Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay

Đề tài : Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay Lời nói đầu Trải qua 6 tháng đầu năm 2008 với mức độ lạm phát và giá cả tiêu dùng tăng vọt ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển kinh tế trong năm.Sau nhiều nỗ lực và chính sách kinh tế thành công , đà lạm phát và giá cả tiêu dùng đã có chiều hướng chững lại và có giảm nhẹ trong 6 tháng cuối năm.Đã qua cơn bão , việc cấp thiết hiện h là phải thúc đẩy con thuyền kinh tế Việt Nam tiến lên trong năm 2009

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.Muốn vậy phải có vốn để đầu tư vào sản xuất.Vốn ở đâu ??? Thị trường tài chính là 1 kênh cung cấp vốn và điều tiết quan trọng nhất của 1 nền kinh tế. Rất cấp thiết với tình hình kinh tế hiện tại , khi giá dầu giảm như dự báo trước nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái trong năm 2009 , giá các mặt hàng giảm mạnh , các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn , tỷ giá thay đổi liên tục , v.v… cùng vô vàn khó khăn đối với các nhà đầu tư hiện tại.Để kinh tế phát triển trong 1 thời buổi khó khăn gần như là nhiệm vụ bất khả thi , nhưng không phải là không có cách nếu biết vận dụng tốt và linh hoạt các công cụ tài chính , các chức năng mà thị trường tài chính mang lại. Chương 1 Tổng quan về thị trường Tài chính Vai trò của thị trường Tài chính : Khái niệm : - TTTC là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. - Mọi nền kinh tế đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển vào có thể được huy động từ nguồn Nhà nước, ngân hàng... và cuối cùng là qua trung gian TTTC – một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trường về phương diện cung cấp và chuyển vốn. - Như vậy, TTTC là một thực tế trừu tượng gắn liền với việc phân bố sử dụng các nguồn lực tài chính với các loại hàng hóa đặc biệt, đó là vốn, quyền sử dụng vốn. Các công cụ chủ yếu trên TTTC là các loại chứng khoán có giá đưa lưu hành qua lại trong các hoạt động tài chính. Chức năng : Thị Trường Tài Chính là bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn từ những người có vốn sang những người cần vốn thong qua hoạt động tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ hoặc các cổ phiếu đó ,như vậy vốn đã được chuyển từ người có vốn sang người cần vốn 1 cách trực tiếp. với chức năng này, Thị Trường Tài Chính có tác dụng thu hút mọi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển kinh tế, làm nâng cao hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế cà cải thiện mức sống của người tiêu dung ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính của họ chưa cho phép. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính: Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển giao những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thoả mãn nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn tài chính. Thị trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích luỹ và đầu tư,giữa người cùng nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau giữa hình thức mua bán các chứng khoán. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán: Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi vậy, nhờ thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các chứng khoán khác họ muốn. Khả năng thành khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những chủ yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Chức năng cung cấp khả năng thành khoản cho các chứng khoán bảo đảm cho thị trường tài chính hoạt động năng động có hiệu quả. Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá: Chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể phát hành, tức là tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của các cổ phần đang lưu hành. Vì vậy, thông qua giá cổ phiếu của một doanh nghiệp người ta có thể đánh giá được giá trị của doanh nghiệp đó. Vai trò : Vai trò trong thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Để phát triển kinh tế xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi với thời hạn ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với các công cụ là các loại chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về mệnh gía và thời hạn sử dụng kết hợp với cơ chế linh hoạt: mua bán chứng khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó thị trường tài chính đã thu hút, chuyển giao các nguồn tài chính nhàn rỗi,bé nhỏ, phân tán trong xã hội thành nguồn tài chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Thị trường tài chính với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, bộ máy quản lý hữu hiệu và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng khoán và đầu tư chứng khoán, người dân sử dụng nguông tài chính tiết kiệm được của mình để mua chứng khoán với niềm tin là khoản vốn và lãi của mình sẽ được đảm bảo. Nguồn tiết kiệm này, nếu không có thị trường tài chính sẽ có khả năng tiếp tục nằm yên dưới dạng tích trữ không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm và cũng không đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính đã giảm bớt được nhu cầu tiêu dùng cao, dành nguồn tài chính vào đầu tư thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do chứng khoán không có tính lỏng như tiền mặt, một khi đã mua chứng khoán, nguồn tài chính đã vận động vào đầu tư, số tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm xuống nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống . Những nhu cầu thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động bán chứng khoán của người sử dụng chứng khoán. Như vậy tính thanh khoản cao của chứng khoán trên thị trường tài chính đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư. Thị trường tài chính là kênh huy động vốn đầu tư rất lớn. Nó không chỉ thu hút huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút huy động nguồn tài chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ nước ngoài vào trong nước mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Thị trường tài chính là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối giữa vốn đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư trong nước, góp phần thực hiện chính sách “mở cửa nền kinh tế “. Như vậy, thị trường tài chính bổ xung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn tài chính của nước ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước. Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính: Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra trên cơ sở quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải trả giá. Điều đó buộc người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn bằng việc lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức và thời điểm thích hợp để giảm giá của việc tài trợ. Mặt khác, thị trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố các vấn đề tài chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoán của doanh nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi và dân chúng chỉ mua chứng khoán của những doanh nghiệp thành đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự do lựa chọn của người mua chứng khoán, không còn cách nào khác hơn là các nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán làm ăn đàng hoàng và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả đi vay phải có hiệu quả . Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sự dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong từng doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế. Sự đa dạng hoá về thời hạn sử dụng các nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài chính trong nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả hơn. với chức năng cung cấp thông tin chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích và có quyết định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động đúng đến nơi mà chúng được sử dụng có hiệu quả. Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước: Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu...., giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các chủ thể lựa chọn hướng đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần thực hiện chính sách huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính hay chính sách tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân sách. Tận dụng các nguồn thu ngân sách, chi tiêu tiết kiệm có hiệu quả, giải quyết bộ chi và cân đối thu chi ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong chính sách tài chính của một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi Nhà nước tiên shành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Nhà nước cũng có thể vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước, việc Nhà nước vay tiền của dân đã trở thành thông dụng và tiền vay đã trở thành nguồn thu thường xuyên để cân đối ngân sách. Đây cũng là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phải phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết một trong những nguyên nhân chủ yếu của luật pháp, làm giảm áp lực của lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời, thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả cũng giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến khích đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ. Thị trường tài chính còn là nơi cung cấp các dữ liệu giúp cho Nhà nước có biện pháp điều hoà lưu thông tiền tệ. Việc dân chúng đầu tư vào thị trường tài chính sẽ giúp Nhà nước điều tiết được lượng tiền trong lưu thông qua cơ chế thị trường mở. Việc Nhà nước mua chứng khoán vào có tác dụng bơm thêm tiền vào chu chuyển kinh tế và ngược lại việc bán chứng khoán ra sẽ rút bớt lượng tiền khỏi chu chuyển kinh tế. Nhà nước cũng có thể thay đổi lãi suất tiền gửi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu để thực hiện điều hoà lưu thông tiền tệ. Điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu nguồn tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính luôn luôn là mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Thông qua sử dụng các công cụ trên thị trường và cơ chế hoạt động của thị trường, bằng hoạt động phát hành và mua bán chứng khoán cả thị trường tập trung và phi tập trung, dưới tác động của quy luật cung cầu, nguồn tài chính sẽ vận động từ những ngành, những vùng thừa nguồn tài chính đến những ngành, những vùng thiếu nguồn tài chính thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đặt được mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia. Khi xem xét vai trò thị trường tài chính cũng cần thấy rằng: ngoài những vai trò, những tác động tích cực, thị trường tài chính cũng có những hạn chế, những khuyết tật thể hiện qua hoạt động đầu cơ, bán khống các chứng khoán... Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải nẵm vững cơ chế vận hành của thị trường, có những biện pháp hữu hiệu kiểm soát các hoạt động của thị trường làm cho thị trường hoạt động lành mạnh. Các chủ thể của thị trường Tài chính : Thị Trường Tài Chính là nơi diễn ra hoạt động dẫn vốn từ người cho vay-tiết kiệm tới người vay-người chi tiêu nên Thị Trường Tài Chính có 2 chủ thể đó chính là : chủ thể đi vay và chủ thể cho vay(đầu tư). Chủ thể đi vay : 1.2.1.1 Chính Phủ: Đi vay trên Thị Trường Tài Chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc… để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách nhà nước. 1.2.1.2 Các công ty: Việc thiếu vốn sản xuất là điều thường xảy ra trong hoạt động của các doanh nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề này bằng cách vay ngân ha`ng. Hơn nữa khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường cần vốn lớn với thời hạn dài để đáp ứng yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh nghiệp huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên Thị Trường Tài Chính. 1.2.1.3 Các hộ gia đình: Hộ gia đình cũng vay trên Thị Trường Tài Chính để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình. Chủ thể cho vay hay đầu tư : Khi 1 chủ thể đồng ý giao tiền hoặc tài sản để nhận lại 1 trái phiếu của người khác, anh ta đã biến mình thành chủ thể cho vay. Bởi vì mọi khoản vay đều được hoàn trả cả vốn và lãi, nên hoạt động cho vay đã làm cho tiền mặt, tài sản tạo thêm ra những giá trị mới. chính quá trình tạo ra giá trị mới này đã làm cho việc cho vay trở thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có các chủ thể cho vay, đó là: Các hộ gia đình, các công ty bảo hiểm, các trung gian tài chính, các công ty và Chính Phủ. 1.2.2.1. Các hộ gia đình: Là những người cho vay chủ yếu thông qua việc mua trái phiếu hoặc gửi tiên vào ngân ha`ng. 1.2.2.2. Các công ty bảo hiểm: Nhận tiền bảo hiểm của dân chúng sau đó đem cho các ngân ha`ng, các công ty vay hoặc mua trái phiếu. Các khoản cho vay của công ty bảo hiểm thường là các khoản cho vau dài hạn. 1.2.2.3. Các trung gian tài chính: Các ngân hàng sinh ra là đi vay để cho vay. Mặc dù các ngân hàng chỉ là trung gian của việc vay và cho vay, không phải là chủ thể cuối cùng, no vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cho vốn chu chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. 1.2.2.4. Các công ty và Chính Phủ: Các công ty và Chính Phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách làm sinh lợi dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng. Cấu trúc của thị trường Tài chính : Có thể phân loại thị trường tài chính theo nhiều cách khác nhau Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần : - Thị trường nợ Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên Thị Trường Tài Chính là đưa ra 1 công cụ nợ, ví dụ như là trái khoán hay 1 món vay thế chấp. Công cụ nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người vay thanh toán cho người nắm giữ công nợ một khoản tiền lãi cố định, và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. Nếu kỳ hạn thanh toán của công nợ dưới 1 năm, người ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ1 năm trở lên gọi là công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên được gọi là thị trường nợ. - Thị trường vốn cổ phần Phương pháp thứ 2 để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Nười nắm giữ cổ phiếu sở hữu 1 phần tài sản của công ty và có quyền được chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty sau khi trừ chi phí và thuế.Việc sở hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu) là ở chỗ người sở hữu cổ phiếu chỉ nhận được tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ (người sở hữu công cụ nợ). Nhưng lợi ích củaviệc nắm giữ các cổ phần vốn là ở chỗ,cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận hoặc do giá trị tài sản của công ty tăng lên. Trong khi đó người nắm giữ công cụ nợ không nhận được gì từ khoản lợi nhuận này. Thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2 : - Thị trường cấp 1 ( sơ cấp ) Là Thị Trường Tài Chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Các loại hành hóa như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của Chính Phủ khi mới được phát hành đều được đem bán ở thị trường cấp này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian tài chính đó là ngân hàng. Ngân hàng này thường được xem như là ngân hàng đầu ttư hay ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng khoán trong quá trình phát hành. Ngân hàng bảo hiểm thường trực tiếp bỏ tiền để mua hết lô chứng khoán(với giá thấp hơn giá thông báo),sau đó bán lại ngay trên thị trường với giá cao hơn(giá công bố) để kiếm lời. - Thị trường cấp 2 ( thứ cấp ) Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành (chứng khoán cũ). Khi một cá nhân mua nó, nhận được tiền bán chứng khoán, nhưng công ty người đã phát chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một. Việc mua bán ở thị trường cấp hai thường được thực hiện thông qua công ty môi giới. Thị trường cấp hai có thể được tổ chức theo hai cách: - Thứ nhất, là tổ chức các sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc đại lý môi giới của họ ) gặp nhau tại vị trí trung tâm để tiến hành buôn bán. - Thứ hai, là thị trường trao tay(Over the Counter Market),trong đó các nhà buôn bán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến với họ. Vì vậy thị trường cấp hai thực hiện hai chức năng: - Thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tứ là nó làm cho những công cụ tài chính này “lỏng” thêm. Tính “lỏng” thêm của những công cụ tài chính sẽ khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế làm dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một. - Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của chứng khoán ma công ty phát hành bán ra ở thị trường cấp một. Những hang mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà hj cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận nó. Giá chứng khoán ở thị trường cấp hai càng cao thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận được tổng vốn đầu tư cao hơn. Chính vì lý do này mà khi nghiên cứu Thị Trường Tài Chính, người ta thường tập trung nghiên cứu phương thức diễn biến của thị trường cấp hai hơn là thị trường cấp một. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn : Cách khác để phân biệt giữa các loại thị trường là dựa trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của các chứng khoán được mua bán trên thị trường đó. - Thị trường tiền tệ Là 1 thị trường tài chính, trong đó chỉ có những công cụ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm) được mua bán. Chứng khoán của thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn với chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Hay nói cách khác, hàng hoá mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Ngoài ra, chứng khoán ngắn hạn có giao động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là những khoản đầu tư an toàn hơn.Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại thường là các tác nhân tham gia mua bán chủ yếu trên thị trường này. Khi ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng, nó phát hành ra các loại phiếu nợ như: sổ tiền gửi có kỳ hạn,chứng chỉ tiền gửi(CD),hoặc nó vay tiền bằng cách bán ra trái phiếu,tín phiếu… Quá trình như vậy làm xuất hiện các hàng hoá,dễ dàng cho việc mua bán, thanh toán, chuyển dịch hoặc cất trữ để sinh lời. - Thị trường vốn Là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu.Thị trường vốn lại được phân thành ba bộ phận: thứ nhất là thị trường cổ phiếu,chiếm tỷ lệ rất lớn trong thị trường vốn;bộ phận lớn thứ 2 của thị trường vốn là các khoản cho vay thế chấp; và nhóm thứ ba của thị trường vốn là thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty. Để hiểu rõ, đầy đủ về việc làm cách nào Thị Trường Tài Chính thực hiện được vai trò quan trọng trong việc dẫn vốn từ người cho vay-tiết kiệm tới người vay-người chi tiêu,chúng ta cần nghiên cứu các loại chứng khoán được mua bán trong Thị Trường Tài Chính. Trước hết chúng ta tập trung vào những công cụ được mua bán trong thị trường tiền tệ và sau đó đến những công cụ được mua bán ở thị trường vốn. Các công cụ trên thị trường Tài chính : Các công cụ trên thị trường tiền tệ : Do kỳ hạn thanh toán ngắn những công cụ vay nợ được mua bán trên thị trường tiền tệ chịu mức dao động giá tối thiểu và do đó nó là loại đầu tư ít rủi ro nhất. - Tín phiếu kho bạc (Bills) Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của ngắn hạn này của Chính Phủ thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán 3,6 và 12 tháng. Chúng được trả lãi với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán hoặc chúng được tahnh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Đây là loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy, chúng được mua bán nhiều nhất, chúng cũng là loại công cụ an toàn nhất trong tất cả các loại công cụ ở thị trường tiền tệ. - Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng (CDs) Là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo 1 tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ hạn tahnh toán thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Trước năm 1961, CD là không thể bán lại được, tức là chúng không thể bán lại hoặc không được hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu một khoản phạt đáng kể. Năm 1966, nhằm làm cho CD lỏng và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đã lần đầu phát hành CD bán lại được đối với những loại có mệnh giá cao (trên 100.000 đô la). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu kho bạc. Chúng là tổng nguồn vốn dặc biệt quan trọng mà những ngân hàng thương mại thu hút được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ, các tổ chức từ thiện va các cơ quan của Chính Phủ. - Thương phiếu (Commercial Papers) Là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi tiếng phát hành. Trước đây các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng thương mại, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc buôn bán thương phiếu cho các trung gian tài chính và các công ty khác để vay vốn tức thời;tức là họ đã thực hiện hoạt động tài chính trực tiếp. - Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận (Banker’s Acceptance) Là một hối phiếu ngân hàng (hứa hẹn thanh toán tương tự một tấm séc), do một công ty phát hành, được thanh toán trong thời hạn sắp tới và được ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải gửi món tiền bắt buộc vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty không có khả năng thanh toán, thì ngân hàng buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trong hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu có thêm khả năng được chấp nhận khi mua hàng hoá ở nước ngoaifvif nhà sản xuất ngoại quốc biết rằng ngay cả trường hợp công ty đã phá sản, thì hối phiếu vẫn được ngân hàng thanh toán đầy đủ. Những hối phiếu này thường được bán ở thị trường cấp hai, vì vậy nó có tác dụng tương tự tín phiếu kho bạc. Các công cụ trên thị trường vốn : Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và cổ phiếu, với kỳ hạn trên một năm hay vô hạn. Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có độ lệch tiêu chuẩn lớn hơn nhiều, do vậy mức độ rủi ro lớn và lợi tức thường cao. - Cổ phiếu Cổ phiếu là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty; tức là nó chứng thực quyền sở hữu một phần của công ty và quyền được chia cổ tức: + Cổ phiếu thông thường: là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy camtreen thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác là tuân theo quy luật cung cầu. + Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty. - Vay thế chấp Là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để đầu tư vào những công trình kiến trúc, nhà, đất đai dùng làm vật thế chấp cho các món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các công ty, thậm chí còn chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn tài của các công ty. - Trái khoán công ty Là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành với lãi suất cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, trái khoán công ty cón có khả năng chuyển đổi, và một số loại, có thể chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái khoán công ty là một công cụ được lưu hành rộng rãi trên thị trường vốn. - Chứng khoán chính phủ Là các loại công cụ vay nợ do Chính Phủ phát hành như trái phiếu kho bạc Nhà nước,tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái quốc gia… Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường Tài chính : Qua việc tìm hiểu ở trên đặc biệt là các đặc điểm của từng loại công cụ tài chính đã chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự thân nó đã là chủ thể phát hành, mục đích phát hành, quy định của nhà nước áp dụng đối với từng loại công cụ... hay đó là những nhân tố hiện tại của công cụ tài chính. Và xét trong thời gian dài thì tại mỗi thời điểm thì lãi suất thực của công cụ tài chính sẽ khác nhau. Trong rất nhiều các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội ảnh hưởng nên xem xét dưới góc độ những nguyên nhân thay đổi, chúng có thể phân chia làm 4 nhóm nhân tố lớn: nhóm thứ nhất là các yếu tố nội tại kể trên, nhóm thứ hai là tác động của các nhân tố chính trị xã hội, và cuối cùng là tác động của công ty và tình hình tài chính công ty chủ thể quan trọng trong tạo ra hàng hóa cho thị trường tài chính. Việc phân chia này chỉ có tính chất tương đối bởi vì các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau đó là mối quan hệ “đa cộng tuyến”.Các nhân tố ảnh hưởng và các cơ chế ảnh hưởng đến lãi suất như thế nào?. Xét dưới góc độ cung cầu thì mọi nhân tố trên có thể quy về ảnh hưởng tới đường cầu trái khoán hay đại lượng quyết định đến lãi suất của các công cụ tài chính. Các yếu tố nội tại của công cụ tài chính : - Độ rủi ro của các công cụ tài chính Trong thị trường tài chính , các công cụ tài chính được sử dụng nhưng công chúng cũng không hào hứng tham gia nếu nó chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro ở bên trong. Do đó nó sẽ là hàng hóa không được mọi người ưa thích tức là cầu về công cụ đó giảm dẫn đến đường cầu về trái khoán sẽ dịch trái kết quả là làm tăng lãi suất i% Db’ Db I2 E2 E1 I1 Sb 0 Q Q1 Q2 i : Lãi suất của trái khoán Q: số lượng của trái khoán Đường cầu trái khoán dịch chuyển từ Dj >Dv làm cho lãi suất tăng từ i1 > i2 Với các chủ thể tham gia thị trường tài chính hay cũng giống như bất cứ chủ thể kinh doanh trên các thị trường khác, câu hỏi đặt ra là sau một thời gian nhất định số của cải rời khỏi tay họ có quay trở về với quy mô lớn hơn hay chi ít cũng còn nguyên vẹn giá trị hay không? Như vậy là họ có thể tìm kiếm được một đối tác có thể tin cậy được, có nguồn lực đủ mạnh để thanh toán khoản tiền đã chuyển cho anh ta trong việc phát hành các công cụ tài chính, chủ thể phát hành có vị trí quan trọng. Thông thường nhà nước được coi là đối tác làm ăn tin cậy nhất vì đó là người nắm pháp luật trong tay và có nguồn ngân sách khổng lồ. Nhưng có ai dám mua trái phiếu chính phủ của những nước mà tình hình chính trị hoặc kinh tế luôn xảy ra bất ổn và đình trệ. Tuy vậy với những nước kinh tế vững mạnh, chính trị ổn định như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Đức thống nhất... thì khả năng chính phủ không thanh toán các khoản nợ là không xảy ra. Với từng công cụ tài chính cụ thể, coi là người phát hành có tính chất quyết định đến lãi suất, thông thường thì lãi suất của các công cụ tài chính do chính phủ phát hành sẽ thấp hơn các công cụ do công ty phát hành. - Kỳ hạn của các công cụ tài chính Xét về kỳ hạn thì các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có kỳ hạn ngắn nhất chỉ trên dưới một năm, còn trên thị trường vốn thì kỳ hạn dài hơn. Kỳ hạn của công chúng có rất nhiều loại tùy theo từng đợt phát hành với trái phiếu công ty kỳ hạn thông thường là 5,10,20 năm hay thậm chí đến 30 hay 50 năm. Lãi suất hoàn vốn Theo kỳ thanh toán 0 Trong thực tế lãi suất của các công cụ tài chính có kỳ hạn khác nhau thì mang lại lãi suất khác nhau và các công cụ ngắn hạn thường có lãi suất cao hơn các công cụ ngắn hạn như hình vẽ trên. Nhân tố kỳ hạn ảnh hưởng tới lãi suất của công cụ tài chính như thế nào? Đã có một số lý thuyết được đưa ra để giải thích vấn đề này. Các lý thuyết đưa ra thường gặp trở ngại: Nếu giải thích được đường cong lãi suất thì không giải thích được tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn thay đổi khi các công cụ dài hạn có xu hướng thay đổi theo. Theo lý thuyết về “giả thuyết dự tính” đưa ra quan điểm: “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của lãi suất ngắn hạn mà dân chúng dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó”. Do vậy lý thuyết này đã thành công trong việc giải thích tại sao lãi suất các công cụ ngắn hạn, dài hạn lại thay đổi phụ thuộc lẫn nhau. Theo “lý thuyết thị trường phân cách” cho rằng lãi suất xác định cho một công cụ nào đó được xác định bằng cung cầu với trái khoán kỳ hạn đó và không chịu tác dụng của những kỳ hạn đó, tức là những trái khoán không phải là những hàng hóa thay thế cho nhau. Lý thuyết này được bổ sung thêm một giả thiết nữa là người ta thường ưu tiên cho những khoản đầu tư ngắn hạn hơn, lý thuyết này đã thành công trong giải thích đường cong lãi suất thường dốc lên phía trên. Lý thuyết “ môi trường ưu tiên “ đã khắc phục được nhược điểm của hai lý thuyết trên bằng cách cho rằng “lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trông đợi xuất hiện trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với mức bù hạn ._.kỳ, mức bù này ứng với hạn kỳ trái khoán đó”. Do đó chúng ta thấy rằng lý thuyết môi trường ưu tiên là tổng hợp của 2 lý thuyết trên và nó cũng đã đưa ra các giải thích tại sao trong thực tế các đường lãi suất lại có các chiều dốc khác nhau: Lãi suất hoàn trả vốn Hạn kỳ thanh toán 0 Cơ sở của việc giải thích dựa vào hai giả thiết: Dân chúng dự đoán rằng lãi xuất của các trái khoán ngắn hạn trong tương lai có trung bình thấp hơn mức lãi suất ngắn hạn hiện hành nhưng lại lớn hơn cả mức bù kỳ hạn. Do đó đường lãi suất có dạng như trên. - Khả năng chuyển đổi Tính linh động của một tài sản phản ánh khả năng và mức độ thuận tiện để chuyển tài sản đó thành tiền. Với các công cụ tài chính lỏng của mỗi loại là khác nhau. Trên thị trường tài chính người ta dễ dàng quyết định mua một trái phiếu của chính phủ và băn khoăn khi quyết định mua một lô cổ phiếu của một công ty nào đó. Lý do là vì với trái phiếu chính phủ khoản lợi họ nhìn thấy rõ ràng hơn so với cổ phiếu bởi vì trong thương trường không có sự giám chắc rằng năm nay công ty đó làm ai đó lãi hay không. Tính lỏng của công cụ tài chính còn thể hiện ở chỗ thị trường của công cụ đó có lớn hay không? Hoạt động có nhộn nhịp hay không? Nếu có thì chúng ta dễ dàng bán công cụ trong tay người khác trên thị trường rộng lớn đó đang có nhu cầu cần loại công cụ này. Và với một nhà đầu tư, có những lúc họ cần chuyển một số công cụ mà họ nắm giữ sang tiền để lo liệu một công việc đang cần thiết mặc dầu trái khoán của họ đang sinh lợi. Lãi suất i% Db’ Db E2 E1 i1 Sb i2 Số lượng trái khoán Q2 Q1 0 Để xử lý những trường hợp như thế rõ ràng là các trái khoán trong tay họ phải có “tính lỏng” do vậy sẽ được ưa thích hơn. Và cái giá phải trả cho sự ưa thích của họ là họ sẽ nhận được một lãi suất thấp hơn do đường cầu dịch sang phải do số người ưa thích tăng lên (như hình vẽ). Đường cầu dịch từ Dv -> Dj làm cho lãi suất giảm từ i1 ->i2 - Thuế thu nhập Đứng dưới góc độ này thì nhà nước giữ vai trò quan trọng trong các nhân tố ảnh hưởng. Nếu xem xét các yếu tố khác là như nhau thì quyết định mua công cụ nào chưa hẳn đã phụ thuộc vào lãi suất mà người sở hữu đó thu được. Chúng ta sẽ chọn loại công cụ này hàng năm đem lại cho ta 100$ tiền lãi nhưng ta phải nộp 30$ hay sẽ chọn 90$ với khoản nộp vào ngân sách 10$. Kết quả là chính sách thuế của nhà nước trong một số trường hợp sẽ làm công chúng ưa thích hay tẩy chay một loại công cụ nào đó do vậy cầu sẽ tăng hay giảm làm cho lãi suất thay đổi. - Sức hấp hẫn của các công cụ tài chính khác Cũng giống như các loại hàng hóa khác cầu của một trái khoán nhất định sẽ phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các loại trái khoán khác, tức là sẽ chịu ảnh hưởng của hàng hóa thay thế. Hiệu ứng của việc các công ty đổ bể sẽ chuyển nguồn vốn của công chúng vào việc mua sắm các trái khoán của chính phủ có độ tin cậy cao hơn. Trong phân tích các nhân tố nội tại nếu xét chi tiết từng loại công cụ riêng biệt thì mỗi đặc điểm riêng của nó cũng gây ra mức lãi suất khác nhau. Nhất định là người mua trái phiếu của công ty có tài sản làm đảm bảo sẽ được nhận mức lãi suất thấp hơn loại không có tài sản đảm bảo, trái phiếu có khả năng chuyển đổi và trái phiếu thông thường của công ty sẽ nhận được lãi suất tương tự. Có thể coi lãi suất do nhà nước công bố với các trái khoán của mình cũng là một loại hàng hóa thay thế. Mặt khác thì nó cũng chịu ảnh hưởng của hàng hóa bổ sung. Trong một số trường hợp khi phát hành cổ phiếu, công ty sẽ khuyến khích người mua sách bán cho họ một chứng quyền đặt mua (Rights). Đó là một quyền ưu đãi mà công ty cho các cổ đông của mình được hưởng để mua cổ phiếu mới tỷ lệ thuận với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Khi phát hành họ sẽ được mua với giá ưu đãi. Rõ ràng là kỳ vọng thu được nhiều lợi tức hơn trong nghiệp vụ này của công chúng sẽ làm cho cầu của trái phiếu tăng lên và lãi suất sẽ giảm. Các yếu tố kinh tế chung : Hoạt động mua bán trao đổi các công cụ tài chính xét về bản chất thìnó hoạt động đáp ứng và điều hòa vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện nào thì nền kinh tế mới hấp thụ tốt được nguồn vốn, có nhà kinh doanh nào dám bỏ vốn ra trong thời kỳ nền kinh tế đang suy thoái, sản phẩm đang ế thừa trên thị trường. Nói tóm lại là hoạt động của thị trường tài chính phải phụ thuộc vào cả nhu cầu về vốn đầu tư và khả năng cung ứng. Vậy trong tổng thể nền kinh tế có những nhân tố nào ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính. - Các biến số vĩ mô Lạm phát là một khái niệm của kinh tế học chỉ sự tăng giá trung bình của hàng hóa theo thời gian. Khái niệm lạm phát thuần túy là trường hợp tất cả các giá cả của hàng hóa và các yếu tố sản xuất tăng theo cung f một tỷ lệ phần trăm. Tuy nhiên đây là trường hợp hiếm khi xảy ra. Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế xảy ra trầm trọng trong thời kỳ có khủng hoảng. Trong quá khứ và cả hiện tại đều cho chúng ta nhận xét “ Lạm phát là kẻ thù số 1 của phát triển kinh tế “.Năm 2007-2008 đã cho chúng ta trải nghiệm khi chứng kiến giá cả hàng hóa đội lên ở mức 2 con số phần trăm. Với một nhà đầu tư trên thị trường tài chính hay nói đúng hơn là người cho vay, người ta quan tâm đến lãi suất thực của các công cụ tài chính chứ không phải là các lãi suất được công bố, lãi suất thực là lãi suất đã tính đến yếu tố lạm phát và được xác định bởi: r = (i- f) i: lãi suất danh nghĩa r: lãi suất thực f: tỉ lệ lạm phát Mặc dầu được mời chào với lãi suất hấp dẫn là 15% một năm nhưng không ai muốn mua công cụ tài chính đó nếu lãi suất hiện tại là 20% năm và có nguy cơ ngày càng tăng cao. Từ phương trình trên để cho r >0 thì i>f. Do vậy để hấp dẫn khách hàng thì lãi suất danh nghĩa khi phát hành là một loại công cụ phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát hiện hành. Do vậy có thể khẳng định rằng trong các biến số vĩ mô thì lạm phát là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến lãi suất. - Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp Các nhà kinh tế tham dự cuộc hội thảo do ngân hàng châu Á (ADB) tổ chức tại Manina (Philipin) tháng 10 năm 1997 đã đi đến kết luận là khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong 3 năm hay cũng đồng thời dự báo với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông nam Á sẽ chỉ đạt từ 3-4% trong 2 năm 1997 và 1998. Kết quả đã làm cho một ố dòng đầu tư dự định vào khu vực này đã đổi hướng sang Mỹ La tinh đang được coi là khu vực kinh tế mới nổi. Dự đoán này làm cho thị trường tài chính khu vực kém sôi động, giá cả các loại cổ phiếu, trái phiếu sụt giảm mặc dầu còn nhiều nguyên nhân khác. Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng quy mô của sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng là mức tăng % hàng năm của biến số này. Như vậy tốc độ phản ánh diễn biến kinh tế của giai đoạn hiện tại và dự đoán sức khỏe của nền kinh tế trong tương lai. Nếu tốc độ tăng trưởng cao thì cơ hội thu lợi nhuận sẽ lớn các nhà đầu tư tin vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế và mở rộng đầu tư nhu cầu về vốn sẽ lớn nâng lãi suất lên cao. Câu hỏi đặt ra là tại sao trong thời gian qua từ 1991 đến 2007 ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng lên đến 8-9% mà lãi suất không ngừng được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Câu hỏi này có thể được trả lời dưới nhiều góc độ trước hết là lạm phát phi mã được đẩy lùi, mặt khác là từ khi ngân hàng nước ta thực hiện chế độ ngân hàng hai cấp vào năm 1991 với chính sách mở của nền kinh tế xuất hiện một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài làm cho thị trường tài chính nước ta bước đầu tiếp cận được với thị trường tài chính quốc tế làm lãi suất của ta gần với lãi suất quốc tế hơn (hiện nay khoảng 8,2%/năm). Tuy nhiên gần đây nhất để chống lạm phát , ngân hàng TW Việt Nam và các NHTM liên tục gia tăng lãi suất để hút nguồn tiền đồng vào , cân đối tỷ giá VND với các đồng tiền khác nhằm tránh sự trượt giá và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là số % số người thất nghiệp so với tổng số người trong lực lượng lao động. Người thất nghiệp được hiểu là người có khả năng và sẵn sàng làm việc ở một mức lương nhất định nhưng không kiếm đựơc việc làm. Khi thất nghiệp ở mức cao sản xuất sút kém tài nguyên không được sử dụng hết thu nhập dân cư giảm sút. Nạn thất nghiệp là vấn đề nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường. Một điều hiển nhiên là tỷ lệ thất nghiệp cao làm cho một số người thu nhập, có nhu cầu đầu tư vốn giảm xuống ảnh hưởng một phần tới cung về vốn hay về cầu trái khoán. - Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái nếu hiểu theo nghĩa rộng là số đồng nội tệ cần thiết để mua một đồng ngoại tệ thì khi tỷ giá hối đoái tăng lên cao thì nhà đầu tư cảm thấy trái phiếu của họ ở các nước láng giềng giữ giá cao hơn và ngược lại khi tỷ giá hối đoái xuống thấp thì của cải của họ đầu tư vào các thị trường tài chính nước ngoài dường như bị mất giá trị. Do đó đây là một trong những cơ sở để xác định trái khoán của quốc gia này có hấp dẫn công chúng của quốc gia khác hay không là nguyên nhân dịch chuyển đường cầu trái khoán do đó ảnh hưởng tới lãi suất. Tuy nhiên sự thay đổi quá lớn trong tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm cho những nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy yên tâm vì tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế nơi mà họ đang có ý định mua trái khoán trên thị trường tài chính nước này. Sự sụt giảm giá trị đồng tiền ở hàng loạt các quốc gia Đông Nam Á thời gian quâ đã khiến người ta lầm tưởng đến nền kinh tế địa ốc bong bóng xà phòng của Nhật Bản vào đầu những năm 80. Giờ đây các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại hơn khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu, trái phiếu của các quốc gia Đông Nam Á so với thời kỳ trước khủng hoảng tài chính tiền tệ. - Triển vọng và các lĩnh vực của nền kinh tế Trong thực tế khó có quốc gia nào liên tục giữ vững tốc độ tăng trưởng một cách đều đặn vì có một nhân tố mang tính qui luật được các nhà kinh tế học gọi là chu kỳ kinh doanh .Chu kỳ kinh doanh được biểu diễn trên đồ thị sau: C A 0 B Tốc độ tăng trưởng Thời gian Trong đó đỉnh của đường cong đánh dấu một sự phát triển phồn thịnh của nền kinh tế còn đáy của đường cong đánh dấu một giai đoạn suy thoái thường gắn với một cuộc khủng hoảng kinh tế. Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng :1918 - 1921; 1929 - 1933; 1970 - 1971; 1971 – 1982 và gần đây nhất là cuộc đại suy thoái 2008-? Trong đó cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 trong các nước tư bản có lẽ là cuộc khủng hoảng qui mô và có sức tàn phá ghê gớm nhất đẩy nền kinh tế các nước tụt hậu đến 10 năm. Vậy chu kỳ kinh tế ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào? Khi nền kinh tế được dự đoán là thịnh vượng của sản xuất hàng hoá và dịch vụ gia tăng, có thể là đang trong giai đoạn đi từ điểm B đến điểm C trong đồ thị - nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh tăng và cũng tăng cầu về mặt hàng này. D1 i% D2 i2 B A i1 Q1 Q2 Thị trường trở nên sôi động "trăm người bán, vạn người mua" và thông thường thì lãi suất sẽ tăng lên như đồ thị bên ở Việt Nam, mặc dù đời sống nhân dân ta còn chưa cao nhưng ta có truyền thống là tiết kiệm,đặc biệt là từ khi nước ta thực hiện chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế đã khấm khá lên rõ rệt tạo điều kiện tăng khả năng tích luỹ trong nhân dân. Tỷ lệ tích luỹ ở nước ta năm 2007 là 20,4% và người ta dự đoán rằng còn có khoảng 40 ngàn tỷ VND nhàn rỗi chưa được huy động và khoảng 4 tỷ USD đang trôi nổi trong dân cư ,làm sao để nguồn vốn này phát huy tác dụng, các công cụ tài chính của ta đã thực sự hấp dẫn chưa? Tuy nhiên không phải suy thoái của nền kinh tế đều diễn ra đồng đều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế hay trong điều kiện bình thường thì cũng có ngành kinh doanh phát đạt có ngành lại chật vật với những khó khăn. Do đó với một nhà đầu tư họ còn phải lựa chọn đưa của cải đến ngành nào, lĩnh vực nào có lợi nhuận cao nhất. Như vậy lãi suất trái khoán lại còn chịu ảnh hưởng của các hoạt động riêng biệt. Có một thực tế là bất chấp sự khủng hoảng trì trệ của một số ngành khác, ngành công nghệ thông tin đang phát triển một cách nhanh chóng và đã đưa Bill - Gate ông chủ của công ty Microsoft lên vị trí giàu nhất thế giới với tài sản 72 tỷ USD theo đánh giá của Fortune (11-2007) - Ngân sách chính phủ và thái độ với các biến số vĩ mô Năm điều kiện để gia nhập liên minh tiền tệ châu Âu là thiếu hụt ngân sách nhỏ hơn 3% GDP, tổng nợ chính phủ ít hơn 60% GDP, lạm phát dưới 2,72%, lãi suất dài hạn dưới 8,23%/năm và đã tham gia cơ chế tỷ giá ngoại hối, trong đó điều kiện thâm hụt ngân sách không quá 8% là điều kiện khó khăn đối với nhiều nước đây là số lớn khi chúng ta biết rằng GDP của liên minh này khoảng trên 4 ngàn tỷ USD, và năm 1997 có thể sẽ là năm đầu tiên thâm hụt ngân sách của chính phủ Hoa kỳ giảm xuống dưới 100 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp từ nhiều nguồn song chủ yếu là phát hành tín phiếu kho bạc hay trong dài hạn bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Chắc hẳn đây là thị trường qui mô to lớn và có sức hấp dẫn cao vì chủ thể phát hành có uy tín bậc nhất sẽ cạnh tranh gay gắt với các công cụ khác trên thị trường tài chính. Như vậy chính phủ cũng là một người bán trên thị trường tài chính, một chủ thể đặc biệt và khổng lồ góp phần quyết định lượng cung trái khoán trên thị trường. Khi chính phủ cần thiết phải có một khoản tiền phục vụ cho nhu cầu nào đó thì chính phủ sẽ phát hành tín phiếu muốn cho công cuộc huy động được nhanh chóng ngoài uy tín của mình chính phủ sẽ nâng lãi suất của mình tới một mức hấp dẫn để bán hết số hàng hoá của mình trên thị trường. Dân chúng sẽ đổ xô đi mua loại tín phiếu này và kết quả là các công ty cũng phải nâng lãi suất trái phiếu của mình lên nếu không dân chúng sẽ giành hết phần ưu ái cho chính phủ, do đó nhân tố ngân sách chính phủ có lúc cũng sẽ quyết định lãi suất trên thị trường tài chính trên phạm vi quốc gia đó. Mặt khác dân chúng cũng quan tâm đến thái độ của chính phủ trong việc giải quyết điều chỉnh các biến số vĩ mô như tỷ lệ lạm phát hay tỉ giá hối đoái. Chính phủ kiên quyết kìm giữ tỉ lệ lạm phát hay cho tỉ lệ này nhích lên một chút ít để kích thích các nhà sản xuất ở trong nước, chủ trương của chính phủ là ổn định tỷ giá hối đoái trong thời gian tới hay là muốn thay đổi để kích thích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu. Vì vậy các mục tiêu của chính phủ cũng sẽ ảnh hưởng tới các biến số vĩ mô và ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính theo cơ chế như trên. - Kinh tế thế giới và kinh tế khu vực Do xu hướng hội nhập của các nền kinh tế trên thế giới nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á 1997-1999 đã lan rộng và ảnh hưởng tới tất cả các thị trường và dẫn đến suy thoái kinh tế trên thế giới. Chúng ta biết rằng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ với các nước Châu á chiếm tới 30% tổng kim ngạch, sau cuộc khủng hoảng cơ hội kiếm tiền ở các nước này không dễ dàng như trước nữa dân chúng còn muốn xài hàng đắt tiền của Mỹ nữa hay không? Nhật Bản chiếm 80% thị phần ô tô ở Châu Á khi các nước này không còn đủ khả năng mua sắm xe Nhật ồ ạt như trước thì kinh tế Nhật có bị ảnh hưởng hay không? và Nhật Bản, dân tộc cho vay lớn nhất trên thế giới có ý định giúp các chi nhánh ngân hàng của họ ở Đông Nam Á hoạt động vững vàng hơn sau cuộc khủng hoảng bằng cách các công ty đa quốc gia của Nhật bản thu hồi vốn trên khắp thị trường tài chính trên thế giới thì tình hình sẽ ra sao? Và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-? Đang xảy ra , giá dầu giảm , thị trường đóng băng , các công ty đua nhau rút vốn để bảo toàn , cắt giảm nhân công , thị trường đi vào giảm phát , liệu còn ai sẽ mua và dùng hàng đắt tiền khi mà hầu bao họ ngày càng giảm đi và nỗi lo cơm áo gạo tiền tăng dần? Tấm gương thị trường tài chính sẽ phản ánh toàn bộ những biến động trong nước bức tranh kinh tế thế giới. Với những nhà kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính hoạt động của họ trên tầm cỡ quốc tế thì những thông tin ở phạm vi này sẽ là những dữ liệu quí giá trong quyết định đầu tư mua bán các công cụ tài chính trên thị trường. Như vậy các nền kinh tế trên thế giới có một mối gắn bó hữu cơ với nhau, và khi một sự kiệndiễn ra rất dễ gây ra phản ứng dây truyền, lãi suất của các công cụ tài chính mà chúng ta đang giữ trong tay cũng không nằm ngoài mối liên hệ này có nghĩa là nó còn chịu ảnh hưởng của những diễn biến cách chúng ta hàng vạn dặm. Các nhân tố kinh tế xã hội : Xu thế hoà bình hợp tác ngày nay đã thay thế cho xu hướng đối đầu trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Các hoạt động ngoại giao diễn ra sôi động giữa các quốc gia điều đó cũng thật dễ hiểu bởi vì kinh tế và chính trị là hai yếu tố đi song hành, kinh tế hỗ trợ và quyết định chính trị và chính trị mở đường cho kinh tế. Vậy các hoạt động ảnh hưởng tới lãi suất của các công cụ tài chính như thế nào hãy xem xét bằng một vài thực tế chuyến viếng thăm của chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa sang Hoa kỳ là chuyến thăm được nhiều người mong đợi, đặc biệt là giới doanh nghiệp, ngoài ý nghĩa chính trị cuộc viếng thăm còn mang ý nghĩa kinh tế đẩy tới một bước sự hợp tác giữa hai nền kinh tế lớn. Có lợi nhuận nhất trong cuộc viếng thăm này có lẽ là công ty Boeing, Boeing sẽ cung cấp cho Trung Quốc số lượng máy bay trị giá lên tới 4,5 tỉ USD. Liệu rằng sau này hợp đồng giá cổ phiếu, trái phiếu của công ty này có tăng lên không? Theo các chuyên gia kinh tế thì để hấp thụ được một đồng vốn của đầu tư nước ngoài thì nước sở tại cần phải có từ 1 đến 2 đồng tương ứng. Như vậy là nảy sinh nhu cầu nguồn vốn lớn trong nước để hấp thụ dòng đầu tư này, cho nên cung về trái khoán sẽ tăng làm tăng lãi suất theo lý thuyết trên. Thị trường tài chính cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố tâm lý. Mặc dù theo lý thuyết kinh tế thì mọi thứ đều đáng nhưng yếu tố tâm lý nhiều khi lại đi ngược với dự đoán. Trong lúc giá trái khoán đang xuống dốc thì có nhà đầu tư vẫn tung tiền thu gom về bất chấp những lời tiên đoán có khủng hoảng kinh tế. Các yếu tố tâm lý cũng chịu ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị. Sau khi Thái Lan xảy ra đảo chính tháng 9/2006. Nền kinh tế đã lâm vào suy thoái, đồng Bạt liên tục mất giá. Trên thị trường tài chính nhiều khi chỉ một lời tuyên bố của những người có tên tuổi cũng ảnh hưởng tới lãi suất của các hàng hoá của nó. Cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á 1997-1999 đã gây chấn động các thị trường tài chính trên toàn thế giới thậm chí làm sụt cả chỉ số Dove - Jone và thị trường chứng khoán New york phải ngừng giao dịch trong 30 phút. Trước tình hình đó vào ngày 29 - 10 - 97. Tổng thống Mỹ Bill lintơn đã xuất hiện trên thị trường chấn an các nhà đầu tư bằng các thông báo rằng nền kinh tế Hoa kỳ đang trong giai đoạn phát triển, thất nghiệp đang ở mức thấp và hệ thống ngân hàng vững mạnh, ngay sau lời tuyên bố các thị trường chứng khoán trên thế giới như được hồi phục chỉ số Dove - Jone tăng 4,7%, Heng Shang (HongKong) tăng 18,7%, Franfurt (Đức) tăng 3,5%. Như vậy, yếu tố chính trị xã hội là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến lãi suất của các công cụ tài chính trên thị trường. Tình hình chung của các công ty : Theo các phân tích trên đó thì chỉ là các nhân tố chung ảnh hưởng đến lãi xuất của các công cụ tài chính. Nhưng lãi xuất cụ thể của công cụ phát hành của một công ty không hoàn toàn phụ thuộc vào những nhân tố trên. Với những đầu tư nhỏ thì tình hình của công ty là nhân tố quyết định xem có đem của cải của mình ra mua các hàng hoá được công ty phát hành không. Trước khi quyết định đầu tư thì người mua phải cân nhắc và xem xét tình hình làm ăn kinh doanh của công ty có phát đạt hay không? có tương lai sáng sủa hay không? có lẽ là người ta sẽ không ngần ngại lắm khi quyết định đầu tư mua cổ phiếu hay trái phiếu của công ty do GEROGE-SOROS người bị tình nghi dính líu đến cơn khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu áđiều hành khi đưọc nghe dẫn chứng về biện tài kinh doanh của ong ta" nếu ai đó đã đầu tư 100 ngàn USDvào năm 1989 khi SOROS thành lập quỹ định lượng và đầu tư trực tiếp vào đó các phần lãi được chia của mình thì người đó sẽ thu được cả thay khoảng130 triệu USDvào năm 1994 vì vậy khi biết những tin tốt lành về công ty người ta sẽ tìm mua những cổ phiếu trái phiếu của công ty làm cho cầu về những trái khoán của công ty phát hành tăng lên. Do vậy, đứng dưới góc độ vi mô thì công ty mới là yếu tố chủ yếu quyết định đến thái độ của nhà đầu tư. Ngày nay cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật mỗi phát minh có thể cho ra đời một ngành mới vậy các công ty đang hoạt động trên hàng ngàn lĩnh vực cho nên mỗi công ty ngoài những đặc trưng riêng của nói còn mang đặc trưng của lĩnh vực mà nó hoạt động. Do đó các loại hình, qui mô của các công ty là muôn hình muôn vẻ tồn tại, hợp tác và cạnh tranh lẫn nhau. Để đáp ứng lại các tín hiệu thị trường mỗi công ty có phản ứng khác nhau, có các chiến lược kinh doanh khác nhau. Vì vậy cho nên nhu cầu về vốn tại mỗi thời điểm của công ty cũng không giống nhau. Nếu xét theo những tiêu thức này thì lãi suất quy mô nhỏ từng công ty phát hành cũng diễn biến không ngừng. Chương 2 Thực trạng thị trường Tài chính ở Việt Nam hiện nay 2.1 Quá trình phát triển của thị trường Tài chính Việt Nam : Giai đoạn 1986 – 1997 Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Trong những năm sau đó , nền kinh tế VN đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1986-1997 đạt 8-9%, lạm phát kìm chế ở mức thấp, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. TTTC Việt Nam được hình thành trong thời kỳ đổi mới, ngày càng gia tăng về quy mô; đồng bộ về cơ cấu, hiện đại hơn về công nghệ, nghiệp vụ và cũng ngày càng khẳng định đậm nét hơn vị thế không thể thiếu được trong tổng thể nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong tạo động lực định hướng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả hiện tại lẫn tương lai... Giai đoạn 1998 – 2006 Khủng hoảng kinh tế ở khu vực châu á xảy ra , các nước như Thái Lan , Philippines , Malaysia , Indonesia và Hàn Quốc.Nguyên nhân là sự rút vốn hàng loạt của các công ty đa quốc gia , các quốc gia thiếu dự trữ ngoại tệ cùng các chính sách kinh tế quá cũ, v.v… đã gây ảnh hưởng xấu đến tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam.Các công cụ tài chính lỗi thời , lạc hậu cùng sự kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài cũ bị thay thế , sửa đổi , bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao 7-8% năm .Đồng thời với sự góp mặt của thị trường CK , sự gia tăng hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh doanh vốn của các ngân hàng TM , luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cùng sự nóng lên của thị trường BĐS đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam khởi sắc và bùng nổ. Giai đoạn 2007 – nay Sau 1 thời gian dài tăng trưởng liên tục và nóng , từ đầu năm 2008 đến trung tuần tháng 6 , sự tụt dốc không phanh của thị trường CK ,sự mất giá của VND cùng sự tăng giá của USD và vàng , sự nguội lạnh đến đóng băng của thị trường nhà đất đã thực sự ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế Việt Nam.Ngay lập tức NHTW Việt Nam cùng các NHTM đã tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát , kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã có hiệu quả.Chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm 2008 cao từ 15-20%/tháng thì đến giữa năm đã giảm chỉ còn 4-5%/tháng.Nhưng đồng thời trên thế giới , cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lại xảy ra đúng vào lúc nhân dân ta đang chống chịu với đà lạm phát.Giá dầu giảm , các công ty bảo hiểm và ngân hàng lớn của thế giới đồng loạt phá sản , các công ty đa quốc gia rút vốn , cắt giảm nhân lực v.v… gây ra đà giảm phát lớn chưa từng có trong lịch sử , đẩy hàng triệu người mất việc , các công ty lâm vào cảnh kinh doanh khó khăn , giá cả đắt đỏ ,v.v…Trong tình hình đó Nhà nước Việt Nam đã kịp thời sửa đổi các chính sách tiền tệ và công cụ tài chính hiện hành để phù hợp với cuộc chiến chống khủng hoảng kinh tế thế giới và đà lạm phát trong nước. 2.2 Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam : 2.2.1 Về các công cụ của thị trường : - Trái phiếu kho bạc ( tín phiếu kho bạc ) Được phát hành từng đợt , cách nhau nhiều năm , với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường tại thời điểm phát hành , với thời hạn từ 5-10 năm , nhằm huy động vốn cho các công trình trọng điểm của nhà nước , tuy nhiên cách phát hành còn khép kín khiến cho việc huy động hiệu quả ko được cao. - Kỳ phiếu ngân hàng Được các NHTM hiện nay tập trung phát triển với tầm vóc và quy mô ngày càng lớn , được xem là 1 kênh huy động vốn hiệu quả và nhanh như tiền gửi ngân hàng. - Tiền gửi ngân hàng Là kênh huy động vốn chính của các NHTM hiện nay , với đặc điểm lãi suất thay đổi liên tục , được sự bảo hộ lớn từ NHTW nên tiền gửi ngân hàng được xem là 1 kênh đầu tư an toàn nhưng kém hiệu quả trong thời điểm hiện tại khi tình hình lạm phát vẫn còn có xu hướng quay trở lại. - Cổ phiếu Là 1 kênh đầu tư vốn mới , khi TTCK được thành lập năm 2001 , cổ phiếu được biết đến như là 1 kênh đầu tư vốn của các đại gia lắm tiền nhiều của .Nhưng sau đợt bùng phát TTCK từ năm 2006-2007 , TTCK ngày càng được xem như 1 kênh huy động vốn quan trọng và hiệu quả cho nền kinh tế khi quy mô và số lượng các mã CK được lên sang và số lượng tiền gd ngày 1 lớn hơn.Tuy nhiên , nhận thức được đây là 1 thị trường đẩy rủi ro nên Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách quản lý hiệu quả. - Các công cụ tài chính khác Việt Nam hiện nay ngoài các công cụ tài chính trên thì chưa có nhiều ứng dụng các công cụ tài chính.Tuy nhiên công cụ tài chính phái sinh nổi lên được xem là công cụ có triển vọng nhất trong thời gian sắp tới khi các ưu điểm như phân tán rủi ro , bảo toàn vốn và tạo ra lợi nhuận với 2 loại hợp đồng thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts). 2.2.2 Về cấu trúc của thị trường : - Thị trường nợ Việt Nam, một trong những thị trường mua bán nợ nổi bật nhất châu Á, đang thu hút các quỹ trái phiếu toàn cầu vì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ngày một tăng cũng như mức định giá tín nhiệm ngày một cao hơn. Fortis Investments, thuộc công ty dịch vụ tài chính của Bỉ, đang tích cực gia tăng đầu tư vào trái phiếu Việt Nam đồng. Oppenheim, thuộc ngân hàng tư nhân lớn nhất ở châu Âu cũng có kế hoạch trái phiếu Việt Nam khi quốc gia này bán trái phiếu USD lần thứ hai Giới đầu tư được tăng cường thêm quyết tâm hướng tới thị trường Việt Nam bởi dự báo của chính phủ về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế sáu năm liên tiếp vượt quá 7% cũng như tư cách thành viên của WTO. Việt Nam đang thu hút rất nhiều tiền để kiềm chế ""mức độ quá tải"" trên thị trường trái phiếu và chứng khoán, các nhà phân tích thuộc Credit Suisse nhận xét trong một báo cáo gần đây. Mức chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu Việt Nam và Mỹ đã giảm xuống chỉ còn 1,32% so với mức chênh lệch 2,56% khi mà Chính phủ Việt Nam phát hành hồi tháng 10/2005 (mức lãi suất khi đó là 6,875%, đáo hạn 2016). Giới đầu tư đang rất chú tâm vào dự báo lãi suất trong khoản nợ của quốc gia. Trái phiếu USD của Việt Nam đã trở lại mức 9,6% trong năm ngoái, theo số liệu của J.P. Morgan Chase. Lãi suất trái phiếu Việt Nam thời hạn 10 giảm 0,45% xuống còn 8,35% trong năm nay. Chỉ Thái Lan có mức lãi suất giảm lớn hơn trong số 11 thị trường hấp dẫn nhất châu Á. Lãi suất trái phiếu tiền đồng Việt Nam đã khôi phục ở mức 0,25% trong tháng 12, mức tăng hàng tháng lớn nhất trong hơn 11 năm qua. Lãi suất trái phiếu USD của Việt Nam giảm 0,25% tương tự như mức giảm của trái phiếu Indonesia, ít hơn mức 0,87% của trái phiếu Pakistan, và mức 0,91% của trái phiếu Thổ Nhĩ Kỳ. Tỉ lệ lãi suất giảm ít hơn khiến giới đầu tư đánh giá trái phiếu của Việt Nam có ít rủi ro hơn. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt Nam đã thông báo đạt thặng dư trong tài khoản vãng lai vào năm 2005 - lần đầu tiên trong vòng bốn năm. Chính phủ Việt Nam tỏ ra khá lạc quan rằng, nước này sẽ đạt tỉ lệ cao hơn khi giao dịch thương mại mở rộng. Tháng 9 vừa qua, Standard & Poor"s đã nâng Việt Nam 1 bậc trên bảng xếp hạng nợ ngoại tệ dài hạn lên BB, 2 bậc dưới mức đầu tư. Tháng 1 năm nay, Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO sau một năm cam kết đầu tư nước ngoài tăng 49% đạt 10,2 tỉ USD và dự trữ tiền tệ tăng tới 11,5 tỉ USD. Chỉ số chứng khoán chuẩn của Việt Nam đã tăng 52% - cao nhất trên thế giới. Trong tháng này, Việt Nam có thể bán khoảng 1 tỉ USD trái phiếu (theo Vietnam Investment Review). Trong năm 2006, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 8,2%, đồng thời giành được nhiều cam kết đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất từ các tập đoàn lớn như Intel - nhà sản xuất chip bán dẫn lớn nhất thế giới và Posco, nhà sản xuất thép Hàn Quốc. Chính phủ Việt Nam dự báo mức tăng trưởng kinh tế trong năm nay sẽ đạt khoảng 8,5% - Thị trường vốn cổ phần Có lịch sử hình thành và phát triển lâu nhất ở Việt Nam , nhưng đến nay , với sự bùng phát mạnh mẽ của TTCK và thị trường tiền tệ cùng các công cụ tài chính của ngân hàng , thị trường vốn cổ phần tuy vẫn phát triển nhưng so với mặt bằng chung thì có phần giảm sút .Nguyên nhân là sự cạnh tranh cùng các yếu tố kinh tế chính trị xã hội .Tuy nhiên thị trường vốn cổ phần vẫn chiếm 1 phần quan trọng trong huy động vốn sản xuất ở Việt Nam hiện nay. - Thị trường cấp 1 ( sơ cấp ) Hay còn gọi là thị trường OTC , đã phát triển mạnh mẽ và bùng nổ trong giai đoạn CK lên ngôi 2006-2007.Tuy nhiên việc tham gia của quá nhiều thế lực và đại gia đã biến thị trường OTC gần như đóng kín với nhà đầu tư phổ thông. Thị trường sơ cấp Việt Nam thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy động vốn cho đầu tư , ngoài ra còn giúp chính phủ huy động vốn cho các công trình trọng điểm bằng việc phát hành trái phiếu. - Thị trường cấp 2 ( thứ cấp ) Đây là thị trường sôi động nhất trong năm 2006-2007 khi CK lên ngôi cùng thị trường OTC.Tuy nhiên , sự tham gia 1 cách thiếu hiểu biết của nhà đầu tư Việt Nam đã gây nên hậu quả là “bong bóng CK” khiến TTCK Việt Nam tụt dốc không phanh trong năm 2008.Ở thị trường này , chủ yếu các giao dịch là giao dịch cổ phiếu , các giấy tờ có giá và 1 phần nhỏ trái phiếu chính phủ.Tuy nhiên hình thức trao tay và tin đồn đã gây nên sự thổi phồng về giá khiến không._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22597.doc
Tài liệu liên quan