LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, Ngân hàng thương mại đã trở thành tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất, không thể thiếu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Việt Nam- một quốc gia đang có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và cao hàng đầu thế giới, đặt ra yêu cầu cũng là động lực thúc đẩy cho sự phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại, nhất là khi Việt nam đã gia nhập WTO, sự cạnh tranh sẽ ngày càng mãnh liệt. Các ngân hàng thương mại sẽ phải nỗ lực không ngừng để cải thiện về chất lượng và
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng Doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số lượng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại Việt Nam (và cả thế giới) dù phát triển đến đâu thì hoạt động kinh doanh cơ bản nhất là cung cấp tín dụng. Trong quá trình cung cấp tín dụng cho khách hàng, các ngân hàng luôn phải đối mặt với nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và đều có chung một hệ quả: khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. Ngân hàng không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể đề phòng, hạn chế nó. Có rất nhiều biện pháp được sử dụng để hạn chế rủi ro tín dụng, trong đó có chấm điểm tín dụng để xếp hạng khách hàng. Việc ứng dụng phương pháp này nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác ra quyết định và kiểm soát tín dụng đang là vấn đề đòi hỏi cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay đối với Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chính điều đó đã nói lên tính cấp thiết của đề tài: “Giải pháp hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.”
Với đề tài này, em mong muốn tìm hiểu, phân tích kỹ hơn về phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp loại khách hàng trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tiễn. Từ đó đánh giá những thành công và hạn chế của hoạt động này, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các giải pháp kiến nghị nhắm hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp. Đồng thời việc nghiên cứu giúp em có điều kiện tích luỹ thêm kiến thức, nhất là những kiến thức thực tiễn, cách trình bày vấn đề một cách khoa học theo sự nhận thức và hiểu biết của mình để rút kinh nghiệm cho quá trình học tập và nghiên cứu tiếp theo.
Đối tượng vay vốn của khách hàng rất phong phú và đa dạng, mang những đặc tính khác nhau. Vì vậy, ngân hàng phân chia khách hàng có đủ điều kiện chấm điểm tín dụng thành ba nhóm:
Nhóm khách hàng doanh nghiệp.
Nhóm khách hàng cá nhân( bao gồm cả hộ gia đình).
Nhóm khách hàng là các tổ chức tín dụng.
Trong giới hạn của đề tài, ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và phần Phụ lục, gồm ba chương lớn:
Chương 1: Phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo VP bank Chi nhánh Hà Nội, các anh chị tại Tổ tín dụng Phòng giao dịch VP bank Khâm Thiên và sự hướng dẫn tận tình chu đáo của cô giáo PGS-TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Do điều kiện kiến thức, kinh nghiệm cũng như thời gian nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý chỉ bảo của Cô giáo và người đọc.
CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG TRONG XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP.
1.1. Sự cần thiết phải chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ. Một hoạt động đặc trưng của Ngân hàng là huy động tiền gửi của các cá nhân tổ chức, rồi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng cho những người đang có nhu cầu vốn, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Với hoạt động huy động vốn, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, có quyền hưởng lãi từ khoản tiền gửi nhưng đồng thời có quyền rút vốn bất cứ lúc nào, ngân hàng chỉ có thể thu lãi phạt chứ không thể từ chối việc trả lại vốn cho khách hàng. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa ngân hàng với các tổ chức tài chính khác, dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn, khi cấp tín dụng, ngân hàng có quyền thu lãi từ việc cấp tín dụng song lại không thể thu hồi vốn về trước khi kết thúc hợp đồng tín dụng nếu như khách hàng không vi phạm hợp đồng. Ngày nay với sự phát triển của công nghệ ngân hàng, cho phép ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng, các thị trường khác, ngày càng xa trụ sở chính. Điều này giúp các ngân hàng giảm bớt rủi ro do đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường song rủi ro cũng tăng lên do tính biến động lớn trên thị trường khu vực và thế giới, do thông tin sai lệch, do rủi ro đạo đức…
Như vậy, ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với rất nhiểu rủi ro, điều đó đòi hỏi ngân hàng phải có dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán và đặc biệt là khả năng đạt hiệu quả tối đa trong sử dụng vốn. Nếu việc cấp tín dụng không hiệu quả khiến ngân hàng không thu được lãi, gốc đầy đủ, đúng hạn hoặc thậm chí mất vốn thì nó sẽ nhanh chóng đẩy ngân hàng tới chỗ mất khả năng thanh toán do nhu cầu rút vốn của người gửi tiền. Xảy ra rủi ro tín dụng dễ dàng dẫn đến rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng thương mại.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất của ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Tuy nhiên, trong thực tế rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, chỉ có thể đề phòng, hạn chế mà không thể loại trừ.
Rủi ro tín dụng xảy ra do nhiều nguyên nhân, thường được chia thành ba nhóm sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng: là những nguyên nhân khách quan, không thể tránh khỏi hoặc vượt quá khả năng kiểm soát của người vay như thiên tai, chiến tranh, thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội…Những nguyên nhân này không thường xuyên xảy ra nhưng lại tác động nặng nề tới người vay, làm suy giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Nguyên nhân thuộc vể chủ quan người vay: là những nguyên nhân liên quan đến trình độ yếu kém của người vay trong vấn đề kinh doanh, quản lý; liên quan đạo đức người vay khi họ cố tình lừa đảo cán bộ ngân hàng; sử dụng vốn vay sai mục đích vào các Dự án mạo hiểm để đánh đổi lợi nhuận cao; nhiều người vay kinh doanh có lãi nhưng cố tình không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, chây ì, hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn được lâu hơn. Đây là nhóm nguyên nhân phổ biến nhất gây ra rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng: là những nguyên nhân liên quan đến trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng ngân hàng. Để cho vay tốt, cán bộ tín dụng phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng đang sống, khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay…Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng thì khả năng xảy ra rủi ro tín dụng là rất lớn. Không những thế, làm việc trong môi trường thường xuyên tiếp xúc với tiền bạc, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi những cám dỗ của nó, tiếp tay cho khách hàng lừa đảo ngân hàng. Nhóm nguyên nhân này thường kết hợp với nhóm nguyên nhân thứ hai gây ra thiệt hại cho ngân hàng.
Như vậy các ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với rủi ro tín dụng, diễn biến phức tạp và khó phòng tránh. Bởi vậy, để đạt được hiệu quả trong hoạt động tín dụng, có nhiều biện pháp được thực hiện như: nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, trích lập dự phòng…thì xếp hạng doanh nghiệp là một kỹ thuật ngày càng được chú ý rộng rãi. Thông qua xếp hạng doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ so sánh hạng của doanh nghiệp đạt được các mức phân hạng của ngân hàng để ra phán quyết cho vay, và có thể lựa chọn khách hàng tốt hơn. Đồng thời, qua hạng tín dụng của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ có chính sách tín dụng cụ thể và phù hợp để giám sát và kiểm tra vốn vay.
Ở Việt Nam hiện nay, có một phương pháp xếp hạng doanh nghiệp đang được áp dụng khá phổ biến: Chấm điểm tín dụng. Một hệ thống chấm điểm tín dụng được tiêu chuẩn hoá và tự động hoá sẽ cho phép giảm bớt thời gian và chi phí cho vay, do đó tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng vốn vay và kháchh hàng trên cơ sở an toàn. Mặt khác, nó còn giúp giảm bớt nhân sự trong ngân hàng thương mại để tập trung nhiều hơn vào các khoản vay chất lượng.
Như vậy, phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp so với những phương pháp thẩm định tín dụng trước đây có nhiều ưu điểm vượt trội. Vì thế, chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp là rất cần thiết đối với mục tiêu an toàn và sinh lời của ngân hàng.
1.2. Khái niệm phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp.
1.2.1. Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp:
Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp( credit rating) là kỹ thuật đánh giá rủi ro tín dụng do các tổ chức xếp hạng thực hiện và công bố dựa trên các tiêu chí phản ánh uy tín tín dụng của người vay nợ.
Tại Mỹ có các tổ chức xếp hạng tín dụng như Standard and Poor( S&P); Moody’s; Investor Service and Fitch. S&P xem xét các yếu tố như loại tín dụng cung cấp, loại tài sản bảo đảm và các yếu tố khác để xếp hạng tín dụng doanh nghiệp từ cao nhất là AAA xuống thấp nhất là C, theo đó hạng càng thấp thì rủi ro tín dụng càng cao. Ngoài ra, S&P còn xếp hạng giảm dần tương đối từ AAA, AA đến A và sử dụng các dấu + và - để chỉ thứ hạng khác biệt tương đối.
1.2.2. Chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp:
Chấm điểm tín dụng là kỹ thuật sử dụng các dữ liệu nghiên cứu thống kê và hoạt động để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với khách hàng.
Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào thông tin tài chính, thông tin phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thởi điểm chấm điểm tín dụng.
Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng mà cán bộ chấm điểm tín dụng xác định được sau khi phân tích các tiêu chí đó.
Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng( chỉ số tài chính hoặc yếu tố phi tài chính) xét trên góc độ tác động rủi ro tín dụng.
Khi chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp, ngân hàng sử dụng các bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên tắc:
Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số thực tế gần với trị số nào nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt nhất.
Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn thì khách hàng đó có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạn tín nhiệm của bên bảo lãnh. Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình áp dụng cho khách hàng.
1.3. Mục tiêu của việc chấm điểm tín dụng:
Việc chấm điểm tín dụng được thực hiện nhằm hỗ trợ ngân hàng trong việc:
Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt.
Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ, hạng khách hàng cho phép ngân hàng lường trước những dấu hiệu cho thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi và có những biện pháp đối phó kịp thời.
Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn.
Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trich lập dự phòng rủi ro tín dụng.
1.4. Một số mô hình chấm điểm tín dụng:
1.4.1. Mô hình điểm số Z:
Các nhà đầu tư thường xem xét hệ số đòn bẩy tài chính để đánh giá tình hình nợ nần của doanh nghiệp đó quyết định mức độ rủi ro khi đầu tư vào doanh nghiệp đó. Tuy nhiên có một chỉ số có thể giúp các nhà đầu tư đánh giá rủi ro tốt hơn, thậm chí có thể dự đoán được nguy cơ phá sản của doanh nghiệp trong tương lai gần. Đó chính là hệ số nguy cơ phá sản, hay còn gọi là Z score do nhà kinh tế học Koa kỳ Edward.I. Altman, giảng viên trường đại học Newyork thiết lập. Hệ số này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp chứ không áp dụng cho các định chế tài chính như ngân hàng hay là các công ty đầu tư tài chính. Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nước, vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Chỉ số Z bao gồm 5 chỉ số X1, X2, X3, X4, X5:
X1 là tỷ số “Vốn lưu động/ Tổng tài sản”.
X2 là tỷ số “ Lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản”.
X3 là tỷ số “ Lợi nhuận trước lãi vay và thuế / Tổng tài sản”.
X4 là tỷ số “Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu trên giá trị sổ sách của tổng nợ”.
X5 là tỷ số “Doanh thu/ Tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Từ một chỉ số Z ban đầu, Giáo sư E.I. Altman đã phát triển ra Z’ và Z” để có thể áp dụng theo từng loại hình và ngành của doanh nghiệp, như sau:
Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản xuất:
Z=1,2X1+1,4X2+3,3X3+0,64X4+0,999X5
Nếu Z > 2,99 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.
Nếu 1,8 < Z < 2,99 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản.
Nếu Z < 1,8 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.
Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản xuất:
Z’= 0,717X1+0,847X2+3,107X3+0,64X4+0,999X5
Nếu Z’ > 2,99 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.
Nếu 1,8 < Z’ < 2,99 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản.
Nếu Z’ < 1,8 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.
Đối với doanh nghiệp khác:
Chỉ số Z” dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 đã được đưa ra. Công thức tính chỉ số Z” được điều chỉnh như sau:
Z”= 6,56X1+3,26X2+6,72X3+1,05X4
* Nếu Z” > 2,6 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.
* Nếu 1,2 < Z” <2,6 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản.
* Nếu Z”< 1,1 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.
Ngoài tác dụng cảnh báo dấu hiệu phá sản, Giáo sư E.I.Altman đã phát minh tiếp hệ số Z” điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số Z” + 3,25( các vùng cảnh báo phá sản vì thế cũng được tăng lên 3,25). Ông đã nghiên cứu trên 700 công ty và tìm ra sự tương đồng giữa chỉ số Z” điều chỉnh này với hệ số tín nhiệm của Standard and Poor. Công thức Z” điều chỉnh được xác định như sau:
Z” = 3,25+ 6,56X1+3,26X2+6,72X3+1,05X4
Bảng 1.1: Bảng so sánh giữa chỉ số Z” và các chỉ số của
Standard and Poor
Z” điều chỉnh
Định mức tín nhiệm S&P
Tình trạng
> 8,15
AAA
Chất lượng cao nhất
Trái phiếu có thể đầu tư
Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản
7,60 – 8,15
AA+
7,30 – 7,60
AA
Chất lượng cao
7,00 – 7,30
AA-
6,85 – 7,00
A+
Chất lượng vừa cao hơn
6,65 – 6,85
A
6,40 – 6,65
A-
6,25 – 6,40
BBB+
Chất lượng vừa
5,85 – 6,25
BBB
Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản
5,65 – 5,85
BBB-
Trái phiếu có độ rủi ro cao
5,25 – 5,65
BB+
Chất lượng vừa thấp hơn
4,95 – 5,25
BB
4,75 – 4,95
BB-
4,50 – 4,75
B+
Đầu cơ
Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.
4,15 – 4,50
B
3,75 – 4,15
B-
3,20 – 3,75
CCC+
Đầu cơ có rủi ro cao
2,50 – 3,20
CCC
1,75 – 2,50
CCC-
0 – 1,75
D
Không hoàn được vốn
(Nguồn: www.saga.com.vn)
Sự tương đồng giữa chỉ số Z” điều chỉnh và hệ số tín nhiệm S&P là khá cao, nhưng không có nghĩa là tuyệt đối. Có một sự chênh lệch nhất định giữa hai chỉ số trên nhưng có thể chấp nhận được. Mặc dù chỉ số Z” điều chỉnh được dùng khá tốt ở các thị trường khác, cũng nên được nghiên cứu để điều chỉnh theo môi trường Việt Nam.
Nói chung hệ số Z” có thể giúp ngân hàng nhận định cơ bản về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nợ của công ty.
Tuy nhiên, chỉ số Z chỉ có thể cho ta thấy nguy cơ phá sản của doanh nghiệp trên góc độ số liệu tài chính, mà không xem xét được các yếu tố khác như môi trường kinh doanh, chiến lược và chính sách phát triển của doanh nghiệp, danh tiếng của khách hàng, mối quan hệ truyền thống giữa khách hàng và ngân hàng.
1.4.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp chấm điểm để xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức tín dụng đã sử dụng mô hình chấm điểm để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng, những ngân hàng cũng sử dụng mô hình này để đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và kinh doanh nhỏ. Nhiều khách hàng ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cần tín dụng của họ được xử lý bằng hệ thống chấm điểm tự động.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, cố người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thưởng sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10, ví dụ: bảng dưới đây cho thấy những hạng mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng Mỹ.
Bảng 1.2: Bảng cho điểm những hạng mục thường được sử dụng các ngân hàng Mỹ.
STT
Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng
Điểm số
1
Nghề nghiệp của người vay
Chuyên gia phụ trách kinh doanh
Công nhân có kinh nghiệm
Nhân viên văn phòng
Sinh viên
Công nhân không có kinh nghiệm
Công nhân bán thất nghiệp
10
8
7
5
4
2
2
Trạng thái nhà ở
Nhà riêng
Nhà thuê hay căn hộ
Sống cùng bạn hay người thân
6
4
2
3
Xếp hạng tín dụng
Tốt
Trung bình
Không có hồ sơ
Tồi
10
5
2
0
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp
Nhiều hơn 1 năm
Từ 1 năm trở xuống
5
2
5
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
Nhiều hơn 1 năm
Từ 1 năm trở xuống
2
1
6
Điện thoại cố định
Có
Không
2
0
7
Số người sống cùng( phụ thuộc)
Không
3
Một
Hai
Ba
Nhiều hơn ba
3
4
4
2
8
Các tài khoản tại ngân hàng
Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Séc
Chỉ tài khoản tiết kiệm
Chỉ tài khoản phát hành Séc
Không có
4
3
2
0
(Nguồn: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng- PGS.TS Nguyễn Văn Tiến- Nhà xuất bản Thống Kê).
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 hạng mục nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Biết rằng, mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu. Trên cơ sở đó, ngân hàng hình thành một khung chính sách tín dụng tiêu dùng theo mô hình điểm số như sau:
Bảng 1.3: Bảng chính sách tín dụng tiêu dùng theo mô hình điểm số thường được áp dụng ở các ngân hàng Mỹ.
Tổng điểm số của khách hàng
Quyết định tín dụng
Từ 28 trở xuống
Từ chối tín dụng
29 – 30
Cho vay đến $500
31 – 33
Cho vay đến $1000
34 – 36
Cho vay đến $2500
37 – 38
Cho vay đến $3500
39 – 40
Cho vay đến $5000
41 – 43
Cho vay đến $8000
( Nguồn: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – Nhà xuất bản Thống Kê).
Mô hình này có ưu điểm là loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên mô hình này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình. Một mô hình điểm số không linh hoạt có thể đe doạ đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, bỏ sót những khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng.
1.4.3. Mô hình chất lượng dựa trên yếu tố 6C:
Phòng tín dụng của ngân hàng chịu trách nhiệm về việc phân tích và đưa ra những đánh giá đối với hầu hết các đơn xin vay. Kinh nghiệm cho thấy rằng khi xem xét một đơn xin vay, phòng tín dụng phải trả lời thoả đáng 3 câu hỏi sau:
Người xin vay có đáng tin cậy không? Sao bạn biết?
Liệu hợp đồng tín dụng có thể được cấu trúc để bảo vệ an toàn cho ngân hàng và người gửi tiền cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng món vay hiệu quả không?
Liệu ngân hàng có quyền đối với tài sản và thu nhập của khách hàng trong trường hợp khoản cho vay có vấn đề và liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không?
Mô hình sáu chữ C nhằm trả lời câu hỏi quan trọng “Khách hàng có đáng tin cậy hay không?”.
- Tính cách( Character): Cán bộ tín dụng phải có được bằng chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ nghiêm túc. Nếu không biết chắc chắn lý do khách hàng xin vay thì cán bộ tín dụng cần phải tiến hành điều tra để nhận được câu trả lời thích đáng. Khi mục tiêu xin vay đã được làm rõ, cán bộ tín dụng phải quyết định xem nó có phù hợp với chính sách cho vay hiện tại của ngân hàng không? Đồng thời phải xem xét xem liệu người vay có trách nhiệm trong việc sử dụng tiền vay không. Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng lên tính cách khách hàng trong cách nhìn nhận của cán bộ tín dụng.
- Năng lực( Capacity): cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn. Tuỳ vào luật pháp của mỗi quốc gia, đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành.
- Dòng tiền mặt( cash): đây là nội dung có ý nghĩa rất quan trọng đối với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: liệu người vay có khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món vay không? Nhìn chung khách hàng vay vốn chỉ có ba nguồn có thể được sử dụng để hoàn trả khoản vay
Dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng hoặc thu nhập
Dòng tiền từ việc bán tài sản
Các nguồn vốn huy động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn
Bất cứ nguồn nào trong ba nguồn trên đều có thể được sử dụng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng rất quan tâm tới dòng tiền tạo ra từ Doanh thu bán hàng và xem đây là một nguồn chính để thanh toán nợ bởi vì việc bán các tài sản có thể làm suy yếu năng lực hoạt động của người vay và khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng một chủ nợ không được bảo đảm. Hơn nữa, sự suy giảm quy mô dòng tiền mặt thường ẩn chứa một sự suy giảm trong kinh doanh và do đó ngân hàng phải đối mặt với rủi ro về một khoản nợ có vấn đề.
Dưới giác độ kế toán, dòng tiền mặt được định nghĩa như sau:
Dòng tiền mặt = Lợi nhuận ròng
( tổng các nguồn thu trừ đi tất cả chi phí)
+ Các chi phí bằng tiền mặt( đặc biệt là khấu hao)
Một định nghĩa khác được sử dụng đối với các nhà kế toán và phân tích tài chính là:
Dòng tiền mặt = Lợi nhuận ròng +
Các chi phí không bằng tiền mặt +
+ Các khoản phải trả bổ sung -
Số dư hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu bổ sung
Một trong những đặc trưng của định nghĩa thứ hai về dòng tiền mặt là nó giúp cho các cán bộ tín dụng tập trung vào những khía cạnh quan trọng trong hoạt động kinh doanh của khách hàng như: chất lương, kinh nghiệm quản lý và sức mạnh thị trường của khách hàng. Khi người vay đang trong tình trạng sử dụng quá nhiều các khoản tín dụng thương mại( các khoản phải trả), hàng tồn kho gia tăng hoặc đang có khó khăn trong việc thu hồi các khoản tín dụng cấp cho bạn hàng( các khoản phải thu) thì khoản vay mà ngân hàng đã cấp cho khách hàng có thể sẽ có vấn đề.
- Tài sản thế chấp( Collateral): đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng. Trong việc đánh giá tài sản thế chấp cán bộ tín dụng phải lưu ý đến những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại, mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Ở đây, công nghệ có một vị trí quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng lỗi thời về công nghệ, giá trị thế chấp của chúng sẽ bị giảm.
Điều kiện( Conditions): cán bộ tín dụng phải nhận biết được xu hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như ngành mà doanh nghiệp hoạt động. Các yếu tố vĩ mô như lạm phát, thời kỳ suy thoái kinh tế cũng ảnh hưởng đến các khoản cho vay của ngân hàng.
Sự kiểm soát( Control): tập trung vào các vấn đề như sự thay đổi về pháp luật có ảnh hưởng xấu đến người vay không? Và liệu khách hàng có đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng tín dụng mà ngân hàng đặt ra hay không?
1.4.4. Mô hình chấm điểm tín dụng của công ty FICO:
FICO( The US Fair Issac Company) tại Mỹ là công ty phát triển hệ thống chấm điểm tín dụng tự động vào những năm 1960 và 1970. Điểm tín dụng do FICO xây dựng có giới hạn từ 300 đến 850, điểm trung bình là 720 và điểm càng cao thì rủi ro tín dụng càng thấp. Hệ thống chấm điểm tín dụng FICO dựa vào 5 yếu tố với trọng số như sau:
Bảng 1.4: Các yếu tố xem xét khi chấm điểm tín dụng của FICO
Yếu tố
Trọng số( %)
Giải thích
Lịch sử thanh toán nợ
35
Thanh toán nợ đúng hạn hay không? Có lần nào không trả nợ hay không?
Trị giá khoản tín dụng
30
Doanh số khoản tin dụng là bao nhiêu?
Thời hạn tín dụng
15
Khoản tín dụng có thời hạn bao lâu?
Lịch sử quan hệ tín dụng
10
Đây có phải là khoản tín dụng mới hay không? Còn khoản tín dụng nào khác nữa không?
Loại tín dụng
10
Trả góp tiêu dùng hay mua bất động sản?
Dựa vào các yếu tố tác động với trọng số nêu trên, FICO xây dựng thang điểm và chấm điểm tín dụng.
Bảng 1.5: Mối quan hệ giữa điểm và xác suất khách hàng mất
khả năng trả nợ
Điểm tín dụng FICO
Xác suất mất khả năng trả nợ
Trên 800
1%
Từ 680 – 799
5%
Từ 680 – 699
15%
Từ 500 – 679
71%
Khách hàng có điểm tín dụng dưới 680 được xem là khách hàng có độ rủi ro tín dụng cao. Dựa vào quan hệ giữa điểm và xác suất mất khả năng trả nợ do FICO xây dựng, các ngân hàng quyết định “điểm ngưỡng” của mình tuỳ thuộc vào khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng.
Chẳng hạn, hầu hết các ngân hàng ở Mỹ sử dụng thang điểm của FICO để xếp hạng tín dụng cho khách hàng như sau:
Bảng 1.6: Thang điểm tín dụng và kết quả xếp loại
Điểm tín dụng FICO
Kết quả xếp loại
Từ 720 trở lên
Rất tốt
Từ 680 – 719
Tốt
Từ 620 – 679
Trung bình
Từ 585 – 619
Rủi ro cao
Từ 584
Rủi ro rất cao
( Nguồn: Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – TS Nguyễn Minh Kiều – Nhà Xuất Bản Thống Kê).
1.5. Quy trình chấm điểm tín dụng khách hàng là doanh nghiệp:
Quy trình tín dụng trong xếp hạng khách hàng doanh nghiệp được thực hiện theo 7 bước:
1.5.1. Thu thập và phân tích các thông tin:
Thu thập thông tin là giai đoạn đầu tiên của quá trình chấm điểm tín dụng trong xếp hạng khách hàng, nhưng đây là giai đoạnh rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xếp hạng doanh nghiệp cuối cùng. Nên cán bộ tín dụng phải tích cực khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để thu thập khối lượng thông tin phong phú đồng thời dễ dàng kiểm tra tính chính xác của thông tin. Chất lượng thông tin thể hiện ở ba thuộc tính sau: đầy đủ, kịp thời, chính xác. Thông tin cần thu thập nói chung, gồm có: thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Các thông tin này có thể thu thập từ các nguồn sau:
Thông tin thu thập từ hồ sơ của khách hàng vay vốn: khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng, ngân hàng yêu cầu khách hàng lập và nộp cho ngân hàng một bộ hồ sơ vay. Qua bộ hồ sơ này ngân hàng có thể thu thập được khá nhiều thông tin về khách hàng, bao gồm: Thông tin về tư cách pháp nhân của khách hàng vay vốn; Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng thể hiện qua các báo cáo tài chính của các kỳ ngắn nhất; Thông tin về kế hoạch và chiến lược sản xuất kinh doanh của khách hàng; Thông tin về hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng hoàn trả nợ vay thể hiện qua phương án sản xuất kinh doanh. Trong các thông tin vừa liệt kê, thông tin về tình hình tài chính của khách hàng và khả năng hoàn trả nợ vay rất quan trọng.
Thông tin lưu trữ tại ngân hàng: Đây là nguồn thông tin mà ngân hàng đã thu thập trước kia khi khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng và lưu trữ lại để sử dụng cho những lần vay tiêp theo. Nguồn thông tin này có thể được coi là nguồn thông tin đáng tin cậy nếu như hoạt động xử lý và tổ chức thông tin tiến hành trước đó được diễn ra chính xác, an toàn.
Thông tin từ các cuộc điều tra, phỏng vấn trực tiếp: thông tin từ khách hàng có nhược điểm là mức độ tin cậy không cao vì thông tin này do chính khách hàng cung cấp, chưa qua kiểm chứng và xử lý. Thông tin lưu trữ có ưu điểm là đã trải qua kiểm chứng nhưng nhược điểm của nó là lạc hậu theo thời gian và không phải lúc nào cũng phù hợp với việc phân tích. Do vậy, để kiểm chứng và cập nhật hoá thông tin ngân hàng cần phỏng vấn và điều tra khách hàng khi họ vay vốn. Thông tin qua phỏng vấn có ưu điểm là thông tin mới nhất đồng thời qua nghệ thuật phỏng vấn có thể loại bỏ được một số thông tin gây nhiễu để từ đó chắt lọc thông tin chính xác hơn phục vụ cho việc phân tích, ngoài ra còn bổ sung thêm thông tin về khách hàng mà qua hồ sơ vay chưa thể thu thập đầy đủ. Việc điều tra, phỏng vấn trực tiếp bao gồm thăm quan nhà xưởng, văn phòng, tiếp xúc, trò chuyện trực tiếp với lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp, xem xét tài sản, vật thế chấp.
Các nguồn thông tin khác: Ngoài các thông tin kể trên, ngân hàng còn có thể sử dụng một số nguồn thông tin khác. Đó là thông tin từ các ngân hàng khác mà khách hàng có quan hệ thanh toán, tiền gửi, tín dụng. Thông tin từ các tổ chức thông tin chuyên môn như Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng nhà nước (CIC); thông tin từ báo chí, ấn phẩm của cơ quan chính phủ như niên giám thống kê, báo, tạp chí chuyên ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước có quan hệ với khách hàng như Bộ chủ quản, cơ quan thuế, thanh tra, quản lý thị trường, kiểm toán, hải quan…Và một số thông tin khác tuỳ thuộc vào đặc thù của người vay.
Như vậy, có rất nhiều nguồn thông tin mang lại những dữ liệu khác nhau cho hoạt động chấm điểm tín dụng. Trong số những thông tin đó, có những thông tin đáng tin cậy và cả những thông tin không đáng tin cậy, vì vậy, hoạt động chấm điểm tín dụ._.ng đỏi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn vững vàng, hiểu biết sâu rộng về nhiều vấn đề từ đó biết sàng lọc thông tin, lựa chọn những thông tin tốt nhất, phản ánh chính xác tình trạng hiện tại của doanh nghiệp.
Kết quả của quá trình thu thập thông tin từ các nguồn trên, cán bộ tín dụng có được lượng thông tin phong phú và đa dạng. Một số thông tin chủ yếu:
Báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định; đồng thời được giải trình, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để ra các quyết định phù hợp. Báo cáo tài chính được coi là nguồn thông tin quan trọng trong việc chấm điểm các chỉ số tài chính, ảnh hưởng đến quyết định tín dụng của ngân hàng thương mại nên nó phải chính xác, hoàn chỉnh và đặc biệt là đáng tin cậy. Các báo cáo tài chính được sử dụng để chấm điểm hiện nay là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
*Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tổng hợp, cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại những thời điểm nhất định. Kết cấu của bảng được chia làm hai phần: Tài sản và Nguồn vốn. Bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của đơn vị. Các khoản mục tài sản được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo, thể hiện cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài chính của đơn vị. Các khoản mục bên nguồn vốn được sắp xếp thành nợ và vốn chủ sở hữu hoặc theo thời hạn thành nguồn ngắn hạn và nguồn dài hạn. Bảng cân đối kế toán thường có các khoản mục như sau:
Bảng 1.7: Bảng cân đối kế toán ngày…tháng…năm…
Đơn vị tính:…
Tài sản
Nguồn vốn
Khoản mục
N-1
N
Khoản mục
N-1
N
I. Tài sản lưu động, đầu tư tài chính ngắn hạn
I. Nợ
1. Tiền và tương đương tiền
1. Nợ ngắn hạn
2. Phải thu
2. Nợ dài hạn
3. Dự trữ
3. Nợ khác
4. Tài sản lưu động khác
II. Tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn
II. Vốn chủ sở hữu
1. Tài sản cố định hữu hình
1. Vốn ban đầu
2. Tài sản cố định vô hình
2. Quỹ
3. Tài sản tài chính
3. Lợi nhuận chưa phân phối
Tổng tài sản
Tổng nguồn vốn
Trong đó, N là thời điểm lập bảng cân đối kế toán của kỳ nghiên cứu, (N-1) là thời điểm lập bảng cân đối kế toán liền trước đó. Trên bảng cân đối kế toán, tổng tài sản bao giờ cũng bằng tổng nguồn vốn. Ngoài các khoản mục trong nội bảng như trên còn có một số khoản mục ngoại bảng như tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận bán hộ…
Bảng cân đối kế toán được sử dụng để tính các chỉ số tài chính sau:
- Chỉ tiêu thanh khoản: Khả năng thanh toán ngắn hạn; khả năng thanh toán nhanh.
- Chỉ tiêu “Cân nợ”: Nợ phải trả/ Tổng tài sản; Nợ phải trả/ Nguồn vốn chủ sở hữu; Nợ phải trả/ Tổng dư nợ ngân hàng.
* Báo cáo kết quả kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại những thời kỳ nhất định.
Bảng 1.8: Báo cáo kết quả kinh doanh từ…đến…
Đơn vị tính…
STT
Chỉ tiêu
Số hiệu TK
Mã số
Số tiền
1
Doanh thu bán hàng
511
01
2
Các khoản giảm phải thu
02
3
Doanh thu thuần
10
= 01-02
4
Giá vốn hàng bán
632
11
5
Lợi nhuận gộp
20
6
Doanh thu từ hoạt động tài chính
515
21
7
Chi phí từ hoạt động tài chính
635
22
8
Chi phí bán hàng
642
24
9
Chi phí quản lý doanh nghiệp
25
10
Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính
30
=20-(21+22) -(24+25)
11
Thu nhập khác
711
31
12
Chi phí khác
811
32
13
Lợi nhuận thuần khác
40
= 31 - 32
14
Tổng thu nhập trước thuế
50
= 30 +40
15
Thuế thu nhập doanh nghiệp
51
16
Tổng thu nhập sau thuế
60
= 50 - 51
Dựa vào báo cáo, cán bộ tín dụng có thể đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp qua các chỉ tiêu: Vòng quay hàng tồn kho; Kỳ thu tiền bình quân; Doanh thu thuần/ Tổng tài sản. Xem xét các chỉ tiêu thu nhập: Tổng thu nhập trước thuế/ Doanh thu thuần; Tổng thu nhập trước thuế/ Tổng tài sản; Tổng thu nhập trước thuế/ Vốn chủ sở hữu.
Tuy nhiên, khi phân tích báo cáo kết quả kinh doanh cán bộ tín dụng phải lưu ý rằng một phần các số liệu phản ánh trên đó là các giá trị kế toán chứ chưa phải giá trị bằng tiền. Cụ thể, doanh thu là số tiền thu được từ việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ mà khách hàng thanh toán hay chấp nhận thanh toán cho đơn vị( khác với thu). Còn chi phí được hiểu là số tiền doanh nghiệp thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho đơn vị khác để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh( khác với chi). Các khoản này được ghi nhận ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế như doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hay mua nguyên vật liệu mặc dầu đơn vị chưa thu tiền hàng và cũng chưa trả tiền cho nhà cung cấp. Mà trong điều kiện hiện nay, việc mua bán chịu hay tín dụng thương mại diễn ra rất phổ biến trong các doanh nghiệp. Điều đó dẫn đến có những doanh nghiệp có lợi nhuận kế toán nhưng vẫn bị phá sản do đơn vị đó đã không có lợi nhuận bằng tiền, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải rất lưu ý, phân tích báo cáo kết quả kinh doanh kết hợp với những báo cáo khác, đặc biệt là báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
* Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồn tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của daonh nghiệp trong từng thời kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định, thường lập cho từng tháng.
Bảng 1.9: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ…đến…
Khoản mục
Mã số
Kỳ trước
Kỳ này
I. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh
1. Các khoản phải thu
2. Các khoản phải chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động kinh doanh
20
II. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
1. Các khoản phải thu
2. Các khoản phải chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động đầu tư
30
III. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
1. Các khoản phải thu
2. Các khoản phải chi
Lưu chuyển thuần từ hoạt động tài chính
40
Lưu chuyển thuần trong kỳ( 20+30+40)
50
Tiền và tương đương tiền đầu kỳ
60
Ảnh hưởng của tỷ giá
61
Tiền và tương đương tiền cuối kỳ( 50+60+61)
70
Do các số liệu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ là các giá trị bằng tiền, phát sinh thực sự trong thực tế cho nên nó rất được chú trọng trong phân tích, chấm điểm tình hình tài chính khách hàng. Bằng cách so sánh báo cáo lưu chuyển tiền tệ với báo cáo kết quả kinh doanh, cán bộ tín dụng có thể thấy được tình hình tài chính thực sự của doanh nghiệp, tính toán được phần chênh lệch giữa doanh thu và thực thu, chi phí và thực chi, từ đó đánh giá được khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp và phần vốn doanh nghiệp bị đơn vị khác chiếm dụng. Cùng với đó là chính sách tín dụng mà doanh nghiệp đang áp dụng cho các bạn hàng cũng như chính sách mà doanh nghiệp được hưởng từ nhà cung cấp, nó nói lên phần nào uy tín, mức độ ưu đãi của các đơn vị khác dành cho doanh nghiệp đang nghiên cứu. Ngoài ra, với hoạt động nghiên cứu các luồn tiền vào, ra daonh nghiệp, ngân hàng có thể xác định được khi nào doanh nghiệp có thặng dư ngân quỹ để trả nợ và khi nào có bội chi cần bù đắp. Cùng nghĩa với việc ngân hàng xác định nhu cầu tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định từ đó có những quyết định tín dụng phù hợp theo hướng duy trì quan hệ lâu dài giữa doanh nghiệp và ngân hàng.
b. Những thông tin khác:
Các báo cáo tài chính chỉ cung cấp những thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Để đánh giá khả năng “tín dụng” của khách hàng thì bên cạnh những thông tin tài chính trên, cán bộ tín dụng còn phải thu thập những thông tin phi tài chính như năng lực, kinh nghiệm của ban lãnh đạo, vị trí trên thị trường, quan hệ với khách hàng, với ngân hàng…Những thông tin này không sẵn có, lại khó định lượng nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng thu thập, phân tích và tổng hợp tốt. Những tài liệu cần thiết mà cán bộ tín dụng cần thu thập:
* Tìm hiểu chung về khách hàng: Lịch sử công ty; Những thay đổi về góp vốn; Những thay đổi về cơ chế quản lý; Những thay đổi về công nghệ hoặc thiết bị; Những thay đổi trong sản phẩm; Lịch sử về các quá trình liên kết, hợp tác, giải thể; Khía cạnh chính trị và xã hội đằng sau các hoạt động kinh doanh này; Điều kiện địa lý. Những thông tin này được dùng để đánh giá chung về khả năng hiện tại cũng như tính cạnh tranh của công ty trong tương lai. Đây là điều cần thiết để chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính của công ty.
* Tìm hiểu về khả năng quản trị điều hành của ban lãnh đạo: Danh sách ban lãnh đạo công ty; Trình độ chuyên môn của ban lãnh đạo công ty; Khả năng, kinh nghiệm, cách thức quản lý, đạo đức của người lãnh đạo cao nhất và ban điều hành. Các kết quả đạt được thể hiện qua: Giá trị doanh thu tăng; Mức độ giảm/ kiềm chế mức tăng chi phí; Mức gia tăng lợi nhuận; Khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ của khách hàng…
* Tìm hiểu về tình hình và uy tín giao dịch với ngân hàng: Đối với khách hàng truyền thống, ngân hàng đã có sẵn những thông tin về tình hình giao dịch với ngân hàng của doanh nghiệp thông qua các hồ sơ lưu trữ của cán bộ tín dụng và nhân viên kế toán giao dịch: khách hàng luôn trả nợ đúng hạn hay phải gia hạn nợ, có nợ quá hạn hay phải gia hạn nợ, có nợ quá hạn trong quá khứ không, đã mất khả năng thanh toán với ngân hàng lần nào chưa, số dư tiền gửi trung bình tháng tại ngân hàng, số lượng các ngân hàng khác mà doanh nghiệp đang giao dịch…Tuy nhiên đối với khách hàng mới, đặt quan hệ tín dụng lần đầu với ngân hàng thì các thông tin này thu thập phức tạp hơn. Nguồn thông tin chủ yếu được lấy từ ngân hàng đã có quan hệ với doanh nghiệp từ trước đó, hoặc từ CIC.
Như vậy qua việc nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng các báo cáo tài chính kết hợp với những thông tin tham khảo khác và quan sát thực tế của bản thân, cán bộ tín dụng có thể loại trừ các thông tin kém trung thực để đưa ra những đánh giá xác đáng về tình hình cơ bản của doanh nghiệp, hỗ trợ đắc lực việc chấm điểm tín dụng và ra quyết định tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.5.2. Xác định ngành nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế, ngành nghề lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các ngành nghề khác nhau thì khác nhau về chu kỳ kinh doanh, về triển vọng tăng trưởng về mức cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu chi phí, khả năng sinh lờim khả năng cạnh tranh…Nên việc xây dựng một hệ thống phân loại ngành kinh tế dùng để chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và môi trường pháp lý của từng quốc gia cũng như phải sát gần với thông lệ chuẩn quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam trước đây, hệ thống chấm điểm tín dụng phân thành 4 loại ngành nghề hoặc lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau gồm: Nông, lâm và ngư nghiệp; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng; Công nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp theo ngành nghề căn cứ vào ngành nghề chính đăng ký trên giấy nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề thì phân loại theo ngành nghề nào đem lại tỷ trọng doanh thu lớn nhất cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên hiện nay, được phân theo 8 ngành kinh tế, thay thế cho việc phân theo 4 ngành kinh tế trước đây bao gồm:
- Trồng trọt chăn nuôi.
- Chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp.
- Xây dựng.
- Thương mại hàng hoá.
- Dịch vụ
- Công nghiệp năng lượng( điện, than, dầu khí).
- Công nghiệp chế tạo.
- Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
1.5.3. Chấm điểm quy mô của doanh nghiệp:
Quy mô của doanh nghiệp là một yếu tố cần xem xét, bởi những doanh nghiệp có quy mô khác nhau sẽ có những lợi thế, cơ hội khác nhau khi tiếp xúc với thị trường. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có thể đa dạng hoá loại hình hoạt động để giảm rủi ro và nâng cao ưu thế cạnh tranh khi quy mô sản xuất, tiềm lực về tài chính và nhân sự còn quá nhỏ; thêm vào đó những doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiên về một loại sản phẩm, và có những sản phẩm mang tính mùa vụ vì vậy vị thế tín dụng thường bất lợi hơn những doanh nghiệp lớn. Ngược lại, những doanh nghiệp này lại có những lợi thế nhất định như cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, việc quản trị, tổ chức kinh doanh đơn giản hiệu quả.
Quy mô doanh nghiệp có thể dựa vào một số tiêu chí: nguồn vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần, và giá trị nộp ngân sách nhà nước.
Tổng nguồn vốn kinh doanh: đây chính là tiêu chí cơ bản để xác định quy mô của doanh nghiệp. Tổng nguồn vốn bao gồm vốn vay và vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ giữa vốn vay và vốn chủ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, nhưng độ lớn của nguồn vốn luôn tỷ lệ thuận với quy mô của doanh nghiệp. Nhìn vào tổng nguồn vốn kinh doanh, cán bộ chấm điểm có thể đánh giá được doanh nghiệp có quy mô lớn hay nhỏ.
Tổng số lao động của doanh nghiệp: đây là một trong những tiêu chí quan trọng được sử dụng để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Thông thường, một doanh nghiệp lớn với cơ cấu tổ chức phức tạp, sản xuất nhiều loại sản phẩm với khối lượng lớn. Thêm vào đó, việc mở rộng sản xuất kinh doanh, thành lập thêm các chi nhánh, đại lý ở các thị trường khác nhau đỏi hỏi những doanh nghiệp này phải có nguồn nhân lực lớn. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng sản xuất quy mô lớn, đa dạng hoá sản phẩm hay mở rộng thị trường vẫn còn là một khó khăn do thiếu vốn, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay khó khăn…vì vậy số lượng lao động cũng phải tương xứng với quy mô doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng có ý nghĩa hơn khi áp dụng với Việt Nam, là một nước đang phát triển, trình độ tự động hoá trong sản xuất và hoạt động kinh doanh còn rất hạn chế nên nguồn lao động con người, lao động chân tay đóng vai trò chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh thu thuần: chỉ tiêu này phản ánh doanh thu bán hàng, thành phẩm dịch vụ đã trừ các khoản giảm trừ do chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại và các loại thuế. Doanh thu thuần được trình bày trên bảng báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ sẽ có doanh thu ít hơn doanh nghiệp có quy mô lớn do khả năng cạnh tranh, đa dạng hoá sản phẩm, khối lượng sản phẩm cung ứng và thị phần trên thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đểu ít hơn. Đây lại là chỉ tiêu các ngân hàng và các chủ nợ quan tâm trong quá trình chấm điểm quy mô doanh nghiệp, do chỉ tiêu này ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp tác động đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai.
Khối lượng nộp ngân sách nhà nước: Đây chính là các khoản thuế, phí, lệ phí mà doanh nghiệp phải nộp để thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp chỉ tiêu này không phản ánh được chính xác quy mô doanh nghiệp, bởi vì các khoản phải nộp ngân sách nhà nước phụ thuộc vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp lớn, nhưng làm ăn không hiệu quả thì khối lượng nộp ngân sách nhà nước cũng ít. Mặt khác chỉ tiêu này còn chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài như ngành nghề kinh doanh, loại hình sản phẩm…Một doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu thì các khoản thuế phải đóng sẽ khác với doanh nghiệp chỉ kinh doanh trong nước, hay khối lượng nộp ngân sách nhà nước của một doanh nghiệp sản xuất mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ khác với doanh nghiệp sản xuất mặt hàng được miễn giảm thuế. Nhưng mặt khác chỉ tiêu khối lượng nộp ngân sách nhà nước được các chủ nợ và cơ quan quản lý nhà nước quan tâm vì nó không những là cơ sở để chấm điểm quy mô doanh nghiệp mà còn là tiêu chí để xác định mức độ chấp hành các quy định của nhà nước thông qua khối lượng nộp ngân sách và hiệu quả trong kinh doanh.
1.5.4. Chấm điểm các chỉ số tài chính:
Trên cơ sở xác định quy mô và ngành nghề / lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cán bộ chấm điểm các chỉ số tài chính của doanh nghiệp.
Nhiều chỉ số được tính toán trong việc áp dụng phân tích chỉ số truyền thống đối với tình hình tài chính doanh nghiệp. Bảy loại chỉ số được chọn là những chỉ số được áp dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, trong việc phân tích một ngành cụ thể, nên xét đến những chỉ số quan trọng khác.
Tỷ lệ trạng trái lợi nhuận trước thuế
Thông thường chỉ số đầu tiên được tính trong việc phân tích tình hình tài chính của công ty là trạng thái lợi nhuận trước thuế. Chỉ số này đo khoảng lợi tức gấp mấy lần lợi nhuận chưa trừ thuế. Trang trải chi phí cố định tính bằng cách lấy thu nhập trước thuế cộng với lợi tức chia cho tổng lợi tức. Mức trang trải càng cao thì khả năng tín dụng càng an toàn. Nếu mức trang trải thấp công ty phải vay mượn hoặc sử dụng khoản tiền mặt hoặc phải bán tài sản để trả khoản lãi vay. Thông thường, mức trang trải được tính bằng con số chưa trừ thuế, bởi vì khoản trả lãi vay là chi phí trước thuế.
Đòn bẩy tài chính( đòn cân nợ)
Chỉ số này được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, nhưng theo cách thông thường nhất là khoản nợ dài hạn, một tỷ lệ trên tổng tài sản. Mức nợ càng cao thì tỷ lệ thu nhập từ hoạt động càng cao, thường được dùng để chi trả các nghĩa vụ cố định. Nếu một công ty có mức đòn bẩy cao, cán bộ chấm điểm cũng nên xem xét khoản lợi nhuận an toàn. Lợi nhuận an toàn được định nghĩa là một tỷ lệ mà khi thu nhập từ hoạt động có thể giảm, những vẫn đủ để cho phép doanh nghiệp chi trả các nghĩa vụ cố định.
Cách thông thường nhất để tính tỷ số đòn bẩy là dùng cấu trúc vốn huy động của doanh nghiệp trong bảng cân đối tài sản gần nhất. Mức độ của đòn bẩy là mức lợi nhuận an toàn giữa các ngành có khác biệt lớn. Doanh nghiệp tài chính, theo truyền thống, là một trong những doanh nghiệp có đòn bẩy cao có tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần là 10:1. Mặc dù đòn bẩy này phù hợp với ngành tài chính, nhưng đối với doanh nghiệp một ngành công nghiệp có cùng mức đòn bẩy sẽ gặp nhiều khó khăn khi vay vốn.
Nhìn chung, một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ theo lãi suất thả nổi cao sẽ kém được ưu tiên hơn một doanh nghiệp có đòn bẩy tương tự, nhưng có tỷ lệ nợ theo lãi suất thả nổi thấp. Cấu trúc kỳ hạn của khoản nợ cũng nên được đánh giá. Bao nhiêu phần trăm của khoản nợ sẽ đến kỳ hạn trong vòng 5 năm tới? Khi khoản nợ này được thanh toán, chi phí về nợ của doanh nghiệp sẽ thay đổi như thế nào? Tuy nhiên, khoản nợ phải thanh toán sẽ tăng lên hàng năm, cán bộ chấm điểm nên xem xét toàn bộ giá trị khoản tín dụng theo mệnh giá đến kỳ thanh toán, khi đánh giá cấu trúc kỳ hạn và kế hoạch tái đầu tư của doanh nghiệp.
Luồng tiền mặt( dòng ngân lưu)
Luồn tiền mặt thường được định nghĩa như là tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh + tiền được giảm thuế, tiền khấu hao và hoãn thuế. Trong việc tính toán luồng tiền mặt đối với phân tích, chấm điểm tín dụng cán bộ chấm điểm nên lưu ý lượng tiền mặt có được từ hoạt động kinh doanh. Bất kỳ nguồn nào hoặc việc sử dụng bất cứ khoản quỹ bất thường nào cũng bị loại trừ, khi xác định hệ số trang trải bằng tiền mặt. Khi người vay đang trong tình trạng sử dụng quá nhiều các khoản tín dụng thương mại( các khoản phải trả), hàng tồn kho gia tăng hoặc đang có khó khăn trong việc thu hồi các khoản tín dụng cấp cho bạn hàng( các khoản phải thu) thì khoản cho vay của ngân hàng đã cấp cho khách hàng có thể sẽ có vấn đề.
Tài sản ròng
Hệ số quan trọng thứ tư là tổng tài sản trên tổng nợ. Khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, nên xem xét giá trị thanh khoản của tài sản. Giá trị thanh khoản thường rất khác biệt với giá trị ấn định trong bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có tỷ lệ tài sản bằng tiền mặt và chứng khoáng khả mại cao sẽ cho vị thế về tài sản mạnh hơn nhiều so với một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu là tài sản vô hình khó mua bán.
Tài sản vô hình.
Tài sản vô hình thường chiếm một phần nhỏ trong cột tài sản của bảng cân đối kế toán. Đôi khi, với phần lớn doanh nghiệp có hoặc vừa có kế hoạch sát nhập mang tính tích cực, tài sản vô hình có thể đại diện một phần đáng kể của bên tài sản. Trong trường hợp này, cán bộ chấm điểm nên ước lượng giá trị thực của tài sản vô hình và xem xét giá trị này trong mối tương quan với giá trị trong bảng cân đối kế toán. Giá trị thực hiện cao hơn thị giá một cách đáng kể cho ta biết khả năng sẽ có ghi giảm giá trị của tài sản.
Độ tuổi và tình trạng của máy móc thiết bị
Tuổi của máy móc thiết bị của doanh nghiệp cũng nên được đánh giá, nếu chỉ trong phạm vi tuổi của máy móc khác biệt lớn so với những tiêu chuẩn chung của ngành. Một doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng có độ tuổi máy móc trung bình cao hơn các đối thủ cạnh tranh, chắc chắn đang phải trả giá cho máy móc già cỗi qua việc hoạt động kém hiệu quả. Tuy nhiên, về lâu dài, độ tuổi thực sự của máy móc thiết bị là chỉ báo về chi phí vốn trong tương lai đối với máy móc hiện đại hơn. Hơn nữa, khấu hao máy móc chưa đúng mức sẽ làm giảm một cách đáng kể thu nhập đã điều chỉnh theo mức lạm phát.
Vốn lưu động
Vốn lưu động được xem là một đơn vị đo lường chủ yếu của tính linh động về tài chính của công ty. Số đo tính thanh khoản của doanh nghiệp càng mạng thì khả năng khắc phục sự suy sụp trong kinh doanh và luồng tiền mặt càng lớn.
Đối với ngân hàng, mối quan tâm chủ yếu là khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nên khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng thương mại sử dụng phổ biến 11 chỉ tiêu cụ thể, thuộc 4 nhóm:
* Nhóm chỉ tiêu thanh khoản:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu chủ yếu sau:
Khả năng thanh toán ngắn hạn:
Hệ số thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản lưu động
Các khoản nợ ngắn hạn
Trong đó:
Tài sản lưu động gồm: tiền và tương đương tiền, các khoản phải thu và dự trữ( hàng trong kho, hàng đang đi đường, hàng trên quầy).
Nợ ngắn hạn gồm: phải trả nhà cung cấp, phải trả, phải nộp khác, vay ngắn hạn và vay dài hạn đến hạn trong kỳ.
Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, do đó nó đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi giá trị của hệ số này thấp, chứng tỏ khả năng trả nợ của doanh nghiệp thấp và cũng là dấu hiệu cảnh báo trước những khó khăn tài chính tiềm tang và ngược lại, khi giá trị của hệ số này cao chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt. Nếu hệ số này quá cao nghĩa là doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động do quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hay quá nhiều nợ phải đòi…Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hệ số này phản ánh không chính xác khả năng thanh toán nếu hàng hoá tồn kho là những loại hàng hoá khó bán thì doanh nghiệp khó biến chúng thành tiền để trả nợ, vì vậy mà cần phải xem xét đến Hệ số thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh
=
Tài sản có tính lỏng cao
Các khoản nợ ngắn hạn
Hệ số này biết khả năng thanh toán thực sự của doanh nghiệp và được tính toán dựa trên các tài sản có tính lỏng cao như tiền, vàng bạc, kim loại quý, chứng khoán ngắn hạn…có khả năng chuyển hoá thành tiền nhanh trong ngắn hạn.
* Nhóm chỉ tiêu hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Đối với loại hình kinh doanh dịch vụ thì không có chỉ tiêu giá vốn hàng bán nên tạm sử dụng chỉ tiêu doanh thu thuần để đánh giá. Hệ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức độ tồn kho của hàng hoá thành phẩm, nguyên vật liệu. Khối lượng hàng tồn kho phụ thuộc nhiều yếu tố như ngành kinh doanh, thời điểm nghiên cứu, mùa vụ…Chính vì hàng tồn kho mang tính mùa vụ nên khi tính toán phải sử dụng mức tồn kho bình quân năm. Nếu hệ số này thấp chứng tỏ hàng hoá tồn kho quá cao so với doanh số bán.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu bình quân
Doanh thu thuần
Nếu kỳ thu tiền bình quân thấp nghĩa là doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu thanh toán, hoặc có thể không gặp phải những khoản nợ khó đòi. Nếu hệ số này cao, có nghĩa là chính sách bán hàng có vấn đề gây ra việc tồn đọng nợ hoặc doanh nghiệp đang gặp vấn đề nào đó làm tăng cao các khoản phải thu hay làm giảm đi tổng doanh thu. Khi tính toán chỉ số này nên lưu ý đến tính mùa vụ của loại sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh; kết quả chấm điểm có khi được đánh giá là rất tốt nhưng do kỹ thuật tính toán làm che lấp đi những khuyết điểm trong việc quản lý các khoản phải thu, do vậy cần phải tiến hàng phân tích định kỳ các khoản phải thu để sớm phát hiện những khoản nợ khó đòi.
Hiệu quả sử dụng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Hệ số này cho biết hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp, một đồng tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
* Nhóm chỉ tiêu cân nợ:
Hệ số nợ
=
Nợ phải trả
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với tất cả các chủ nợ trong việc góp vốn, 1 đồng tài sản hình thành từ nguồn vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng là do chủ nợ tài trợ. Thông thường chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải vì nếu quá cao thì rủi ro đối với chủ nợ. Còn nếu chỉ tiêu này quá thấp thì các khoản nợ được đảm bảo chắc chắn hơn bằng nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào nhưng cơ hội cho vay để kiếm lợi nhuận của chủ nợ lại bị hạn chế.
Hệ số tự tài trợ
=
Nợ phải trả
Nguồn vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng vốn của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng do chủ sở hữu doanh nghiệp bỏ ra. Nó thể hiện khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
Tỷ số
=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ Ngân hàng
Tỷ số này cho biết việc hoàn trả vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp qua đó cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không.
* Nhóm chỉ tiêu thu nhập
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
=
Tổng thu nhập trước thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Căn cứ vào đó, ngân hàng có thể đánh giá khả năng tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và khả năng quản lý, tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp như thế nào.
Doanh lợi tài sản (ROA)
=
Tổng thu nhập trước thuế
Tổng tài sản bình quân
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Bởi vì nguồn vốn của doanh nghiệp là do chủ sở hữu và các chủ nợ bỏ ra nên khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh( hình thành nên các tài sản) thu được lợi nhuận thì phần lợi nhuận trước thuế và lãi thuộc về chủ nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp. Sau khi trả lãi và nộp thuế phần còn lại( lợi nhuận sau thuế) mới thuộc về chủ sở hữu. Do đó, các ngân hàng thường quan tâm đến ROA như là một chỉ tiêu sinh lợi để trả lãi vay của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ hiệu quả trong hoạt động mà doanh nghiệp có thể đạt được nhằm đáp ứng nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng đầy đủ, đúng hạn.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
=
Tổng thu nhập trước thuế
Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào sản xuất kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế, thể hiện khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Việc phân tích chỉ tiêu này phải được kết hợp với việc đánh giá tổng nguồn vốn, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn( chỉ tiêu tự tài trợ) của doanh nghiệp. Bởi nếu một doanh nghiệp có ROE cao là do lượng vốn chủ sở hữu bỏ vào sản xuất kinh doanh thấp, chủ yếu sử dụng vốn vay thì tức là phần lớn lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo ra bởi vốn của các chủ nợ, nghĩa là chủ sở hữu được lợi hơn( bỏ ít vốn mà vẫn giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp) còn các chủ nợ có thể gặp rủi ro mất vốn khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi, kể cả ngân hàng.
1.5.5. Chấm điểm các tiêu chí phi tài chính:
* Đánh giá chỉ tiêu về môi trường ngành:
Chu kỳ kinh doanh: chu kỳ kinh doanh của một ngành thường gắn liền với mức tăng trưởng GNP của một số quốc gia và một số yếu tố khác, nói chung tình hình hoạt động của nhiều ngành thường tương đồng với các chu kỳ kinh tế. Việc đánh giá thường được dựa trên một chu kỳ kinh doanh để đánh giá.
Triển vọng tăng trưởng của ngành: có liên hệ chặt chẽ với chu kỳ kinh tế. Một ngành có tăng trưởng mạnh có thể đem lại cho các doanh nghiệp trong ngành những cơ hội thuận lợi. Những cơ hội này thể hiện ở tiềm năng mở rộng thị trường, khả năng cải tiến vị thế của các doanh nghiệp. Tiêu chuẩn đánh giá căn cứ vào mức độ triển vọng tăng trưởng.
Áp lực cạnh tranh trong ngành: tình hình cạnh tranh trong một ngành liên quan trực tiếp đến cơ cấu thị trường, số lượng các đối thủ cạnh tranh của ngành đó và chính sách định giá linh hoạt…Đa số các ngành thường chịu những áp lực từ thị trường và các doanh nghiệp thường phải định giá bán hàng hoá của họ trong mối liên hệ giữa cung và cầu đối với sản phẩm đó.
Các nguồn cung ứng trong ngành: Cơ cấu thị trường và áp lực cạnh tranh trong ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của số lượng các nhà cung cấp các loại nguyên liệu, bán thành phẩm cho ngành. Khi đánh giá cần xem xét vị thế của doanh nghiệp với tư cách là khách hàng trong mối quan hệ với nhà cung cấp.
Mức độ các quy định, luật lệ: Đặc điểm cũng như xu hướng thay đổi trong tương lai của các luật lệ hiện hành có thể trở thành những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến vị thế cạnh tranh của công ty.
* Điều kiện kinh doanh:
Sự đa dạng hoạt động kinh doanh và dòng doanh thu theo chu kỳ đời sống của sản phẩm: việc bổ sung một lĩnh vực kinh doanh mới nào cũng có ảnh hưởng đến tổng lợi nhuận và việc chấm điểm tín dụng phải xem xét tập trung vào một lĩnh vực kinh doanh riêng biệt mà lĩnh vực này có tính nhạy cảm cao đối với chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, sự thay đổi về kỹ thuật công nghệ nhanh chóng, việc nới lỏng luật lệ, sự dao động về tỷ giá hối đoái…Việc đa dạng hoá kinh doanh ._.qua
6.5
1 lần trong 1 năm qua
4.9
2 lần trong 1 năm qua
3.3
Hơn 2 lần trong 1 năm qua
1.6
5. Nợ quá hạn trong quá khứ( kể cả bảo lãnh, LC quá hạn)
Không có
8.1
1 lần dưới 30 ngày trong 3 năm
6.5
1 lần dưới 30 ngày trong 1 năm hoặc 2 lần đều dưới 30 ngày trong 3 năm qua
4.9
2 lần dưới 30 ngày trong 1 năm hoặc 1 lần đưới 90 ngày trong 3 năm
3.3
nhiều hơn các trường hợp trên
1.6
6. Số lần chậm trả lãi vay
Không có
8.1
1 lần trong năm qua
6.5
3 lần trong năm qua
4.9
2 lần trở lên trong năm qua
3.3
Không trả lãi
1.6
Các yếu tố bên ngoài
7. Triển vọng ngành
thuận lợi
3.9
ổn định
3.1
PT kém
2.3
Bão hoà
1.6
Suy thoái
0.8
8. Vị thế cạnh tranh
Cao, chiếm ưu thế
5.2
Bình thường, đang PT
4.2
Bình thường, đang sụt giảm
3.1
thấp, đang sụt giảm
2.1
rất thấp
1.0
9. Số lượng đối thủ ạnh tranh
Không có(độc quyền)
3.9
Ít
3.1
Ít, số lượng đang tăng
2.3
nhiều
1.6
nhiều, đang tăng
0.8
Kết quả chấm điểm được ghi trên biếu mẫu “ Phiếu xếp hạng tín dụng”. Tuỳ theo kết quả chấm điểm tín dụng, khách hàng sẽ được chia ra làm 6 mức độ rủi ro tín dụng khác nhau:
Bảng 2.6: Bảng xếp hạng rủi ro khách hàng
Điểm
Xếp loại
Đánh giá
Nhóm rủi ro
87 – 100
A+
Xuất sắc
Thấp
74 – 86
A
Tốt
Thấp
61 – 73
B+
Trung bình
Trung bình
48 – 60
B
Dưới trung bình
Trung bình
35 – 47
C+
Rủi ro không thu hồi cao
Cao
0 - 34
C
Rủi ro không thu hồi rất cao
Cao
( Nguồn: Tài liệu hướng dẫn xếp hạng tín dụng VP bank )
Tuy nhiên đây chưa phải là kết luận cuối cùng về chất lượng khoản tín dụng cụ thể đang xét. VP bank còn căn cứ vào đánh giá tài sản đảm bảo, sau đó kết hợp giữa kết quả xếp hạng rủi ro với kết quả đánh giá tài sản bảo đảm để rút ra kết luận cuối cùng về chất lượng khoản tín dụng.
2.2.2.2. Đánh giá tài sản bảo đảm:
Bảng 2.7: Bảng đánh giá tài sản bảo đảm
TT
Loại tài sản bảo đảm
Tỷ lệ tiền vay trên giá trị TSBĐ
%
31 – 50%
51 – 65%
66 – 85%
86 – 100%
1
Bảo lãnh tín chấp của chính phủ hoặc NH nhà nước, NH quốc doanh.
Mạnh
2
Tiền gửi, thẻ TK tại VP bank
3
Giấy tờ có giá do Chính phủ hoặc các NHTM quốc doanh phát hành.
Mạnh
Trung bình
4
Bất động sản tại các quận của đô thị lớn trực thuộc trung ương
Mạnh
Trung bình
Yếu
5
Ô tô mới 100%
6
Hàng hoá thông dụng, dễ chuyển nhượng
7
Bất động sản ở các huyện ngoại thành ven đô thị lớn thuộc TW hoặc tại các quận của đô thị thuộc tỉnh.
Mạnh
Trung bình
Yếu
8
Các phương tiện vận chuyển đã qua sử dụng
9
Bảo đảm bằng khoản phải thu hoặc tài sản đảm bảo khác được VP bank chấp nhận
Trung bình
Yếu
10
Máy móc thiết bị sản xuất mới nhập khẩu( dưới 1 năm), công nghệ hiện đại
11
Bất động sản ở ven đô thị thuộc tỉnh hoặc bất cứ động sản khác ở nông thôn.
Trung bình
Yếu
12
Máy móc thiết bị sản xuất cũ hoặc mua lại của đơn vị khác, hoặc mới nhưng công nghệ lạc hậu.
Yếu
13
Hàng hoá không thông dụng hoặc tồn kho lâu ngày.
2.2.2.3. Đánh giá tín dụng kết hợp:
Bảng 2.8: Đánh giá tín dụng kết hợp
Xếp hạng rủi ro
A+
A
B+
B
C+
C
Rủi ro thấp
Rủi ro trung bình
Rủi ro cao
Xuất sắc
Tốt
Trung bình/ từ chối
Mạnh
Xếp hạng TSĐB
Tốt
Trung bình
Từ chối
Trung bình
Trung bình
Trung bình/ Từ chối
Yếu
Nhân viên tín dụng sử dụng “Bảng đánh giá tín dụng kết hợp” để đánh giá. Trong bảng này theo hàng ngang là các mức xếp hạng rủi ro của khách hàng, chia làm 3 nhóm
Nhóm rủi ro thấp gồm các loại A+ và A
Nhóm rủi ro trung bình gồm các loại B+ và B
Nhóm rủi ro cao gồm các loại C+ và C
Theo hàng dọc là các mức xếp hạng đánh giá tài sản bảo đảm, cũng chia làm 3 nhóm:
Nhóm tài sản bảo đảm “Mạnh”
Nhóm tài sản bảo đảm “Trung bình”
Nhóm tài sản bảo đảm “ Yếu”
Kết quả tín dụng kết hợp là nằm ở ô giao điểm giữa mức xếp hạng rủi ro và mức xếp hạng tài sản bảo đảm của khách hàng đó.
2.2.2.4. Sử dụng kết quả đánh giá:
Kết quả đánh giá tín dụng kết hợp sẽ được sử dụng làm một trong những căn cứ để Ban tín dụng hoặc Hội đồng tín dụng xét duyệt. Dựa vào kết quả cụ
thể của mỗi khách hàng, nhân viên tín dụng sẽ đề xuất ý kiến giải quyết theo hướng:
Phê duyệt những khoản tín dụng đạt kết quả đánh giá tín dụng kết hợ từ “Tốt” và “ Xuất sắc”.
Áp dụng mức lãi suất và phí bình thường theo quy định hiện hành của VP bank đối với các khách hàng loại “Trung bình” và áp dụng lãi suất và phí giảm dần theo thứ tự ưu tiên đối với khách hàng thuộc các loại: Trung bình => Tốt => Xuất sắc.
Tỷ lệ cho vay trên Tài sản bảo đảm tăng dần và tỷ lệ ký quỹ giảm dần cũng theo thứ tự ưu tiên nói trên.
2.4. Đánh giá công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại VP bank Việt Nam:
2.4.1. Thành công
Các thông tin mà VP bank sử dụng để chấm điểm tín dụng không chỉ là các số liệu do doanh nghiệp cung cấp mà còn mở rộng ra thông tin lưu trữ, qua phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp và các nguồn thông tin khác…vì vậy mà có thể tăng thêm sự hiểu biết về khách hàng.
Quy trình chấm điểm đủ cả 7 bước, dù là khách hàng truyền thống hay khách hàng mới đều phải tiến hành chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp.
Nội dung phân tích, đánh giá nói chung là khá đầy đủ, chấm điểm tiêu chí tài chính, phi tài chính như: năng lực và kinh nghiệm quản lý, giao dịch với ngân hàng…vì vậy, chấm điểm tín dụng có thể hỗ trợ tốt hơn trong việc dự đoán rủi ro khoản vay tốt hơn. Ta có thể thấy tỷ lệ nợ xấu năm 2006( gồm các nhóm 3, 4 ,5) của VP bank cuối năm 2006 ở mức 0,58% tổng dư nợ, năm 2007 tỷ lệ nợ xấu của VP bank tính đến 31/12/2007 là 0,49% giảm so với năm 2006.
2.4.2. Hạn chế
Về mặt thông tin chưa đầy đủ và độ tin cậy chưa cao:
- Nội dung báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa đầy đủ, các khách hàng mục tiêu của VP bank là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hầu như báo cáo tài chính tại thời điểm chấm điểm chưa được kiểm toán.
- Công tác phỏng vấn, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng chưa được tiến hành thường xuyên, mang tính định kỳ và có báo trước nên có thể xảy ra tình trạng dàn dựng làm sai lệch thông tin và đánh giá của ngân hàng.
- Các nguồn thông tin khác như từ CIC…chưa đáp ứng thật sự được về nhu cầu thông tin tín dụng.
Về mặt nội dung chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp chưa hoàn thiện
- Một số tiêu chí phi tài chính khá trừu tượng như “Triển vọng ngành”; “ Vị thế cạnh tranh”; “ Số lượng đối thủ cạnh tranh” nên khó tránh khỏi trường hợp cán bộ tín dụng đánh giá bằng cảm nhận để cho điểm. Điều này làm ảnh hưởng tới độ tin cậy của kết quả chấm điểm tín dụng.
- Phương pháp chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp không thể hiện được mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu đối với kết quả xếp hạng cuối cùng. Tuỳ từng thời điểm, tính chất, đặc điểm của từng doanh nghiệp mà mức độ quan trọng của các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính là khác nhau. Mức độ quan trọng của các chỉ tiêu được thể hiện qua các trọng số ứng với mỗi chỉ tiêu đó. Trọng số càng lớn, mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu tới hệ thống xếp hạng càng đáng kể. Nhưng VP bank không quy định trọng số cho các tiêu chí mà chỉ chấm điểm một lần, nhưng việc quy định trọng số là rất cần thiết vì mỗi tiêu chí sẽ có mức độ quan trọng, tác động khác nhau, nếu không như vậy thì đã san bằng tác động của các chỉ tiêu với nhau.
- Phương pháp xếp hạng chưa nêu lên tầm quan trọng của các chỉ tiêu đối với từng loại vay: Đối với các khoản vay ngắn hạn, ngân hàng sẽ quan tâm hơn tới các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn. Đối với các khoản vay trung và dài hạn, ngân hàng thường tập trung vào các nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Như vậy đối với mỗi loại cho vay, tầm quan trọng của các chỉ số sẽ khác nhau nhưng vẫn chưa được tính đến trong nội dung xếp hạng của VP bank.
2.4.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan:
Áp dụng Basel II:
Chương trình Basel II là một loạt các quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động ngân hàng đa quốc gia. Ngày nay, dường như không một ngân hàng nào có thể tách rời mà không có mối liên hệ với các ngân hàng trên thế giới. Do vậy, hiểu biết và áp dụng những quy định Basel II sẽ là rất quan trọng đối với phát triển và hoạt động ổn định của các ngân hàng. Một trong những nội dung không thể bỏ qua của Basel II là quản lý các rủi ro dữ liệu. Basel II đưa ra nhiều quy định để các ngân hàng tránh khỏi những rủi ro về mặt dữ liệu và thông tin ngân hàng có thể phát sinh từ khái niệm, quy tắc đến so sánh, kết hợp những yếu tố quản lý như một chìa khoá để giảm thiểu rủi ro. Bất kể quy định nào nếu được các ngân hàng tuân thủ cũng sẽ giúp đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh và các hoạt động tín dụng. Hiện nay, Việt Nam mới thực hiện một phần Basel I về rủi ro tín dụng và dự kiến đến hết năm 2010 mới thực hiện đầy đủ Basel I. Trong khi đó, nhiều cơ quan quản lý và giám sát ngân hàng ở các nước đang phát triển đã thực hiện chuẩn mực vốn của Basel I và sẵn sàng triển khai Basel II trước năm 2010. Theo lộ trình hội nhập đã cam kết trong Hiệp ước thương mại Việt Mỹ, lộ trình hội nhập AFTA và những cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO đến năm 2010 về cơ bản Việt Nam phải thực hiện mở cửa hoàn toàn trong lĩnh vực ngân hàng, các hạn chế đối với Ngân hàng thương mại cần được dỡ bỏ, mức độ cạnh tranh tăng lên, khiến các NHTM Việt Nam đối mặt với nhiều rủi ro và dễ bị tổn thương hơn.
Hiện nay cuộc chay đua lãi suất trở nên căng thẳng, một mặt Ngân hàng phải tăng lãi suất để cân bằng với tốc độ trượt giá( tỷ lệ lạm phát 4 tháng đầu năm 2008 là 11/06%) nhằm hút khách hàng, mặt khác căng thẳng hơn là nhằm giữ chân khách hàng khỏi rút tiền gửi sang Ngân hàng bạn, trong khi đó Ngân hàng nhà nước đã quy định lãi suất cho vay tối đa không quá 150% lãi suất cơ bản nghĩa là 18%/năm. Cuộc “ chạy đua ” lãi suất huy động đã kéo theo nhiều ngân hàng vào cuộc khiến cho mặt bằng lãi suất bị đẩy lên khá cao, kéo theo nguy cơ rủi ro tín dụng. Cụ thể, các doanh nghiệp vay vốn NH với LS 18%/năm (chưa kể phí mà một số NH đang áp dụng) trong bối cảnh nguyên vật liệu đầu vào tăng, đồng lương tăng... Như vậy, doanh nghiệp đó phải có mức tăng trưởng cao hơn thì mới đảm bảo an toàn mà điều này là rất khó khăn.
Chế độ kế toán Việt Nam: đây là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng nguồn thông tin không đầy đủ và đáng tin cậy phục vụ cho hoạt động chấm điểm tín dụng. Trước 2004, các chuẩn mực kế toán chưa có qui định các doanh nghiệp bắt buộc phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phần chi phí lãi vay trong báo cáo kết quả kinh doanh. Từ năm 2004 trở đi, một loạt các chuẩn mực kế toán ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chấm điểm tín dụng của ngân hàng, chuẩn mực thứ 16 qui định chỉ tiêu chi phí lãi vay phải có trong báo cáo kết quả kinh doanh; chuẩn mực 24 qui định: báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận hợp thành của báo cáo tài chính.
Do những hạn chế của Trung tâm thông tin tín dụng( CIC): CIC được thành lập nhằm tạo ra một nguồn dữ liệu về doanh nghiệp cho các tổ chức tín dụng thành viên cùng khai thác, sử dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều tổ chức tín dụng thành viên thường tìm cách trốn tránh hoặc không cung cấp thông tin hoặc cung cấp không đầy đủ, sai lệch do lo ngại thông tin về khách hàng sẽ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh hay ngân hàng khác lôi kéo mất khách hàng. Điều đó dẫn đến thông tin tại CIC ngày càng hạn chế, không đảm đương được nhiệm vụ ban đầu đề ra, gây khó khăn cho các ngân hàng thành viên khi muồn tìm hiểu về một khách hàng mới. Mặt khác, phí dịch vụ khai thác thông tin của CIC cũng khá cao, nên cán bộ tín dụng khi sử dụng cũng phải cân nhắc.
Hạn chế từ các nguồn thông tin khác: sự chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng thương mại hạn chế, do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng về cho vay đối với một khách hàng; thông tin từ các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề để tham khảo chủ yếu từ tạp chí nguyên ngành, báo và các phương tiện thông tin đại chúng, trong khi nhiều Ngân hàng thương mại chưa có bộ phận nghiên cứu, tổng hợp thông tin dự báo nên việc tìm hiểu thông tin không phải dễ dàng, nhiều doanh nghiệp chưa thiết kế Website nên không thể tìm thông tin của các doanh nghiệp cùng ngành nghề qua mạng; việc tìm hiểu thông tin từ các cơ quan nhà nước( thuế, kiểm toán, công an…) khó khăn, chủ yếu do quan hệ, một phần do chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng, một phần do việc ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan này còn hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan:
Trình độ phân tích còn hạn chế: để ra quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải thực hiện một quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ và phức tạp. Hệ thống chấm điểm tín dụng khách hàng đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp trên nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, cán bộ tín dụng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải am hiểu về nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội: môi trường kinh doanh, thị trường đầu ra – vào, các ngành nghề kinh doanh…
Tổ chức phân tích còn tập trung vào cán bộ tín dụng: cán bộ tín dụng thường được giao nhiệm vụ hướng dẫn khách lập nhận hồ sơ, phân tích, lập tờ trình…với một khối lượng lớn công việc như vậy, một mặt cán bộ tín dụng không có thời gian để thu thập đầy đủ thông tin phân tích, mặt khác sẽ xảy ra rủi ro đạo đức khi cán bộ tín dụng có hành vi gian lận vi phạm nguyên tắc cấp tín dụng làm sai lệch kết quả chấm điểm tín dụng, ảnh hưởng đến độ chính xác của quyết định cho vay.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG TRONG XẾP HẠNG DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của VP bank Việt Nam
VPBank tiếp tục duy trì chiến lược ngân hàng bán lẻ, tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và các cá nhân. Để xây dựng VPBank trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu ở khu vực phía Bắc và tiến tới là ngân hàng thuộc nhóm dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng TMCP trong cả nước theo định hướng chiến lược của HĐQT, trong năm 2008 VPBank sẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Đẩy mạnh phát triển Thẻ cũng như hệ thống ATM trên toàn quốc, phấn đấu đến hết năm 2008 VPBank vươn lên thuộc top 5 ngân hàng có dịch vụ thẻ phát triển nhất tại Việt Nam; Tập trung vào sản phẩm bán lẻ, cho vay tiêu dùng, các sản phẩm phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Triển khai tổ chức hoạt động ngân hàng theo sơ đồ khối đã được HĐQT phê duyệt trong năm 2007 (mô hình kinh doanh của ngân hàng hiện đại).
Khai thác các tính năng của phần mềm mới (T24) để phát triển các sản phẩm dịch vụ hiện đại ( Internet Banking; SMS Banking và các sản phẩm dịch vụ khác) phục vụ khách hàng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các chi nhánh, phòng giao dịch để đảm bảo hoạt động an toàn, phát triển bền vững
Hoàn thành việc bán thêm 5% cổ phần cho ngân hàng OCBC trong quý I/2008. Tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ OCBC để nâng cao năng lực cạnh tranh của VPBank. Đẩy mạnh việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam và tại Singapor cho đội ngũ CBNV để tạo nguồn cán bộ lâu dài cho VPBank.
Xây dựng hình ảnh của VPBank gần gũi, thân thiện với công chúng, khách hàng trên toàn quốc.
Đưa cổ phiếu VPBank lên niêm yết và giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (hoặc Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh) vào thời điểm thích hợp trong quý I hoặc đầu quý II/2008
Các chỉ tiêu hoạt động năm 2008 như sau (tỷ đồng):
Vốn điều lệ cuối năm: 3.000
Tổng tài sản: 30.000
Nguồn vốn huy động: 24.000 (Trong đó huy động từ thị trường I: 21.500)
Dư nợ tín dụng: 20.000
Tỷ lệ nợ xấu: <1%
Hoàn thành lắp đặt ATM(đã có+lắp mới): 302
Số lượng thẻ phát hành:400.000
Lợi nhuận ròng trước thuế: 550
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
3.2.1. Giải pháp đối với Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam:
a. Về mặt thông tin:
- Tăng cường thu thập thông tin:
Thông tin là đầu vào quan trọng của quá trình phân tích tín dụng, trong đó có hoạt động chấm điểm tín dụng, ảnh hưởng lớn đến kết quả thu được. Thông tin càng đầy đủ thì càng có nhiều khả năng đánh giá chính xác năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Mở rộng hợp tác trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin cho nhau về khách hàng, nhằm giảm thiểu rủi ro.
Tăng cường trao đổi thông tin hai chiều giữa CIC, tạo thói quen cho cán bộ tín dụng khai thác thường xuyên thông tin này vì mức độ tin cậy rất cao.
- Nâng cao độ tin cậy của thông tin:
Tăng cường phỏng vấn, tiếp xúc với khách hàng:
Hợp tác với các cơ quan chức năng để trao đổi thông tin hai chiều
b. Về chất lượng cán bộ tín dụng:
- Nâng cao nhận thức của cán bộ tín dụng về tầm quan trọng của hoạt động chấm điểm tín dụng: yêu cầu cán bộ tín dụng phải am hiểu thật sự chứ không tiến hành công việc một cách máy móc, phải hiểu được ý nghĩa cũng như nhược điểm của từng chỉ tiêu, lý giải được kết quả của những chỉ tiêu này so với chỉ tiêu trung bình ngành, đánh giá điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp và những bất hợp lý nếu có.
- Chú trọng đào tạo: tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng được đi học để nâng cao kiến thức, có khả năng phân tích đánh giá khách hàng.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, đánh giá cán bộ tín dụng: mục đích chính là đánh giá mức độ tuân thủ các quy chế tín dụng và hạn chế những nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng phát dinh từ phía cán bộ tín dụng của ngân hàng, việc kiểm tra cần được tiến hành trước, trong và sau cho vay.
- Chế độ đãi ngộ: căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá cán bộ tín dụng mà có chế độ thưởng phạt phân minh, chẳng hạn như nếu cán bộ đạt loại xuất sắc thì sẽ có chế độ khen thưởng phù hợp, còn nếu cán bộ tín dụng để phát sinh nợ quá hạn do lỗi chủ quan của bản thấn thì có thể bị kiểm điểm, trừ tiền lương, thưởng…Tuy nhiên, chế độ khen thưởng cần phải được sự đồng tình và hưởng ứng của tập thể cán bộ, sẽ tạo động lực cho các nhân viên, nếu không sẽ tạo tác động ngược lại.
- Tổ chức tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm:
c. Hoàn thiện nội dung chấm điểm tín dụng:
- Chấm điểm các tiêu chí phi tài chính: các tiêu chí phi tài chính là những tiêu chí định tính, rất khó cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá để cho điểm đồng thời khó kiểm tra độ chính xác của cán bộ tín dụng khi cho điểm là đến mức độ nào. Vì vậy, cần phải cụ thể hoá, lượng hoá nhiều hơn nữa các tiêu chí phi tài chính.
- Điểm thưởng phạt: ngân hàng có thể sử dụng điểm thưởng hoặc điểm phạt cho những thông tin tài chính hoặc phi tài chính( không có trong hệ thống chấm điểm) đem lại những thuận lợi, khó khăn cho doanh nghiệp trong việc hoàn trả nợ gốc hoặc lãi. Điểm thưởng sẽ được cộng vào tổng số điểm tín dụng sau khi đã đánh giá doanh nghiệp, điểm phạt trừ đi tổng số điểm tín dụng sau khi đánh giá.
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước
* Dịch vụ quản lý thông tin tín dụng:
CIC có thể mở rộng thông tin cung cấp như thông tin kinh tế, tài chính liên quan phục vụ cho hoạt động phân tích tín dụng nói chung và hoạt động chấm điểm tín dụng nói riêng của các ngân hàng thương mại, không những tăng về mặt số lượng mà còn phải đảm bảo chất lượng. Tiếp cận với nhiều nguồn thông tin như: Bộ kế hoạch và đầu tư, bộ thương mại, Tổng cục thống kê,… nguồn thông tin ngoài nước như Hiệp hội thông tin tín dụng Châu Á, diễn đàn thông tin tín dụng Asean, các tổ chức cung cấp thông tin chuyên nghiệp…Ngân hàng nhà nước cần đặt mục tiêu xây dựng CIC thành kênh thông tin chủ yếu và đáng tin cậy của các tổ chức tín dụng. Đồng thời điểu chỉnh mức phí hiện còn quá cao như hiện nay.
Cần củng cố đổi mới và phát triển hệ thống thông tin tín dụng rộng khắp; Kiện toàn tổ chức hoạt động thông tin tín dụng xây dựng đội ngũ chuyên gia xử lý, phân tích kinh tế chuyên sâu có trình độ, trách nhiệm đảm bảo chất lượng thông tin được xử lý, cung cấp kịp thời, chính xác có chiều sâu để thông tin thực sự mang tính dự báo, cảnh báo, ngăn ngừa rủi ro và kích thích thị trường tín dụng phát triển.
Ngân hàng nhà nước cần tích cực củng cố trung tâm thông tin tín dụng, đảm bảo cho CIC thực hiện và phát huy đúng chức năng, nhiệm vụ của mình như hệ thống thông tin tín dụng của Hàn Quốc đã thực sự phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội Hàn Quốc, việc quan tâm và chú trọng đúng mức công tác thông tin tín dụng đã thực sự góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động tài chính – ngân hàng và phát triển mở rộng tín dụng của Hàn Quốc. Các dịch vụ chính cung cấp gồm: Thu thập, phân tích, đánh giá và phổ biến thông tin tín dụng về hệ thống doanh nghiệp kinh doanh; ngành nghề kinh doanh, xu thế đầu tư, các ngành công nghiệp lợi thế; phân tích chấm điểm, xếp hạng doanh nghiệp và các cá nhân tham gia giao dịch tín dụng; xử lý điện tử các số liệu thông tin tín dụng qua trung tâm số liệu điện tử và trang Web của Hiệp hội Ngân hàng Hàn Quốc ; Hoạch định và nghiên cứu về cải tiến và phát triển hệ thống chia sẻ thông tin tín dụng. Hệ thống quản lý thông tin tín dung của Hàn quốc được thực hiện hiệu quả qua các hệ thống điện toán và công nghệ chấm điểm tín dụng nhờ đó phát huy tối đa hiệu quả giảm thiểu rủi ro và lành mạnh hoá thị trường tín dụng.
- Hệ thống phân tích tín dụng (Credit Analysis System).
- Hệ thống đánh giá xếp loại, phân tích theo ngành công nghiệp (IR-Industry Rating - Assesment System).
- Hệ thống chấm điểm tín dụng các doanh nghiệp (Credit Scoring System).
- Hệ thống phân loại tính lành mạnh tín dụng (Credit Soundness Classification System).
- Hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System).
Nguồn thông tin của Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc được khai thác từ 10.000 tổ chức có liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng cung cấp. Các công ty Bảo hiểm, dịch vụ thu hồi và tư vấn tín dụng cùng các cơ quan trung ương, địa phương và các hội viên chính, hội viên chuẩn của Hiệp Hội nhân hàng Hàn Quốc đều là người cung cấp thông tin cho những tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin của Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc. Đặc biệt, với một nền kinh tế phát triển và việc tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về thông tin tín dụng cá nhân, hệ thống cơ sở dữ liệu cá nhân và các công ty thông tin tín dụng khác cũng được phép đăng nhập hoàn toàn vào Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc thông qua Hợp đồng khai thác thông tin hợp pháp với Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc.
Nội dung và thông tin tín dụng được kiểm chứng thông qua những tiêu chuẩn và nội dung cụ thể của Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc và được quyết định bởi "Hội đồng thông tin tín dụng ". Hội đồng này được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật và trực thuộc Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc gồm các đại diện của các tổ chức tài chính: Ngân hàng, Bảo hiểm, Công ty chứng khoán, các Công ty thẻ tín dụng, các liên minh tín dụng, Ngân hàng tiết kiệm và các Tổ chức tín dụng cá nhân (do đó chất lượng thông tin tín dụng của Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc mang lại hiệu quả cao trong hoạt động tín dụng đã thực sự mở rộng thị trường tín dụng lành mạnh và thu hẹp thị trường tín dụng không lành mạnh). Đồng thời chịu trách nhiệm ra các quyết định cuối cùng về các vấn đề như chi tiêu cho Dịch vụ thông tin tín dụng Hàn Quốc và giám sát quá trình thu thập thông tin tín dụng.
Các thông tin tín dụng của Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc còn là căn cứ cho các phán quyết xem xét cho vay; là kênh thông tin quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng và quản lý tín dụng đối với các tổ chức tín dụng - ngân hàng.
* Quản trị thông tin tín dụng:
Xây dựng hành lang pháp lý cụ thể về bảo mật, cung cấp, khai thác, xử lý thông tin. Tiến hành thành lập hội đồng kiểm duyệt, kiểm tra, đánh giá, xác nhận thông tin đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, xác thực của thông tin; Nới lỏng nguồn cung cấp thông tin tín dụng và đối tượng được khai thác thông tin tín dụng. Ngân hàng nhà nước cần quy định chặt chẽ, chi tiết trách nhiệm quyền lợi tương ứng của các thành viên tham gia vao kênh thông tin này. Đồng thời cũng quy định rõ hình thức xử phạt thích đáng với từng hành vi gian lận, cạnh tranh bất hợp pháp, đặc biệt là hành vi cung cấp thông tin sai sự thật tổn hại đến các đối tượng khai thác, sử dụng thông tin. Các tổ chức kinh tế - tài chính là thành viên Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc có nghĩa vụ bắt buộc báo cáo những thông tin tín dụng liên quan cho Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc trong vòng 10 ngày kể từ ngày thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng.Thông tin tín dụng được xử lý hàng ngày, hàng tháng thông qua nhiều kênh gồm: Hệ thống mạng Internet trực tuyến, các trạm Thông tin tín dụng, băng đĩa, văn bản,... Hệ thống Thông tin tín dụng của Hiệp hội ngân hàng Hàn Quốc thiết lập hệ thống mạng lưới thông tin trên phạm vi cả nước nhằm mục đích nâng cao khả năng quản trị thông tin tín dụng, đảm bảo tính thời sự và tính chính xác của thông tin.
Các ngân hàng thương mại Hàn Quốc từ Ngân hàng Trung ương đến địa phương đều có các chuyên viên kinh tế, thẩm định phụ trách công tác thông tin tín dụng. Công tác thông tin tín dụng và quản lý thông tin tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu được các Ngân hàng quan tâm song song với các hoạt động nghiệp vụ quản lý tín dụng và quản lý rủi ro.Tuy nhiên, hoạt động thông tin tín dụng của Hàn Quốc tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc bảo mật bảo vệ thông tin và tính chính xác của thông tin tín dụng dựa trên hệ thống pháp luật về bảo vệ thông tin tín dụng và các sắc lệnh cưỡng chế quy định rõ ràng các điều kiện và quy trình thẩm tra thông tin cho mỗi bước tiếp nhận và xử lý thông tin. Không ngừng hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm soát thông tin để đảm bảo tính công bằng, hợp pháp việc sử dụng thông tin tín dụng.
Vì vậy ngân hàng nhà nước Việt Nam cần xây dựng điều khoản bắt buộc trong Quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng: Khi xem xét cấp tín dụng đối với khách hàng đặc biệt là các khách hàng doanh nghiệp lớn hoặc các khoản vay đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước. Coi báo cáo thông tin từ trung tâm tín dụng như một căn cứ bắt buộc trong quá trình thẩm định cho vay. Các công đoạn xử lý nghiệp vụ, khai thác tối đa thông tin đa chiều. Xây dựng chế tài đối với các hành vi vi phạm quy trình xử lý, cung cấp, khai thác thông tin trái quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Xử lý kiên quyết, kịp thời các đơn vị không cung cấp, cung cấp thông tin tín dụng không chính xác hoặc vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng. Tổ chức tập huấn, đào tạo về công tác thông tin tín dụng cho các đối tượng cung cấp thông tin và sử dụng thông tin tín dụng.
* Thành lập công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam:
Các nước trên thế giới và khu vực đã đi trước Việt Nam hàng mấy chục năm về lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Việc xếp hạng tín nhiệm được tiến hành với nhiều đối tượng khác nhau, từ việc xếp hạng cho một quốc gia đến việc xếp hạng cho một cá nhân. Việc hình thành công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam là rất có ý nghĩa trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính, thị trường vốn ở Việt Nam. Chức năng chính của công ty sẽ là phân tích, xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp; đánh giá và xếp hạng cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Công ty sẽ nắm giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng, đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng: nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc ra quyết định cấp tín dụng, giám sát và đánh giá khách hàng, kiểm soát rủi ro hiệu quả hơn.
3.2.3. Kiến nghị đối với Bộ tài chính:
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Bộ tài chính kết hợp với các bộ ngành có liên quan xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành cho từng giai đoạn để làm căn cứ chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng của các ngân hàng thương mại. Hệ thống chỉ tiêu này sẽ được điều chỉnh theo định kỳ cho phù hợp tình hình mới và được công bố công khai, rộng rãi cho nhiều đối tượng không chỉ riêng các ngân hàng thương mại.
KẾT LUẬN
Phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp là một bước phát triển to lớn của công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, vấn đề chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp là một vấn đề có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực. Mặt khác, hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp chuẩn chưa được thống nhất trong toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay mỗi ngân hàng thương mại đều tự xây dựng một hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng riêng. Vì vậy, trong khuôn khổ chuyên đề tốt nghiệp, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Khái quát về hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp: khái niệm, mục đích, qui trình, ứng dụng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng công tác chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp tại VP bank, những kết quả đạt được cùng với những hạn chế và nguyên nhân.
- Đưa ra một số ý kiến đề xuất để hoàn thiện nội dung phương pháp chấm điểm tín dụng trong xếp hạng doanh nghiệp của VP bank .
Với khả năng nghiên cứu và phân tích còn hạn chế, thời gian tìm hiểu thực tế không dài nên bài viết không tránh khoải những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đánh giá, nhận xét, bổ sung nhằm hoàn thiện nội dung chuyên đề, là cơ sở để phát triển luận văn tốt nghiệp.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của Cô giáo PGS-TS Nguyễn Thị Thu Thảo, cùng các anh chị tại Phòng giao dịch VP bank Khâm Thiên.
T-ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - TS. Nguyễn Minh Kiêu - NXB Thống kê 2007.
2. Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong ngân hàng - PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến - NXB Thống kê.
3. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - TS. Lưu Thị Hương
4. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
5. Quy chế cho vay
6. Quyết định số 57/2002/QĐ-NHNN ngày 24/01/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
7. Quyết định số 1402/2003/QĐ-NHNN
8. Quản trị Ngân hàng Thương mại - Peter rose - NXB Tài chính
9. Cẩm nang nghiệp vụ tín dụng VPBank
10. Báo cáo thường niên VPBank năm 2005, 2006
11. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh VPBank năm 2007.
12. Một số website: www.creditinfo.org.vn, saga.com.vn, sbv.com.vn, vpb.com.vn…
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33258.doc