Lời mở đầu
Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh khai trương tạo ra sự khởi đầu cho hoạt động của TTCK Quốc gia. Ngày 28/7/2000, vào lúc 11 giờ, phiên giao dịch đầu tiên của TTCK Việt Nam được thực hiện và được đánh giá là thành công ngoài dự kiến.
Về nhiều mặt, đối với chúng ta, việc xây dựng thành công một TTCK tương đối hoàn chỉnh, hoạt động theo quy trình tương đối hiện đại, có thể xem là một “công trình thế kỷ” trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Đây là kết
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qủa của quá trình chuẩn bị công phu với nỗ lực nhằm đưa TTCK đi vào hoạt động, tạo thêm một kênh huy động vốn hữu hiệu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta đang sống trong một bối cảnh kinh tế-xã hội đặc biệt với những thay đổi hết sức lớn lao, tất cả mọi quốc gia đều đang nằm trong vòng quay mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế. Trong bối cảnh đó, Việt Nam chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Hội nhập kinh tế đòi hỏi rất nhiều đến việc sử dụng tối đa nội lực cũng như tranh thủ hợp lý nguồn ngoại lực từ bên ngoài. Quá trình hội nhập kinh tế tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, mọi mặt của nền kinh tế. Là một thể chế thị trường bậc cao, TTCK cũng không thể nằm ngoài xu hướng hội nhập. Mặc dù, TTCK Việt Nam ra đời chưa lâu, nhưng vẫn luôn chịu tác động của quá trình hội nhập kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu TTCK Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế hiện nay là hết sức cấp thiết và cấp bách.
Mục đích của đề tài nghiên cứu:
Một là: Xác định cấu trúc hợp lý của một TTCK trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Hai là: Phân tích, đánh giá quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam nói chung và sự phát triển của TTCK Việt Nam nói riêng trong tiến trình hội nhập kinh tế. Nêu lên một số thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Ba là: Làm rõ một số quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập của TTCK Việt Nam . Nêu lên những định hướng chiến lược cho qúa trình hội nhập TTCK .
Bốn là: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thị trường chứng khoán mà cụ thể là thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng không xem xét một cách riêng biệt mà luôn được đặt một xu thế thống nhất, đó là quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu một số mặt cơ bản của TTCK như: cấu trúc, chủ thể, hàng hoá dưới tác động của quá trình hội nhập kinh tế. Đồng thời tìm ra những giải pháp hoàn thiện và đẩy nhanh quá trình hội nhập TTCK .
ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đề tài phân tích sâu hơn những mặt cơ bản của TTCK nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng trong quá trình hội nhập kinh tế.
Đề tài chỉ ra những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế một cách cụ thể, có hệ thống, từ đó làm cho các giải pháp và kiến nghị đề xuất có tính hiện thực cao, phù hợp với hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam-một nền kinh tế mới chỉ chuyển qua hoạt động theo cơ chế thị trường được hơn 15 năm và TTCK Việt Nam-mới chỉ đi vào hoạt động được gần 2 năm.
Kết cấu của đề tài:
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về TTCK trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Chương II: Thực trạng TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện và hoàn thiện TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong qúa trình nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra với 2 đối tượng là các nhà đầu tư đã tham gia trên TTCK Việt Nam và các nhà đầu tư tiềm năng. Cuộc điều tra được tiến hành tại 6 công ty chứng khoán là: Công ty chứng khoán Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam, Công ty chứng khoán Ngân hàng NN0&PTNT, Công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty chứng khoán Bảo Việt, Công ty chứng khoán Ngân hàng ACB. Kết quả của cuộc điều tra này là một trong những căn cứ để chúng tôi đánh giá thực trạng và tìm ra giải pháp cho TTCK Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã nhận được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng-Tài chính. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và phân tích các tài liệu trong nước và quốc tế, các thông tin chi tiết về TTCK và qúa trình hội nhập kinh tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua, song vì đây là một vấn đề lớn và phức tạp nên chúng tôi không tránh khỏi những sai sót trong cách viết. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, sự phê bình của các thầy cô giáo và những người quan tâm để chúng tôi có thể hoàn thiện hơn đề tài này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Lý luận chung về Thị Trường Chứng Khoán trong tiến trình hội nhập
Tổng quan về Thị Trường Chứng Khoán
Khái niệm về chứng khoán và thị trường Chứng Khoán
Chứng khoán
a. Khái niệm, đặc điểm của Chứng khoán
Có nhiều cách hiểu khác nhau về chứng khoán, trong đó có một cách hiểu cho rằng: "Chứng khoán là chứng chỉ hay bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành”
Hay có một cách hiểu khác: "Chứng khoán được hiểu là giấy tờ làm bằng chứng, chứng nhận cho người cầm giữ nó có những quyền nhất định về một loại tài sản nào đó".
Dù có nhiều khái niệm khác nhau về chứng khoán nhưng về cơ bản các chứng khoán mang lại cho người sở hữu hợp pháp chứng khoán những quyền sau:
Quyền sở hữu.
Quyền chủ nợ.
Quyền về tài chính có liên quan đến chứng khoán.
Ngày nay, có rất nhiều loại chứng khoán khác nhau nhưng chúng đều có 3 đặc điểm chủ yếu:
Tính sinh lời (Yield): Mỗi loại chứng khoán đều là phương tiện cất trữ của cải, bảo toàn vốn và có khả năng đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng.
Tính rủi ro (Risk): Việc mua bán chứng khoán là quá trình đầu tư và kinh doanh mà luôn gắn với rủi ro. Đó là việc không thu được lãi hoặc gốc ban đầu. Khi đầu tư vào chứng khoán, nhà đầu tư có thể gặp phải những rủi ro sau:
+ Rủi ro vỡ nợ.
+ Rủi ro lạm phát.
+ Rủi ro do tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra, còn nhiều loại rủi khác như rủi ro do giảm giá chứng khoán, do lãi suất thị trường hiện tại tăng lên, do tính thanh khoản kém...
Tính thanh khoản (Liquidity): Tính thanh khoản của chứng khoán còn được gọi là tính hoán tệ, tính lỏng, tính lưu thông... Đây là khả năng chuyển các chứng khoán thành tiền mặt một cách dễ dàng trong thời gian ngắn và không có rủi ro sụt giảm giá trị tiền tệ của chứng khoán đó. Chứng khoán có tính thanh khoản càng cao khi những chi phí bỏ ra để chuyển chúng thành tiền mặt càng nhỏ.
Ba đặc trưng này của chứng khoán luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Thông thường, các chứng khoán có độ rủi ro tiềm năng cao thì khả năng sinh lợi cũng cao. Đó chính là yếu tố hấp dẫn những nhà đầu tư nắm giữ các loại chứng khoán có độ rủi ro cao. Giữa khả năng sinh lợi và tính thanh khoản cũng có mối quan hệ chặt chẽ. Chứng khoán có tính thanh khoản cao thì khả năng sinh lợi thấp, bởi những chứng khoán này thường có lợi thế trong giao dịch, bất cứ lúc nào cũng có thể bán nó với thời gian ngắn nhất và ở mức giá hợp lý nhất.
b) Các loại chứng khoán
Chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu,chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ chứng khoán phái sinh.
b.1. Cổ phiếu: Có bản chất là chứng khoán vốn (Stock/Share/Action)
Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần.
Cổ đông được hưởng quyền cũng như những khoản nợ và những nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi lượng vốn cố định mà nhà cổ đông đóng góp vào công ty. Do vậy cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn.
Cổ phiếu được chia làm 2 loại:
Cổ phiếu thường hay cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu có lợi tức không cố định mà phụ thuộc vào lợi nhuận thu được của công ty cổ phần, nên nó có độ rủi ro cao.
Việc trả cổ tức đối với cổ phiếu được thực hiện bằng các hình thức sau:
+ Trả bằng tiền mặt .
+ Trả bằng cổ phiếu của công ty.
+ Trả bằng tài sản của công ty.
Tuy nhiên, công ty cổ phần cũng có thể phát hành cổ phiếu không có mệnh giá. Người nắm giữ loại cổ phiếu này thường dành cho các sáng lập viên của công ty. Cổ phiếu này có đặc điểm là người nắm giữ nó chỉ được hưởng lợi sau khi tiền lời thuần túy đã chia cho các cổ đông.
Cổ phiếu ưu đãi (preferred stocks) (cổ phiếu độc quyền) là loại cổ phiếu được hưởng những quyền ưu tiên:
+ Được hưởng một mức cổ tức riêng biệt, có tính cố định hàng năm.
+ Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thường.
+ Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty sau khi công ty phá sản hoặc giải thể trước cổ phiếu thường.
Tuy nhiên không giống như cổ phiếu thường, người sở hữu cổ phiếu ưu đãi không tham gia quản lý điều hành công ty (trừ cổ đông ưu đãi biểu quyết).
Giống như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá. Nếu cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá thì cổ tức được tính theo giá trị tuyệt đối hoặc tỷ lệ % trên mệnh giá. Ngược lại cổ phiếu ưu đãi không có mệnh giá thì cổ tức sẽ được ấn định theo giá trị tuyệt đối.
Có nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau:
+ Cổ phiếu ưu đãi tích lũy và cổ phiếu ưu đãi không tích lũy
+ Cổ phiếu ưu đãi đã dự phần và cổ phiếu ưu đãi không dự phần
+ Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi
+ Cổ phiếu ưu đãi thu hồi
+ Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết (Việt Nam)
b.2. Trái phiếu
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu, trong đó cam kết trả số tiền gốc kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định.
Đặc điểm của trái phiếu:
Trái phiếu có thời gian đáo hạn
Trái phiếu thường có lợi tức cố định (trừ trái phiếu có lợi tức thả nổi)
Trái phiếu có mệnh giá
Trái phiếu thường được phân loại theo phương thức trả lãi:
Trái phiếu Coupon: là loại trái phiếu lãi trả đều gốc trả vào cuối kỳ.
Trái phiếu Consol: là loại trái phiếu lãi trả đều, gốc không trả.
Trái phiếu chiết khấu: lãi trả trước, gốc trả gọn
Trái phiếu hoàn trả cố định: gốc trả đều, lãi trả tiền số dư
Trái phiếu hoàn trả theo niên kim cố định: Mỗi thời kỳ, người sở hữu trái phiếu sẽ được trả một khoản tiền nhất định (một niên kim) bao gồm cả gốc và lãi.
Trái phiếu hoàn trả gốc lãi gọn: là loại trái phiếu được trả gốc và lãi một lần và cuối kỳ.
Các khái niệm liên quan đến trái phiếu:
Mệnh giá trái phiếu: Mệnh giá là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải trả ngoài lãi khi ngày đáo hạn trái phiếu.
Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất ghi trên trái phiếu hoặc được nhà phát hành công bố. Lãi suất danh nghĩa là một căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
Thời hạn trái phiếu: Là khoảng thời gian kể từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả hoàn trả hết tiền vay lần cuối.
Kỳ trả lãi: là khoảng thời gian giữa các thời điểm người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu.
Giá phát hành: là tỷ lệ % giữa tổng số tiền lãi trong năm với giá thị trường hiện hành.
Lãi suất đáo hạn: là lãi suất hoàn vốn tư bản của một trái phiếu, nếu mua trái phiếu vào thời điểm hiện tại và nắm giữ trái phiếu đến ngày đáo hạn.
Phí suất: là một khái niệm được sử dụng để xác định chi phí thực tế mà người phát hành chi trả cho việc sử dụng một đơn vị tiền vay. Nó được xác định bằng tỷ lệ % giữa tổng chi phí vay thực tế mà người phát hành phải trả trong một năm với giá bán trái phiếu.
b.3 Các chứng khoán phái sinh
Là các chứng từ được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán.
Các chứng khoán phát sinh bao gồm:
Chứng quyền: hay còn gọi là quyền tiên mãi hay quyền đặt mua mà một chứng thư do công ty cổ phần phát hành cho cổ đông, xác nhận quyền của cổ đông được mua một số lượng nhất định cổ phiếu mới phát hành với một giá cả nhất định và trong một thời gian nhất định.
Chứng khế (bảo chứng phiếu): Đây là một chứng thư được công ty phát hành kèm với trái phiếu cổ phiếu ưu đãi, trong đó cho phép người sở hữu được quyền mua một số lượng chứng khoán nhất định (trái phiếu và cổ phiếu thường hoặc chuyển đổi chứng khoán đó sang cổ phiếu thường mới phát hành, với giá cả nhất định và trong thời hạn nhất định).
Quyền chọn: là một kiểu hợp đồng giữa 2 bên, trong đó một bên bán cho bên kia quyền mua hoặc quyền bán chứng khoán với một mức giá nhất định và trong một thời hạn nhất định. Bên mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền, đồng thời phải trả phí (quyền phí) cho bên bán quyền.
Hợp đồng tương lai: là hợp đồng giữa người bán và người mua, trong đó người bán cam kết giao một lượng chứng khoán nhất định và người mua sẽ trả tiền khi nhận được số chứng khoán đó với mức giá nhất định, tại một ngày nhất định trong tương lai.
Thị trường chứng khoán
a) Khái niệm, đặc điểm Thị trường chứng khoán
Hiện nay, có ý kiến cho rằng TTCK là nơi phát hành, giao dịch, mua bán chứng khoán. Tuy nhiên, với cách hiểu này thì khái niệm TTCK sẽ đồng nghĩa với khái niệm sàn GDCK, không bao quát được các giao dịch bên ngoài sàn giao dịch.
Theo chúng tôi, có thể đưa ra một khái niệm bao quát hơn về TTCK như sau: "TTCK là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu chứng khoán để xác định giá cả và khối lượng chứng khoán giao dịch".
Đặc điểm của TTCK:
Thứ nhất, TTCK gắn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều có thể tham gia thị trường. Không có sự áp đặt về giá cả, giá cả ở đây được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin liên quan đến chứng khoán.
Thứ hai, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
b) Cấu trúc của TTCK:
Có thể phân chia TTCK theo các tiêu thức sau:
b.1. Căn cứ vào phương thức giao dịch
TTCK tập trung: Tất cả các lệnh giao dịch mua bán chứng khoán đều được thực hiện bởi các nhà môi giới. Giá cả của các loại chứng khoán được xác định trên cơ sở đấu giá công khai qua các lần khớp lệnh thường xuyên hoặc khớp lệnh định kỳ.
Các loại hàng hóa được niêm yết trên TTCK tập trung là các loại chứng khoán của các tổ chức phải đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định, các tiêu chuẩn này thường rất cao, do từng nước quy định. Ngoài ra còn có các loại chứng khoán đặc biệt được miễn giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do chính phủ hoặc chính quyền quyền địa phương phát hành.
Thị trường này, như tên gọi của mình, có nơi mua bán chứng khoán cụ thể, là các Sở (trung tâm) giao dịch chứng khoán.
TTCK phi tập trung (OTC): Khác với TTCK tập trung, trên thị trường OTC các lệnh mua và bán chứng khoán được thực hiện trực tiếp giữa các nhà đầu tư (chủ yếu là các CTCK) hay còn gọi là các nhà tạo lập thị trường. Các giao dịch được thực hiện qua một hệ thống thông tin hiện đại, giá cả được tạo lập chủ yếu qua hình thức thương lượng, thỏa thuận chính vì thế trên thị trường với mỗi loại chứng khoán tại mỗi thời điểm có thể có nhiều mức giá.
Các nhà tạo lập thị trường có thực hiện nghiệp vụ môi giới nhưng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng các giao dịch.
TTCK phi tập trung không có địa điểm cụ thể. Các nhà tạo lập thị trường tự chọn địa điểm cho mình và liên lạc với nhau qua mạng điện thoại hay mạng máy tính.
Các loại chứng khoán trên thị trường OTC cũng rất đa dạng nhưng chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên Sở (trung tâm) GDCK. Bao gồm chứng khoán của các công ty, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, trái phiếu của Chính phủ và chính quyền địa phương.
Thị trường tự do: Phương thức giao dịch là xác định giá cả trên thị trường tự do khá giống với thị trường OTC. Tuy nhiên, khi thực hiện giao dịch, những người mua và bán chứng khoán phải trực tiếp gặp nhau hoặc qua điện thoại hay mạng Internet đơn giản để có thể xác định giá cả và số lượng chứng khoán trao đổi.
TTCK tự do không thể có được hệ thống thanh toán bù trừ hiện đại như trên TTCK tập trung hoặc thị trường OTC.
Có thể nói thị trường tự do nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước. Các tiêu chuẩn cho các loại chứng khoán được xác định theo nhận thức của các nhà đầu tư.
b.2. Căn cứ vào tính chất phát hành
TTCK bao gồm 2 bộ phận: Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp hay còn gọi là Thị trường phát hành, là thị trường mua bán lần đầu những chứng khoán mới phát hành. Một thị trường gọi là sơ cấp khi người phát hành chứng khoán nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Như vậy, thị trường sơ cấp là thị trường cung cấp vốn. Qua hoạt động của thị trường những nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế xã hội được chuyển dịch thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán.
Đặc điểm của thị trường này là hoạt động không liên tục. Thị trường sơ cấp chỉ hoạt động khi có các đợt phát hành chứng khoán mới.
- Thị trường thứ cấp còn gọi là thị trường lưu thông, là thị trường mua đi bán lại những chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp.
Thị trường thứ cấp hoạt động liên tục, các hoạt động mua bán chứng khoán diễn ra thường xuyên. Giá trị giao dịch chứng khoán có thể lên tới hàng ngàn tỷ đô la. Nhưng giá trị giao dịch này chỉ chạy qua các túi của các nhà đầu tư còn đối với tổ chức phát hành, khối lượng vốn huy động được qua các lần phát hành là không đổi. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, Thị trường sơ cấp đóng vai trò là tiền đề, là cơ sở còn thị trường thứ cấp đóng vai trò là động lực cho thị trường sơ cấp phát triển.
Trong thực tế, không có sự phân giới rõ ràng giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp.
c) Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán
Trên TTCK có rất nhiều các chủ thể tham gia với các mục đích khác nhau. Họ bao gồm từ Chính phủ, chính quyền các cấp, các cơ quan chức năng chuyên trách, các doanh nghiệp, các quỹ, cho tới hộ gia đình, dân cư và các nhà đầu tư cá nhân. Có nhiều tiêu thức để phân nhóm các chủ thể này. Song tiêu thức phổ biến nhất thường được sử dụng là mục đích của các chủ thể khi tham gia vào TTCK .
Căn cứ vào tiêu thức này có thể nhóm các chủ thể tham gia TTCK thành:
Chủ thể phát hành
Chủ thể đầu tư
Chủ thể trung gian chứng khoán
Chủ thể quản lý và giám sát hoạt động TTCK
Các tổ chức khác có liên quan
d) Cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán
Cơ chế hoạt động của thị trường được hiểu là tổng hợp các hình thức và phương pháp tổ chức, quản lý các hoạt động của thị trường, nhằm thực hiện nhưng mục tiêu đa đề ra. Đối với TTCK cơ chế hoạt động của thị trường bao gồm các quy định, quy tắc về các hoạt động cơ bản như phát hành, niêm yết, giao dịch, lưu trữ và thanh toán.
e) Phát hành chứng khoán
Phát hành chứng khoán là công việc "khai sinh" ra các loại chứng khoán, là công việc khởi đầu để tạo ra chứng khoán và đưa chứng khoán vào luân chuyển, lưu thông trên thị trường thông thường có hai hình thức phát hành: phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
- Phát hành riêng lẻ: (còn gọi là phát hành nội bộ) là việc phát hành chỉ được thực hiện trong phạm vi một số người nhất định. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thường không chịu hoặc ít chịu sự điều chỉnh của các quy định luật về chứng khoán về TTCK mà nó chịu sự điều chỉnh của các luật khác như Luật Công ty, Luật doanh nghiệp.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng: là việc phát hành chứng khoán trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng và khối lượng phát hành đạt tới một quy mô nhất định, chứng khoán phát hành ra công chứng là đối tượng giao dịch trên TTCK chịu sự quản lý giám sát của một cơ quan chuyên trách và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng khoán và TTCK .
f) Niêm yết chứng khoán.
Niêm yết chứng khoán là việc ghi danh các chứng khoán nhất định vào danh mục các chứng khoán đủ tiêu chuẩn được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.
Mỗi thị trường do những đặc điểm, điều kiện cụ thể khai thác mà có những quy định khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy một số các tiêu chuẩn phổ biến để chứng khoán có thể được niêm yết trên Sở GDCK là:
Một là: chứng khoán phải là chứng khoán vô danh
Hai là: chứng khoán phải có khối lượng lớn, mệnh giá nhỏ.
Thông thường Sở GDCK nào cũng yêu cầu Công ty phát hành chứng khoán muốn đăng ký vào TTCK thì phải có ít nhất một tỷ lệ chứng khoán (theo %) được phát hành ra cho công chúng nắm giữ .Với tỷ lệ này cùng với yêu cầu mệnh giá nhỏ thì công chúng mới dễ dàng tham gia mua bán các loại chứng khoán đó. Đây là điều kiện nhằm đảm bảo cho TTCK hoạt động liên tục và sôi động.
Ba là: Chứng khoán phải có độ tin cậy cao, tiêu chuẩn này nhằm bảo vệ các nhà đầu tư và nó được thể hiện qua một số tiêu chuẩn cụ thể. Thông thường độ tin cậy của các chứng khoán được cung cấp bởi các công ty phân hạng tín dụng có uy tín.
g) Cơ chế hình thành giá trên Sở giao dịch chứng khoán:
Trên thế giới hiện nay có hai phương thức hình thành giá cơ bản: là phương thức đấu giá theo giá và phương thức đấu giá theo lệnh.
Phương thức đấu giá theo giá: theo phương thức này một số nhà môi giới sẽ đóng vai trò nhà tạo lập thị trường đưa ra mức giá chào mua và mức giá chào bán cho các chứng khoán mà họ tiến hành giao dịch. Đồng thời họ cùng cạnh tranh với nhau để hình thành giá giao dịch. Nhà đầu tư sẽ xem xét các giá này và đưa ra quyết định.
Phương thức đấu giá theo lệnh: Theo phương thức này các lệnh mua bán sẽ được tập trung và được khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất. Lệnh được so khớp mà không cần thông qua các nhà tạo lập thị trường. Giá cả được hình thành thông qua cạnh tranh trực tiếp giữa các nhà đầu tư, đảm bảo lượng chứng khoán bán được là nhiều nhất.
Có hai hình thức khớp lệnh là khớp lệnh liên tục và khớp lệnh định kỳ.
Vai trò và chức năng của Thị Trường Chứng Khoán .
Vai trò của Thị Trưòng Chứng Khoán.
TTCK là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Dưới góc độ xem xét này, TTCK có các vai trò sau:
a. Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế.
Việc mua đi bán lại chứng khoán trên TTCK đã tạo điều kiện di chuyển vốn đầu tư từ ngành này sang ngành khác, phá vỡ “tính ỳ” của đầu tư trong sản xuất, tạo ra động lực và sự năng động cho sản xuất kinh doanh góp phần tạo ra sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế.
b. Thị trường chứng khoán tạo ra sự phân bổ vốn hợp lý cho các khu vực của nền kinh tế.
Khi Chính phủ và các doanh nghiệp muốn huy động vốn trên TTCK thì Chính phủ và các doanh nghiệp phải đưa ra những mức lãi suất khác nhau cho từng loại trái phiếu . Khi đưa ra các mức lãi suất này Chính phủ và các doanh nghiệp phải cân nhắc giữa khả năng sinh lãi của nguồn vốn, trong mối liên hệ với các khoản đầu tư khác về các rủi ro có liên quan. Khi nhu cầu về vốn của một ngành, lĩnh vực hay doanh nghiệp nào đó là cấp thiết, khả năng sinh lời cao thì mức lãi suất sẽ được đặt ở mức cao để thu hút được các nhà đầu tư và ngược lại. Chính điều này làm cho việc phân bổ các nguồn vốn trở nên hợp lý hơn.
c. Thị trường chứmg khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả hơn.
Với nguyên tắc công khai của TTCK , các nhà đầu tư có thể theo dõi, đánh giá, giám sát các công ty một cách dễ dàng. Đồng thời sự tự do lựa chọn của người đầu tư trong việc mua bán các chứng khoán của các doanh nghiệp dựa trên sự đánh giá của họ về doanh nghiệp sẽ buộc các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn một cách thật sự hiệu quả nhằm huy động được vốn thông qua TTCK . Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, họ khó có thể huy động được vốn bằng trái phiếu, cổ phiếu. Các chứng khoán của họ đã phát hành sẽ sụt giá trên thị trường, do các nhà đầu tư sẽ đồng loạt bán ra, làm cho giá trị của doanh nghiệp sụt giảm và đẩy doanh nghiệp tới nguy cơ phá sản.
d. Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp Chính phủ thực hiện các chính sách tài chính-tiền tệ có hiệu quả hơn.
Thông qua TTCK , Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ của mình bằng các nghiệp vụ thị trường mở một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Nhà nước có thể bán ra các chứng khoán của mình để thu về một lượng tiền từ trong lưu thông nhằm làm giảm mức cung tiền khi nhận thấy mức cung tiền trong lưu thông là lớn hơn mức cung tiền cần thiết. Và ngược lại, Nhà nước có thể mua vào các loại trái phiếu chính phủ để tung tiền ra ngoài lưu thông. Nhằm tăng mức cung tiền khi nhận thấy mức cung tiền trong lưu thông là thấp hơn mức cung tiền cần thiết.
Một trong những mục tiêu của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước là ổn định và phát triển kinh tế. Để thực hiện được các chương trình phát triển kinh tế xã hội của mình nhà nước cần phải có một ngân sách đủ mạnh. Bên cạnh việc tăng thu ngân sách từ thuế, Nhà nước còn sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu để vay tiền của công chúng nhằm tăng cường ngân sách.
Như vậy có thể thấy rõ ràng là TTCK giúp cho Nhà nước thực hiện các chính sách tài chính-tiền tệ thuận tiện và hiệu quả hơn.
Bên cạnh những vai trò tích cực, TTCK cũng chứa đựng các mặt tiêu cực như: đầu cơ lũng đoạn thị trường, mua bán nội gián, phao tin đồn không chính xác hoặc thông tin xác lệch về hoạt động của một doanh nghiệp.. Đây là những điểm xấu nằm trong cái vốn có của TTCK “tự do”. Tuy nhiên những nhược điểm này hoàn toàn có thể được hạn chế bởi sự quản lý của cơ quan chuyên trách của Nhà nước và sự chân chính của hệ thống luật pháp về chứng khoán cũng như hệ thống pháp lý nói chung.
Chức năng của thị trường chứng khoán :
Có thể thấy rằng TTCK có nhiều chức năng, song tựu chung lại có các chức năng cơ bản dưới đây:
a. Công cụ tăng tiết kiệm quốc gia và huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
TTCK cung cấp danh mục đầu tư đa dạng cho công chúng, khuyến khích công chúng tiết kiệm, huy động nguồn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư, từ đó có thể tạo ra nguồn lực to lớn bằng khả năng xã hội hóa đầu tư rộng rãi nhất. Mọi nguồn vốn nhỏ lẻ, trôi nổi trong xã hội được tập trung lại tạo thành một luồng vốn khổng lồ, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu đầu tư phát triển.
Đứng về phía người sử dụng vốn là các doanh nghiệp hoặc Chính phủ, TTCK cho phép họ có thể gọi vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh và tài trợ cho các nhu cầu tài chính khác.
Như vậy, TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư với khả năng sinh lời cao có lựa chọn cho các nhà đầu tư công chúng, từ đó nâng cao mức tiết kiệm quốc gia và tạo ra khả năng huy động vốn to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
b. Tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Hoạt động diễn ra thường xuyên, hàng ngày, hàng giờ trên TTCK là mua bán các chứng khoán đã phát hành giữa các nhà đầu tư nhằm thỏa mãn các nhu cầu về lợi nhuận, thanh khoản, hay vì một lý do nào đó mà phải thay đổi các quyết định đầu tư trước đó. Việc mua đi bán lại các chứng khoán này không tạo thêm nguồn vốn cho chủ thể phát hành, nhưng có khả năng tạo thu nhập cho người mua bán chúng và tạo ra sự chuyển đổi quyển sở hữu chứng khoán từ người này sang người khác.
c. Đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá và biểu hiện giá trị tài sản của doanh nghiệp và của nền kinh tế một cách công khai và nhạy bén, thông qua giá cả của các chứng khoán và các chỉ số chứng khoán. Nếu giá cả chứng khoán và các chỉ số chứng khoán của doanh nghiệp cũng như của toàn bộ TTCK tăng trưởng một cách đều đặn ổn định, cho phép chúng ta khẳng định sự phát triển ổn định và vững chắc của doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế; và ngược lại khi giá cả chứng khoán và các chỉ số chứng khoán là không ổn định hoặc suy giảm thì điều này cho phép chúng ta khẳng định tình trạng bất ổn, và có xu hướng suy thoái trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như sự bất ổn và suy thoái nói chung của nền kinh tế.
Xây dựng và phát triển TTCK trong tiến trình hội nhập.
Ngày nay nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế ở mỗi nước là rất lớn vì vậy TTCK ra đời như là một tất yếu khách quan kinh tế của mỗi nước. Xây dựng và phát triển TTCK là cần thiết để tạo thêm một kênh huy động vốn có hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng hiện nay, quá trình xây dựng và phát triển TTCK của mỗi nước đều phải gắn với quá trình toàn cầu hóa và quá trình hội nhập kinh tế - đây là quá trình diễn ra mạnh mẽ, thu hút sự tham gia của hầu hết các nước trên thế giới. Vậy hội nhập kinh tế là gì và việc xây dựng và phát triển TTCK trong tiến trình hội nhập kinh tế đang đặt ra những vấn đề gì cần phải giải quyết. Phần này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề đó.
Hội nhập kinh tế.
Một số quan điểm chung về hội nhập kinh tế
Mặc dù toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang là xu thế rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay nhưng hiện còn rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trước đây trong giai đoạn quốc tế hóa thì việc hội nhập kinh tế quốc tế được xem là sự bành trướng các hoạt động kinh tế vượt ra khỏi biên giới của quốc gia .Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá thì việc một quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế được xem là đã hội nhập về kinh tế. Từ quan điểm này đã phát triển ra nhiều quan điểm khác nhau dựa vào mối liên hệ giữa toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Có quan điểm cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là việc tham gia vào quá trình phát triển nhất thể hóa các mối quan hệ kinh tế trên phạm vi toàn thế giới với những hoạt động, mô hình cấu trúc trên các lĩnh vực kinh tế khoa học, kỹ thuật đến văn hóa xã hội và tác động chính trị.
Hay trong xu thế khu vực hóa thì hội nhập kinh tế được xem như là việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực từng bước tiến tới việc nhất thể hoá cao các khu vực và trên toàn thế giới thông qua các văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển.
Hay có quan điểm lại cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế dưới tác động của toàn cầu hóa là hoạt động của các quốc gia về việc mở rộng hợp tác kinh tế nhưng không chỉ đơn giản bằng các quan hệ giao dịch song phương mà bằng hình thức cao hơn là xây dựng các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.
Xét trên khía cạnh phân công và hợp tác sản xuất, có quan điểm cho rằng hội nhập kinh tế là việc tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vươn tới quy mô toàn thế giới và đạt trình độ, chất lượng mới.
Khi nghiên cứu quá trình một nước tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới thì có nhiều quan điểm lại cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình một quốc gia phấn đấu trở thành một thành viên chính thức và hoạt động như._. một tế bào sống trong một tổ chức kinh tế lớn có tầm cỡ khu vực và quốc tế (WTO, APEC, AFTA...) .Con đường duy nhất để giúp các nước hội nhập thành công là phải tìm mọi cách thích nghi càng nhanh càng tốt với môi trường mới đã thay đổi.
Và có khá nhiều những quan điểm khác nữa về hội nhập kinh tế. Mỗi quan điểm được đưa ra khi các tác giả nghiên cứu về một khía cạnh nào đó của xu thế toàn cầu hóa kinh tế xã hội hội nhập kinh tế.
Qua tổng kết các quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế thì chúng ta có thể chỉ ra một số vấn đề được đề cập đến trong quan niệm về hội nhập kinh tế, đó là:
+Hội nhập và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
+Mở rộng các quan hệ đa phương.
+Tăng cường hợp tác và cạnh tranh giữa các nước.
+Các nước có sự liên kết và phụ thuộc chặt chẽ với nhau.
+Sự lưu thông hàng hóa dịch vụ, các luồng vốn...
+Hội nhập và thích nghi với môi trường mới để hoạt động có hiệu quả hơn.
Từ các vấn đề chính được đề cập đó, theo chúng tôi hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay phải được hiểu là việc các nước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, ở đó các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh gay gắt để giành thị phần, vốn, kinh nghiệm kỹ thuật, tham gia một cách có hiệu quả vào hoạt động phân công lao động và hợp tác sản xuất đồng thời phát huy tối đa nội lực và khai thác vận dụng các điều kiện thuật lợi bên ngoài, tận dụng các mối quan hệ kinh tế đa phương rộng khắp nhằm củng cố an ninh chính trị, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và không ngừng nâng cao vị thế đất nước trong khu vực và trên thế giới.
Nội dung hội nhập kinh tế.
Nội dung của hội nhập kinh tế được hiểu là những công việc mà quốc gia trong tiến trình hội nhập phải thực hiện. Những công việc này bao gồm: hội nhập Thị trường hàng hoá - dịch vụ; Thị trường lao động ; hội nhập Thị trường vốn - tiền tệ và hội nhập Thị trường bất động sản.
Có thể nhận thấy rằng, cơ sở của quá trình hội nhập kinh tế là do phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Khi hội nhập vào hệ thống thị trường thế giới thống nhất thì các nước đều phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, điều này làm cho các nền kinh tế trong quá trình hội nhập trở nên gắn bó với nhau hơn. Mỗi nền kinh tế của mỗi nước là một bộ phận của chỉnh thể toàn cầu, phụ thuộc vào nền kinh tế toàn cầu. Trong quá trình này, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc sẽ chuyên môn hóa sản xuất hay hợp tác với một hay một số nước khác để sản xuất và cung cấp một loại hàng hóa dịch vụ nào đó trên thị trường quốc tế. Và điều quan trọng là mỗi loại hàng hóa dịch vụ này sẽ phát huy được thế mạnh, lợi thế so sánh của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế thì hàng hóa và dịch vụ của một số nước sản xuất có thể được lưu thông rộng rãi trên thị trường quốc tế. Điều này giúp cho thị trường hàng hóa, dịch vụ của mỗi nước có thể bổ sung được những điểm yếu cho mình đó là việc cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà nước mình không có khả năng sản xuất không có hiệu quả.
Để hàng hóa và dịch vụ của một nước được lưu thông rộng rãi trên thị trường quốc tế thì xu hướng của các nước trên thế giới hiện này là dỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan đựơc áp dụng để bảo hộ ngành sản xuất trong nước nhưng ngày nay, trong tiến trình hội nhập nhằm mở cửa Thị trường, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nước trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thì mỗi nước đều phải có những lộ trình cụ thể để dỡ bỏ dần dần những hàng rào bảo vệ này.
Cùng với Thị trường hàng hóa và dịch vụ thì việc hội nhập Thị trường lao động cũng là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một nước. Hội nhập Thị trường lao động được hiểu là việc làm cho lực lượng lao động của các quốc gia trở thành một lực lượng lao động toàn cầu thông qua việc xuất khẩu và nhập khẩu lao động. ở đây, tính chất hàng hóa của sức lao động được thể hiện rõ nét nhất: được mua bán tự do, có giá cả cụ thể... Trong quá trình này, các nước đang phát triển có thể nhập khẩu lao động có trình độ cao ở các nước phát triển và xuất khẩu lao động dư thừa sang các nước khác. Điều này giúp cân đối nhu cầu lao động với những trình độ khác nhau giữa các nước phát triển và đang phát triển (không nên nhầm lẫn giữa xuất nhập khẩu lao động có tổ chức với hoạt động di cư tự do vì di cư tự do có liên quan mật thiết với vấn đề biên giới và chủ quyền quốc gia). Việc toàn cầu hoá Thị trường lao động giúp cho các nước có thể tìm được nguồn nhân công có trình độ thích hợp với chi phí rẻ nhất.
Thị trường thứ 3 mà các nước phải tham gia hội nhập là Thị trường vốn -tiền tệ. Toàn cầu hóa Thị trường vốn -tiền tệ là quá trình kết nối ngày càng gia tăng các Thị trường vốn-tiền tệ xuyên quốc gia, tiến tới phát triển một Thị trường thống nhất. Thực tế cho thấy, để phát triển nền kinh tế của một đất nước thì quốc gia đó không thể chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước mà nó còn phải thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài.Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thì việc mở cửa Thị trường vốn là một tất yếu khách quan. Mở cửa Thị trường vốn là việc một quốc gia cho phép các luồng vốn tự do ra- vào Thị trường vốn của nước mình và tất nhiên phải có sự kiểm soát của Nhà nước. Ngày nay, trên thế giới các dòng vốn chủ yếu là từ các nước công nghiệp phát triển đi vào các nước đang phát triển. Xu hướng này phản ánh một thực tế là các nước công nghiệp phát triển có mức độ mở cửa Thị trường rộng rãi hơn vì họ có một hệ thống tài chính vững mạnh và một bề dày hoạt động trên Thị trường vốn.
Vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế ngày nay không chỉ dừng lại ở việc có mở cửa Thị trường vốn hay không mà còn ở chỗ năng lực thu hút và sử dụng vốn của nền kinh tế có hiệu quả hay không để đáp ứng nhu cầu hội nhập. Bởi vì trong bối cảnh tổng quát và dài hạn thì năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động vốn đầu tư, điều này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Đây là một thách thức với các nước chậm phát triển trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hội nhập Thị trường vốn-tiền tệ quốc tế.
Yếu tố cuối cùng được xem xét trong vấn đề hội nhập kinh tế là hội nhập Thị trường bất động sản. Hội nhập Thị trường bất động sản là việc các nước trên thế giới cho phép các cá nhân và tổ chức nước ngoài được phép tham gia sở hữu, sử dụng bất động sản thuộc phạm vi của nước mình. Việc này làm cho bất động sản của một nước có thể mua-bán, chuyển nhượng giữa các cá nhân trong và ngoài nước với nhau và có thể được giao dịch trên Thị trường quốc tế. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ yên tâm khi họ có được quyền sở hữu hoặc sử dụng bất động sản trên lãnh thổ của một quốc gia khi mà họ đầu tư vào. Việc hội nhập Thị trường bất động sản sẽ thúc đẩy quá trình thu hút vốn nước ngoài và như vậy nó gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một nước.
Tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế:
Toàn cầu hóa là quá trình tất yếu khi mà quá trình phân công và hợp tác lao động quốc tế đã đạt đến trình độ sâu sắc. Tuy nhiên, toàn cầu hóa có hai mặt rõ rệt: nó có thể tạo ra những xung lực làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, đưa lại kỹ thuật mới góp phần nâng cao mức sống của người dân ở các quốc gia, và nó cũng có thể làm xói mòn nền văn hóa và chủ quyền quốc gia, đe dọa sự ổn định kinh tế- xã hội.v.v.. Sau đây là các tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa,
a) Những cơ hội của việc hội nhập kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế tài chính sẽ phá bỏ những cản trở, những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế quốc tế, từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội cho phát triển từ thị trường bên ngoài.
Thứ hai, việc hội nhập kinh tế toàn cầu mở ra khả năng cho các quốc gia chậm phát triển nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một hệ thống kinh tế - xã hội hiệu quả đẩy nhanh, rút ngắn quá trình toàn cầu hóa.
Thứ ba, quá trình toàn cầu tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý.
Ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu cùng với việc mở cửa thị trường làm cho các quan hệ trao đổi buôn bán hàng hóa dịch vụ gia tăng mạnh mẽ là dòng lưu chuyển của vốn, công nghệ cũng được mở rộng và đẩy nhanh. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa các quốc gia không chỉ tận dụng được thị trường mà còn có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các quốc gia đang phát triển, nơi mà đang cần vốn và công nghệ quản lý tiên tiến. Theo báo cáo của tổ chức UNCTAD, năm 1997, các nước đang phát triển tiếp nhận 1043 tỷ đô la vốn đầu tư. Kéo theo dòng chảy của vốn là các kỹ thuật công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến cho phép các quốc gia nâng cao trình độ sản xuất, mở ra điều kiện tiếp tục tham gia sâu vào hệ thống phân công lao động quốc tế.
Việc tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế mới cũng đồng thời là quá trình cạnh tranh gay gắt. Do đó cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu phát triển công nghệ mới và qua toàn cầu hóa công nghệ này lại được lan truyền rộng rãi giữa các quốc gia. Vì vậy, có thể thấy là toàn cầu hóa là nhân tố kích thích sự phát triển và lan tỏa của khoa học công nghệ.
Thứ tư, hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực cho phép các quốc gia thành viên được hưởng các ưu đãi về thuế quan, từ đó hàng hóa có thể nhanh chóng tiếp cận được với Thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển thì hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế cũng chính là việc tham gia vào các diễn đàn cho phép mình bình đẳng bày tỏ quan điểm, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Thứ năm, toàn cầu hóa kinh tế thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của các quốc gia. Trong quá trình hội nhập các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp nhận những thông tin tri thức mới. Nhờ đó mà trình độ sản xuất và trình độ dân trí được nâng cao.
Trong môi trường bảo hộ, đặc biệt với nền kinh tế “khép kín” khó có thể tiếp nhận và áp dụng những thông tin, tri thức mới. Ngày nay với sự phát triển của Internet, thông tin được lan truyền đi khắp thế giới, xóa đi mọi ngăn cách về không gian, thúc đẩy sự hiểu biết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
Toàn cầu hóa còn đưa lại điều kiện giao lưu hội nhập của con người giữa các nền văn hóa, không những con người hiểu nhau hơn mà còn góp phần nâng cao giá trị văn hóa truyền thống, xóa bỏ những hủ tục phản nhân văn, mở ra điều kiện phát triển cho con người và cho sự chung sống hòa bình của các nền văn hóa trên thế giới.
Thứ sáu, toàn cầu hóa mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia, dân tộc để giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu như: Vấn đề môi trường, dân số, chiến tranh và hòa bình...
Các vấn đề toàn cầu và khu vực có liên quan đến nhiều quốc gia, việc phối hợp sức mạnh quốc tế để giải quyết có thể được thực hiện trên những cấp độ khác nhau. Các quốc gia có thể tham gia trên cơ sở hoạch định những chính sách theo một xu hướng thống nhất dựa trên nguồn lực riêng như chương trình bảo vệ thiên nhiên, hoặc giảm ô nhiễm môi trường của mỗi quốc gia, hoặc việc phối hợp được thực hiện theo khuôn khổ một chương trình chung thống nhất như chương trình phòng chống thiên tai toàn cầu, chương trình chống tội phạm.
b) Những thách thức đặt ra đối với việc hội nhập kinh tế toàn cầu.
Thứ nhất, toàn cầu hóa đã không phân phối công bằng cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia và từng tầng lớp dân cư. Trên thực tế, trong toàn cầu hóa thì những nước giàu có, những cá nhân giàu có mới được hưởng phần lớn những lợi thế. Vì vậy, toàn cầu hóa đã làm gia tăng thêm tình trạng bất công, làm sâu sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo.
Hiện nay các quốc gia phát triển chiếm 19% dân số thế giới, nắm 71% khối lượng trao đổi buôn bán tài sản và dịch vụ, 58% đầu tư trực tiếp nước ngoài và 91% người sử dụng Internet. Hầu như tuyệt đại bộ phận các công ty xuyên quốc gia, thế lực chính của toàn cầu hóa là thuộc về các quốc gia phát triển. Rõ ràng là cơ hội mà toàn cầu hóa mở ra là không ngang bằng cho các quốc gia.
Thứ hai, với việc hội nhập, kỹ thuật công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả năng nâng cao năng suất, đồng thời dòng sản phẩm hàng hóa - dịch vụ của các nước phát triển có lợi thế cũng sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát triển hơn. Điều này đã đưa đến sự cạnh tranh gay gắt và làm nảy sinh nạn phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các quốc gia chậm phát triển hơn.
Thứ ba, toàn cầu hóa mở ra cơ hội tranh thủ nguồn lực bên ngoài, song chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nếu như không xác định được chiến lược phát triển phù hợp dựa trên cơ sở phát huy nội lực là chính. Trong điều kiện toàn cầu hóa đang chịu sự chi phối của các nước tư bản phát triển thì sự phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc tế, tất sẽ chịu sự khống chế của các thế lực tư bản tài chính quốc tế. Điều này cũng có nghĩa dẫn đến thu hẹp phạm vi tác động và quyền lực của các chính quyền quốc gia với chính quá trình phát triển kinh tế -xã hội của đất nước mình.
Thứ tư, toàn cầu hóa cho phép tận dụng các nguồn lực để rút ngắn quá trình phát triển, song nó lại bao hàm khả năng không bền vững trong phát triển. Có thể có tăng trưởng nhưng lại kèm theo những hậu quả khốc hại về mặt môi trường, xã hội. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chính sách phát triển và hiệu quả của bộ máy quản lý. Thực trạng của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, việc mở cửa đã du nhập các thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn . vv... song công nghệ lạc hậu đã làm ô nhiễm môi trường, thất thoát vốn...
Thứ năm, toàn cầu hóa còn đặt ra những hậu quả mang tính chất phi kinh tế. Đó là vấn đề phổ biến, lan tràn nhanh của các dịch bệnh, đặc biệt HIV/AIDS. Do toàn cầu hóa, luồng di chuyển lao động, du lịch, giao lưu tăng mạnh, theo đó dịch bệnh cũng có khả năng lây lan cực nhanh. Đồng thời, còn có sự phổ biến của văn hóa ngoại lai với lối sống trái ngược thuần phong mỹ tục, làm băng hoại đạo đức con người. Mạng Internet ngày nay là phương tiện thông tin tuyệt vời, nhưng nó cũng là con đường xâm thực về mặt văn hóa, khá nguy hiểm nếu không có những cách quản lý hiệu quả.
Vấn đề hội nhập Thị trường chứng khoán :
Trong quá trình hội nhập TTCK thì yêu cầu đặt ra đối với cấu trúc, hàng hóa và chủ thể tham gia TTCK là như thế nào? Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu những yêu cầu đó.
1.2.2.1. Về cấu trúc:
Để hội nhập TTCK trong tiến trình hội nhập kinh tế thì về mặt cấu trúc của TTCK, mỗi nước đều phải giải quyết các vấn đề về cấu trúc của TTCK nhằm hội nhập Sở giao dịch và Thị trường OTC.
Đối với các Sở giao dịch: Điều quan trọng nhất là phải xác định rõ hình thức sở hữu của Sở GDCK nhằm thúc đẩy việc hội nhập. Hiện nay trên thế giới các Sở giao dịch được tổ chức theo 3 hình thức:
+) Hình thức hiệp hội chứng khoán: Sở GDCK do các thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu. Sở giao dịch Hàn quốc, New York, Tokyo, Thái lan và nhiều nước khác được tổ chức theo hình thức sở hữu thành viên này. Với hình thức tổ chức tổ chức này thì việc một CTCK nước ngoài muốn trở thành viên của Sở giao dịch là khó khăn vì việc kết nạp phải qua các thủ tục rườm rà.
+) Hình thức sở hữu Nhà nước: Sở GDCK do Nhà nước sở hữu, như trường hợp Sở GDCK Vacsava (Balan), Ixtambun(Thổ Nhĩ Kỳ). Với hình thức này thì việc tham gia Công ty chứng khoán nước ngoài tham gia sở hữu Sở giao dịch là không có, trừ trường hợp các nước có quy định khác.
+) Hình thức công ty cổ phần: Sở giao dịch được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần đặc biệt, do các Công ty chứng khoán thành viên, ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm sở hữu như các nước Đức, Malaixia, Luân đôn, Hồng Kông... Với nhận thức rằng việc hội nhập TTCK từ khía cạnh tổ chức Sở GDCK là việc cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia sở hữu Sở giao dịch thì hình thức này là phù hợp nhất. Với hình thức này thì các công ty chứng khoán ở một nước có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của Sở giao dịch ở một nước khác. Như vậy hoạt động của Sở GDCK ở nước này không chỉ đơn thuần bó hẹp trong phạm vi nước đó mà nó còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các yếu tố bên ngoài. Việc các CTCK có thể tham gia quyết định các vấn đề quan trọng ở Sở giao dịch các nước khác làm cho hoạt động của các CTCK không bị bó hẹp trong phạm vi một đất nước mà có tính chất quốc tế.
Xu hướng hội nhập TTCK đã dẫn đến một làn sóng chuyển đổi hình thức sở hữu các Sở GDCK thành các công ty cổ phần. Làn sóng này xuất hiện từ năm 1983 với Sở GDCK Xtôc-khôm (Thụy Điển), và cho đến nay, đã có 12 Sở GDCK đã chuyển đổi cơ cấu sở hữu theo hình thức này.
Việc tổ chức Sở GDCK theo hình thức Công ty cổ phần giúp cho việc sát nhập các Sở GDCK trở nên dễ dàng hơn từ đó thúc đẩy quá trình quốc tế hóa TTCK . Ví dụ như việc sáp nhập Sở GDCK Luân đôn và Sở GDCK Phờranhphuốc ngày 03/05/2000, hình thành nên một Sở GDCK mới có tên là "IX".
Đối với Thị trường OTC: Trên thực tế, việc tổ chức OTC là một tất yếu khách quan trong quá trình hoàn thiện và phát triển TTCK . Tuy nhiên, ngoài việc tổ chức Thị trường OTC thì vấn đề đặt ra là phải tổ chức Thị trường OTC như thế nào để đáp ứng các yêu cầu về hội nhập TTCK trong tiến trình hội nhập kinh tế.
Việc tổ chức Thị trường OTC là nhằm thu hút các tổ chức phát hành, trung gian chứng khoán và các nhà đầu tư thông qua một mạng điện tử diện rộng được tổ chức trong phạm vi một nước. Việc hội nhập OTC yêu cầu phải tổ chức được một mạng giao dịch điện tử toàn cầu. Điều này giúp cho các chủ thể của Thị trường OTC một nước có thể tham gia giao dịch với các chủ thể của các Thị trường OTC của các nước khác. Nhờ đó, nó giúp cho Thị trường OTC của một nước trở thành thành viên của mạng lưới các Thị trường OTC trên khắp toàn cầu.
Về hàng hóa:
Vấn đề hội nhập TTCK xét trên khía cạnh hàng hóa được hiểu là việc làm cho chứng khoán của một nước được phép giao dịch trên TTCK ở các nước khác.
Chúng ta biết rằng hàng hóa của TTCK bao gồm các loại: Cổ phiếu, Trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán phái sinh. Trong quá trình hội nhập TTCK , các nước đều cho phép phát hành trái phiếu và cổ phiếu bằng đồng ngoại tệ mạnh và các cổ phiếu, trái phiếu này được niêm yết trên TTCK các nước.
Nhưng đối với cổ phiếu thì trong quá trình hội nhập TTCK , một nước sẽ cho phép cổ phần hóa các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hay doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên đất nước mình và cho phép các doanh nghiệp này được niêm yết cổ phiếu trên TTCK của nước mình.
Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư thì việc hội nhập TTCK yêu cầu thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán trong đó không phân biệt nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài. Các quỹ đầu tư này đảm bảo việc mua chứng khoán ở các TTCK ở các nước khác nhau. Và chứng chỉ của các quỹ đầu tư này cũng đảm bảo được mua bán, giao dịch ở trên TTCK ở các nước khác nhau.
Khi hội nhập TTCK thì cùng với việc các chứng khoán được giao dịch trên các TTCK khác, các TTCK trên thế giới vì thế mà cũng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện 2 mặt tích cực và tiêu cực:
+ Tích cực: Việc các TTCK có mối liên hệ với nhau sẽ làm cho các luồng chu chuyển vốn linh hoạt hơn và có quy mô toàn cầu. Vì hàng hóa của một TTCK nào đó có thể vận động trên nhiều TTCK khác nhau, tạo ra các dòng vốn có nguồn gốc khác nhau.
+ Tiêu cực: Việc các TTCK có mối liên hệ trực tiếp với nhau thông qua chứng khoán của từng TTCK sẽ dẫn đến việc khi một TTCK nào đó gặp khủng hoảng thì sẽ xuất hiện những ảnh hưởng có tính lan truyền đến các TTCK khác trên toàn thế giới. Khi ở một TTCK nào đó có sự khủng hoảng và giá các chứng khoán trên Thị trường này bị sụt giảm thì trong ngắn hạn các nhà đầu tư sẽ mua các chứng khoán ở Thị trường này và bán nhanh chóng trên các TTCK khác, điều này làm cho giá chứng khoán ở các TTCK cũng bị giảm do cung chứng khoán tăng đột ngột; còn trong dài hạn thì việc đầu tư vào các chứng khoán bị sụt giá có sự rủi ro cao, do đó có sự lan truyền khủng hoảng trên các TTCK trên toàn thế giới và điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư rút tiền ra khỏi TTCK bằng cách bán các chứng khoán, cung chứng khoán sẽ tăng và cầu về chứng khoán sẽ giảm dẫn đến giá các chứng khoán có xu hướng giảm mạnh hơn.
Trong tiến trình hội nhập TTCK thì những cuộc khủng hoảng TTCK dường như có tác động mạnh hơn và tiêu cực hơn đến TTCK các nước đang phát triển. Điều này được giải thích là do nền kinh tế của các nước đang phát triển ít ổn định, thiếu vững vàng hơn so với các nước đang phát triển; hoạt động chứng khoán ở các nước đang phát triển còn mang nặng tính đầu cơ làm cho mức tăng trưởng chỉ số chứng khoán không phản ánh đúng thực chất tăng trưởng kinh tế và nhu cầu tái sản xuất. ở các nước đang phát triển thì thượng tầng kiến trúc tài chính phình quá to vì vậy trong hoạt động tài chính hàng ngày các cơ quan đó có ít nhiều quan hệ qua lại với nhau do đó mà chỉ một chấn động nhỏ ở nơi này cũng gây thành phản ứng dây chuyền, ảnh hưởng tới nơi khác và chẳng mấy chốc bao trùm toàn bộ TTCK trong nước. Đồng thời ở các nước đang phát triển thì trình độ tổ chức, điều hành hoạt động TTCK còn rất thấp. Điều này làm giảm khả năng ngăn ngừa các ảnh hưởng lan truyền từ bên ngoài và làm chậm lại quá trình khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng TTCK của các nước đang phát triển. Điều này được thể hiện trong lịch sử, ở những nước tư bản phát triển, nơi phát sinh khủng hoảng thì lại chịu tác động tiêu cực ít hơn nhiều so với các nước đang phát triển, các nước luôn bị động trước các khủng hoảng.
Về chủ thể:
Quá trình hội nhập TTCK xét trên khía cạnh chủ thể của TTCK là việc các chủ thể có thể tham gia hoạt động trên Thị trường của các nước khác nhau trên thế giới.
Trên TTCK chúng ta thấy có sự tham gia hoạt động của các chủ thể như: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, trung gian chứng khoán và các cơ quan quản lý, giám sát TTCK .
Đối với các tổ chức phát hành: Trong một TTCK hội nhập thì các tổ chức phát hành có thể phát hành và niêm yết các chứng khoán này trên các TTCK khác. Điều này giúp cho các tổ chức phát hành có điều kiện phát hành các loại chứng khoán khác nhau và niêm yết trên các TTCK khác nhau mà nó cho là có lợi nhất. Các tổ chức phát hành sẽ cân nhắc tùy vào điều kiện ở các TTCK khác nhau để tìm ra số lượng và chủng loại chứng khoán để niêm yết.
Đối với nhà đầu tư: Các nhà đầu tư hoạt động trên một TTCK hội nhập sẽ có điều kiện để đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình nhờ việc trên TTCK của một nước có niêm yết chứng khoán của TTCK các nước còn lại. Việc các nhà đầu tư tham gia đầu tư ở nhiều TTCK khác nhau sẽ làm cho các TTCK có mối liên hệ ràng buộc nhất định, bởi ngân sách của nhà đầu tư là có hạn vì vậy họ sẽ chọn ra những chứng khoán có khả năng sinh lời cao nhất và đầu tư ở những TTCK mà họ cho là có lời nhất. Điều này buộc các TTCK phải có sự hợp tác và cạnh tranh với nhau trong việc niêm yết chứng khoán và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài giao dịch trên TTCK của mỗi nước. Việc hợp tác và cạnh tranh giữa các TTCK là một đặc trưng của tiến trình hội nhập TTCK .
Đối với các trung gian chứng khoán: Khi hoạt động trên một TTCK hội nhập thì hoạt động của các trung gian chứng khoán không bị bó hẹp trong phạm vi một nước. Một trung gian chứng khoán có thể tham gia vào các giao dịch chứng khoán khác nhau trên các TTCK ở các nước khác nhau. Điều này cũng tạo ra các sự hợp tác và cạnh tranh mạnh mẽ giữa các trung gian chứng khoán trong và ngoài nước trong việc cung cấp các dịch vụ giao dịch chứng khoán cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với chủ thể quản lý và giám sát TTCK : chủ thể quản lý và giám sát TTCK của các nước sẽ có sự liên hệ chặt chẽ với nhau để hình thành nên một hệ thống quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán có tính chất rộng khắp. Điều này giúp ngăn chặn những hành vi phạm pháp trên TTCK . Hơn nữa, trong tiến trình hội nhập TTCK thì các chủ thể quản lý và giám sát phải có sự hợp tác với nhau nhằm ngăn chặn những tác động lan truyền của các cuộc khủng hoảng trên TTCK .
Kinh nghiệm xây dựng và phát triển TTCK trong tiến trình hội nhập ở một số nước.
Trong quá trình hình thành và phát triển TTCK ở nước ta có một yếu tố rất quan trọng buộc chúng ta phải xem xét đó là kinh nghiệm xây dựng và phát triển TTCK trong tiến trình hội nhập ở một số nước. Sử dụng tốt những kinh nghiệm và bài học này là chúng ta đã thực hiện nguyên tắc kế thừa có chọn lọc trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Kinh nghiệm của Trung Quốc.
1.3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của TTCK Trung Quốc.
Giai đoạn khởi đầu (1981 - 1986) là giai đoạn mang tính tự phát.
Các doanh nghiệp tự động phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn. Lúc này trong nhận thức của nhà đầu tư cũng như tổ chức phát hành chưa có khái niệm chính xác về chứng khoán.
Giai đoạn phát triển (từ 1986 -1991) là giai đoạn các nhà lãnh đạo nhận thức được sự cần thiết phải phát triển rất mạnh TTCK . TTCK tự phát (chủ yếu là cổ phiếu) đã phát triển rất mạnh. Các Công ty môi giới chứng khoán được thành lập (chủ yếu từ các Ngân hàng), hình thành nên các điểm giao dịch chứng khoán. Năm 1986, Nhà nước Trung Quốc quyết định thành lập hai trung tâm giao dịch các cổ phiếu ở Thượng Hải và Thâm Quyến, đến năm 1990, do tình hình kinh tế phát triển mạnh nên quốc vụ viện Trung Quốc đã ra quyết định thành lập hai Sở GDCK trên cơ sở hai trung tâm nói trên.
Giai đoạn từ 1992 - nay: là giai đoạn hoàn thiện hệ thống pháp chế. Năm 1992, Quốc vụ viện ban hành một số văn bản pháp qui để quản lý việc phát hành và kinh doanh chứng khoán trong nhất trong cả nước.
Một số kinh nghiệm của Trung Quốc.
- Cơ quan quản lý cao nhất của TTCK Trung Quốc là ủy ban chứng khoán Nhà nước do Quốc vụ viện thành lập, quản lý hai Sở GDCK chính thức ở Thâm Quyến và Thượng Hải.
- Nhà nước Trung Quốc luôn tôn trọng ý kiến của các chuyên gia cũng như việc học tập những nguyên lý căn bản nhất của TTCK quốc tế để trên cơ sở đó xây dựng TTCK theo đường lối đã chọn, sao cho phù hợp với thực tiễn và tâm lý của người dân Trung Quốc.
- Các tổ chức tham gia TTCK phải là các định chế của Nhà nước, do Nhà nước thành lập và trực tiếp điều hành, tuyệt nhiên không có sự tham gia của các cá nhân độc lập. Các tổ chức 100% vốn đầu tư nước ngoài, Công ty liên doanh với nước ngoài không được phép niêm yết chứng khoán, trừ văn phòng đại diện của TTCK nước ngoài kinh doanh cổ phiếu B.
- Nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và kiểm soát nhà đầu tư nước ngoài, Trung Quốc chia cổ phiếu làm hai loại A và B cho hai đối tượng nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng cách làm này có hiệu quả hay không đang là một vấn đề cần xem xét và tính thanh khoản của cổ phiếu B thấp hơn cổ phiếu A, tạo ra sự chênh lệch khá lớn về giá giữa hai loại cổ phiếu.
- ở Trung Quốc, trong thời gian đầu Nhà nước chưa thống nhất quản lý TTCK vì vậy ở các địa phương đã xuất hiện tự phát một số Sở GDCK và hoạt động của chúng là tách biệt nhau. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc quản lý và phát triển TTCK .
Kinh nghiệm của Mỹ.
Quá trình hình thành và phát triển Thị Trường Chứng Khoán Mỹ.
Giai đoạn trước năm 1817: từ cuối thế kỷ 17 đã xuất hiện các thương gia buôn bán trái phiếu chính phủ và một số cổ phiếu của các Ngân hàng. Hoạt động của các nhà kinh doanh chứng khoán mới đầu được tổ chức ngoài trời, sau đó được diễn ra trong các quán cà phê.
Giai đoạn từ 1818 đến 1869: việc buôn bán được tổ chức lại thành lập "Hội đồng chứng khoán và Hối đoái NewYork" với nội quy và điều lệ hội viên cụ thể. Hoạt động mua bán sôi nổi dần lên và số cổ phần giao bán ngày một tăng.
Giai đoạn 1869 đến 1921: Hội đồng chứng khoán và Hối đoái New York trở thành TTCK New York với 1060 hội viên. Đến trước năm 1914, người Châu Âu đầu tư nhiều vào chứng khoán Mỹ nhưng từ năm 1918 người Mỹ lại mua chứng khoán của người nước ngoài và bán lại trên Thị trường New York. Thị trường ngoài trời vẫn tiếp tục bành trướng bên cạnh TTCK chính thức.
Từ năm 1921 đến nay: năm 1921, Thị trường hành lang chuyển vào một khu riêng và đây là cơ sở của TTCK AMEX (American Stock Exchange). Năm 1971, Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập, là bộ phận lớn nhất của Thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng khoán giao dịch.
Một số kinh nghiệm của Mỹ.
- TTCK New York là một hiệp hội chứ không phải là một tổ chức công pháp hành chính, cũng không phải là một Công ty thuộc sở hữu của bất kỳ ai. Với việc kết hợp được trên 1300 hội viên và đảm bảo quyền lợi cho các hội viên thì TTCK New York đã trở thành Thị trường giao dịch sôi nổi vào bậc nhất trên thế giới.
- TTCK New York rất chú trọng việc phát triển và hoàn thiện hệ thống truyền đạt các lệnh và tin tức. Nhờ hệ thống truyền tin nhanh chóng mà các chi nhánh hay các đại lý của các CTCK Mỹ có thể đảm bảo việc thi hành các lệnh của Nhà đầu tư trong một thời hạn rất ngắn.
- ở Mỹ, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng trước cuộc đại khủng hoảng. Chính điều này đã làm cho giá cả chứng khoán tăng vọt và làm cho nhà đầu tư cố gắng tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn bằng cách mua và bán một lượng lớn chứng khoán trong ngắn hạn. Điều này đã bị Nhà nước ngăn cấm bằng các luật lệ nghiêm ngặt và bằng các chính sách thuế sau cuộc đại khủng hoảng 1929.
Kinh nghiệm của Thái Lan.
Quá trình hình thành và phát triển TTCK Thái Lan.
Giai đoạn 1961 - 1970: đây là giai đoạn khởi đầu của TTCK Thái Lan với các nhóm nghiên cứu tìm hiểu Thị trường. Tháng 7 năm 1962, khai trương với Sở giao dịch chứng khoán, đó là một Công ty tư nhân. Cũng năm ấy nó được sáp nhập và có tên mới "Công ty TNHH Sở GDCK Băng Cốc". Nhưng nó cũng bị đóng cửa sau thời gian tồn tại ngắn ngủi.
Giai đoạn từ 1970 đến nay: là giai đoạn hình thành và phát triển như vũ bão của TTCK Thái Lan. Năm 1984, Thái Lan thành lập Sở GDCK Thái Lan theo đạo luật về Sở giao dịch chứng khoán, nó bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm 1984, Thái Lan sửa đổi luật về giao dịch chứng khoán, cho phép các CTCK và các Công ty hợp pháp khác được phát hành ch._.ôi trường đầu tư tốt với những hàng hóa có chất lượng. Các công ty trong nước muốn tăng độ hấp dẫn của CK cạnh tranh với CK của các công ty nước ngoài sẽ phải không ngừng đổi mới về cơ cấu quản lý, chiến lược kinh doanh mang lại doanh thu lớn cho công ty. Như vậy các công ty nước ngoài tạo động lực cho sự phát triển của các công ty trong nước.
UBCK NN phải xúc tiến hợp tác với UBCK các nước trong việc thiết lập các quy chế về niêm yết chéo , khi có các quy chế cho phép niêm yết chéo thì các công ty trong nước cũng có thể tham gia niêm yết trên các TTCK nước ngoài. Các công ty trong nước có điều kiện tiếp xúc với một lượng vốn lớn trên thị trường thế giới đó là cơ hội tốt cho các công ty trong nước thỏa mãn nhu cầu về vốn, qua đó làm giảm gánh nặng về nhu cầu vốn đầu tư trong nước. Không những thế, sự tham gia thị trường thế giới là những trải nghiệm rất hữu ích cho các công ty thay đổi cách nhìn và tư tưởng kinh doanh, từng bước phá vỡ dần lối làm ăn bao cấp XHCN đang còn tồn tại khá nặng nề trong các doanh nghiệp.
Tóm lại, việc cho phép nhà đầu tư và các công ty nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam là điều cần thiết. Tuy nhiên mọi vấn đề đều có hai mặt đòi hỏi UBCK NN và BTC cần có những quy định phù hợp vừa có tác dụng phát huy hiệu quả của yếu tố nước ngoài đồng thời cũng đảm bảo an toàn cho sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam.Theo chúng tôi , trong thời gian tới UBCKNN nên xây dựng lộ trình cụ thể cho việc phát hành và niêm yết chéo trên TTCK các nước.
3.3.8. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình hoàn thiện và phát triển TTCK chúng ta đều nhận thấy quan điểm giữ vững độc lập và định hướng XHCN là quan điểm chủ đạo, quyết định sự phát triển và hội nhập TTCK. Mà nhân tố quyết định, đảm bảo giữ vững định hướng XHCN là vai trò quản lý của Nhà nước trên TTCK. Vì vậy, theo chúng tôi, trong thời gian tới chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau đây để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước.
3.3.8.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động công tác kế hoạch hóa
Hoạt động quản lý của Nhà nước phải đảm bảo sự kết hợp đúng đắn giữ kế hoạch và thị trường, đây chỉ là yêu cầu đối với các nước đang phát triển như Việt Nam mà còn là yêu cầu, nhiệm vụ của các nước Tư bản phát triển.
Trên TTCK, công tác kế hoạch hóa của Nhà nước thể hiện ở các hoạt động: kế hoạch hóa số lượng, chủng loại, tổng giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành và giao dịch trên thị trường, kế hoạch hóa các nguồn vốn huy động trong và ngoài nước trên TTCK, kế hoạch hóa số lượng công ty thuộc các ngành khác nhau được tham gia niêm yết CK trên TTCK...
Chính nhờ công tác kế hoạch hóa các hoạt động trên TTCK mà đảm bảo các hoạt động trên TTCK phục vụ một cách hiệu quả nhất cho các chính sách, chiến lược phát triển. Công tác kế hoạch hóa được gắn với thị trường sẽ đảm bảo cho TTCK trong tiến trình hội nhập tránh được sự thao túng từ bên ngoài, đảm bảo sự phát triển của TTCK nằm trong xu hướng chung của đất nước: phát triển độc lập theo định hướng XHCN.
3.3.8.2. Nhà nước phải nâng cao vai trò định hướng cho sự phát triển của TTCK .
Hiện nay trên thế giới không có nước nào để mặc cho TTCK phát triển một cách tự phát mà đều có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và định hướng nhằm làm cho sự phát triển của TTCK phù hợp với đường lối phát triển của mỗi quốc gia. Để phát triển và hội nhập TTCK thành công chúng ta cũng không thể để TTCK Việt Nam phát triển một cách tự phát. Để thực hiện điều này thì chúng ta không chỉ sử dụng các biện pháp can thiệp mang tính hành chính trực tiếp mà cùng với sự hoàn thiện và phát triển của TTCK, chúng ta phải đi tới xóa bỏ các biện pháp hành chính, thay vào đó là các biện pháp mang tính gián tiếp, mang tính định hướng cho sự phát triển của thị trường.
Để có thể định hướng sự phát triển của TTCK một cách sát thực thì yêu cầu đặt ra là chúng ta phải dự tính được những biến động mạnh, mang tính hệ thống và toàn diện có thể xảy ra đối với TTCK, từ đó để có được những giải pháp cụ thể giúp điều chỉnh hoạt động của TTCK theo hướng giảm thiểu và khắc phục những biến động đó. Vấn đề này đặc biệt quan trọng khi chúng ta bước vào tiến trình hội nhập TTCK. Khi bước vào TTCK quốc tế, TTCK non trẻ của Việt Nam sẽ phải đương đầu với rất nhiều thử thách, biến động mạnh từ thị trường quốc tế gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động trên TTCK. Vì vậy để phát triển và hội nhập TTCK có hiệu quả thì việc định hướng phát triển TTCK phải bắt đầu từ việc xây dựng mô hình hoạt động phù hợp cho TTCK. Điều này đòi hỏi chúng ta trong thời gian tới phải hoàn thiện hoạt động của TTGDCK Tp HCM, thành lập TTGDCK tại Hà Nội rồi trên cơ sở hai TTGD này hình thành Sở GDCK và một thị trường phi tập trung hiện đại theo yêu cầu phát triển của TTCK quốc tế.
3.4. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Để phát triển và hội nhập thành công TTCK thì theo chúng tôi ngoài những giải pháp cụ thể ở trên thì có một số ý kiến đề xuất xuất phát từ thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam như sau:
3.4.1. Đối với Chính phủ:
3.4.1.1. Xác định rõ mô hình hoạt động của Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Theo đánh giá của chúng tôi và cũng như của nhiều chuyên gia khác thì UBCKNN là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của TTCK Việt Nam.
Ngày 28/11/1996, CP đã ra Nghị định số 75/CP về việc thành lập UBCKNN, đây là một trong những bước đi đầu tiên của Chính Phủ trong việc tổ chức và quản lý TTCK ở nước ta. UBCKNN ra đời đã tạo những điều kiện cơ bản, nền tảng vững chắc đảm bảo cho TTCK ra đời và hoạt động suôn sẻ. Trong thời gian hoạt động của mình, UBCKNN luôn thể hiện vai trò, vị trí hết sức quan trọng, giúp tham mưu cho Chính Phủ về đường lối, chủ trương và chính sách phát triển thị trường, nâng cao khả năng quản lý Nhà nước, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường.
Nhưng hiện nay, trên các diễn đàn CK &TTCK có sự xuất hiện quan điểm cho rằng nên để UBCKNN chịu sự quản lý của Bộ Tài chính để có điều kiện kết hợp giữa công tác CPH DNNN và hoạt động của TTCK. Hình thức tổ chức này sẽ làm cho công tác CPH DNNN và hoạt động của TTCK có điều kiện thúc đẩy lẫn nhau. ý kiến này đang có được rất nhiều sự ủng hộ, nhất là khi mà hiện nay, quá trình CPH DNNN của chúng ta được tiến hành rất chậm chạp, các doanh nghiệp sau khi được CPH lại chưa muốn phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK.
Xem xét quan điểm này và từ thực tiễn đòi hỏi của TTCK Việt Nam, chúng tôi nhận thấy rằng: Để có thể phát triển và hội nhập TTCK thì trong thời gian tới Chính phủ phải có ý kiến rõ ràng về vấn đề mô hình hoạt động của UBCK. Theo chúng tôi, UBCKNN vẫn phải là một cơ quan thuộc Chính Phủ thực hiện các chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về CK & TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh doanh CK, nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn dài hạn trong và ngoài nước, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền hợp pháp của nhà đầu tư. Theo chúng tôi, yêu cầu về phát triển TTCK trong thời gian tới có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mô hình hoạt động của UBCKNN. Trong thời gian tới, TTCK Việt Nam sẽ đứng trước yêu cầu và thách thức hội nhập của TTCK quốc tế, điều này buộc chúng ta phải mở cửa hoạt động của TTCK trong thời gian tới. Mà rõ ràng yêu cầu của tiến trình hội nhập TTCK mà cụ thể là yêu cầu của nhà đầu tư và các tổ chức nước ngoài khi tham gia TTCK Việt Nam đều mong muốn có một cơ quan quản lý ngành CK độc lập và mạnh vì họ cho rằng cơ quan này đảm bảo tính khách quan trong quá trình quản lý và giám sát thị trường, giúp họ yên tâm hơn khi tham gia hoạt động trên TTCK Việt Nam. Hơn nữa việc UBCKNN đứng độc lập sẽ giúp cho UBCKNN tránh được tình trạng quản lý hành chính chồng chéo, tránh được việc phải chịu sự quản lý của quá nhiều cấp trong hoạt động của nó. Việc tổ chức UBCKNN là một cơ quan thuộc Chính Phủ sẽ tạo điều kiện cho nó có thể kết hợp, hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành hữu quan để điều hành hoạt động của TTCK Việt Nam một cách suôn sẻ, lành mạnh, ổn định, hiệu quả và phát triển theo kịp sự phát triển của TTCK các nước trong tiến trình hội nhập khu vực và Quốc tế.
3.4.1.2. Về vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Để hội nhập TTCK , chúng ta không thể không có các biện pháp tạo dựng những cơ sở ban đầu cho việc giao dịch CK quốc tế trên TTCK Việt Nam. Một trong những biện pháp này là cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ góp phần tạo thêm hàng hóa cho TTCK Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai, tạo điều kiện để phát triển nhanh chóng TTCK nước ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tính đến hết tháng 8 năm 2001, trên phạm vi cả nước có khoảng 2700 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 40 tỷ USD, trong đó có gần 1. 400 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh, với số vốn đã thực hiện gồm 19 tỷ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn tập rung trong những ngành, lĩnh vực kinh doanh dễ thu lợi nhuận hiện đang đóng góp trên 13% tổng sản phẩm quốc nội, 36% tổng sản lượng công nghiệp, hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (chưa kể đóng góp của ngành công nghiệp khai thác dầu khí hoàn toàn thực hiện thông qua các dự án FDI). Trên thực tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang tồn tại với tư cách là một trong những khu vực kinh tế mạnh nhất xét theo tiêu chí về tính liên tục và ổn định của tăng trưởng.
Chúng tôi xin đề ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau:
+ Thứ nhất, Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường thích hợp cho hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện chương trình cổ phần hóa vốn đầu tư của họ, đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động của TTCK.
Trước mắt Chính phủ cần ban hành một qui chế tạm thời hướng dẫn việc cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đủ sức tháo gỡ các vướng mắc, tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan chức năng và doanh nghiệp thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nghị quyết số 09/2001/NĐ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001- 2005 đã cho phép xây dựng qui chế thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được đăng ký niêm yết trên TTCK. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, cần sớm ban hành qui chế thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp FDI và lựa chọn một số doanh nghiệp FDI đang kinh doanh có hiệu quả trong một số lĩnh vực để thực hiện thí điểm cổ phần hóa, rút kinh nghiệm điều chỉnh, bổ sung chính sách trước khi thực hiện đại trà.
+ Thứ hai, cần sớm khắc phục xung đột về pháp lý giữa Luật đầu tư nước ngoài và một số văn bản pháp luật khác. Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam đã quy định cụ thể về công ty cổ phần. Tuy nhiên, Luật này cũng như luật khuyến khích đầu tư trong nước chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại quy định: phần góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không dưới 30% vốn pháp định. Do đó, cần có quy định về mặt nguyên tắc để phân biệt doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp cổ phần thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài phải có ít nhất một sáng lập viên nước ngoài, tổng giá trị cổ phần do các cổ đông nước ngoài nắm giữ không dưới 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Mỗi cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi cổ phần mình nắm giữ và được tự do chuyển nhượng cổ phần.
+ Thứ ba, xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp FDI khi cổ phần hóa. Tài sản của doanh nghiệp FDI được hình thành từ vốn góp của chủ đầu tư (vốn pháp định) và vốn vay. Đối với doanh nghiệp liên doanh mà bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, thực chất là phần vốn góp của Nhà nước, được tính cho toàn bộ thời gian liên doanh, cần xác định trách nhiệm quản lý đối với phần vốn này. Nếu giá trị quyền sử dụng đất quy định tại giấy phép đầu tư được chuyển thành cổ phần của Nhà nước trong doanh nghiệp FDI cổ phần hóa, thì phải có quy định đảm bảo cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa không phải nộp thêm tiền thuê đất. Nếu doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa phải chuyển sang thuê đất, thì giá trị vốn góp của bên Việt Nam chỉ tương đương với giá trị quyền sử dụng đất trong thời gian từ khi doanh nghiệp liên doanh nhận bàn giao đất tới khi chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, giá trị này nhỏ hơn giá trị vốn góp mà bên Việt Nam đăng ký tại giấy phép đầu tư. Trong trường hợp đó, hoặc là bên Việt Nam phải huy động các nguồn vốn khác để bù vào phần giá trị quyền sử dụng đất bị hụt đi do cổ phần hóa, hoặc Nhà nước phải cho phép doanh nghiệp được giảm vốn pháp định tương ứng với phần giảm giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam. Trong trường hợp này, cách giải quyết đơn giản nhất là chuyển từ cơ chế góp vốn bằng quyền sử dụng đất sang cả chế doanh nghiệp thuê đất của Nhà nước.
+ Thứ tư, về đơn vị giá trị cổ phần và mệnh giá cổ phiếu của doanh nghiệp FDI. Theo các văn bản hiện hành về cổ phần hóa, giá trị cổ phần đều xác định trên cơ sở đồng Việt Nam ,điều này đã tạo thuận lợi cho việc giao dịch các cổ phiếu này.Nghị định 48/1998/NĐ-CP về CK &TTCK cũng quy định doanh nghiệp chỉ được phát hành chứng khoán ghi bằng đồng Việt Nam. Theo chúng tôi CK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải được ghi bằng đồng Việt Nam khi niêm yết trên TTCK Việt Nam.Nếu doanh nghiệp phát hành CK ra thi trường quốc tế thì CK của doanh nghiệp sẽ được ghi bằng ngoại tệ.
+ Thứ năm, cần khuyến khích các doanh nghiệp FDI sau khi cổ phần hóa niêm yết trên TTCK Việt Nam bằng một cơ chế ưu đãi thỏa đáng như miễn thuế thu nhập phát sinh khi niêm yết cổ phiếu và chuyển nhượng cổ phiếu trong thời gian đầu tham gia TTCK. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu, ban hành quy định cho phép và hướng dẫn doanh nghiệp cổ phần FDI được phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trường nước ngoài.
3.4.2. Đối với Bộ Tài chính.
3.4.2.1. Về việc định giá doanh nghiệp cổ phần hóa
Quy trình và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để triển khai CPH hiện nay vẫn còn có những điểm chưa hợp lý. Nếu như theo công thức tính giá trị doanh nghiệp hiện hành thì giá trị doanh nghiệp có thể được xác định như sau:
+ Giá trị doanh nghiệp theo sổ sách kế toán: là tổng giá trị tài sản thể hiện trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp theo chế độ kế toán hiện hành.
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp: là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tính theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Có thể đưa ra công thức như sau:
+ Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản hiện vật + Giá trị vốn bằng tiền + Nợ phải thu + Chi phí dở dang + Giá trị tài sản ký quỹ + Giá trị tài sản đầu tư + Giá trị tài sản vô hình + Lợi thế thương mại (nếu có).
Cho đến nay, những căn cứ chủ yếu để xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa là Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát về tài sản, nguồn vốn của một doanh nghiệp, song còn có một số hạn chế, nhiều thông tin về tài chính của doanh nghiệp chưa được thể hiện như chỉ tiêu về giá trị dùng thước đo tiền tệ đối với lao động trí tuệ và lao động chân tay.
Trước thực trạng đó, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị đối với việc định giá doanh nghiệp cổ phần hóa:
Thứ nhất, khi định giá giá trị doanh nghiệp, bên cạnh các căn cứ quá khứ và hiện tại của tài sản, phải đặc biệt chú ý đến các lợi ích tương lai mà cả người bán và người mua có thể đạt được thông qua phép tính giá trị hiện tại của các lợi ích ròng kỳ vọng trong tương lai của cả hai bên.
Thứ hai, xuất phát điểm để xem xét giải quyết vấn đề là mức thay đổi phúc lợi xã hội khi tiến hành chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Thông qua phương trình này các lợi ích cơ bản của các đối tượng có liên quan đến việc mua bán doanh nghiệp, đó là 3 đối tượng: doanh nghiệp, người tiêu dùng và Nhà nước, được đề cập tới một cách tương đối toàn diện thông qua các khái niệm về giá trị doanh nghiệp như: giá trị tư hữu dưới sự vận hành của tư nhân, giá trị xã hội dưới sự vận hành của tư nhân, giá trị xã hội dưới sự vận hành của Nhà nước cũng như các hệ số giá trị của một đồng thu nhập của Nhà nước hay của tư nhân đối với phúc lợi xã hội.
Thứ ba, việc mua bán doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tắc thỏa thuận đôi bên, thông qua thương lượng, nên việc xác định mức giá tối thiểu mà Nhà nước chấp nhận được và mức giá tối đa mà người mua doanh nghiệp có thể chấp nhận được sẽ tạo nên một miền giá để đôi bên thương lượng.
Thứ tư, bên cạnh việc xác định giá trị doanh nghiệp qua kiểm kê đánh giá lại tài sản, có thể tiến hành định giá giá trị doanh nghiệp qua đấu thầu. Bởi vì cách làm này có những ưu điểm được thể hiện như sau:
- Nó phần nào giúp tránh được sự phức tạp và chậm chạp của việc kiểm kê đánh giá lại tài sản.
Nếu được tổ chức tốt, đấu thầu có thể xác định được giá trị cao nhất đối với DNNN.
Đấu thầu công khai cũng có thể góp phần định ra mức giá gần hơn với giá trị kinh tế đích thực của doanh nghiệp.
3.4.2.2. Về hoàn thiện hệ thống kế toán - kiểm toán
Những năm vừa qua chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển hệ thống kế toán đặc biệt chúng ta đã ban hành được các chế độ kế toán đặc thù trong lĩnh vực CK và TTCK .Đây sẽ là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự ổn định hoạt động, phát triển và hội nhập của TTCK.
Để tạo dựng khung pháp lý cần thiết và hỗ trợ cho hoạt động của TTCK, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản pháp qui về tài chính, kế toán gồm: Hướng dẫn tạm thời chế độ quản lý tài chính đối với hoạt động của TTGDCK (thông tư số 10/1999/TT - BTC ngày 9/1/1999), Hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với Công ty Chứng khoán cổ phần và trách nhiệm hữu hạn (thông tư số 11/2000/TT - BTC Ngày 1/2/2000).
Chế độ kế toán TTGDCK (Quyết định số 105/1999/QĐ-BTC ngày 30/8/1999); chế độ kế toán các CTCK (Quyết định số 99/2000/QĐ-BTC ngày 13/6/2000) được thiết kế dựa trên nguyên tắc phản ảnh rõ ràng tình hình tài chính và kết quả hoạt động của từng loại giao dịch chứng khoán, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước và của bản thân đơn vị, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của các đối tượng có mối quan hệ kinh tế trực tiếp, gián tiếp kể cả các đối tượng quan tâm đến hoạt động của TTCK.
Tuy nhiên, kế toán chứng khoán là lĩnh vực còn quá mới mẻ nên không thể tránh khỏi những thiếu sót bất cập. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã và đang đặt ra rất nhiều các yêu cầu đòi hỏi phải giải quyết. Việt Nam phải xây dựng một cách đồng bộ hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật của công tác kế toán, làm sao cho toàn bộ các hệ thống pháp luật về kế toán phải có các điểm tựa và phù hợp với yêu cầu quản lý của bản thân cơ sở, phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước. Về kế toán trong điều kiện kinh tế thị trường và phải tiếp cận phù hợp với những tiêu chuẩn thông lệ quốc tế từ đó xây dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán của Việt Nam. Đây là một yêu cầu rất lớn. Để đáp ứng yêu cầu này chúng ta phải xúc tiến xây dựng ngay một khuôn khổ pháp lý cho kế toán và hoạt động kế toán,đó chính là Luật kế toán. Luật kế toán sẽ là công cụ điều chỉnh mọi hoạt động về kế toán, Luật kế toán tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý ở cơ sở cũng như hoạt động quản lý của Nhà nước về kế toán và hoạt động kế toán.
Cùng với kế toán, hoạt động kiểm toán cũng đòi hỏi phải được hoàn thiện. Việt Nam phải khẩn trương tạo dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Có quy chế hoạt động kiểm toán độc lập, phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán, soạn thảo và công bố các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Phải thiết lập một hệ thống giám sát hoạt động kiểm toán, cần đảm bảo về mặt pháp lý, tính độc lập khách quan trong kiểm toán. Hoạt động kiểm toán và chất lượng hoạt động kiểm toán là rất quan trọng, nó cho phép đánh giá tình hình tài chính và khả năng phát triển của doanh nghiệp, từ đó cho phép đánh giá chất lượng các CK và giá cả CK cũng như cho phép đánh giá tình hình tài chính, hoạt động của các chủ thể trên TTCK Việt Nam.
Kết luận
Trung tâm giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cùng với TTCK Việt Nam đã đi vào hoạt động được gần 2 năm. Chúng ta đã có một kênh huy động vốn để phục vụ đắc lực cho công cuộc Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, ngoài vấn đề là làm sao cho TTCK Việt Nam vượt qua được những thử thách ban đầu để hoạt động có hiệu quả thì vấn đề tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho TTCK chúng ta hoàn thiện và phát triển hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế còn mang ý nghĩa to lớn hơn. Vì điều này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng mang tính lâu dài của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của TTCK Việt Nam nói riêng.
Mặc dù TTCK Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như về công tác quản lý điều hành trước quá trình hội nhập kinh tế: diễn biến về cung-cầu hàng hóa, giá cả còn bất thường, cung thì thiếu, cầu thì không ổn định, dẫn đến giá cả cũng thay đổi không ổn định theo; hành lang pháp lý còn thiếu sót, bất cập, không đồng bộ; chưa có các nhà tạo lập thị trường thực sự; hoạt động thị trường còn mang tính sơ khai; tóm lại chưa có những tiền đề đáng kể cho việc hội nhập, nhưng với sự nghiên cứu, phân tích sâu sắc về những nguyên nhân gây ra tình trạng trên thì chúng ta hoàn toàn có thể đề ra những giải pháp thiết thực để hoàn thiện và phát triển thể chế thị trường bậc cao này nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế, và sau đó là quá trình hội nhập TTCK.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập với sự tồn tại, phát triển của TTCK , nhóm nghiên cứu khoa học lớp Ngân hàng 41 A đã nghiên cứu và thực hiện đề tài: "Giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay". Mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm,thu thập tài liệu nhưng vì trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo cùng tất cả các bạn.
Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Phần phụ lục
bảng tổng kết phiếu thu thập
ý kiến nhà đầu tư tiềm năng
Bảng 1: Nơi làm việc
Nơi làm việc
số người
Doanh nghiệp nhà nước
224
Công ty cổ phần
59
Công ty TNHH
35
DN có vốn ĐT nước ngoài
133
Doanh nhiệp tư nhân
28
Các trường hợp khác
112
Tổng số
591
Bảng 2: Thu nhập
Thu nhập
số người
Dưới 1 triệu đồng
183
1-1,5 triệu đồng
146
1,5-3 triệu đồng
129
Trên 3 triệu đồng
133
Tổng số
591
Bảng 3: Hình thức đầu tư
Các hình thức đầu tư
số người
Thành lập doanh nghiệp
17
Mua bảo hiểm
105
Gửi ngân hàng
252
Các hình thức khác
175
Bảng 4: ý định đầu tư chứng khoán
Tiêu thức
số người
Có
254
Không
204
Không có ý kiến
133
Tổng số
591
Bảng 5: Lý do đầu tư
Lý do
số người
Lãi cao
133
Dễ mua bán
109
An toàn
11
Theo phong trào
35
Bảng 6: Tầm quan trọng của kiến thức về chứng khoán
Mức độ quan trọng
số người
Rất quan trọng
136
Quan trọng
82
Bình thường
20
Không quan trọng
16
Tổng số
254
Bảng 7: Nguồn kiến thức về thị trường chứng khoán
Các nguồn kiến thức
số người
Học đại học
119
Qua các lớp bồi dưỡng
14
Đọc tài liệu
157
Các nguồn khác
46
Bảng 8: Nguyên nhân không đầu tư chứng khoán
Nguyên nhân
số người
Thu nhập thấp
123
Thị trường hoạt động không hiệu quả
67
Tiện ích của công ty chứng khoán chưa cao
42
Kiến thức hạn chế
63
Hàng hoá chưa hấp dẫn
56
Đầu tư vào hoạt động khác
49
Bảng 9: Mức độ thường xuyên tìm hiểu về thị trường chứng khoán
Mức độ
số người
rất thường xuyên
31
Thường xuyên
207
Không thường xuyên
353
Tổng số
591
Bảng 10:Nguồn tìm hiểu về thị trường chứng khoán
Nguồn
số người
sách
67
Báo, tạp chí
381
Truyền hình
266
Qua bạn bè
109
Bảng 11: Các tạp chí thường đọc
Tạp chí
số người
Chứng khoán Việt Nam
74
Thời báo kinh tế Việt Nam
301
Đầu tư chứng khoán
94
Tạp chí khác
178
báo cáo thu thập ý kiến của các nhà đầu tư
I
Những thông tin cá nhân
Bảng 1: Tổng kết về nơi làm việc
Nơi làm việc
số người
Doanh nghiệp nhà nước
39
Công ty cổ phần
26
Công ty TNHH
19
Doanh nghiệp có vốn ĐT nước ngoài
7
Doanh nghiệp tư nhân
52
Các trường hợp khác
33
Tổng số
176
Bảng 2: Nơi mở tài khoản
Công ty chứng khoán
số người
CTCK của Ngân hàng ĐT & PT
20
CTCK của Ngân hàng ACB
6
CTCK Bảo Việt
97
CTCK của Ngân hàng NN & PTNT
33
CTCK Thăng Long
7
CTCK của Ngân hàng Công Thương
13
CTCK Sài Gòn
0
CTCK Đệ Nhất
0
Tổng số
176
Bảng 3: Số dư tài khoản
Giá trị (tiệu đồng)
số người
Dưới 50 triệu
136
50 - 100 triệu
34
100 - 500 triệu
6
Trên 500 triệu
0
Tổng số
176
Bảng 4: Lý do mở tài khoản tại công ty chứng khoán
Lý do
số người
Thuận tiện về địa lý
156
Cơ sở vật chất hiện đại
13
Mức phí thấp
0
Đội ngũ cán bộ có trình độ
0
Hiệu quả hoạt động cao
0
Thái độ phục vụ tốt
26
Uy tín của CTCK
0
Các lý do khác
13
Bảng 5: Số lần giao dịch mỗi tháng
số lần
số người
Dưới 5 lần
110
5 - 10 lần
46
Trên 10 lần
20
Tổng số
176
Bảng 6: Nguồn kiến thức về chứng khoán
Các nguồn
số người
Học đại học
26
Tự đọc tài liệu
123
Qua các lớp bồi dưỡng
13
Các nguồn khác
14
Bảng 7: Các loại tạp chí thường đọc
Tạp chí
số người
Chứng khoán Việt Nam
98
Thời báo kinh tế Việt Nam
117
Đầu tư chứng khoán
111
Tạp chí khác
13
II.Nhận xét của nhà đầu tư về thị trường chứng khoán
Bảng 1: Đánh giá về số lượng
Chỉ tiêu
số người
Đủ
33
Thiếu
143
Tổng số
176
Bảng 2: Đánh giá về chất lượng
Chất lượng
Chỉ tiêu
Cao
Trung bình
Thấp
Tổng số
Tính sinh lợi
19
65
92
176
Tính thanh khoản
13
78
85
176
Tính rủi ro
97
59
20
176
Bảng 3: Hàng hoá đầu tư
Hàng hoá
số người
Cổ phiếu
156
Trái phiếu
20
Tổng số
176
Bảng 4: Các nghiệp vụ tiếp cận
Trả lời
Nghiệp vụ
Có
Không
Môi giới
162
14
Quản lý danh mục đầu tư
81
95
Cao
110
Mức phí
Trung bình
39
Thấp
13
Nhanh
13
Quy trình đặt lệnh
Trung bình
52
Chậm
97
Rất tốt
6
Cung cấp thông tin
Tốt
39
Trung bình
72
Kém
45
Bảng 5: Đánh giá về số lượng công ty niêm yết
số lượng
số người
Quá nhiều
0
Đủ
26
Thiếu
85
Rất thiếu
65
Tổng số
176
Bảng 6 : Đánh giá về chất lượng công ty niêm yết
Chất lượng
số người
Tốt
45
Trung bình
72
Xấu
20
Không có ý kiến
39
Tổng số
176
Bảng 7: Đánh giá về điều kiện niêm yết
Cao
52
Mức vốn điều lệ
Trung bình
98
Thấp
26
R ấ t hợp lý
13
Thời gian làm ăn có lãi
Hợp lý
137
Không hợp lý
26
Bảng 8: Đánh giá về tình hình giao dịch cổ phiếu
Chỉ tiêu
số người
Nhiều
6
Bình thường
65
ít
105
Bảng 9: Nguyên nhân giao dịch trái phiếu ít
Nguyên nhân
số người
Lãi suất thấp
92
Loại hình không đa dạng
52
Tính thanh khoản thấp
65
Cả ba lý do trên
66
ý kiến khác
0
Bảng 10: Đánh gía về biến động giá cả
Chỉ tiêu
số người
rất ổn định
6
ổn định
20
Không ổn định
150
Tổng số
176
Bảng 11: Đánh giá về sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài
Chỉ tiêu
số người
Nhiều
0
ít
130
rất ít
46
Tổng số
176
Bảng 12: Đánh giá về biên độ giao động giá
Chỉ tiêu
số người
rất phù hợp
0
phù hợp
71
Không phù hợp
105
Tổng số
176
Bảng 13: ý kiến về biên độ giao động
Chỉ tiêu
số người
Dưới 2%
0
2 - 5%
45
5 - 7%
27
Trên 7%
33
Tổng số
105
Bảng 14: ý kiến về thời hạn thanh toán
Thời gian
số người
T +1
26
T +2
104
T + 3
46
T + 4
0
Tổng số
176
Bảng 15: Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các biện pháp
quản lý của UBCKNN
Mức độ
Quy định
Nhiều
ít
Không có
Phí giao dịch
85
64
27
Giá tham chiếu
65
104
7
Giới hạn số chứng khoán
trong một lệnh mua
98
65
13
III
ý kiến của nhà đầu tư để hoàn thiện TTCK Việt Nam
Bảng 1: Việc lựa chọn thị trường
Thị trường
số người
OTC
139
Bảng 2
37
Tổng số
176
Bảng 2: Vấn đề thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán
ý kiến
số người
Không đánh thuế
59
Miễn thuế trong thời gian đầu
110
Đánh thuế ngay từ đầu
7
Tổng số
176
Bảng 3: Thời gian miễn thuế
Thời gian
số người
Dưới 2 năm
7
2 - 5 năm
84
Trên 5 năm
19
Tổng số
110
Bảng 4: sự cần thiết phải tăng số lượng công ty chứng khoán
Chỉ tiêu
số người
Cần thiết
111
Không cần thiết
52
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 5: Những vấn đề cần khắc phục ở CTCK
Nội dung
số người
Cơ sở vật chất
123
Mức phí
95
Thái độ phục vụ
98
Đội ngũ cán bộ
97
Bảng 6: ý kiến về việc mở đại lý CTCK xuống các địa phương
ý kiến
số người
Nên
130
Không nên
46
Tổng số
176
Bảng 7: ý kiến về việc phát triển CTCK có sự tham gia của yếu tố nước ngoài
ý kiến
số người
Nên
163
Không nên
0
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 8: ý kiến về việc mở cửa TTCK
ý kiến
số người
Có
117
Không
46
Không có ý kiến
13
Tổng số
176
Bảng 9: Loại hình nhà đầu tư nước ngoài cần phát triển
ý kiến
số người
Cá nhân
26
Tổ chức
7
Cả hai
143
Tổng số
176
Bảng 10: Các loại lệnh nên áp dụng trong thời gian tới
ý kiến
Loại lệnh
Có
Không
Không có ý kiến
Lệnh dừng
111
13
52
Lệnh thị trường
111
6
59
Bảng 11: Các hình thức giao dịch nên áp dụng
ý kiến
Hình thức giao dịch
Có
Không
Không có ý kiến
Bán khống
98
39
39
Mua bằng tài khoản ký quỹ
143
0
33
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35362.doc