trong đó đặc biệt là kết quả về sức sinh lời của đồng vốn. Xét trên góc độ quản trị tài chính DN: ngoài mục tiêu lợi nhuận, sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả còn phải đảm bảo an toàn, lành mạnh về mặt tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trước mắt và lâu dài. Xét về bản chất hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt của hiệu quả kinh doanh, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình SXKD với chi phí bỏ ra thấp nhất. Tức là sự tối thiểu hóa số vốn cần sử dụng và tối đa kết quả hay khối lượng nhiệm vụ SXKD trong một giới hạn về nguồn nhân lực, vật lực phù hợp với hiệu quả kinh tế nói chung. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng vốn vào hoạt động SXKD của DN nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí. Để sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp phải: Sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm, tránh thất thoát, lãng phí hay ứ đọng vốn; Huy động vốn có hiệu quả cho các hoạt động SXKD và đầu tư, đảm bảo các mục tiêu SXKD của DN. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, để lượng hóa hiệu quả sử dụng vốn, người ta sử dụng hệ thống các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, năng lực hoạt động và khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn. Chúng phản ánh mối quan hệ đầu ra, đầu vào trong quá trình SXKD thông qua thước đo tiền tệ. 3.2.1 Các tỷ số về năng lực hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của DN. Vốn của DN được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay vốn lưu động: tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và vốn lưu động bình quân, nó cho biết số vòng quay vốn lưu động trong năm. Số ngày một vòng luân chuyển vốn lưu động trong kỳ = 360/ số vòng quay Vòng quay dự trữ (tồn kho): là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động SXKD của DN, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Hiệu suất sử dụng tổng vốn: chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và nguồn vốn và cho biết một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng vốn = ———————————— Tổng nguồn vốn bình quân Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng VCĐ = Vốn cố định bình quân Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng VLĐ = Vốn lưu động bình quân Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng vốn sản xuất của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Đồng thời, để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hóa số vốn sử dụng hoặc tối đa hóa kết quả sản xuất trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có. 3.2.2 Các tỷ số về khả năng thanh toán Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Tài sản ngắn hạn Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền, các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà tổ chức, cá._.c khoản phải trả, phải nộp khác… Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của DN, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản ngắn hạn trừ phần dự trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn 3.2.3 Các tỷ số về khả năng sinh lãi Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của DN thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả SXKD và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động SXKD của DN. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động SXKD của DN. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc xem xét mức biến động của tổng số lợi nhuận còn phải đánh giá bằng số tương đối như tỷ suất lợi nhuận thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sản xuất sử dụng để sinh ra số lợi nhuận đó. Tỷ suất lợi nhuận được tính theo các chỉ tiêu chi tiết sau đây: Tỷ số lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Lợi nhuận sau thuế ROE = × 100% Vốn chủ sở hữu ROE phản ánh khả năng sinh lợi của Vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn SXKD (ROA): Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Khác với ROE, ROA thường được các nhà quản lý doanh nghiệp tham khảo. Lợi nhuận sau thuế ROA = Tổng tài sản Tỷ suất lợi nhuận VCĐ: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận VCĐ = × 100% VCĐ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của VCĐ trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận VLĐ: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận VLĐ = × 100% VLĐ bình quân Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nói lên một trăm đồng vốn sản xuất trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận thực hiện năm nay so với kế hoạch, so với năm trước và với các doanh nghiệp có điều kiện tương đương có thể sánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm tìm biện pháp nâng cao chỉ tiêu này. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn 4.1 Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn kinh doanh. Vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động SXKD. Trong nền KTTT, sẽ không có bất cứ một hoạt động SXKD nào diễn ra nếu không có vốn. Vốn là tiền đề, là xuất phát điểm của mọi hoạt động SXKD, là nền tảng vật chất để biến mọi ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Vốn quyết định quy mô đầu tư, mức độ trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và quyết định cả thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy, không ít những doanh nghiệp có khả năng về nhân lực, có cơ hội đầu tư nhưng thiếu nguồn lực tài chính mà đành bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Với vai trò đó, việc tổ chức và nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn kinh doanh trở thành yêu cầu cấp thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vốn là một công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cho nhu cầu đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Trong nền KTTT, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho mục đích sinh lời của mình. Nhưng quan trọng là người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu về vốn, cân nhắc lựa chọn các hình thức thu hút vốn thích hợp từ các loại hình kinh tế khác nhau nhằm tạo lập, huy động vốn trong nền kinh tế thị trường hiện nay và sử dụng đồng vốn đó một cách tiết kiệm và hiệu quả. Yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường hiện nay đặt ra cho các doanh nghiệp hết sức khắt khe trong nền kinh tế thị trường phải có hình thức sử dụng vốn phải bảo toàn và phát triển được vốn, vừa phải nâng cao khả năng sinh lời, tăng nhanh vòng quay của vốn. Vốn còn là công cụ để kiểm tra hoạt động kinh doanh của Doanh nghiêp: Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp là yếu tố về giá trị. Nếu vốn không được bảo tồn và tăng lên sau mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn không còn phát huy được vai trò của nó và đã bị thiệt hại - đó là hiện tượng mất vốn. Vốn của Doanh nghiệp đã sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả sẽ làm cho Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán rồi đi đến phá sản. Chính vì sự tồn tại và phát triển của chính doanh nghiệp mình mà việc nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong mỗi doanh nghiệp phải được đặt lên hàng đầu. 4.2 Xuất phát từ mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền KTTT. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý SXKD, trong đó, quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả SXKD. Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn không chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Khi vốn được huy động nhanh, đủ, kịp thời và đồng vốn được sử dụng có hiệu quả cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn có lãi, bảo toàn và phát triển được vốn. Đó chính là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu. 4.3 Vấn đề bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn ở các đơn vị kinh tế được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích SXKD, đảm bảo cho các loại tài sản không bị hư hỏng trước thời hạn, không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn, không được tạo ra lãi giả để làm giảm vốn, kể cả VLĐ và VCĐ. Đồng thời, các doanh nghiệp, ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn còn có trách nhiệm chăm lo và phát triển vốn, thường xuyên bổ sung và tăng vốn để tự mở rộng, đổi mới công nghệ SXKD của doanh nghiệp. Sự cần thiết của việc bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tài chính đối với các DNNN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNNN hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, Nhà nước không tiếp tục bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp như trước đây. Để duy trì và phát triển SXKD các doanh nghiệp phải bảo toàn, giữ gìn số vốn được Nhà nước đầu tư, tức là kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hòa vốn, bù đắp cho được số vốn đã bỏ ra để tái sản xuất giản đơn. Đồng thời, doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tự tích lũy bổ sung vốn, tạo vốn cho tái sản xuất mở rộng. Việc chăm lo giữ gìn quản lý vốn, phát triển tăng vốn là một đòi hỏi mới đối với các doanh nghiệp. Ngoài trách nhiệm bảo toàn và phát triển các loại vốn Nhà nước giao, doanh nghiệp còn phải bảo toàn, giữ gìn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động khác như vốn tín dụng (vay ngân hàng, vay các đối tượng khác), vốn liên doanh liên kết, vốn của khách hàng bằng việc thực hiện đúng các cam kết trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng liên doanh và các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Mặt khác, chế độ bảo toàn và phát triển vốn xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn sức mua của đồng tiền Việt Nam biến động nhiều. Nếu tiếp tục duy trì cơ chế giá thấp như trước đây thì số vốn SXKD của doanh nghiệp thể hiện bằng đồng tiền Việt Nam sẽ bị giảm dần giá trị thực tế, sức mua của vốn bị thu hẹp. Hậu quả không tránh khỏi sẽ lại là lãi giả, lỗ thật. Vì tất cả những lý do trên mà việc tổ chức đảm bảo kịp thời, đầy đủ vốn và nâng cao huy động và sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu và là yêu cầu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp khi tiến hành SXKD. Chương II THỰC TRANG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG SÂN BAY NỘI BÀI I. Giới thiệu chung về Công ty Lịch sử hình thành Tiền thân của Công ty cổ phần Dịch vụ Hàng không sân bay Nội Bài là một DNNN, mang tên Công ty Dịch vụ Cụm cảng Hàng không sân bay miền Bắc (tên giao dịch tiếng Anh là NORTHERN AIRPORT SERVICES COMPANY, viết tắt là NASCO), được thành lập theo Quyết định số 769 QĐ/TCCB-LĐ ( 22/04/1993) của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải, công ty chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/ 7/1993. Tháng 5 năm 1995, Tổng công ty Hàng không Việt nam (VIETNAM AIRLINES CORPORATION) được thành lập. Công ty Dịch vụ Cụm cảng Hàng không sân bay miền Bắc được đổi tên thành Công ty Dịch vụ Hàng không sân bay Nội Bài (viết tắt là NASCO), trở thành DN thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. NASCO được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần theo quyết định số 3798/ QĐ-BGTVT ngày 21/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Ngày 05/4/2006, Công ty cổ phần Dịch vụ Hàng không sân bay Nội Bài chính thức đi vào hoạt động, theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty cổ phần số 0103011589 ngày 05/4/2006 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà nội cấp. Công ty là công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và hoạt động phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam. Tên tiếng Việt: Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài Tên tiếng Anh: NoiBai airport services joint _ stock company Tên giao dịch: Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài Tên viết tắt: NASCO Trụ sở đăng ký của công ty: Sân bay quốc tế Nội Bài _ Sóc Sơn _ Hà Nội Website: www.nasco.com.vn Biểu tượng của Công ty: Vốn điều lệ khi mới thành lập: 45,000,000,000 VND Vốn điều lệ hiện tại: 69,298,040,000VND Lĩnh vực kinh doanh phục vụ Các dịch vụ chuyên ngành hàng không: phục vụ hành khách hạng đặc biệt (khách thương gia, khách hạng nhất...) tại sân bay; chở khách bằng ô tô chuyên dụng trong sân đỗ máy bay, dịch vụ kỹ thuật thương mại tại Sân bay; làm thủ tục hàng không cho hành khách tại thành phố... Mua, nhập khẩu, xuất khẩu, bán buôn và bán lẻ hàng hóa: hàng miễn thuế, hàng bách hóa, hàng lưu niệm... Vận chuyển hành khách bằng ô tô: airport taxi, airport bus... Vận chuyển, bảo quản, đóng gói, hàng hóa: Chuyển phát nhanh hàng hóa bằng đường hàng không trong nước và quốc tế; kho ngoại quan; dịch vụ đóng gói hàng hóa, hành lý ... Du lịch, khách sạn và nhà hàng: Lữ hành trong nước và quốc tế, khách sạn quá cảnh tại sân bay Nội bài, các nhà hàng ăn uống/ giải khát trong và ngoài nhà ga sân bay Nội Bài; ... Các dịch vụ kỹ thuật: bảo dưỡng sửa chữa ô tô, xe máy; vệ sinh công nghiệp, làm sạch môi trường; giặt là công nghiệp và dân dụng; lắp đặt trang thiết bị điện nước... Đại lý cung cấp sản phẩm dịch vụ: bán vé máy bay, bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thu đổi ngoại tệ, cung cấp xăng dầu và khí hóa lỏng. Hoạt động thương mại - dịch vụ khác: khai thuê hải quan; đón tiễn hành khách đi máy bay; kinh doanh bất động sản và cho thuê nhà; dịch vụ quảng cáo thương mại... Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành Các phòng ban tham mưu Văn phòng Công ty: Chức năng và nhiệm vụ chính là tham mưu cho lãnh đạo Công ty và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị về: Công tác hành chính quản trị, văn thư - lưu trữ, thông tin nội bộ, lễ tân đối ngoại, tuyên truyền, thi đua, văn hóa xã hội. Công tác an ninh an toàn, phòng chống thiên tai dịch họa, quản lý các công trình, tài sản và trang thiết bị tại khu vực trụ sở Công ty. Phòng Kế hoạch - Đầu tư Công ty: Chức năng và nhiệm vụ chính là tham mưu cho lãnh đạo Công ty và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị về: Soạn thảo và tổ chức thực hiện các chiến lược, dự án, kế hoạch sản xuất - kinh doanh - đầu tư, soạn thảo và tổ chức thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật, các phương án giá sản phẩm dịch vụ; Soạn thảo, thẩm định, tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế; Ứng dụng công nghệ thông tin. Phòng Tài chính - Kế toán Công ty: Chức năng và nhiệm vụ chính là tham mưu cho lãnh đạo Công ty và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị về: Soạn thảo và tổ chức thực hiện các văn bản, kế hoạch về tài chính, kế toán, thống kê của NASCO. Tổ chức hoạt động tài chính, kế toán, thống kê theo kế hoạch và phương án được lãnh đạo Công ty duyệt. Tham gia soạn thảo, thẩm định, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế; các phương án giá sản phẩm - dịch vụ thuộc phạm vi Giám đốc NASCO trực tiếp quyết định. Phòng nhân sự Công ty: Chức năng và nhiệm vụ chính là tham mưu cho lãnh đạo Công ty và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị về: Soạn thảo và tổ chức thực hiện các văn bản, phương án về tổ chức bộ máy, tuyển dụng và bố trí nhân sự. Lập quỹ, thanh toán lương và các chi phí nhân công. Nghiên cứu, đề xuất, soạn thảo và triển khai thực hiện thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động. Ban quản lý chất lượng (Ban ISO) Công ty: Chức năng và nhiệm vụ chính là tham mưu cho lãnh đạo Công ty và hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ đối với các đơn vị về: Soạn thảo, thẩm định, quản lý các tài liệu, hồ sơ chất lượng liên quan đến toàn bộ Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 của NASCO. Xây dựng, đề xuất các biện pháp cần thiết để duy trì và nâng cao hiệu lực của cả HTQLCL. Theo dõi, kiểm tra và hướng dẫn việc thực hiện các quy định của HTQLCL đối với các đơn vị theo chương trình được QMR (Đại diện lãnh đạo công ty về chất lượng) phê duyệt. Thực hiện các công việc quản lý chất lượng khác theo phân công và chỉ đạo cụ thể của Giám đốc NASCO/ QMR. Các xí nghiệp: Là các đơn vị hạch toán phụ thuộc NASCO Xí nghiệp thương mại: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là kinh doanh thương mại: Mua bán hàng lưu niệm ,đồ dùng cá nhân và gia đình, mua bán thực phẩm, nông lâm thủy hải sản, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mua bán sản phẩm bằng vàng bạc và đá quý,kinh doanh dịch vụ ăn uống trong và ngoài nhà ga Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài, đại lý thu đổi ngoại tệ, đại lý kinh doanh văn hóa phẩm và xuất bản phẩm được phép lưu hành. Xí nghiệp thương mại ô tô: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là: Dịch vụ vận chuyển hành khách bằng ô tô bus, mini bus trong và ngoài Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; Dịch vụ vận chuyển hành khách bằng bằng taxi đi/đến Cảng hàng không quốc tế Nội Bài hoặc trong thành phố Hà Nội; Dịch vụ vận chuyển hàng hoá bằng ôtô; Dịch vụ kỹ thuật bảo dưỡng sửa chữa ôtô - xe máy, mua bán vật tư, phụ tùng, dầu nhớt ôtô - xe máy; Đại lý kinh doanh xăng dầu, khí hóa lỏng. Xí nghiệp dịch vu du lịch khách sạn: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là: Dịch vụ khách sạn, du lịch lữ hành; Cửa hàng ăn uống Á – Âu; Dịch vụ giặt là công nghiệp và dân dụng; Kinh doanh khu vui chơi giải trí, thể dục thể thao; Đại lý bảo hiểm. Phòng kinh doanh miễn thuế: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là: Bán hàng miễn thuế phục vụ khách xuất cảnh, quá cảnh, nhập cảnh tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Bán hàng miễn thuế phục vụ khách trên các chuyến bay quốc tế của các hãng hàng không Việt Nam, Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa. Xí nghiệp dịch vụ tổng hợp: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là: Dịch vụ phục vụ hành khách đặc biệt của các hãng hàng không (khách hạng thương gia, hạng nhất...) tại nhà ga Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài, Dịch vụ làm sạch, bảo vệ và làm đẹp môi trường khu vực Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Dịch vụ quảng cáo thương mại, Dịch vụ vận hành, sửa chữa điện - nước công nghiệp, dịch vụ cây cảnh, thông tin giải trí. Chi nhánh công ty: Trực tiếp kinh doanh trong các lĩnh vực chính là: 1. Dịch vụ chuyển phát nhanh hàng hoá trong nước và quốc tế. 2. Dịch vụ chuyển phát hàng hoá, hành lý bằng đường hàng không trong nước và quốc tế. 3. Dịch vụ bốc xếp, vận chuyển hàng hoá bằng ô tô trong và ngoài các Cảng hàng không của Việt nam. 4. Dịch vụ làm thủ tục hàng không phục vụ hành khách. 5. Đại lý bán vé máy bay trong nước và quốc tế. 6. Dịch vụ kho ngoại quan và thủ tục hải quan. Tất cả các xi nghiệp và chi nhánh công ty đều hạch toán phụ thuộc công ty cổ phần dịch vụ hang không sân bay Nội Bài và có các bộ phận quản lý tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, trong đó có Tiểu ban quản lý chất lượng. Các chi nhánh được Công ty giao vốn để kinh doanh, có trách nhiệm kinh doanh đúng pháp luật và có hiệu quả, tham gia duy trì và nâng cao hiệu lực Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008. 1.4.Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2006 -2009 Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài (NASCO) là một công ty cổ phần tương đối lớn là thành viên hạch toán độc lập của tổng Công ty hàng không Việt Nam. Công ty đã không ngừng phát triển đa dạng hóa các dịch vụ và ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu và khai thác triệt để nhu cầu của khách hàng. Là Công ty chủ yếu cung cấp dịch vụ hàng không, chủ yếu cho hành khách bay. Thời gian qua Công ty tăng cường năng lực vận tải taxi, nâng cấp phòng khách hạng thương gia, kho hàng hóa và nhà hàng ăn uống… Ngoài ra NASCO còn cung cấp các dịch vụ cho khách hàng không phải là khách bay bao gồm khách đưa đón người nhà, công nhân ở công ty và các cơ quan xung quanh khác, khách vãng lai. Đây là một thị trường rất đa dạng và phức tạp về nhu cầu. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ đang phát triển rất mạnh mẽ, môi trường kinh doanh thuận lợi, môi trường du lịch hấp dẫn, thị trường hàng không Việt Nam phát triển thuận lơi, thị trường nội địa tăng trưởng ổn định, Cùng với sự phát triển kinh tế của toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, nhu cầu về vận tải bằng đường hàng không ngày càng tăng nhằm mục đích giao thương kinh tế, giao lưu văn hoá, và du lịch… là cơ sở vững chắc để thị trường vận tải hàng không duy trì tốc độ tăng trưởng đó là điều kiện thuận lợi cho Công ty dịch vụ như NASCO. Nhìn chung các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động SXKD của DN đều có xu hướng tăng: Tổng nguồn vốn từ năm 2006 đến năm 2009 đều tăng và mức độ tăng lớn dần. Doanh thu thuần cũng có xu hướng tăng, đặc biệt năm 2008 so với năm 2007 tăng gần 56 tỷ, song đến năm 2009 doanh thu thuần tăng ít có 3 tỷ, nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và Công ty không phải là ngoại lệ. Lãi suất ngân hàng cao, thị trường chứng khoán chững lại, thắt chặt chi tiêu, bão giá nguyên vật liệu khiến đã tới Công ty. Ta có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ quy mô tổng nguồn vốn, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Công ty qua các năm dưới đây. Biểu đồ: Quy mô nguồn vốn, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Công ty Đơn vị: đồng Nguồn: CTCP DV hàng không sân bay Nội Bài Như vậy chỉ tiêu tổng nguồn vốn ta thấy chỉ tiêu này nhìn chung có sự tăng lên đều qua các năm, thể hiện sự mở rộng lĩnh của vực kinh doanh dịch vu của Công ty. Các về chỉ tiêu doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế cùng có xu hướng biến động chung, đó là tăng dần từ năm 2006 đến năm 2009, riêng chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế giảm vào năm 2009. Nguyên nhân của hiện tượng này như đã nêu ở trên. Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh từ cổ phần hóa tới nay Đơn vị: Tỷ đồng Năm Tổng nguồn vốn Doanh thu thuần Lợi nhuận sau thuế Năm 2006 129.63 385.32 42.44 Năm 2007 139.23 385.32 42.44 Năm 2008 166.43 440.18 45.31 Năm 2009 195.85 443.77 32.92 Nguồn: Phòng tài chính kế toán NASCO II. Thực trạng nguồn vốn của công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài 2.1 Cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản của Công ty Cơ cấu nguồn vốn Tổng vốn kinh doanh của Công ty được huy động chủ yếu từ hai nguồn là vốn huy động từ bên ngoài (bao gồm: vốn vay ngắn hạn, dài hạn từ ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác) và vốn huy động từ bên trong đơn vị (bao gồm phần lớn vốn được bổ sung từ nguồn vốn kinh doanh, vốn được bổ sung từ lợi nhuận của đơn vị, các quỹ dự trữ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng để tham gia vào quá trình SXKD). Để xem xét một cách toàn diện về tình hình huy động vốn của Công ty, chúng ta nghiên cứu thông qua bảng cơ cấu nguồn vốn, xét nguồn hình thành là cơ cấu VCSH và cơ cấu vốn nợ phải trả. Trước hết, ta thấy tổng nguồn vốn của NASCO tăng nhanh qua các năm. Năm 2006, khi Công ty bắt đầu cổ phần hóa, tổng nguồn vốn là 129,633 tỷ đồng. Sang năm 2007, giá trị tổng nguồn vốn 139.23 tỷ đồng, tăng 7.4%. Bước sang năm 2008 giá trị của tổng nguồn vốn đã tăng lên đáng kể, đạt 166.43 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 19,53%. Đến năm 2009 giá trị này là 195,85 tỷ đồng, tăng 17.68% so với năm trước. Như vậy bình quân trong 4 năm, nguồn vốn của NASCO đã tăng 14.87%. Xét theo nguồn hình thành, nguồn vốn của Công ty bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu tăng dần qua các năm chiếm một tỷ lệ khá ổn định khoảng một nửa trong tổng nguồn vốn của Công ty. Còn nguồn vốn vay từ bên ngoài và trong nội bộ doanh nghiệp chiếm khoảng một nửa. Do vậy, nguồn vốn đi vay không chỉ đơn thuần mang tính chất bổ sung cho SXKD mà nó còn có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của Công ty. Bảng 2.2 : Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của CTCP dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài năm 2006-2009 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng Nợ phải trả 68,926,786 53.17% 49,358,701 33.25% 64,412,625 38.70% 91,181,557 46.56% Nợ ngắn hạn 65,855,890 95.54% 46,287,805 93.78% 62,876,443 97.62% 76,396,791 83.79% Nợ dài hạn 3,070,896 4.46% 3,070,896 6.22% 1,536,183 2.38% 14,784,766 16.21% Vốn chủ sở hữu 60,706,740 46.83% 92,939,200 66.75% 102,016,843 61.30% 104,666,851 53.44% Vốn đầu tư của chủ sở hữu Quỹ thuộc vốn chủ sở hữu Lợi nhuận chưa phân phối Nguồn kinh phí, quỹ khác 45,000,000 4,973,825 9,832,489 900,426 74.13% 8.19% 16.20% 1.48% 49,498,600 9,756,184 32,163,202 1,521,215 53.26% 10.50% 34.61% 1.60% 49,498,600 19,114,492 31,537,581 1,866,170 48.52% 18.74% 30.91% 1.83% 69,298,040 5,691,356 27,242,814 2,434,641 66.21% 5.44% 26.03% 2.32% Tổng nguồn vốn 129,633,526 100% 139,227,005 100% 166,429,468 100% 195,848,407 100% Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tài chính của CTCP DVHK sân bay Nội Bài Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu: quy mô nguồn vốn chủ sở hữu có sự gia tăng qua các năm: Từ 60.7 tỷ đồng năm 2006 lên 104.7 tỷ đồng năm 2009. Sự gia tăng vốn chủ sở hữu qua các năm cho thấy công ty có sự huy động vốn khá ổn định qua các năm. Mặc dù khủng hoảng kinh tế năm 2008 làm tăng lượng vốn vay nhưng vốn chủ sở hữu của Công ty không giảm. Lượng tăng tuyệt đối của vốn chủ sở hữu năm 2007 là 32.2 tỷ đồng, đây là con số khá lớn, tốc độ tăng của năm này là 53%, điều này có được là do năm 2006 công ty mới cổ phần hoá, lượng vốn đóng góp của các cổ đồng gia tăng. Cổ phần hoá là hình thức đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đem lại hiệu quả trên nhiều lĩnh vực nhất là trong việc huy động vốn cho các công ty. Lượng tăng tuyệt đối năm 2008, 2009 giảm đi so với năm 2007 là do khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng tới các ngành kinh tế nói chung và ngành hàng không nói riêng. Lượng tăng tuyệt đối giảm nhưng lượng VCSH năm 2008 vẫn tăng so với năm 2007 là 9.76%. Năm 2009 lượng tăng ít nhất so với năm 2008 tăng 2.60%. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn VCSH vẫn chiếm một tỷ lệ khá trong tổng nguồn vốn năm 2006 là 46.83% năm 2007 là 66.75% năm 2008 là 61.30% năm 2009 là 53.44% như vậy phản ánh sự đảm bảo khả năng thanh toán của DN và tài chính của DN càng nằm trong giới hạn an toàn. Một cơ cấu vốn hợp lý với VCSH chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng nguồn vốn không những đáp ứng một phần nhu cầu về vốn cho SXKD mà còn khẳng định khả năng tự chủ về tài chính, hạn chế tác động tiêu cực của biến động về lãi suất và lạm phát trên thị trường. Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty bao gồm các bộ phận sau: Vốn đầu tư của chủ sở hữu. Đi vào hoạt động dưới hình thức Công ty Cổ phần từ năm 2006, với số vốn điều lệ là: 45.000.000.000 đồng (bốn mươi năm tỷ đồng). Trong đó vốn thuộc nhà nước (Tổng công ty hàng không Việt Nam) chiếm 51%. Đến thời điểm 31/12/2009 vốn điều lệ của công ty là 69,298,040,000 Bảng 2.3: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm 31/12/2009 STT Cổ đông Số cổ phần Giá trị vốn góp (ngàn đồng) Tỷ lệ % 1 Nhà nước – tổng công ty hàng không Việt Nam 3,534,200 35,342,000 51% 2 Cán bộ công nhân viên 1,912,626 19,126,259 27.6% 3 Cổ đông ngoài Công ty 1,482,978 14,829,780 21.4% Cộng 69,298,04 69,298,040 100% Nguồn: CTCP DVHK sân bay Nội Bài Lợi nhuận chưa phân phối. Đây là một nguồn quan trọng góp phần làm tăng VCSH. Nó không những góp phần tăng quy mô nguồn vốn của Công ty mà còn là cơ sở chứng minh hoạt động kinh doanh là có lãi của Doanh nghiệp. Với Công ty, đây là bộ phận vốn có tỷ trọng lớn thứ hai trong nguồn vốn chủ sở hữu sau bộ phận vốn đầu tư của chủ sở hữu. Nguồn vốn từ lợi nhuận chưa phân phối của công ty tăng từ 9.8 tỷ năm 2006 lên 32.2 tỷ năm 2007 thể hiện rõ mặt tích cực của cổ phần hóa DN, sau khi chuyển sang CTCP, hầu hết các chỉ tiêu về tài chính, kết quả hoạt động của các DN nói chung như tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận... đều tăng rất nhanh do vậy mà phần lợi nhuận chưa phân phối của công ty tăng lên một cách đáng kể 228.57%. Với tốc độ tăng cao của năm 2007 do đó năm 2008 và năm 2009 chỉ tiêu này đã giảm nhẹ năm 2008 lợi nhuận để lại là 31.5 và năm 2009 là 27.24 tỷ tương ứng với tốc độ giảm lần lượt là 2.17% và 13.52%. Phần lợi nhuận để lại của Công ty phụ thuộc vào chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp vào từng năm, và sự suy giảm kinh tế của năm 2008 và năm 2009. Nguồn các quỹ thuộc VCSH và nguồn kinh phí, quỹ khác. Chiếm một tỷ trọng đáng kể trong VCSH của Công ty và đang có xu hướng tăng dần về giá trị, nguồn vốn này bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, phúc lợi, nguồn kinh phí sự phiệp, kinh phí quản lý cấp trên và các quỹ khác. Đây là những loại quỹ phổ biến mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải trích lập. Nguồn vốn này là cơ sở để tái đầu tư, tái sản xuất mở rộng, tăng quy mô hoạt động SXKD, mặt khác, giúp Công ty khắc phục được những rủi ro về giá cả và tiền tệ. Việc trích lập và quản lý các quỹ này được thực hiện theo quy định của chế độ tài chính hiện hành và linh hoạt theo chính sách của Công ty. Nợ phải trả Nợ phải trả là nguồn vốn chủ yếu và có vai trò quan trọng đối với Công ty, đáp ứng hầu hết nhu cầu về vốn cho hoạt động SXKD. Nợ phải trả được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn đi vay từ ngân hàng, tổ chức tín dụng, chiếm dụng từ khách hàng, nhà cung cấp và từ cán bộ công nhân viên. Dựa vào bảng số liệu ta thấy giá trị của bộ phận nợ phải trả giảm vào năm 2007, và lại tăng vào năm 2008 và năm 2009 song tỷ trọng trong tổng nguồn vốn luôn đạt dưới 40% trừ năm 2006 là 53.17% và năm 2009 là 46.56%. Chỉ tiêu nợ phải trả của năm 2006 chiếm 53.17% trong tổng nguồn vốn điều đó cho thấy khi Công ty bắt đầu bước sang cổ phần hóa thì sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài của công ty ở mức cao nhất so với các năm còn lại. Đến năm 2007 sau khi Công ty đã cổ phần hóa được 1 năm lượng vốn này chỉ chiếm 33.25% đây là thời điểm mà nợ phải trả của Công ty là thấp nhất. Năm 2008 và 2009 nguồn vốn từ nợ phải trả của Công ty có xu hướng tăng chiếm lần lượt là 38.70% và 46.56% trong tổng nguồn vốn. Trong cơ cấu nguồn vốn nợ phải trả thì nợ ngắn hạn luôn có tỷ trọng cao, là bộ phận chiếm ưu thế so với nợ dài hạn và nợ phải trả khác. Phần nợ ngắn hạn luôn chiếm trên 80% tỷ trọng. Cả hai chỉ tiêu nợ ngắn hạn và nợ dài hạn đều tăng lên về giá trị xong mức độ tăng chậm. Năm 2009 khoản nợ dài hạn chiếm tỷ trọng cao nhất 16.21% trong tổng nợ phải trả. Như vậy, cơ cấu vốn của NASCO với tỷ trọng Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ cao, nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng nguồn vốn chứng tỏ được sức mạnh tài chính của Công ty, Công ty ít gặp khó khăn hơn. Sự ổn định về tỷ trọng trong cơ cấu Vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả chi cho chúng ta thấy Công ty có sự độc lập về tài chính và tự chủ về nguồn vốn kinh doanh của mình. Cơ cấu vốn như vậy có thể đảm bảo được sự an toàn cho Công ty. Cơ cấu tài sản Sau đây là bảng cơ cấu tài sản của Công ty trong 4 năm kể từ khi Công ty cổ phần hóa đến nay. Từ đó ta đi phân tích một số chỉ tiêu với mục đích tìm hiểu thực trạng sử dụng vốn của Công ty. Bởi lẽ, bên cạnh việc tìm và lựa chọn cho đơn vị những hình thức huy động vốn hiệu quả nhất thì làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn tiết kiệm, đúng mục đích và đem lại hiệu quả cao là một trong những nội dung quan trọng trong quản trị tài chính doanh nghiệp do đó ta cần phải tìm hiểu cơ cấu tài sản của Công ty. Tài sản của doanh nghiệp gồm hai thành phần chính là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Nhìn một cách tổng thể ta thấy về mặt giá trị, cả TSNH và TSDH đều tăng qua các năm, nhưng về tỷ trọng lại có sự thay đổi giữa hai loại tài sản này. Bảng 2.4: Cơ cấu tài sản của công ty giai đoạn 2006-2009 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (ngàn đồng) Tỷ trọng (%) Tài sản ngắn hạn 97,377,566 75.12% 110,330,455 79.25% 124,655,606 74.90% 139,493,124 71.23% Tiền và các khoản tương đương tiền 48,759,914 50.07% 69,450,300 62.95% 28,272,356 22.68% 72,944,222 52.29% Đầu tư ngắn hạn 18,488,500 14.83% % Các khoản phải thu ngắn hạn 18,549,967 19.05% 17,453,301 15.82% 20,770,022 16.66% 26,555,165 19.04% Hàng tồn kho 26,194,494 26.90% 21,656,822 19.63% 56,389,451 45.24% 36,204,315 25.95% Tài sản ngắn hạn khác 3,873,191 3.98% 1,770,032 1.60% 735,277 0.59% 3,789,422 2.72% Tài sản dài hạn 32,255,960 24.88% 28,896,550 20.75% 41,773,862 25.10% 56,355,284 28.77% Tài sản cố định TSCĐ hữu hình TSCĐ vô hình Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 23,937,667 23,329,803 0 573,405 7._.ố vốn còn thiếu, so sánh chi phí huy động vốn từ các nguồn tài trợ để tài trợ để lựa chọn kênh huy động vốn phù hợp, kịp thời, tránh tình trạng thừa vốn, gây lãng phí hoặc thiếu vốn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của công ty, đồng thời hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Khi lập kế hoạch vốn phải căn cứ vào kế hoạch vốn kinh doanh đảm bảo cho phù hợp với tình hình thực tế thông qua việc phân tích, tính toán các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của kỳ trước cùng với những dự đoán về tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tăng trưởng trong năm tới và những dự kiến về sự biến động của thị trường. 2.1.2. Hoàn thiện phương án sản xuất kinh doanh Trong những năm tới nhu cầu về vốn của Công ty tăng lên. Do đó công ty phải đi tìm nguồn tài trợ cho nguồn vốn còn thiếu của mình trong sản xuất kinh doanh. Để tiếp cận được những nhà tài trợ thì việc xây dựng một phương án SXKD khả thi là điều vô cùng quan trong, nó căn cứ thuyết phục là điều kiện cần cho việc đi vay. Trong phương án SXKD phải đảm bảo đủ các mục tiêu, kết quả dự kiến và khả năng hoàn trả vốn dựa vào thực lực của doanh nghiệp. Mặt khác, phương án SXKD phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, Công ty có thể tính toán lượng khách đến và đi hàng năm, tính toán lượng khách có nhu cầu được phục vụ mà từ đó có những phương án kinh doanh phù hợp. Có như vậy, mới đảm bảo được doanh thu lợi nhuận, quá trình kinh doanh mới tiến hành bình thường, TSCĐ mới có khả năng phát huy hết công suất, công nhân viên có việc làm và tiền lương công nhân được nâng cao; VLĐ chu chuyển đều đặn, hiệu quả sử dụng vốn cao. Do môi trường hoạt động kinh doanh của công ty là sân bay quốc tế Nội Bài là nơi tập trung những khách có điều kiện thanh toán. Song lượng khách đi, đến tăng giảm theo thời kỳ trong năm, thường tập trung vào những ngày lễ tết, những ngày hội lơn… do vậy Công ty phải nắm bắt điều này, vận động bám sát thị trường, căn cứ vào nhu cầu từng thời kỳ để điều hành SXKD cho phù hợp, điều tiết lượng vốn cho phù hợp với từng thời kỳ, từ đó đưa ra phương án huy động vốn tối ưu. Mặt khác xây dựng phương án kinh doanh cần có những dự báo về kết quả kinh doanh tổng thể trong tương lai với hai kịch bản đó là: có nguồn vốn và không có nguồn vốn dự kiến huy động. Với việc làm này Công ty sẽ có được một cái nhìn tổng thể về tương lai và chọn lựa được hình thức huy động phù hợp và phương án kinh doanh hiệu quả nhất. 2.1.3 Công tác huy động vốn, lựa chọn nguồn tài trợ tối ưu Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng không thể tự đáp ứng được vốn cho toàn bộ quá trình SXKD của mình. Ngoài nguồn VCSH, doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo SXKD tiến hành bình thường và mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu. Các nguồn huy động bổ sung vốn trong nền KTTT bao gồm rất nhiều nguồn: nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung, vay ngân hàng, vay các đối tượng khác, liên doanh liên kết… Việc lựa chọn nguồn vốn để doanh nghiệp bổ xung vào tổng vốn của mình có ý nghĩa rất quan trọng và cần phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả, và hình thức đầu tư kinh doanh của công ty mà công ty nên linh hoạt tìm các nguồn tài trợ với lãi suất phù hợp. Nếu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì nguồn vốn doanh nghiệp nên tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, hay vay tín dụng Nhà nước, vay ngân hàng, thu hút vốn liên doanh, liên kết… Với nhu cầu bổ sung VLĐ thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo mục đích nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại vay ngân hàng hoặc vay các nguồn khác. Trong cơ cấu nguồn vốn của Công ty vẫn thiên nhiều về nguồn vốn chủ sở hữu nên trong những năm tới Công ty nên có những kế hoạch phù hợp tăng huy động vốn từ khoản nợ phải trả để tận dụng cơ hội sử dụng nguồn vốn ngoài Công ty, tất nhiên có tính toán đến yếu tố an toàn về mặt tài chính cho Công ty. Như vậy, có thể lựa chọn các hình thức huy động từ các nguồn sau, tùy theo tình hình cụ thể của từng năm và chu kỳ SXKD. 2.1.3.1 Vốn vay Tiêu biểu là vốn vay ngân hàng Ngoài phần vốn tự có của doanh nghiệp (vốn góp) thì nguồn vốn vay có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong ngắn hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên, sử dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế hoạch sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt quỹ tiền mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được lập bám sát thực tế... nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, đứng trước nhu cầu đòi hỏi về vốn thìđây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng thực chất là vốn bổ sung chứ không phải nguồn vốn thường xuyên tham gia và hình thành nên vốn của công ty. Mặt khác, công ty cũng nên huy động nguồn vốn trung và dài hạn vì việc sử dụng vốn vay cả ngắn, trung và dài hạn phù hợp sẽ góp phần làm giảm khó khăn tạm thời về vốn, giảm một phần chi phí và tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, để huy động được các nguồn vốn từ ngân hàng thì công ty cũng cần phải xây dựng các phương án kinh doanh, các dự án đầu tư khả thi trình lên ngân hàng, đồng thời phải luôn luôn làm ăn có lãi, thanh toánh các khoản nợ gốc và lãi đúng hạn, xây dựng lòng tin ở các ngân hàng. 2.1.3.2 Vốn chiếm dụng Thực chất đây là các khoản phải trả người bán, người mua trả tiền trước, các khoản phải trả khác. Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp (Tín dụng thương mại) là một nguồn vốn tương đối quan trọng trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này xuất phát từ việc doanh nghiệp chiếm dụng tiền hàng của nhà cung cấp (trả chậm), việc chiếm dụng này có thể phải trả phí (lãi) hoặc không phải trả phí nhưng lại đáp ứng được việc doanh nghiệp có nguyên vật liệu, điện, nước... để sản xuất kinh doanh mà chỉ phải bỏ ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải bỏ ra ngay lập tức để có được số nguyên vật liệu, điên, máy móc... để tiến hành sản xuất. Như vậy, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục đích khác. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý là không nên chiếm dụng quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt nhất nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn. Đây chỉ là nguồn vốn mà doanh nghiệp chỉ có thể chiếm dụng tạm thời. 2.1.3.3 Huy động vốn từ nội bộ Công ty Bên cạnh nguồn vốn vay từ bên ngoài, thì việc tự tài trợ vốn luôn là biện pháp tối ưu nhằm phát huy nguồn lực tài chính của chính Công ty, nguồn vốn này đem lại sự an toàn về mặt tài chính cho Công ty giảm bớt sự phụ thuộc vào rủi ro tài chính từ bên ngoài. Công ty có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động mà không bị phụ thuộc bởi các điều kiện cho vay như vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng… 2.1.3.4 Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Phát hành cổ phiếu là một trong những kênh huy động vốn dài hạn khá hiệu quả của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán. Việc phát hành cổ phiếu, một mặt sẽ giúp Công ty giải quyết khó khăn về vốn, làm tăng VCSH, giảm thấp hệ số nợ, tăng khả năng vững chắc của Công ty. Mặt khác, nó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty bằng việc không trả chi phí cho việc sử dụng vốn. Trong thời gian tới, Công ty cần phân tích kỹ thị trường chứng khoán để có những quyết định đầu tư, tăng vốn điều lệ hoặc có thể bán bớt một số cổ phần đang sở hữu của Công ty. Ngoài ra, Công ty cần có sự chuẩn bị tốt về quảng bá, chào bán cổ phiếu kết hợp với các ưu đãi về giá cho các nhà đầu tư mua với số lượng lớn, áp dụng chính sách lợi tức cổ phần hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.1.3.5 Thuê mua tài chính Nền KTTT tạo cho các doanh nghiệp nhiều hình thức để giải quyết khó khăn về vốn trong đó có thuê, thuê mua tài chính. Đây là một hình thức tương đối mới mẻ nhưng đang dần phát triển ở nước ta trong những năm gần đây. Thuê mua tài chính là một hoạt động thuê tài sản trong đó đáp ứng tối thiểu một trong các yêu cầu như: Thời hạn thuê lớn hơn 75% thời gian vòng đời hữu dụng của tài sản; Hợp đồng thuê có thỏa thuận một quyền chọn mua tài sản đó với giá thấp hơn giá trị thị trường; Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho người đi thuê vào cuối thời gian thuê; Giá trị hiện tại của các khoản thanh toán cho hoạt động thuê tài sản này phải lớn hơn 90% tổng chi phí ban đầu của tài sản. Trong kế hoạch kinh doanh và kế hoạch huy động sử dụng vốn của mình, công ty cần chú ý tới hoạt động thuê mua tài chính, vì đây cũng là một hình thức huy động vốn hữu dụng. Công ty nên xem xét khu vực bán hàng, gian hàng, quầy hàng trong khu vực nhà ga lựa chọn vị trí thuận lợi. Cũng có thể công ty đưa một số kiến nghị lên Tổng công ty hàng không Việt Nam đề nghị xây dựng thêm khu vực bán hàng, khu vực đỗ xe có lợi cho kinh doanh của Công ty, sau đó Công ty sẽ thuê khu vực đó dưới dạng thuê mua tài chính. 2.1.3.6 Nguồn vốn liên doanh, liên kết Đây là hình thức hợp tác mà qua đó các doanh nghiệp không những tăng được vốn cho hoạt động kinh doanh mà còn học tập được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu được tiến bộ khoa học kỹ thuật va chuyển giao công nghệ. 2.2. Giải pháp sử dụng vốn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp đến kết quả hoạt động SXKD, đến kết quả thu hồi vốn và hoàn trả những khoản nợ. Do đó, yêu cầu đặt ra là Công ty cần triển khai thực hiện những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, và cũng là góp phần tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay nhanh chóng và hiệu quả. Khi thực hiện công ty phải căn cứ vào kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh đã lập làm cơ sở để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế tại công ty. Nếu phát sinh nhu cầu bất thường, công ty cần có kế hoạch chủ động cung ứnc kịp thời đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, tránh tình trạng phải ngừng sản xuất do thiếu vốn kinh doanh. Nếu thừa vốn, công ty phải có biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo phát huy thế mạnh, khả năng sinh lời của vốn. Các biện pháp chủ yếu 2.2.1 Chủ động xây dựng kế hoạch sử dụng vốn Cùng với kế hoạch huy động vốn, lập kế hoạch sử dụng vốn cũng là một trong khâu vô cùng cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Công ty. Khi có lượng vốn nhất định, Công ty cần phải lập kế hoạch về phân phối và sử dụng hợp lý để đạt kết quả cao nhất. Sau đó, tiến hành phân bổ vốn sử dụng cho các hoạt động của quá trình sản xuất của Công ty, phân bổ vốn về các xí nghiệp. Khi sử dụng vốn, Công ty cần phải căn cứ vào kế hoạch đã lập làm cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế: nếu phát sinh thêm nhu cầu vốn Công ty cần phải đáp ứng kịp thời, nếu thừa vốn cần xử lý ngay, không để vốn bị ứ đọng tránh lãng phí vốn. 2.2.2 Tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao Công ty cần cụ thể hóa các quy chế hoạt động cho các xí nghiệp, chi nhánh Công ty đảm bảo chặt chẽ và bám sát với thực tế. Tăng cường quản lý các hoạt động vốn, đầu tư hợp lý đúng mục đích, phân bổ tối ưu cho các thành viên tránh lãng phí vốn đồng thời tiết kiệm chi phí, huy động nguồn lực của chính CBCNV trong Công ty; Chiếm lĩnh thị trường cung cấp dịch vụ, phấn đấu xây dựng các dịch vụ không chỉ phục vụ trong ngành; Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ CNV. Hơn thế nữa công ty cần xây dựng những chiến lược mang tính cụ thể hơn, thực hiện trên có sở định hướng của ngành hàng không nói chung và khu sân bay quốc tế Nội Bài nói riêng, phát triển các dịch vụ thương mại theo hướng đa dạng và thương mại hóa. 2.2.3 Tiết kiệm tối đa chi phí SXKD Trước tình hình cạnh tranh trên thị trường giữa các đối thủ cạnh tranh đó là các công ty, xí nghiệp cung cấp dịch vụ hàng không thì mọi biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí là biện pháp làm tăng lợi nhuận cũng như hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. Ngoài ra, Công ty cần có những biện pháp tăng năng suất, như: đảm bảo môi trường làm việc tốt cho CBCNV, cung ứng đầy đủ thiết bị thi công, vật tư, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, thực hiện nghiêm ngặt chế độ an toàn vệ sinh lao động và các chính sách bảo hiểm cho người lao động. 2.2.4 Tăng cường công tác quản trị tài chính doanh nghiệp Để nâng cao hiệu quả tài sử dụng vốn cần có chính sách thực hiện để nâng cao các năng lực tài chính của doanh nghiệp: năng lực thanh toán, năng lực cân đối vốn, năng lực kinh doanh và năng lực sinh lãi. Từ thực tế tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới, của Việt Nam và tình hình và xu thế phát triển của ngành hàng không nói chung và CTCP dịch vụ hàng hàng không nói riêng, có thể đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính của Tổng công ty: Giải pháp nâng cao năng lực thanh toán của Công ty Năng lực thanh toán của Công ty là năng lực trả được nợ đáo hạn của các loại tiền nợ của Công ty, là một tiêu chí quan trọng phản ánh tình hình tài chính và năng lực kinh doanh, đánh giá một mặt quan trọng về hiệu quả vốn, đồng thời thông qua có thể thấy rõ những rủi ro tài chính của Công ty: không thanh toán được các khoản nợ đến hạn, có thể dẫn đến phá sản. Năng lực thanh toán của Công ty gồm: thanh toán nợ ngắn hạn và thanh toán nợ dài hạn, trong đó nợ trung và dài hạn chủ yếu là cùng tiền lãi trong quá trình kinh doanh để thanh toán. Thanh toán Nợ ngắn hạn chủ yếu là trông vào vốn lưu động và tài sản lưu động của Công ty làm đảm bảo. Các khoản nợ ngắn hạn còn được gọi là các khoản nợ lưu động, tức là các khoản nợ có thời hạn trong vòng một năm. Loại nợ này phải thanh toán bằng tiền mặt hoặc các tài sản lưu động khác. Các khoản nợ này có rủi ro cao đối với tài chính của Công ty. Nếu không thanh toán đúng hạn thì sẽ làm cho Công ty phải đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Do đó, trong Bảng cân đối tài sản, các nhà quản lý luôn phải quan tâm đến mối quan hệ đối ứng của các khoản nợ ngắn hạn và tài sản lưu động, phải dùng tài sản lưu động để đối phó với các khoản nợ ngắn hạn. Trong đó, Cổng công ty nên có một cơ chế quản lý tài sản lưu động một cách hợp lý, như: Đảm bảo một lượng tiền mặt nhất định để thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn gần đến hạn. Ngoài ra, cần phải dự trữ một lượng tiền mặt vừa phải cho các khoản nợ ngắn hạn chưa đến hạn, nhưng để tránh rủi ro từ phía chủ nợ vì một lý do nào đó phải đòi thanh toán ngay. Dự trữ một lượng chứng khoán có tính thanh khoản cao: Trái phiếu chính phủ, Tín phiếu Kho Bạc Nhà nước, các loại chứng khoán của các tổ chức nước ngoài… để đảm bảo tính thanh khoản cao cho tài sản lưu động. Đối với Hàng tồn kho: vì công ty lấy hoạt động kinh doanh dịch vụ hàng không làm nòng cốt, do đó lượng hàng dự trữ không nên quá nhiều, nhằm làm tăng tốc độ lưu thông của vốn lưu động, tăng khả năng thanh toán nhanh của Công ty. Một trong những tài sản lưu động mà Công ty cần quan tâm nữa đó là Các khoản phải thu. Các khoản phải thu của Công ty bao gồm phải thu từ khách hàng và từ các đối tác làm ăn. Công ty nên có chính sách tín dụng không quá lỏng để không bị chiếm dụng vốn, tuy nhiên cũng không nên quá hà khắc vì nếu quá hà khắc có thể ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh bán hàng và cung cấp dịch vụ của Công ty. Như vậy, đối với mỗi hoạt động kinh doanh, Công ty nên có một chính sách tín dụng cụ thể, cơ chế quản lý tài sản cố định phù hợp với từng đối tượng và tình hình thực tế, để làm tăng tính thanh khoản cho tài sản lưu động nhưng không ảnh hưởng quá lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phát huy vai trò của Tài chính Doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với việc sử dụng vốn từ khâu mua sắm tài sản, vật tư đến dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Định kỳ doanh nghiệp phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Bám sát tình hình sử dụng vốn ở các xí nghiệp. Thông qua việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích, tiến bộ so với kỳ trước để có biện pháp phát huy và phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại trong quản lý sử dụng vốn, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời cho phù hợp với diễn biến thực tế của hoạt động SXKD. Giải pháp nâng cao năng lực cân đối vốn Năng lực cân đối vồn chính là khả năng tự chủ về mặt tài chính của Công ty. Điều này không những quan trọng đối với doanh nghiệp mà nó còn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, ngân hàng cho vay,… Nếu khả năng tự chủ tài chính của Công ty lớn mạnh sẽ tạo niềm tin cho các đối tượng có liên quan, từ đó tạo thuận lợi cho Công ty về nhiều mặt trong kinh doanh và tăng nguồn vốn kinh doanh cho Công ty. Một trong những giải pháp nâng cao tính tự chủ của Công ty là tăng nguồn vốn chủ sử hữu đó là tiến hành cổ phân hoá công ty. Cổ phần hoá là hướng đi đúng đắn để huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả quản lý và khắc phục những tồn tại hiện thời của Công ty. Cổ phần hoá chính là tạo điều kiện cho những người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Công ty. Sau cổ phần hóa năm 2006 Công ty đã thực hiện khá tốt nguồn vốn chủ sở hữu chiếm trên 50% tổng nguồn vốn, tuy sau đó đã xuất hiện một số bất cập nhưng không đáng lo ngại nhiều, bởi những bất cập đó nguyên nhân do cách quản lý có thể vẫn theo lối tư duy cũ. Khó khăn là vậy nhưng Công ty vẫn thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ là vừa thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa triển khai kế hoạch cổ phần hoá và đã đạt được nhiều thành tích: Công ty đã huy động được một số lượng vốn lớn từ những cán bộ công nhân viên chứng tỏ người lao động gắn bó và có trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Cổng công ty, làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận giữ lại,…Do đó, làm tăng vốn chủ sở hữu cho Công ty. Ngoài ra, khi thực hiện cổ phần hoá thì phần vốn do ngân sách Nhà nước cấp sẽ có chi phí sử dụng là lãi cổ phần được trích từ lợi nhuận sau thuế theo tỷ lệ vốn Ngân sách Nhà nước trên tổng vốn như hiện nay. Vì vậy, Công ty vẫn có một khoản lợi nhuận để tăng vốn thực hiện tái đầu tư. Giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh của Tổng công ty. Năng lực kinh doanh của ông ty là năng lực tuần hoàn của vốn ông ty, là một mặt quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Sự tuần hoàn vốn là sự vận động thống nhất của vốn tiền tệ, vốn sản xuất, vốn hàng hoá – dịch vụ, trong đó, sự vận động của hàng hoá – dịch vụ có ý nghĩa quan trọng. Vì hàng hoá, dịch vụ có được tiêu dùng thì mới thực hiện được giá trị, thu hồi được vốn và hoàn thành vòng tuần hoàn của vốn. Công ty là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, chủ yếu là cung cấp các dịch vụ hàng không do đó Công ty phải tính toán dự báo nhu cầu khách hàng, lượng khác hàng mỗi thời kỳ để có kế hoạch kinh doanh sao cho hợp lý nhất. Giải pháp nâng cao năng lực sinh lợi Năng lực thu lợi là khả năng thu được lợi nhuận của Công ty. Do đó, năng lực thu lợi luôn là điều quan tâm nhất của các đối tượng liên quan. Có những doanh nghiệp, hiện tại chưa mang lại thu nhập, nhưng sau một thời gian, lại có thể mang lại một khoản thu nhập lớn cho chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các nhà quản lý và người lao động. Như đã biết, các yếu tố cấu thành của lợi nhuận doanh nghiệp là: các loại thu nhập, các kinh phí và tổn thất. Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Như vậy, để nâng cao năng lực, thì một mặt Công ty cần có những chính sách bán hàng và cung ứng dịch vụ để làm tăng doanh thu, một mặt có những chính sách chi phí tối thiểu để làm giảm tổng chi phí, từ đó, làm tăng lợi nhuận thuần của Công ty. Để tăng tổng doanh thu của Công ty, cũng như đã đề cập trong các giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh, Công ty cần phải tăng cả về số lượng và chất lượng dịch vụ cung cấp, đó là: tăng cường cơ sở hạ tầng: khu vực bán hàng thuận lợi, nâng cao chất lượng phục vụ; tăng cường phạm vi, quy mô phục vụ. Để giảm tối thiểu chi phí, Công ty cần lập các kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ một cách cụ thể, khoa học, đảm bảo chất lượng và số lượng. Có như thế thì Công ty mới có thể giảm được sự lãng phí về vật lực và nhân lực. Trên đây là một số giải pháp đưa ra nhằm mục đích nâng cao các năng lực của CTCP dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài, từ đó, nâng cao hiệu quả tài sử dụng vốn của Công ty. Tuy nhiên, khi Công ty thực hiện một chiến lược kinh doanh thì thường có những ảnh hưởng tới tất cả năng lực của Công ty, chứ không chỉ riêng một năng lực nào. Có lúc, chiến lược này tốt khi phân tích về năng lực này nhưng lại không tốt cho năng lực khác của Công ty. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một cách tổng hợp, các nhà lãnh đạo của doanh nghiệp cần có những giải pháp, chính sách phát triển cân bằng. Trên tầm vĩ mô, giải pháp trước mắt và lâu dài của Công ty cũng như của Tổng công ty hàng không Việt Nam là: Tận dụng cơ hội, vượt qua thử thách để hội nhập quốc tế thành công. Thực hiện tiến trình này, có nghĩa là Công ty đang thực hiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả tài chính một cách tổng hợp và đúng theo xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá hiện nay. III. Một số kiến nghị Để các biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn đã nêu ra trên đây được thực hiện cơ bản triệt để, tạo điều kiện cho Công ty duy trì được đà tăng trưởng như các năm vừa qua, nâng cao được hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công ty có một số kiến nghị như sau: Cùng với sự phát triển và tiến trình hội nhập quốc tế của toàn ngành, Tổng công ty hàng không Việt Nam, làm nòng cốt, cũng cần phải có những định hướng toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Do đó, chuyên đề này xin đưa ra một số kiến nghị đối với Tổng công ty hàng không Việt Nam: Trước tiên, Tổng công ty cần phối hợp với các cơ quan Nhà nước, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn tương thích với hệ thống tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO), đồng thời phù hợp với những thông lệ của cộng đồng hàng không quốc tế, nhất là trong các khía cạnh an ninh, an toàn hàng không. Hệ thống các chính sách quản lý về hàng không cần phải hướng tới việc mở cửa thị trường và thực thi các chính sách phi điều tiết và tự do hoá, cụ thể là: gỡ bỏ dần các bảo hộ của Nhà nước, khuyến khích cạnh tranh, đa dạng hoá các nhà cung cấp dịch vụ và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân tham gia thị trường của Tổng công ty. Tất nhiên, việc khuyến khích cạnh tranh phải đảm bảo các yếu tố an ninh, an toàn hàng không, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng khách hàng. Đồng thời, qua quá trình thực hiện phải theo một lộ trình hợp lý nhằm giúp các doanh nghiệp của Tổng công ty có điều kiện chuẩn bị cho việc cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Để tận dụng cơ hội có được từ các thị trường quốc tế mới, Tổng công ty và CTCP dịch vụ hàng không cần nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm các dịch vụ văn minh, hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào trong thời kỳ hội nhập để tạo ra sự thu hút đối với khách hàng quốc tế. Nhìn một cách sâu sắc hơn, Tổng công ty cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Để làm được điều này, việc chủ động tìm kiếm các nguồn lực, không ngừng đầu tư, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý là những nhiệm vụ rất quan trọng. Trong quá trình nâng cao năng lực của Tổng công ty. Đối với hệ thống các sân bay, mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt của các sân bay quốc tế trong khu vực nhưng cơ hội tăng trưởng vẫn có thể đến với Việt Nam, do đó, Tổng công ty cần có định hướng phát triển là: tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại cho các sân bay quốc tế như: sân bay quốc tế Nội Bài; Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất để có thể đáp ứng sự tăng trưởng của thị trường hàng không trong tương lai. Riêng sân bay Nội Bài là địa điểm mà CTCP dịch vụ hàng không kinh doanh dịch vụ thì Tổng công ty cần có những quy hoạch cụ thể rõ ràng, bố trí khu vực bán hàng, hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho công ty dịch vụ kinh doanh. Song song với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, Tổng công ty cần chú ý trong phát triển các dịch vụ hàng không và phi hàng không tại các sân bay. Trên thế giới, nhiều sân bay đã không chỉ đơn thuần là điểm đến của các máy bay mà trở thành điểm kinh doanh dịch vụ có nhiều nguồn thu và khả năng sinh lời lớn. Để làm được điều này, Tổng công ty một mặt cần phải xây dựng các quy định, thể chế nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi tại các sân bay, mặt khác cần khuyến khích và tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế tham gia và kinh doanh các dịch vụ tại sân bay. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong cung cấp dịch vụ hàng không, có như vậy mới phá vỡ thế độc quyền trong cung cấp dịch vụ trong hàng không, công ty mới làm ăn hiệu quả tốt nhất cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Trong lĩnh vực quản lý bay, việc sử dụng công nghệ vệ tinh để cung cấp các dịch vụ thông tin, dẫn đường, giám sát và kiểm soát hệ thống không lưu (CNS/ATM) hiện đang được coi là xu thế chung của cộng đồng hàng không quốc tế. Vì vậy, để hội nhập thành công, Tổng công ty cần tiếp tục thích nghi và ứng dụng hệ thống này thông qua việc hoàn thiện mạng thông tin truyền số liệu theo xu hướng sử dụng vệ tinh, đồng thời từng bước chuyển đổi phương pháp quản lý và giám sát theo chương trình CNS/ATM. Đối với lĩnh vực công nghệ hàng không, Tổng công ty cần phải mở rộng hợp tác, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ. Mặt khác, Tổng công ty cũng cần chuẩn bị ngay từ bây giờ nền tảng để phát triển một nền công nghiệp hàng không của chính mình. Đây là việc làm cấp thiết nhưng vô cùng khó khăn, vì trong tương lai, nhu cầu sửa chữa, thay thế các linh kiện, phụ tùng máy bay, sân bay hay quản lý bay của Hàng không Việt Nam sẽ là không nhỏ. Nói tóm lại, việc làm chủ được khoa học công nghệ, chắc chắn Tổng công ty nói chung và Vietnam Airlines nói riêng sẽ không phải chịu những chi phí lớn để thuê chuyên gia và dịch vụ nước ngoài. Nguy cơ lớn hơn là sự lệ thuộc hoàn toàn, một điều ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty, Vietnam Airlines trong tương lai. KẾT LUẬN Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là nguồn lực tài chính hiện nay đang là đòi hỏi bức xúc của các doanh nghiệp Việt Nam. CTCP DV hàng không sân bay Nội Bài cũng không nằm ngoài đòi hỏi này. Là một DNNN mới chuyển sang CTCP năm 2006, cung cấp các dịch vụ hàng không. Và là thành viên của Tổng công ty hàng không Việt Nam là một công ty lớn trực thuộc nhà nước, nên vấn đề sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả tốt nhất là vấn đề cần hết sức quan trọng. Trên cơ sở những kiến thức đã học, chuyên đề đã nghiên cứu một cách khái quát về thực trạng huy động và sử dụng vốn của CTCP DV hàng không sân bay Nội Bài trong giai đoạn 2006 – 2009, cũng như xem xét những tồn tại, đề xuất một số giải pháp huy động và sử dụng vốn. Những đề xuất giải pháp dựa trên cơ sở thực tế nghiên cứu thực trạng và cơ sở lý thuyết đã học gợi ý để hoàn thiện hoạt động quản lý, thu hút và sử dụng vốn cho Công ty. Do hạn chế trong thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và hiểu biết còn hạn chế nên bài viết có thể còn nhiều thiếu xót. Rất mong được sự quan tâm góp ý của bạn đọc và thầy cô để bài viết được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Nguyễn Tiến Dũng, các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài đã giúp đỡ hướng dẫn tận tình để em hoàn thành bài viết này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình “ Phân tích báo cáo tài chính”, NXB Đại học kinh tế Quốc dân, PGS.TS Nguyễn Năng Phúc. “Sử dụng có hiệu quả các hình thức huy động vốn của Doanh nghiệp Công nghiệp trong nền kinh tế thị trường”, NXB Chính trị Quốc gia, PGS. TS. Đàm Văn Nhuệ, TS. Ngô Thị Hoài Lam (2001). Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động – Xã hội, GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005) “ Hướng dẫn tham gia thị trường chứng khoán”, NXB Lao động – xã hội, Trần Minh Kiệt biên soạn Báo cáo tài chính CTCP dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài Điều lệ Công ty cổ phần dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài Chính sách chất lượng ISO 9001:2008 của NASCO Luận văn khóa trước weside: MỤC LỤC MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SXKD: Sản xuất kinh doanh KTTT: Kinh tế thị trường DNNN: doanh nghiệp nhà nước CTCP: Công ty Cổ phần XS: sản xuất TSNH: Tài sản ngắn hạn TSDH: Tài sản dài hạn VLĐ:Vốn lưu động VCĐ:Vốn cố định TSCĐ:Tài sản cố định TSLĐ:Tài sản lưu động VCSH: Vốn chủ sở hữu CBCNV: Cán bộ công nhân viên ROE: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu ROA: Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất kinh doanh HTQLCL: Hệ thống quản lý chất lượng CNS/ATM: Giám sát và kiểm soát hệ thống không lưu WTO: Tổ chức thương mại thế giới ICAO: Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế SB: Sân bay QMR: Đại diện lãnh đạo công ty về chất lượng DV: Dịch vụ DVHK: dịch vụ hàng không DANH MỤC BẢNG BIỂU Biểu đồ: Quy mô nguồn vốn, doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế của Công ty 23 Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh từ cổ phần hóa tới nay 24 Bảng 2.2 : Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của CTCP dịch vụ hàng không sân bay Nội Bài năm 2006-2009 25 Bảng 2.3: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm 31/12/2009 26 Bảng 2.4: Cơ cấu tài sản của công ty giai đoạn 2006-2009 29 Bảng 2.5: Doanh thu từ hoạt động tài chính của Công ty qua các năm 32 Bảng 2.6: Tình hình huy động vốn của Công ty qua một số kênh chủ yếu 34 Bảng 2.7: Chi phí lãi vay của Công ty qua các năm 36 Bảng 2.8: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 37 Bảng 2.9: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 38 Bảng 2.10: So sánh khoản phải thu và khoản phải trả của Công ty 39 Bảng 2.11: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn về mặt tổng thể 40 Bảng 2.12: tỷ số nợ trên khả tài sản, nguồn vốn CSH 41 Bảng 2.13: Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của Công ty 41 Bảng 3.1: Nhu cầu về vốn SXKD của Công ty thời kỳ kế hoạch 2010 - 2015 47 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25645.doc