Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu ngành giấy tại tổng Công ty Giấy Việt Nam

Lời nói đầu Hiện nay,trên thế giới các nước đều dành ưu tiên cao cho phát triển kinh tế , lấy lợi ích quốc gia làm chuẩn mực khi thực hiện chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế. Trong bối cảnh đó, thương mại quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là hoạt động nhập khẩu, từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thương mại quốc

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu ngành giấy tại tổng Công ty Giấy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thông qua hoạt động nhập khẩu đem lại lợi ích cho nền kinh tế và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ lợi thế so sánh trao đổi với nước ngoài, phát huy những tiềm năng, những lợi thế vốn có của đất nước, tạo thêm cho quá trình tái sản xuất trong nước. Có thể nói rằng một trong những mặt hàng không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân nói chung và đời sống xã hội nói riêng, đó là Giấy- một trong những mặt hàng chiến lược của nền kinh tế do chính phủ trực tiếp quản lý. Là một đơn vị chủ đạo của ngành giấy tại Việt Nam. Tổng công ty Giấy-Việt Nam cũng rất quan tâm đến công tác xuất nhập khẩu, coi đây là một trong những hoạt động chủ đạo liên quan chặt chẽ đến sự thành công của mình. Cùng với quá trình chuyển hoá và đổi mới đất nước, đồng thời mở rộng phạm vi hoạt động của mình thì việc nhập khẩu nguyên liệu giấy ở Tổng công ty Giấy-Việt Nam đang trên đà cải tiến và hoàn thiện các khâu của nghiệp vụ này. Nhận thức được sự phát triển và phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện quy trình nhập khẩu của công tác nhập khẩu, cùng với kiến thức đã được trang bị và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Giấy-Việt Nam em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu ngành Giấy tại Tổng công ty Giấy-Việt Nam.” Cho luận văn của mình. Mục đích của đề tài là phân tích đánh giá quy trình nhập nguyên liệu giấy ở Tổng công ty Giấy- Việt Nam, đồng thời chỉ ra những ưu nhược điểm để thấy được nguyên nhân của nó. Đề tài này cũng vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh hiện hành để đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu của Tổng công ty Giấy- Việt Nam. Đây là một đề tài có nhiều mối quan hệ kinh tế với các tổ chức hành chính, lại do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian... cho nên trong phạm vi giới hạn nghiên cứu của một sinh viên em chỉ tiếp cận và tập trung giải quyết các vấn đề về thị trường nhập khẩu, các nghiệp vụ trong hoạt động nhập khẩu nguyên liệu ngành Giấy của Tổng công ty Giấy-Việt Nam. Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và quy trình nhập khẩu I. khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động nhập khẩu: Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu: Khái niệm: Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, không một nước nào tồn tại và phát triển mà không cần đến kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế có thể biến một nước nghèo tài nguyên mà có thể tiêu dùng rất nhiều loại hàng hoá khác nhau, xuất xứ từ rất nhiều nước. Kinh doanh quốc tế có thể cung cấp cho một nước chậm phát triển khoa học, công nghệ tiên tiến để phát triển kinh tế. Một trong những mặt hoạt động của kinh doanh quốc tế là: Nhập khẩu. Nhìn chung: Nhập khẩu là mua hàng hoá hoặc dịch vụ từ một nước khác, trong giao dịch đó có một đồng tiền được coi là đồng tiền nước ngoài đối với ít nhất một bên. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của kinh doanh quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nó có tác dụng góp phần vào việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và nâng cao hiệu quả của chiến lược hướng ngoại mà đất nước ta đang thực hiện. Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương, là một mặt không thể tách rời của hoạt động thương mại quốc tế( được viết tắt là TMQT). Có thể hiểu đơn giản đó là sự mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài phục vụ nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế-lợi nhuận. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu: Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia vì vậy nó phức tạp hơn buôn bán trong nước, do nhập khẩu là việc giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau: thị trường rộng khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá thường được vận chuyển qua các cửa khẩu của các quốc gia khác nhau, hoạt động buôn bán thông qua tập quán, thông lệ quốc tế. Nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Vì vậy đối tượng này rất phong phú và đa dạng, thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách, luật pháp của nhà nước. Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ: chính sách thuế, hạn ngạch... Vai trò của hoạt động nhập khẩu: 2.1 Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu: Như khái niệm hoạt động nhập khẩu đã đề cập, nhập khẩu nhằm mục đích bù đắp những hàng hoá, vật tư, nguyên liệu trong nước không có, hoặc không đủ, hoặc trình độ công nghệ nội địa sản xuất không hiệu quả. Do đó có thể rút ra được thành các mục đích của hoạt động nhập khẩu như sau: - Nhập khẩu để mở rộng sản xuất , tiêu dùng trong nước, nhằm nâng cao mức sống của quảng đại quần chúng nhân dân. - Nhập khẩu để chuyển giao công nghệ, đưa công nghệ tiên tiến của thế giới áp dụng vào sản xuất tiêu dùng trong nước, tạo ra sự nhẩy vọt của sản xuất trong nước, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ sản xuất trong nước với các nước tiên tiến trên thế giới. - Nhập khẩu tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội địa và hàng nhập khẩu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước không ngừng cải tiến mẫu mã công nghệ, đổi mới nâng cao chất lượng cũng như bao bì nhãn hiệu sản phẩm. - Nhập khẩu để xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp từ đó phát triển đa dạng và đồng bộ các loại thị trường như thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn, thị trường lao động.... Mặt khác nó còn liên kết thống nhất giữa các loại thị trường trong nước và thị trường thế giới, tạo điều kiện tốt cho quá trình hội nhập và phát triển với các nền kinh tế thế giới. - Bên cạnh đó nhập khẩu còn tạo cơ hội cho toàn thể dân chúng mở mang dân chí, có thể theo kịp và hoà nhập với nếp sống văn minh của thế giới. Nhập khẩu tạo ra sự cân đối trong nền kinh tế và tạo sự nhẩy vọt có mục đích đối với một số ngành nào đó trong hệ thống kinh tế nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế. - Nhập khẩu giải quyết nhu cầu đặc biệt, hàng hoá hiếm hoặc có hàm lượng công nghệ cao mà trong nước chưa sản xuất được . - Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống cho người lao động. - Nhập khẩu có vai trò thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. - Và cuối cùng nhập khẩu có thể là những phi vụ kinh tế có lợi nhuận lớn, nếu áp dụng linh hoạt có thể vừa tạo công ăn việc làm cho nhân dân, vừa thu được lượng tiền lớn dựa trên vị trí địa lý của nước ta trong khu vực ( Ví dụ như hình thức tạm nhập tái xuất ... ). Mục đích là như vậy, tuy nhiên hiệu quả của nó trong thực tiễn còn phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Mặc dù mới mở cửa được hơn một thập kỷ nhưng hoạt động nhập khẩu trong thời gian qua là đáng ghi nhận. Thị trường trong nước sôi động hẳn lên, tràn ngập các loại hàng hoá, có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra sự thích nghi đối với doanh nghiệp còn non kém trong nước. 2.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu nguyên liệu ngành giấy đối với Việt Nam. Trong những ngành kinh tế lớn của ta thì Giấy đóng vai trò quan trọng. Vì giấy là sản phẩm cần thiết đối với mọi ngành. Các cơ quan phải dùng giấy để ghi chép , học sinh cần có sách vở học tập vì vậy trong đời sống xã hội không thể thiếu giấy. Tổng công ty Giấy – Việt Nam là công ty lớn có chức năng cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy công tác nhập khẩu nguyên liệu giấy để phục vụ hoạt động sản xuất giấy là rất cần thiết: Trong giáo dục cần phải có sách vở cho giáo viên và học sinh, sinh viên. Đây là ngành quan trọng của đất nước, xã hội muốn tiến bộ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá thì tầng lớp dân chúng phải có học thức chính vì vậy trong ngành giáo dục thì giấy là một trong những công cụ quan trọng nhất để phát triển. Các công ty in ấn sách báo tạp chí... thì giấy là nguyên liệu chính. Pháp luật của nhà nước cần phải có giấy tờ để in ấn các bộ luật là cơ sở pháp lý để mọi công dân, mọi tổ chức không vi phạm các quy phạm pháp luật đó và thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng luật pháp. Từ thời xưa khi chưa có giấy việc nghiên cứu về lịch sử của những nhà sử học còn dùng những công cụ rất thô sơ và đến nay giấy vẫn là công cụ chủ yếu để phục vụ cho việc ghi chép lịch sử. Trong tất cả các hoạt động ở văn phòng của mọi cơ quan, công ty đều cần dùng đến giấy tờ sổ sách. Nói chung trong mọi hoạt động của đời sống xã hội đều cần dùng đến giấy do vậy việc sản xuất giấy là rất cần thiết mà để sản xuất giấy ta phải có nguyên liệu giấy. Việc nhập khẩu nguyên liệu giấy là yếu tố quyết định đến việc sản xuất giấy của ngành giấy Việt Nam nói chung và của Tổng công ty Giấy-Việt Nam nói riêng. Do công nghệ chế biến nguyên liệu của ta còn hạn chế chưa tạo ra được nguồn nguyên liệu với chất lượng cao và giá rẻ do đó ta phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, nơi có sự phát triển khoa học và công nghệ tiên tiến. Họ có nguồn nguyên liệu với chất lượng và giá thành mà ta chưa đáp ứng được. Có được nguồn nguyên liệu tốt sẽ sản xuất ra được những sản phẩm giấy có chất lượng cao nâng cao giá trị cạnh tranh trên thị trường nội địa và xâm nhập vào thị trường thế giới. Nhập khẩu nguyên liệu giấy tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định đảm bảo công ăn việc làm ổn định cho lực lượng lao động trong nước. Các hình thức nhập khẩu: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả nhập khẩu. Trong hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp làm các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng... Để nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn, chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho, tiêu thụ hàng hoá, nộp thuế. 3.2- Nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng lại không có khả năng hoặc họ không muốn tham gia nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Trong hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận uỷ thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không cần quan tâm đến thị trường tiêu thụ cho hàng hoá mà chỉ đại diện cho bên uỷ thác tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác uỷ thác khiếu nại, và đòi bồi thường với các đối tác nước ngoài khi có tổn thất trực tiếp. Hình thức này giúp cho doanh nghiệp nhận uỷ thác không mất nhiều chi phí, độ rủi ro thấp, nhưng lợi nhuận thu về không cao. Ngoài ra còn một số hình thức kinh doanh nhập khẩu khác như : Nhập khẩu liên doanh, nhập khẩu tái xuất, nhập khẩu đổi hàng... II. Quy trình nhập khẩu Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ điều tra nghiên cứu thị trường trong nước, tìm kiếm thị trường cung ứng nước ngoài...đến việc thực hiện hợp đồng, bán sản phẩm ở thị trường trong nước. Các khâu, các nghiệp vụ này đều phải đặt trong mối quan hệ hữu quan nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, phục vụ kịp thời cho nhu cầu trong nước. Do đó người tham gia nhập khẩu hàng hoá phải nắm chắc các nội dung nhập khẩu hàng hoá. Nghiên cứu thị trường: Công việc này bao gồm nghiên cứu thị trường trong nước và nghiên cứu thị trường nước ngoài (thị trường nhập khẩu). Nghiên cứu thị trường trong nước: Là việc tìm hiểu mặt hàng sẽ nhập khẩu, với mục đích nhằm chọn được mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Cần phải trả lời các câu hỏi sau: Thị trường trong nước đang cần mặt hàng gì? Tìm hiểu tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào? Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của nó? Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở trong nước(nếu có ) ra sao? nghiên cứu thị trường nhập khẩu: có hai phương pháp được sử dụng để nghiên cứu thị trường nhập khẩu đó là: phương thức nghiên cứu tài liệu: Dùng để nghiên cứu khái quát thị trường. Tài liệu có thể là nguồn thông tin nội bộ ( các báo cáo về sản xuất, kinh doanh tài chính...) và tài liệu được cung cấp từ bên ngoài như sách báo, tạp chí phim ảnh. Phương pháp nghiên cứu thị trường: + Thu thập thông tin trực quan và qua giao tiếp. Phương pháp này đòi hỏi chi phí cao, có đội ngũ chuyên gia giỏi, có khả năng giải quyết những vướng mắc phát sinh trong một khoảng thời gian hạn chế... nó được áp dụng sau khi đã nghiên cứu tài liệu. + Nhà kinh doanh khi nghiên cứu thông tin nhập khẩu cần nắm rõ các yếu tố về phát triển kinh tế- xã hội của các nước hay khu vực mình đặt quan hệ làm ăn, như điều kiện chính trị, luật pháp, các chính sách, hàng rào thuế quan... ngoài ra cũng phải nghiên cứu dung lượng thị trường và giá cả thị trường cũng như sự biến động của nó. Lập phương án nhập khẩu: Là việc lập kế hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động, gồm rất nhiều chi tiết như: - Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu Xác định số lượng hàng nhập khẩu tối ưu cho từng lần nhập. Lựa chọn thông tin, khách hàng, phương thức giao dịch. Lựa chọn thời gian giao dịch: thời gian giao dich dài hay ngắn tuỳ vào hàng hoá, dung lượng thông tin cũng như thiện ý của các bên. Đây là một trong những khâu quan trọng, nếu được thực hiện tốt sẽ giúp cho quá trình nhập khẩu được hiệu quả cao. 3. Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu: 3.1 Các hình thức đàm phán trong nhập khẩu. Đàm phán bằng thư, điện tín, thư nhanh, fax những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư. Ngay khi sau này hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp vì vậy duy trì quan hệ cũng phải thông qua thư tín thương mại. Đàm phán qua điện thoại giúp trao đôỉ nhanh chóng giữa người giao dịch một cách khẩn trương đúng vào thời cơ cần thiết. Đàm phán trực tiếp: dùng khi có hợp đồng lớn, phức tạp, cần giải quyết chặt chẽ, có tốn phí nhưng đạt hiệu quả cao. 3.2. Các bước đàm phán trong nhập khẩu: Chuẩn bị đàm phán: chuẩn bị đàm phán là chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đàm phán như chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ liệu thông tin, chuẩn bị nhân sự đàm phán, lựa chọn thời điểm và địa điểm đàm phán, chuẩn bị chương trình đàm phán. Chuẩn bị nội dung và cách xác định mục tiêu. xác định chi tiết và đầy đủ các mục tiêu cần đàm phán là việc làm rất quan trọng dẫn đến đàm phán cao hơn và giảm được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng sau này. Chuẩn bị số liệu thông tin. Để chuẩn bị đàm phán, người đàm phán phải chuẩn bị đầy đủ các số liệu thông tin cần thiết đó là: + Thông tin về hàng hoá. + Thông tin về thị trường. + Thông tin về đối tác . Chuẩn bị nhân sự đàm phán: Vấn đề nhân sự trong đàm phán có vị trí đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo. Thành phần nhân sự trong đàm phán TMQT phải đủ chuyên gia về 3 lĩnh vực: Pháp lý, kỹ thuật, ngoại giao. Sự phối hợp ăn ý nhịp nhàng của 3 chuyên gia này là cơ sở rất quan trọng trong quá trình đàm phán để đi tới ký kết một hợp đồng chặt chẽ, khả thi và đạt hiệu quả cao. Chuẩn bị thời gian và địa điểm: Địa điểm đàm phán có thể lựa chọn ở nước người bán, nước người mua hoặc nước thứ ba. Song phải chọn được thời điểm tối ưu và địa điểm đàm phán đảm bảo tâm lý thoải mái, tiện nghi phù hợp cho tất cả các bên. Chuẩn bị chương trình làm việc: Cần có chương trình làm việc cụ thể, chi tiết và trao trước cho đối tác. Từ đó có thể đàm phán đoán được các phản ứng của đối tác trong các bước tiếp theo của đàm phán. b) Tiến hành đàm phán: Tiến hành đàm phán thương mại bao gồm bốn bước cơ bản. Tiếp cận: Là giai đoạn mở đầu cho đàm phán. Giai đoạn này giành cho những thảo luận những vấn đề nằm ngoài những vấn đề thương lượng để giới thiệu các bên. Trao đổi thông tin: Trong giai đoạn này, những người thương lượng cung cấp và thương lượng thông tin về nội dung của cuộc đàm phán để chuẩn bị các giai đoạn tiếp theo. Yêu cầu các thông tin phải đầy đủ, dễ hiểu và có tính thuyết phục cao. Đây là giai đoạn rất quan trọng. Các thông tin làm cho các bên hiểu được quan điểm, lập trường, mục tiêu và quyền lợi... của nhau, làm cơ sở phân tích, tổng hợp đưa ra các quyết định thuyết phục hay nhượng bộ sau này, dẫn đến cuộc đàm phán có kết quả cao. Thuyết phục trên cơ sở các thông tin đã cung cấp cho đối phương và các thông tin đã nhận được từ đối phương, người đàm phán phải tiến hành phân tích so sánh những điểm mạnh của đối phương so với của mình để đưa ra một chiến lược thuyết phục đối phương nhượng bộ theo quan điểm của mình. Thực chất của giai đoạn thuyết phục là giai đoạn giành giật, bảo vệ quyền lợi các quan điểm lập trường của mình. Nhượng bộ và thoả thuận: kết quả của quá trình đàm phán là kết quả của những sự thoả thuận và nhượng bộ lẫn nhau. Sau giai đoạn này thuyết phục sẽ xác định được tất cả những mâu thuẫn còn tồn tại giữa các bên mà cần phải có sự nhượng bộ và sự thoả thuận giữa các bên thì mới đưa cuộc đàm phán dẫn tới thành công. 3.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Sau khi đã ký kết hợp đồng, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập, các đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Thuê phương tiện vận tải: Trong trường hợp nhập khẩu với giá FOB ( Free on board ) thì đơn vị nhập khẩu phải thuê tầu chở hàng. Trong trường hợp này cần phải chú ý tới loại phương tiện vận chuyển phù hợp với hàng hoá để đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế cho việc thuê tầu vận chuyển cho nên chúng ta thường nhập khẩu trong điều kiện CIF ( costs, insuarance, Freight) Mua bảo hiểm: Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển có nguy cơ rủi ro cao. Do đó bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải làm một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm người nhập khẩu thường phải căn cứ vào những đặc điểm sau: Tính chất của hàng hoá. Vị chí xếp hàng trên tầu. Mùa, thời vụ, độ ẩm. Tình trạng bao bì. Tình hình chính trị, xã hội. Tuỳ theo hoạt động nhập khẩu, kế hoạch nhập khẩu mà người nhập khẩu có thể mua bảo hiểm theo năm, tháng hay chuyến. làm thủ tục hải quan. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc làm hải quan gồm ba bước chủ yếu: Lập tờ hải quan: Người nhập khẩu phải khai báo chi tiết lên tờ khai hải quan theo mẫu có sẵn, gồm những mục như mặt hàng, trị giá mặt hàng, nước xuất... Sau đó xuất trình hải quan kèm theo các chứng từ như giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, vận đơn, bản kê chi tiết, hợp đồng. xuất trình hàng hoá cho hải quan kiểm tra: hàng hoá phải được xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Hải quan đối chiếu hàng hoá trong tờ khai với hàng hoá thực tế để quyết định cho hàng hoá đó qua cửa khẩu hay không. Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ hàng hoá hải quan sẽ quyết định: + Cho phép hay không cho phép nhập khẩu. + Cho phép nhập khẩu nhưng phải bổ xung giấy tờ. + Cho phép nhập khẩu nhưng phải đóng thuế . d) Nhận hàng từ phương tiện vận tải: Theo quyết định 200/CP ngày 31 tháng 12 năm 1993 của nhà nước thì mọi việc giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng. Khi hàng về tới nơi thì cảng sẽ báo cho chủ hàng biết đến làm thủ tục nhận hàng. Người nhập khẩu phải cung cấp các tài liệu cần thiết cho giao nhận hàng như vận đơn, lệnh giao nhận hàng. Kiểm tra chất lượng hàng: Người bán phải giao hàng đúng thời hạn, khi hàng về phải tổ chức kiểm tra hàng hoá gồm các bước sau: Tạo điều kiện cho hải quan kiểm tra. Mời bên bảo hiểm kiểm tra ( nếu có nghi ngờ thiệt hại hàng hoá ). Mời tổ chức kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu để làm cơ sở khiếu nại với bên bán. Nếu nhập động thực vật phải qua cơ quan kiểm dịch kiểm tra. Ký kết hợp đồng với ga, cảng để họ kiểm tra, niêm phong trước khi bốc dỡ hàng khỏi phương tiện vận chuyển. Làm thủ tục thanh toán: Đây là khâu cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Nếu thanh toán bàng L/C: người nhập khẩu gửi kèm theo đơn xin mở L/C là hai uỷ nhiệm chi. + Một uỷ nhiệm chi để ký quỹ theo quy định về mở L/C. + Một uỷ nhiệm chi để trả các khoản thủ tục phí cho ngân hàng. Khi bộ chứng từ thanh toán được chuyển từ nước ngoài về ngân hàng và ngân hàng sẽ giao toàn bộ chứng từ đó cho người nhập khẩu. Người nhập khẩu phải xem xét, kiểm tra chứng từ, nếu hợp lệ thì trả cho ngân hàng lấy bộ chứng từ đi nhận hàng. - Nếu thanh toán bằng phương tiện nhờ thu: Sau khi nhận chứng từ ở ngân hàng, người xuất khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định. Nếu trong thời gian này người nhập khẩu không đưa ra lý do chính đáng để từ chối thanh toán thì ngân hàng coi như yêu cầu là hợp lệ, mọi tranh chấp về thanh toán tiền hàng sẽ được trưc tiếp giải quyết giữa các bên hoặc qua cơ quan trọng tài. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có ) Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng XNK phát hiện thấy hàng bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bị lỡ thời hạn khiếu nại. Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận tải, công ty bảo hiểm.... tuỳ theo tính chất của từng tổn thất. Bên nhập khẩu phải viết đơn khiếu nại và gửi cho bên khiếu nại trong thời hạn quy định. Đơn khiếu nại phải kèm theo các bằng chứng về việc tổn thất như: biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm... Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà người nhập khập khẩu và bên bị khiếu nại có cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế theo quy định hợp đồng. 4. Giải quyết những tranh chấp phát sinh ( nếu có): Trong khi thực hiện hợp đồng nếu có phát sinh những tranh chấp, thì phần lớn những bất đồng được giải quyết bằng cách thương lượng giữa các bên. Nhưng nếu sự thương lượng đó không mang lại kết quả, các bên có thể đưa ra xét xử tại toà án hoặc cơ quan trọng tài để giải quyết. Khuynh hướng ngày nay là sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp hợp đồng, sở dĩ như vậy là biện pháp trọng tài có nhiều ưu điểm và dữ bí mật kinh doanh cho các bên. Khi đồng ý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên xác định hai loại hình trọng tài: trọng tài quy chế thì họ phải tuân theo một quy chế nhất định còn nếu là trọng tài vụ việc thì theo các bước sau: + Xác định địa điểm trọng tài: địa điểm đó có thể chọn ở nước xuất hay nhập khẩu hoặc ở một nước thứ ba. + Trình tự tiến hành trọng tài: nói chung có các bước sau Thoả hiệp trọng tài : Các bên đồng ý đưa tranh chấp ra hội đồng trọng tài để giải quyết. Tổ chức uỷ ban trọng tài: Hai bên cùng chọn một trọng tài viên để xét xử, hoặc mỗi bên chọn ra một trọng tài viên và các trọng tài viên này chọn ra một trọng tài thứ ba ( người này có thể làm chủ tịch uỷ ban trọng tài ) để xét xử. Tài quyết: Là quyết định của ban trọng tài đưa ra và buộc các bên phải chấp thuận . Thanh toán chi phí trọng tài: Thường do bên thua chịu, song cũng có thể do thoả thuận giữa các bên. + Luật dùng để xét xử : Hai bên có thể thoả thuận trước hoặc do uỷ ban trọng tài chọn, hoặc căn cứ vào địa điểm trọng tài nếu các bên không có thoả thuận trước. + Chấp hành tài quyết: III. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu nhập khẩu: Hiệu quả của bất kỳ một quá trình hoạt động kinh doanh nào đều thể hiện mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và chi phí bỏ ra mới chỉ là đặc trưng mặt lượng của hiệu quả kinh tế. Cùng với sự biểu hiện về mặt số lượng, hiệu quả còn được thể hiện về mặt chất lượng thông qua các chỉ tiêu khác nữa. Hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của kinh tế học vì các nguồn lực của nền kinh tế là có hạn. Hiệu quả là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Hiệu quả trong kinh doanh thương mại quốc tế không chỉ có nghĩa là mức lợi nhuận bằng tiền mà còn thể hiện qua mức tiết kiệm lao động xã hội, năng xuất lao động xã hội, giá trị gia tăng mức công việc làm... mà hoạt động kinh doanh tạo ra cho xã hội. Chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận là tiền đề duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, là điều kiện để nâng cao mức sống của người lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì đất nước mới giầu có và phát triển được. Lợi nhuận được tính toán trên cơ sở chi phí và doanh thu. Doanh thu của một doanh nghiệp là số tiền mà nó thu được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định, thường là trong một năm. Chi phí của doanh nghiệp là những phí tổn cần thiết phải bỏ ra trong quá trình kinh sản xuất kinh doanh hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó. Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu so với chi phí, hay còn gọi là lãi, chi phí càng thấp thì lợi nhuận càng cao. Cần lưu ý rằng khi nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các hoạt động kinh doanh người ta thường phân biệt lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận tính toán. Bảng quyết toán của doanh nghiệp cho ta biết được lợi nhuận tính toán của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thế nhưng các nhà kinh tế và các nhà kế toán lại không cùng một quan điểm trong việc tính những chỉ tiêu này. Trong khi các nhà kế toán chỉ quan tâm đến những khoản thực thu, thực chi thì các nhà kinh tế lại quan tâm thêm đến chi phí cơ hội để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì khi tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào thì doanh nghiệp phải hy sinh những khả năng thu lợi khác khi các nguồn lực của doanh nghiệp không được sử dụng cho hoạt động kinh doanh đã xác định. Nói cách khác các nhà kinh tế không xác định chi phí sản xuất kinh doanh căn cứ vào các nguồn thực chi mà bằng chi phí kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận kế toán được xác định theo công thức sau: Lợi nhuận kế toán = Tổng doanh thu – Tổng chi phí kế toán Lợi nhuận kinh tế tính theo công thức sau: Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí kinh tế Tỷ suất doanh lợi ngoại thương và các chỉ tiêu cụ thể của nó: Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản nhất cần thiết phải tính toán khi đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế. Tuy nhiên nếu chỉ tính chỉ tiêu lợi nhuận không thì chưa phản ánh hết được hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Trong thực tế người ta còn phải xác định chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi ngoại thương. Tỷ suất doanh lợi ngoại thương phản ánh kết quả tài chính của hoạt động ngoại thương thông qua việc đánh giá kết quả thu được từ một đồng chi phí thực tế bỏ ra. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và tỷ suất doanh lợi nhập khẩu. Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu: Lx Dx= * 100% Cx Trong đó: Dx: Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu Lx: Lợi nhuận về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam. Cx: Tổng chí phí thực hiện hoạt động . Tỷ suất doanh lợi nhập khẩu: Ln Dn = * 100% Cn Trong đó: Dn: Tỷ suất doanh lợi nhập khẩu Ln: Lợi nhuận về bán hàng nhập khẩu Cn: Tổng chi phí nhập khẩu bằng ngoại tệ được chuyển đổi theo đồng Việt Nam. Tỷ suất doanh lợi ngoại thương: Dnt = Dx * Dn Dnt: Tỷ suất doanh lợi ngoại thương . Dx,Dn: Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và nhập khẩu. IV. Đặc điểm hoạt động nhập khẩu nguyên liệu ngành giấy ở Việt Nam: Trong quan hệ kinh tế quốc tế thì nền kinh tế của mỗi quốc gia không thể là nền kinh tế đóng. Mọi quốc gia muốn phát triển phải có mối quan hệ kinh tế quốc tế tức có một nền kinh tế mở, quan hệ qua lại với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Tham gia hoạt động thương mại quốc tế, đây là sự phân công lao động quốc tế và tận dụng lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia. Có như vậy nền kinh tế của mỗi quốc gia mới có thể hoà nhập với xu thế phát triển của thế giới. Trong thương mại quốc tế thì công tác xuất khẩu và nhập khẩu là hoạt động chính. Chính vì vậy đối với các ngành kinh tế của Việt Nam nói chung và ngành Giấy nói riêng thì việc xuất nhập khẩu đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của mình. Với công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước chưa cho phép chúng ta có nguồn nguyên liệu chất lượng mà giá thành rẻ do vậy việc nhập khẩu nguyên liệu giấy là hết sức cần thiết để từ đó có được nguyên liệu phục vụ cho khâu sản xuất giấy phục vụ nhu cầu trong nước và thế giới. Phải có nguồn nguyên liệu giấy rồi rào và ổn định để mở rộng quy mô sản xuất. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất phải mở rộng quy mô một cách hợp lý vậy trong khi nguồn nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng được thì nhập khẩu có vai trò quan trọng. Nhập khẩu nguyên liệu giấy không những phục vụ cho nhu cầu sản xuất giấy trong nước mà còn thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm giấy. Có như vậy mới thu được lợi nhuận cho doanh nghiệp và đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển vì trong thương mại quốc tế phải không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu, có xuất khẩu chúng ta mới thu được lợi nhuận cao. Ngành Giấy Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu giấy về phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây việc cải tiến kỹ thuật và có các kế hoạch trồng rừng để lấy nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất do vậy lượng nhập khẩu nguyên liệu đã giảm so với các năm trước. Chương II: Thực trạng quy trình nhập khẩu nguyên liệu ngành giấy tại tổng công ty giấy việt nam I. Khái quát về tổng công ty Giấy-Việt Nam: 1. Lịch sử hình thành và phát triển: Tổng công ty giấy Việt Nam ra đời với tiền thân là công ty Giấy- Gỗ- Diêm toàn quốc được thành lập năm 1975. Đến năm 1979 nó được đổi tên thành liên hợp các xí nghiệp Giấy- Gỗ- Diêm toàn quốc. Sau 4 năm hoạt động, đến năm 1983 nó được tách thành liên hợp Giấy- Gỗ- Diêm số I ở miềm Bắc và Liên hợp Giấy- Gỗ- Diêm số II ở miềm Nam. Cuối năm 1998 nó tách ra chỉ còn Liên hợp Giấy. Từ năm 1989 đến năm 1993 nó được chuyển thành các Xí nghiệp sản xuất và xuất khẩu Giấy- Gỗ- Diêm Việt Nam. Ngày 23/3/1993 Tổng công ty Giấy- Gỗ- Diêm Việt Nam được thành lập theo quyết ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37044.doc
Tài liệu liên quan