Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Phần mở đầu Sở chứng khoán đầu tiên trên thếgiới được thành lập năm 1531 tại thành phố Anvers (thuộc nước Bỉ). Kể từ đó đến nay đã gần 500 năm, thuật ngữ “Thị trường chứng khoán” được mọi người biết đến và phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia. Thị trường chứng khoán đã được thiết lập ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường và có thể nói thị trường chứng khoán gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, không một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hiện diện

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, sự ra đời của thị trường chứng khoán được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán tại TP Hồ Chí Minh ngày 20-7-2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Thị trường chứng khoán Việt Nam đến nay ra đời và phát triển đã hơn bốn năm và đã chứng tỏ sự xuất hiện của nó là cần thiết cho nền kinh tế đang chuyển đổi của nước ta. Tuy nhiên đang trong giai đoạn đầu phát triển và hoàn thiện nên thời gian qua bên cạnh những dấu hiệu khả quan vẫn xuất hiện nhiều vấn đề bất cập cần có thời gian để khắc phục. Là sinh viên chuyên ngành Ngân hàng- Tài chính, việc tìm hiểu thị trường chứng khoán là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình học tập đề tài “Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam” được em lựa chọn tìm hiểu. Bài viết này em chia làm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về thị trường chứng khoán. Chương 2: Thực trạng tình hình hoạt động TTCK Việt Nam hiện nay. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam Bài viết được thực hiện với sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thuỳ Dương. Rất mong nhận được sự góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, ngày 25 tháng 10 năm 2004 Sinh viên Đặng Thị Mai Anh Chương 1:Lý luận chung về thị trường chứng khoán 1.1 Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán Các quan điểm về thị trường chứng khoán. Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể tách rời, phân biệt nhau mà cùng thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai của các nhà kinh tế cho rằng: “TTCK được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải là đồng nhất là một”. Như vậy theo quan điểm này TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi của TTCK. Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng “ Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, TTCK được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu. Khái niệm TTCK Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sỏ hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra trên thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại sở giao dịch (Stock exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. 1.1.3 Bản chất của TTCK Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vai trò và nguyên tắc hoạt động của TTCK 1.1.2 Vai trò của TTCK Vai trò của TTCK Đối với nhà đầu tư: Khi thị trường chứng khoán chưa ra đời, việc đầu tư của các nhà đầu tư bị bó hẹp trong phạm vi đầu tư trực tiếp hoặc cho vay. Điều đó được giải quyết triệt để khi TTCK xuất hiện với việc đa dạng hoá các phương thức đầu tư. Mặt khác, TTCK là một bước phát triển ở trình độ cao đã tạo lập cho các nhà đầu tư một môi trường kinh doanh hiện đại, giúp các nhà đầu tư thể hiện trình độ kinh doanh của mình, đồng thời cũng bắt buộc các nhà kinh doanh phải tự trau dồi hiểu biết, có vốn kiến thức kinh tế nhất định. Đối với các doanh nghiệp: Để huy động vốn, các doanh nghiệp có thể có hai kênh huy động là đi vay và phát hành chứng khoán. Các chứng khoán mà doanh nghiệp phát hành chỉ có thể vận động trên TTCK. Điều đó cho thấy vai trò vô cùng to lớn của TTCK đối với doanh nghiệp trong việc huy động vốn và đa dạng hình thức huy động vốn. Khi phát hành chứng khoán trên TTCK doanh nghiệp đã tạo nên một thương hiệu chính thức cho mình, được các nhà đầu tư và công chúng biết đến. Nếu như giá chứng khoán của doanh nghiệp ổn định và ở mức cao thì điều đó giúp cho việc củng cố hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách tăng theo. TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đối với nền kinh tế và Chính phủ: TTCK là nơi huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế. Nó tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. TTCK được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế (có thể dự báo), có xu hướng đi trước một bước trong chu kỳ kinh doanh. Trên cơ sở đó các nhà hoạch định kinh doanh có thể đưa ra các chính sách thích hợp. Mặt khác, TTCK còn là cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nhược điểm của TTCK Giá cả của chứng khoán phải trực tiếp do hiệu quả kinh doanh của doanh ngiệp quyết định.Tuy nhiên,do yếu tố đầu cơ chứng khoán tác động lên giá chứng khoán làm giá chứng khoán tên thị trường biến động tăng một cách giả tạo, gây lên sự kém hiệu quả trên thị trường. Một hạn chế khác của TTCK chính là hành vi mua bán nội gián của các cá nhân lợi dụng vị trí công việc của mình để mua hoặc bán cổ phiếu của các công ty đó và làm giá cổ phiếu của công ty trên thị trường biến động nhằm trục lợi cho mình. Những nhược điểm khác của TTCK như là phao tin đồn không chính xác và sai lệch về công ty, thôn tính lũng đoạn công ty thông qua mua bán cổ phiếu không qua sở giao dịch là những hình thức chưa bị các chế tài pháp luật xử lý nghiêm khắc. 1.2.2 Nguyên tắc của TTCK Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ những nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán, chứng khoán giúp khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc đấu giá: Việc định giá chứng khoán trên thị trường hoàn toàn do các nhà môi giới thực hiện thông qua thương lượng đấu giá giữa những người môi giới cần mua và những nhười moi giới cần bán. Giá chứng khoán được xác định khi hai bên mua và bán đã thống nhất, không ai có thể can thiệp vào sự tác dộng qua lại của số cung và cầu và không ai có quyền đánh giá chứng khoán một cách độc đoán. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. Vị trí và cấu trúc của TTCK Vị trí của TTCK Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của thị trường chứng khoán trong tổng thể thị trường tài chính thể hiện: TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn: Thị trường vốn TT tiền tệ TTCK Thời gian đáo hạn 1 năm t Như vậy trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: Công cụ tài chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ. Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính: Nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu). TT Vốn cổ phần TT Nợ TT Trái phiếu TT Cổ phiếu 1.3..2 Cấu trúc của TTCK -Phân loại theo hàng hoá: + Thị trường trái phiếu (Bond market ): Là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và cả trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. + Thị trường cổ phiếu : Giao dịch mua bán những cổ phiếu thường (Common stocks) và những cổ phiếu ưu đãi (Preferred stocks). Đây là những giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn là không xác định. + Thị trường các công cụ có nguồn gốc CK: Là nơi các CK phái sinh được mua và bán đó là những hợp đồng về quyền lựa chọn, những giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu. Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư. - Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn: Theo cách phân loại này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. + Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư. + Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu khoong có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường: + Thị trường chứng khoán chính thức hay Sở giao dịch chứng khoán (Stock Exchange): Đây là TTCK tập trung, hoạt động đúng theo các quy định của pháp luật, là nơi giao dịch mua bán các loại CK đã được đăng ký (Listed or registered securities). Tại đây, người mua và người bán gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi CK của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật CK và thị trường chứng khoán. + Thị trường chứng khoán bán chính thức: Đây là thị trường không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh CK như ở Sở giao dịch CK, không có khu vực giao dịch cụ thể, hoạt động giao dịch diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, vào thời điểm vại chỗ mà những người có nhu cầu mua bán CK gặp gỡ nhau. Đây là một thị trường bậc cao, được tự động hoá cao độ, hàng ngàn môi giới trong cả nước giao dịch mua bán CK với nhau thông qua hệ thống điện thoại và hệ thống vi tính nối mạng. Nó không phải là thị trường hiện hữu, vì vậy còn được gọi là thị trường giao dịch không qua quầy - Thị trường OTC (Over The Counter Market). Thông thường đối với các nước phát triển và các nước có TTCK phát triển, mới có điều kiện hình thành loại thị trường bậc cao này vì chỉ các nhà đầu tư ngoài quỹ đầu tư, các công ty lớn mới có khả năng có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại, còn tham gia nối mạng máy lớn thì rất khó khăn, còn các nhà đầu tư nhỏ, khó có thể trang bị cho mình những phương tiện máy móc hiện đại vì vậy thị trường OTC chưa thích hợp với các nước đang phát triển. Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Hàng hoá trên TTCK Cổ phiếu Cổ phiếu là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Như vậy, chính công ty cổ phần đã khai sinh ra cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới có cổ phiếu. Các cổ đông - người mua cổ phiếu của công ty, không phải là chủ nợ đối với công ty, mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động, là người chủ sở hữu một phần của công ty.Vì vậy, cổ phiếu còn được gọi là CK vốn. Cổ phiếu được chia thành 2 loại: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. - Cổ phiếu thường: Thể hiện quyền sở hữu được bỏ phiếu của một công ty cổ phần . Mỗi cổ phiếu thường thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông trong công ty. Số lượng cổ phiếu mà cổ đông nắm ngày càng nhiều, quyền lợi sở hữu của anh ta trong công ty càng lớn. Nếu bạn là một cổ đông có cổ phiếu thường bạn sẽ được hưởng những quyền lợi sau : - Quyền bỏ phiếu bầu HĐQT - Quyền nhận cổ tức theo công bố của HĐQT - Quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phiếu - Quyền bỏ phiếu cho các vấn đề có ảnh hưởng đến toàn bộ công ty - Quyền kiểm tra sổ sách của công ty - Quyền được chia tài sản khi công ty thanh lý hay giải thể Mệnh giá của cổ phiếu thường : Hầu hết các công ty cổ phần ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu thường và mệnh gia thường được in trên tờ cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá thể hiện tầm quan trọng duy nhất của nó vào thời điểm cổ phần lần đầu tiên được phát hành. Giá thị trường của cổ phiếu thường: Khi cổ phiếu bán ra công chúng, giá của nó được xác định bởi giá mà các nhà đầu tư mua nó, giá này được coi là giá thị trường hay giá trị thị trường. Nó phụ thuộc vào sự tin tưởng của người đầu tư với công ty phát hành . Trên thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng không phải do một người nào khác quyết định. Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thấp nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng mua nó. - Cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi cũng thể hiện quyền lợi sở hữu trong một công ty. Nó được gọi là cổ phiếu ưu đãi vì nếu bạn là một trong những cổ đông nắm loại cổ phiếu này được hưởng một số ưu đãi hơn so với những cổ đông thường. Những cổ đông ưu đãi có thể có quyền nhận cổ tức trước cổ đông thường hay có quyền ưu tiên được nhận tài sản trong trường hợp công ty bị giải thể. Tuy nhiên, không giống với các cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi thường không được bỏ phiếu bầu ra HĐQT và quyền hưởng lợi tức cổ phần bị giới hạn theo một số lượng nhất định. Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi: Giống như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, ở đây mệnh giá cũng có mối liên quan đến giá thị trường. Nếu một cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá thì cổ tức sẽ được tính dựa vào mệnh giá đó. Nếu cổ phiếu ưu đãi không có mệnh giá thì cổ tức sẽ không được công bố bằng một số đô la nào đó trên mỗi cổ phiếu mà công ty phát hành ấn định. Các loại cổ phiếu ưu đãi: - Cổ phiếu ưu đãi tham dự và không tham dự chia phần - Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ và không tích luỹ - Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi - Chứng khoán ngân quỹ - Chứng khoán trôi nổi 1.4.2 Trái phiếu Là một loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Khi mua trái phiếu bạn trở thành chủ nợ của tổ chức phát hành (có thể là chính phủ, chính quyền địa phương hoặc các công ty). Dù trong điều kiện nào bạn đều có quyền được hưởng đủ các khoản thanh toán lãi và hoàn trả gốc khi đáo hạn như đã cam kết. Bạn cũng có quyền được cung cấp tất cả những thông tin về tình hình làm ăn của bên vay, kết quả cũng như triển vọng trong tương lai. Với tư cách là người sở hữu trái phiếu - hay còn gọi là trái chủ, bạn sẽ được hưởng ưu tiên thanh toán tài sản thanh lý khi công ty bị phá sản trước cổ đông. Tuy nhiên, bạn không được tham gia vào những quyết định của tổ chức phát hành, và cũng không được “chia gì” thêm ngoài những khoản tổ chức phát hành đã cam kết. Mệnh giá của trái phiếu: Là số tiền ghi trên tờ trái phiếu và sẽ được bên vay hoàn trả khi trái phiếu hết hạn. Giá trái phiếu: là giá khi nhà đầu tư mua trái phiếu, nó có thể bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mệnh giá. Các loại trái phiếu: - Trái phiếu công ty: Do công ty phát hành với mục đích huy động vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt phục vụ cho đầu tư phát triển. Nó bao gồm: + Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên người chủ trái phiếu, cả trên trái phiếu và cả trên sổ của người phát hành. Trái phiếu này được thanh toán cho những ai mang nó, tức là người chủ sở hữu trái phiếu đó. Trái phiếu này có phiếu trả tiền lời đính kèm theo gọi là coupon - cuống phiếu, trái chủ xé một cuống phiếu vào ngày trả lãi và gửi cho đại lý của công ty để thanh toán. + Trái phiếu ghi tên :Tên của trái chủ được đăng ký tại công ty phát hành. Người có trái phiếu này không phải gửi các cuống phiếu cho đại lý thanh toán để nhận tiền lãi của mình mà thay vào đó, vào ngày đến hạn, người đại lý sẽ tự động gửi cho anh ta một tờ séc trả cho khoản lãi đó. + Trái phiếu có thể thu hồi :Một số công ty có quy định trong trái phiếu một điều khoản cho phép họ mua lại trái phiếu trước khi đến hạn. Thông thường công ty chấp nhận trả cho người có trái phiếu theo giá gia tăng tức là, lớn hơn mệnh giá của trái phiếu khi công ty muốn mua lại trái phiếu đó. + Trái phiếu có thể chuyển đổi : Trái phiếu chuyển đổi cho người sở hữu quyền đổi trái phiếu của anh ta sang một loại chứng khoán nào đó, chứng khoán này có thể là cổ phiếu ưu đãi hay cổ phiếu thường của công ty phát hành. + Trái phiếu bảo đảm : +/ Trái phiếu có tài sản cầm cố: là việc công ty phát hành thế chấp bất động sản để đảm bảo khả năng thanh toán nợ. +/Trái phiếu có tài sản thế chấp: là việc công ty phát hành đưa ra các loại chứng khoán dễ chuyển nhượng mà công ty sở hữu của người khác để bảo đảm cho việc phát hành trái phiếu. +/ Trái phiếu không đảm bảo : Một công ty có khả năng tín dụng cao có thể phát hành trái phiếu chỉ trên uy tín của mình. Những trái phiếu này được gọi là giấy nhận nợ và công ty không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo cho nó. +/ Các chứng khoán nhận nợ do ngân hàng phát hành như : Chứng chỉ tiền gửi: cung cấp cho ngân hàng các nguồn vốn để thực hiện cho vay ngắn hạn. Phiếu chấp nhận thanh toán của ngân hàng : được phát hành để tài trợ cho buôn bán quốc tế. - Trái phiếu chính phủ Để tài trợ cho chi tiêu ngân sách, các chính phủ có thể phát hành trái phiếu thông qua kho bạc nhà nước. Trái phiếu chính phủ có thể là ngắn hạn, trung và dài hạn - Kỳ phiếu kho bạc ngắn hạn : Phổ biến nhất là các loại 3 tháng và 6 tháng, các kỳ phiếu ngắn hạn là những công cụ chiết khấu, thường không có mức lãi suất cố định. Các kỳ phiếu ngắn hạn thường được mua bằng một số tiền và người mua sẽ nhận được một số tiền lớn hơn bằng mệnh giá khi đến hạn. Khoản chênh lệch giữa hai số tiền trên gọi là khoản chiết khấu, lãi suất thu được chính là lãi suất chiết khấu. - Trái phiếu kho bạc trung và dài hạn: Các trái phiếu kho bạc trung và dài hạn là các công cụ có kỳ hạn dài hơn kỳ phiếu kho bạc. Trái phiếu trung hạn được phát hành với thời gian đáo hạn từ 1 đến 10 năm. Trái phiếu dài hạn được phát hành từ 10 đến 30 năm. Các trái phiếu trung và dài hạn có mức lãi suất cố định và được trả lãi trên cơ sở nửa năm. Những công cụ này được tính toán trên cơ sở 1 năm là 365 ngày mà không phải 360 ngày như đối với các kỳ phiếu ngắn hạn và các công cụ khác. 1.4.3. Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán - Chứng chỉ thụ hưởng: Do công ty tín thác đầu tư hay các quỹ tương hỗ phát hành. Công ty tín thác đầu tư và các quỹ tương hỗ là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp thực hiện đầu tư theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Các tổ chức này phát hành chứng chỉ thụ hưởng để xác nhận quyền lợi của khách hàng là những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Chứng chỉ thụ hưởng này có thể được mua bán, giao dịch trên TTCK như các giấy tờ có giá khác. - Chứng quyền: Là một quyền mua hay đặt mua cổ phiếu mới được phát hành tại một giá xác định thường thấp hơn giá thị trường hiện hành theo tỷ lệ thuận với số cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Chứng quyền thường có thời hạn ngắn từ 2 tuần đến 30 ngày. Trong thời gian đó người có chứng quyền có thể sử dụng để mua cổ phiếu mới hoặc bán nó trên thị trường. TD: Một công ty có 100.000 cổ phần nay muốn phát hành thêm 10.000 cổ phiếu mới . Khi đó tỷ lệ chuyển đổi là 1/10 tức là cứ có 10 cổ phiếu cũ thì mua được 1 cổ phiếu mới. - Chứng khế hay trái quyền: Một chứng khế gắn với một chứng khoán cho phép người giữ nó được quyền mua cổ phiếu thường theo một giá nhất định. Giá xác định trên chứng khế cao hơn gía thị trường hiện hành của cổ phiếu thường. TD :Một công ty A có cổ phiếu thường đang lưu hành với giá 40$/1CP , chứng khế phát hành cho phép người giữ nó mua cổ phiếu của công ty A với giá 60$/1CP vào bất kỳ thời điểm nào cho đến ngày 31/12/2004. Nếu công ty A đang rất có triển vọng và người ta dự đoán đến năm 2004, giá cổ phiếu của công ty có thể vượt mức 60$ thì chứng khế sẽ rất hấp dẫn. Bởi vậy, người ta thường sử dụng chứng khế đi kèm với trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi để làm cho việc chào bán lần đầu hấp dẫn hơn. 1.5 Các chủ thể tham gia TTCK TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ thể tham gia TTCK.Toàn bộ thao tác hàng ngày của các chủ thể này làm cho thị trường vận động hoàn hảo. Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của họ liên đới và bổ sung chặt chẽ cho nhau, mỗi chủ thể đều đóng vai trò của mình và tập thể sẽ đều vững mạnh và nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của người này sang sở hữu của người khác một cách hợp lý và hài hoà để nền kinh tế hoạt động với những giá trị mới được tạo ra từng giờ mỗi ngày. Hoạt động trên TTCK có nhiều loại chủ thể. Nếu xem xét một cách tổng hợp thì trên TTCK có 5 nhóm tác nhân lớn sau. 1.5.1 Nhà phát hành Là những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các CK trên thị trường sơ cấp. Thuộc loại này có: chính phủ, cơ quan thuộc chính phủ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần. Trong số đó chủ yếu là chính phủ và các công ty cổ phần. 1.5.2 Nhà trung gian Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. Các công ty chứng khoán thực chất chính là các chủ thể trung gian trên TTCK.Trung gian là đưa đường chỉ lối để hai bên gặp nhau. Không phải nhà kinh doanh nào cũng có thể gặp ngay được những đối tượng cần mua CK để cả hai bên cùng thực hiện việc mua bán lẫn nhau. Cũng như không phải bất kỳ người dân nào muốn đầu tư vào CK cũng có thể nhanh chóng đủ hiểu biết, đủ thông tin để tìm được cho mình nơi mua lại CK hợp với túi tiền, có mức lãi suất và thời gian đáo hạn đúng ý muốn. Do những hạn chế này và nhu cầu tiện lợi co các chủ thể, trên thị trường xuất hiện những người trung gian với công việc chủ yếu là đưa đường chỉ lối để người bán và người mua gặp nhau theo đúng yêu cầu của cả hai bên. Do vậy, các trung gian CK không phải là người môi giới thông thường mà giữ vai trò vô cùng chủ động trong việc thương lượng CK, thay thế thân chủ để cam kết mua bán CK với giá định sẵn do chính trung gian CK đã lựa chọn. Vai trò chủ yếu của nhà trung gian chứng khoán là: + Kinh doanh CK: là nghiệp vụ mua bán CK cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro của các nhà trung gian CK + Môi giới CK: là những người nối kết và giúp thực hiện yêu cầu của người mua, kẻ bán. Họ là người không nắm giữ CK trong khi tiến hành các hoạt động dịch vụ nên không bị đặt trước bất kỳ một rủi ro nào có liên quan đến CK. + Nhà chuyên gia: là những người chỉ chuyên giao dịch mua bán một số loại chứng khoán cụ thể tại một vị trí được chỉ định. 1.5.3 Nhà đầu tư Là những người thật sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: + Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời. + Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. 1.5.4 Các tổ chức quản lý, giám sát và hỗ trợ. - Uỷ ban chứng khoán nhà nước: là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK. - Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch CK trên sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCK. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. - Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ: là các trung tâm làm nhiệm vụ giữ hộ các cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường và làm nhiệm vụ thanh toán bù trừ giữa các nhà đầu tư khi tiến hành mua bán chứng khoán. Chương 2: Thực trạng tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1 Thực trạng tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong những năm vừa qua Quá trình hình thành và phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam được khởi xướng từ năm 1992 nhưng đến cuối tháng 7/2000 mới đi vào hoạt động. Tính đến cuối tháng 12/2003 có 123 chứng khoán niêm yết, trong đó có 22 cổ phiếu, với giá trị vốn 1120 tỷ đồng và 101 trái phiếu, với giá trị vốn 11461 tỷ đồng; 13 công ty chứng khoán thành viên, trong đó 6 công ty của ngân hàng. Số còn lại là của các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán tư nhân. Đến ngày 31/12/2003 đã có 700 phiên giao dịch khớp giá một lần (mỗi phiên có 1 giá giao dịch), từ đầu năm 2002 đến nay mỗi tuần giao dịch 5 phiên, hiện nay mỗi phiên khớp giá 2 lần. Trong hơn 4 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã diễn biến qua 3 giai đoạn rõ rệt: Giai đoạn đầu: từ ngày giao dịch đầu tiên đến giữa tháng 6/2001, thời kỳ khủng hoảng thiếu trầm trọng, cầu vượt cung hàng chục lần, giá cổ phiếu tăng đồng loạt, tăng hết mức khống chế. Chỉ số VN-Index từ 100 điểm ngày giao dịch đầu tiên, đến ngày 25/6/2001 lên đến 571,04 điểm, giá cổ phiếu bình quân tăng từ 7 – 10 lần. Giai đoạn hai: Từ ngày 25/6/2001 đến đầu tháng 11/2001, thị trường khủng hoảng thừa, giá giảm đồng loạt, giảm liên tục, giảm hết mức khống chế; VN- Index từ 571,04 điểm sau chưa đầy 4 tháng xuống còn 190 điểm (giảm 3 lần). Giai đoạn 3: Từ cuối năm 2001 đến nay, thị trường trong tình trạng trầm lắng, VN-Index tiếp tục đi xuống, nhưng ở mức nhẹ hơn, năm 2003 chỉ số biến động trong khoảng từ 140 – 150 điểm. Doanh số giao dịch cổ phiếu trong 2 năm 2002 – 2003 bình quân mỗi phiên từ 2-3 tỷ đồng, thời kỳ cao nhất trước đây mỗi phiên từ 30- 35 tỷ đồng vì giá thị trường giảm liên tục trong một thời gian dài, nên hầu hết người đầu tư đều bị thua lỗ, một bộ phận lớn đã bổ việc hoặc đóng băng tài khoản, số người tham gia rất ít. Và, vì doanh số giao dịch thấp, các công ty chứng khoán bị thua lỗ. Năm 2004, quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã tiến hành huy động vốn và đi vào hoạt động. Tính đến hết tháng 6/ 2004; có 820 phiên giao dịch đã được thực hiện thành công tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh với tổng giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên hơn 17 tỷ đồng. Ngày 30/6/2004 chỉ số VN-Index là 249,7 điểm tăng 80,56 điểm cơ sở (khoản 47,6%) so với dầu năm. Tổng giá trị thị trừơng tính cùng thời điểm là 3,4% GDP tăng hơn 2 lần so với năm 2003. Như vậy tốc độ suy giảm của thị trường chứng khoán đã chậm hẳn và thị trường chứng khoán đang có dấu hiệu hồi phục. Một kế cục mang lại nhiều hy vọng mới cho năm 2004. Hoạt động của thị trường chứng khoán - Về công tác tổ chức và vận hành TTGDCK Trung tâm giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK) được tổ chức theo mô hình tập trung với quy mô nhỏ, thực hiện chức năng xác định giá chứng khoán theo quan hệ cung cầu và tạo cơ hội luân chuyển vốn cho nhà đầu tư. Khi thị trường bắt đầu hoạt động chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết, giao dịch tại TTGDCK với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ đồng, đến nay tổng giá t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33653.doc
Tài liệu liên quan