Lời nói đầu
Thị trường chứng khoán đầu tiên trên Thế giới đã được thành lập cách đây hàng trăm năm và đến nay TTCK đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Nhận thức được vấn đề đó Việt Nam đã sớm bắt đầu nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các nước trong việc thiết lập và vận hành TTCK. Tháng 7/2000, TTCK Việt Nam đã xuất hiện.
TTCK đã được hình dung là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội vì nó là nơi h
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện & phát triển hoạt động của Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uy động các nguồn vốn trung và dài hạn của nền kinh tế. Trong hoạt động của hệ thống giao dịch chứng khoán các CTCK đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường. Chúng có vai trò huy động vốn, vai trò xác định giá cả chứng khoán, thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán thúc đẩy vòng quay của chứng khoán... Trong thời gian đầu hoạt động các CTCK đã đạt được những kết quả nhất định góp phần thúc đẩy thị trường phát triển, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Các CTCK Việt Nam phần lớn đều là các công ty trực thuộc các ngân hàng thương mại vì vậy tạo nên một đặc điểm riêng biệt của các CTCK Việt Nam so với các nước khác. Chính vì những lý do trên mà em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN”. Bài bài viết của em được kết cấu gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động của công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
Mục đích của bài viết này là em mong muốn bằng những nhận thức trên cơ sở lý thuyết được học và thực tế đi thực tập có thể khắc họa được thực trạng của một trong số các CTCK Việt Nam hiện nay nhằm đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động kinh doanh của công ty cũng như toàn thị trường.
Chương 1
những vấn đề chung về hoạt động của Công ty chứng khoán
1.1 Khái niệm và vai trò của Công ty chứng khoán (CTCK)
1.1.1. Khái niệm về CTCK
CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán (TTCK).
Qua đó, CTCK cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
Về nhân lực: ngoài có trình độ chuyên môn trên lĩnh vực tài chính - ngân hàng thì cần phải có chuyên môn, hiểu biết trong lĩnh vực TTCK. Những người quản lý hay nhân viên giao dịch của công ty phải đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực. Hầu hết các nước đều yêu cầu nhân viên của CTCK phải có giấy phép hành nghề. Những người giữ các chức danh quản lý còn phải đòi hỏi có giấy phép đại diện.
Về cơ sở vật chất, công nghệ: CTCK cần phải đảm bảo yêu cầu về cơ sở vật chất tối thiểu cho CTCK như: mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh chứng khoán đã được quy định trong điều 66, nghị định 144/2003/NĐ-CP.
Công ty chứng khoán thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các CTCK cũng như bất cứ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đều nhằm mục đích thu lợi qua việc thu phí từ các hoạt động trung gian hoặc thu lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh mua bán chứng khoán.
1.1.2.Vai trò của CTCK.
* Đối với các tổ phát hành: mục tiêu tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ cho các nhà phát hành. Đồng thời, thông qua nghiệp vụ tư vấn của các CTCK giúp cho tổ chức phát hành nhanh chóng huy động vốn.
* Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng nh mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
* Đối với TTCK: công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò.
+ Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường: Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK, các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
+ Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính: TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp một, do thực hiện các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động được nguồn vốn đưa vào sản xuất, kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp hai. Điều này làm giảm rủi ro, tạo nên tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp hai, do thực hiện giao dịch mua và bán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
* Đối với các cơ quan quản lý thị trường: các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các nhà đầu tư..vv..Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn bóp méo thị trường.
Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói chung.
1.2. Phân loại CTCK.
Tại Việt Nam theo quyết định số 04/1998/QĐ - UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN, CTCK là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Do đặc điểm của một CTCK có thể kinh doanh trên một lĩnh vực loại hình kinh doanh nhất định do đó hiện nay có quan điểm phân chia CTCK thành các loại sau.
1.2.1. Phân loại theo chức năng:
* Công ty môi giới chứng khoán: là công ty chỉ thực hiện việc trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
* Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
* Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
* Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
* Công ty chứng khoán không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
1.2.2. Phân loại theo loại hình tổ chức (tính chất sở hữu).
Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là: công ty hợp danh; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần.
* Công ty hợp danh
Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở nên.
Thành viên của CTCK hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải có trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty.
Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
* Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
Do các ưu điểm của loại hình công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn so với công ty hợp danh, vì vậy, hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
1.3. Nguyên tắc hoạt động của CTCK
CTCK hoạt động theo hai nhóm nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
* Nhóm nguyên tắc đạo đức.
- CTCK phải bảo đảm giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng.
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ có tinh thần trách nhiệm.
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản khách hàng khi chưa được khách đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước.
- CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn.
- CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các CTCK không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
- Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
* Nhóm nguyên tắc tài chính.
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán báo cáo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp đó được dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng.
- CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
1.4. Các hoạt động của CTCK
1.4.1 Các hoạt động chính.
1.4.1.1 Hoạt động môi giới chứng khoán.
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng những sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẽ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức kỹ năng mẫn cán trong công việc và thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
1.4.1.2 Hoạt động tự doanh.
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò nhà tạo lập thị trường nắm giữ một số chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định hai loại hình CTCK là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới chứng khoán và CTCK có chức năng tự doanh.
1.4.1.3 Hoạt động bảo lãnh phát hành.
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh (tổ chức bảo lãnh) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có các CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn lại ngân hàng đầu tư thường đứng ra bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyên phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác.
1.4.1.4 Hoạt động quản lý danh mục đầu tư.
Đây là hoạt động quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng hoạt động tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư khách hàng uỷ thác tiền cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc theo yêu cầu .
Hoạt động này bao gồm các bước sau:
- Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác.
- Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa khách hàng và công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư. Thực hiện các hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải bảo đảm tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính công ty.
- Kết thúc hợp đồng quản lý: khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi CTCK bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.
1.4.1.5 Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cũng như những loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại như sau:
- Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (Gặp trực tiếp khách hàng hoặc qua thư từ điện thoại) và tư vấn gián tếp (thông qua ấn phẩm sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
- Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý và tư vấn uỷ quyền .
- Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người phát hành và tư vấn đầu tư.
1.4.2. Các hoạt động phụ trợ.
1.4.2.1 Lưu ký chứng khoán.
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CTCK hoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
1.4.2.2 Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức).
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.4.2.3 Nghiệp vụ tín dụng.
Đối với các TTCK phát triển bên cạnh hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để họ thực hiện hoạt động mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một lần, số còn lại sẽ do CTCK ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải trả hoàn đủ số gốc vay cùng với lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
1.4.2.4 Nghiệp vụ quản lý quỹ.
ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép CTCK được thực hiện hoạt động quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của CTCK.
1.5.1. Các yếu tố bên trong
1.5.1.1. Yếu tố tổ chức quản lý
Ta đã biết hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường vì CTCK là một định chế tài chính đặc biệt. Vì vậy, ứng với các TTCK khác nhau, các CTCK khác nhau sẽ có hệ thống tổ chức quản lý khác nhau. Sở dĩ như vậy, vì việc tổ chức quản lý của một CTCK sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng của công ty. Nếu tổ chức quản lý không khoa học sẽ làm cho việc thực hiện các hoạt động không đồng bộ, ăn khớp dẫn đến sai sót và kết quả là ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động khác của công ty. Do các hoạt động của CTCK có đặc thù là độc lập với nhau nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định với nhau, vì vậy tổ chức quản lý của CTCK phải đáp ứng được yêu cầu này. Các phòng ban phải tổ chức hợp lý sao cho vừa đảm bảo hoạt động được thực hiện nhanh chóng, chính xác, vừa bảo mật thông tin. Có như vậy thì CTCK mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách an toàn và ổn định.
1.5.1.2. Yếu tố con người
Yếu tố con người ở đây chủ yếu là nói đến đội ngũ nhân viên của CTCK. Chứng khoán là một lĩnh vực đòi hỏi người nhân viên phải có chuyên môn hoạt động vững vàng và có khả năng phân tích đánh giá cũng như khả năng nhạy bén đối với các thông tin của thị trường. Vì vậy có thể nói nhân viên của CTCK phải là những chuyên gia trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu họ nhận định sai một thông tin nào đó sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư mất lòng tin vào công ty. Trong trường hợp sai sót đó còn nhỏ thì khách hàng sẽ từ bỏ công ty này sang công ty khác, nhưng nếu sai sót lớn thì không những hình ảnh của công ty bị ảnh hưởng mà nó còn tác động đến thị trường, bởi khách hàng sẽ gây ra phản ứng dây truyền một cách nhanh chóng và khó có thể dự đoán điều gì xảy ra. Ngoài ra cũng không thể phủ nhận ảnh hưởng của các nhà quản lý các CTCK trong yếu tố về con người. Họ là người quyết định các chính sách, chiến lược của công ty, ngoài việc phải am hiểu tổng thể các hoạt động, họ còn cần có khả năng tổ chức lãnh đạo. Vì vậy đối với CTCK, yêu cầu đối với một người quản lý là rất cao.
1.5.1.3. Yếu tố tài chính
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vấn đề tài chính cũng là vấn đề rất quan trọng. Tình hình tài chính của công ty tốt tức là công ty làm ăn hiệu quả, có lãi. Nó sẽ quyết định định hướng cũng như quy mô hoạt động kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo của công ty. Nếu tài chính không tốt, không những hoạt động kinh doanh của công ty không thể mở rộng được mà còn làm giảm sút uy tín và lòng tin của khách hàng đối với công ty. Mà đối với CTCK ảnh hưởng của công ty đối với khách hàng là rất quan trọng. Vì trong chức năng hoạt động kinh doanh của công ty thực chất là phải cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các yêu cầu về chứng khoán của khách hàng, nếu không có đủ năng lực tài chính để đưa ra các tiện ích phục vụ khách hàng thì sẽ không còn ai muốn hợp tác với công ty nữa. Riêng đối với Việt Nam thì yếu tố tài chính còn đặc biệt quan trọng bởi số vốn điều lệ của công ty quyết định cả các hoạt động mà công ty được phép hoạt động. Hơn nữa, do khách hàng mở tài khoản tại CTCK nên công ty không những phải coi trọng tài chính của mình mà còn phải quan tâm tới các tài khoản của khách hàng. Công ty phải mở và quản lý tài sản của khách hàng tách biệt với nhau.
1.5.1.4. Yếu tố công nghệ
Cuộc sống ngày càng phát triển nên công nghệ đối với tất cả các ngành nghề đều rất quan trọng. Nhưng đối với ngành chứng khoán thì thời gian gắn liền với tiền bạc nếu thông tin không nhanh chóng, chính xác thì sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Do CTCK là trung gian, là cầu nối giữa các chủ thể của thị trường, vì vậy thông tin sau khi họ cập nhật được sẽ phải công bố lại cho nhiều đối tượng ở nhiều địa điểm. Vậy nếu không có công nghệ hiện đại, thông tin không truyền đến được với các nhà đầu tư, hay trung tâm giao dịch không thể chuyển thông tin cho các CTCK thì khách hàng bị thua lỗ, CTCK cũng thua lỗ và thị trường khó có thể hoạt động lành mạnh được. Ngay trong nội bộ một công ty, việc trang bị công nghệ để thông tin giữa các phòng ban, nhân viên cũng là một yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty. ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển, công nghệ của họ vô cùng hiện đại vì vậy họ có thể mở rộng thị trường, rút ngắn mọi khoảng cách giữa các quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới phát triển hơn. Còn đối với một thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động chưa lâu như ở nước ta thì vấn đề công nghệ có ảnh hưởng rất lớn và là yếu tố cần thiết hiện nay cho các CTCK để có thể phát triển các hoạt động của mình.
1.5.1.5. Kiểm soát nội bộ
Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một nguyên tắc sẽ quyết định yếu tố thắng lợi trong cạnh tranh của công ty. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ là rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới cần kiểm soát, ngay từ các quy trình hoạt động, các thủ tục tiến hành hoạt động của CTCK đều phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của công ty. Để lộ thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là công ty sẽ thất bại trọng hoạt động kinh doanh.
1.5.2. Yếu tố bên ngoài.
1.5.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính của một quốc gia hay nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Và dĩ nhiên CTCK cũng chịu sự tác động rất nhiều của nền kinh tế. Nếu kinh tế phát triển các doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lợi nhuận, họ mong muốn được mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó họ cần vốn và phương pháp hữu hiệu để có nguồn vốn trung và dài hạn là huy động trên thị trường chứng khoán. Khi đó họ đã trở thành những nhà phát hành. Nếu là cá nhân bạn có thể dùng thu nhập nhiều hơn do kinh tế phát triển để đầu tư chứng khoán thu lợi nhuận. Tất cả những hoạt động đó CTCK đều có thể đứng ra thực hiện cho họ vì đó là chức năng của CTCK. CTCK phát triển sẽ thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển và thị trường chứng khoán lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là ảnh hưởng tích cực. Ngược lại, nếu kinh tế không phát triển mọi điều trên không xảy ra, không có nhà đầu tư thì không có thị trường và cũng không có CTCK.
1.5.2.2. Yếu tố pháp lý
Đây là yếu tố không thể thiếu đối với thị trường chứng khoán nói chung và với CTCK nói riêng. Như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, CTCK cần phải tuân thủ pháp luật của mỗi quốc gia mà trong đó nó được thành lập. Có thể coi yếu tố pháp lý ở đây là những luật định của các cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán của mỗi quốc gia. Họ có quyền cao nhất trong việc ra các quyết định đối với thị trường và vì vậy những quyết định đó có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường. Nếu họ thay đổi một số quy định, giả sử về thủ tục phát hành,về phiên giao dịch, về hình thức khớp lệnh hay về thuế một cách tiêu cực hay tích cực đều có những tác động tương ứng ngay tới các CTCK. CTCK sẽ hoạt động thuận tiện hơn, có hiệu quả hơn hay sẽ bị bó buộc, làm ăn thua lỗ một phần phụ thuộc vào yếu tỗ pháp lý do các cơ quan quản lý và giám sát thị trường ban hành.
1.5.2.3. Sự phát triển của thị trường chứng khoán.
CTCK không thể tồn tại và tách rời khỏi thị trường chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng khoán ở đây là sự phát triển cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên tham gia thị trường và sự phát triển của các trung gian tài chính và các hoạt động khác. Một thị trường không có hàng hoá thì không tồn tại vì không có gì để mua và bán. Nếu thị trường chứng khoán không phát triển thì CTCK cũng không phát triển được vì CTCK là một chủ thể chính tham gia trên thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển cùng với hệ thống công bố thông tin, hệ thống đăng ký, hệ thống công bố công khai của nó đã cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán, tăng độ tin cậy cho thị trường và giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Từ đó, các nhà đầu tư có niềm tin để tham gia đầu tư, mà CTCK là cầu nối cho họ.
Chương 2
Thực trạng hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNO&PTNT VN
2.1 Giới thiệu về Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNO&PTNT VN) thành lập ngày 20/12/2000 theo Quyết định Số 269/QĐ/HĐQT của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Giấy phép hoạt động Số 08/GPHĐKD của UBCKNN cấp ngày 04/05/2001. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000024 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp ngày 04/05/2001. Ngày 05/11/2001 công ty chính thức đi vào hoạt động.
Công ty TNHH Chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam có:
Tên tiếng Anh là: Agribank Securities Co.,Ltd
Tên viết tắt là: Agriseco
Vốn điều lệ là : 100 tỷ VNĐ
Chủ tịch công ty : ông Lê Văn Sở
Giám đốc công ty : ông Hà Huy Toàn
E_mail: chungkhoanno_ho@yahoo.com
Ngành nghề kinh doanh bao gồm:
Môi giới
Tư vấn đầu tư
Tư vấn niêm yết
Quản lý danh mục đầu tư
Bảo lãnh phát hành
Trụ sở chính:
Tầng 4 toà nhà C3- Phương Liệt- Quận Thanh Xuân- Hà Nội
Điện thoại: 04.8687217 Fax: 04.8687219
Phòng Giao dịch Ngọc Khánh:
Số 172 phố Ngọc Khánh- Quận Ba Đình- Tp Hà Nội
Điện thoại: 04.7714165 Fax: 04.7714164
Trưởng phòng Giao dịch: ông Nguyễn Kim Hậu
Chi nhánh Tp Hồ Chí Minh:
Lầu 2 số 2A Phó Đức Chính- Quận I- Tp Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.8216361 Fax: 08.8266362
Giám đốc chi nhánh: ông Lê Văn Minh
Công ty được đặt chi nhánh và văn phòng đại diện tại các địa bàn ở trong nước và nước ngoài nơi có nhu cầu và điều kiện cho hoạt động kinh doanh chứng khoán của Công ty, theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện thành lập Công ty Chứng khoán đối với 1 ngân hàng thương mại tại Chương II, Mục I của thông tư 04/1999/thị trường-NHNN5 ngày 2/11/1999 quy định:
- Đã có thời gian hoạt động tối thiểu 5 năm
- Hoạt động kinh doanh có lãi, có nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ cho vay
- Bộ máy quản trị, điều hành và hệ thống kiểm tra nội bộ hoạt động có hiệu quả.
- Không vi phạm các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật.
- Có vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật và phương tiện phục vụ cho kinh doanh chứng khoán.
Đối chiếu với các yêu cầu trên, NHNo&PTNT VN xét thấy đã hoàn toàn hội đủ các điều kiện thành lập Công ty chứng khoán.
* Công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN.
NHNo&PTNT VN sẽ tham gia TTCK thông qua việc thành lập một Công ty con độc lập (có tư cách pháp nhân, có tài khoản, con dấu và trụ sở riêng; có bảng tổng kết tài sản, thực hiện hạch toán độc lập, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước) với hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do NHNo&PTNT VN cấp 100% vốn điều lệ, theo mô hình Chủ tịch và Giám đốc Công ty được quy định tại Luật doanh nghiệp.
+ Thời hạn hoạt động
Thời hạn hoạt động của Công ty là 50 năm (năm mươi năm) kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Việc gia hạn thời hạn hoạt động hoặc chấm dứt hoạt động trước thời hạn do Hội đồng quản trị NHNo&PTNT VN quyết định và được thực hiện theo quy định của pháp luật.
+ Vốn của Công ty
Vốn của Công ty bao gồ._.m:
ã Vốn điều lệ: 100 tỷ VND (một trăm tỷ đồng Việt nam) do NHNo&PTNT VN cấp 100%.
Công ty được huy động vốn dưới các hình thức:
- Phát hành trái phiếu;
- Vay vốn của các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật;
- Nhận góp vốn liên kết và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
ã Vốn khác là vốn được hình thành trong quá trình thanh toán, tiếp nhận viện trợ.
Các quỹ hình thành trong quá trình phân phối lợi nhuận:
- Quỹ dự trữ bổ sung Vốn điều lệ: được trích hàng năm bằng 5% lãi ròng cho đến khi bằng 10% Vốn điều lệ;
- Quỹ dự trữ bắt buộc: được trích hàng năm bằng 5% lãi ròng cho đến khi bằng 10% Vốn điều lệ;
- Ngoài các quỹ trên, Công ty được thành lập các quỹ khác theo quy định của pháp luật.
+ Nguyên tắc hoạt động
Trong hoạt động kinh doanh, Công ty tuân thủ các nguyên tắc:
- Kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và các quy định về kinh doanh chứng khoán của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).
- Kinh doanh phù hợp với chiến lược, kế hoạch hoạt động và lợi ích của NHNo&PTNT VN
- Kinh doanh vì lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng lợi ích của khách hàng
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty
Công ty được tổ chức theo mô hình Chủ tịch và Giám đốc Công ty được quy định tại luật doanh nghiệp.
- Chủ tịch Công ty do NHNo&PTNT VN bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật
- Chủ tịch Công ty là người trực tiếp giúp NHNo&PTNT VN trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của NHNo&PTNT VN.
- Chủ tịch Công ty có quyền và nghĩa vụ:
+ Kiến nghị NHNo&PTNT VN quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Kiến nghị NHNo&PTNT VN về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cũng như mức lương, thưởng và các lợi ích khác đối với Giám đốc công ty, Phó giám đốc công ty, kế toán trưởng Công ty, Giám đốc chi nhánh, Trưởng Văn phòng đại diện.
+ Tổ chức giám sát việc thực hiện các quyết định của NHNo&PTNT VN; báo cáo NHNo&PTNT VN kết quả và tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty.
* Bộ máy điều hành hoạt động của Công ty
- Ban giám đốc gồm: Giám đốc và một phó giám đốc.
- Giám đốc Công ty là người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước NHNo&PTNT VN và pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Giúp việc cho Giám đốc có một số Phó Giám đốc. Phó Giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc trực tiếp điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo phân công của Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công.
- CTCK NHNo&PTNT Việt Nam có 4 phòng chuyên môn nghiệp vụ tại trụ sở chính có chức năng thực hiện các nghiệp vụ (môi giới, kinh doanh cổ phiếu, kinh doanh trái phiếu, tư vấn); tham mưu, giúp việc cho Giám đốc trong việc quản lý điều hành hoạt động của Công ty.
- Tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ giúp Giám đốc kiểm tra hoạt động kinh doanh của Công ty theo quy định của NHNo&PTNT VN, Công ty và của pháp luật.
Mô hình tổ chức công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
Kiểm tra kiểm toán nội bộ
Phó giám đốc Công ty
Giám đốc Công ty
Chủ tịch Công ty
Phòng
Kinh doanh
Phòng
Hành chính tổng hợp
Phòng
Kế toán và lưu ký chứng khoán
Phòng
Giao dịch Ngọc Khánh
Chi nhánh Thành phố
Hồ Chí Minh
Phòng
Hành chính tổng hợp
Phòng
Kế toán và lưu ký chứng khoán
Phòng
Kinh doanh
Phòng
phân tích và tư vấn đầu tư chứng khoán
2.1.3. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
2.1.3.1. Thuận lợi
- Chính phủ đã thông qua lộ trình phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010 và đã ban hành nghị định 144/NĐ-CP ngày 28/11/2003, nới lỏng điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán;
- Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng gắn chặt quá trình cổ phần hoá với quá trình phát hành cổ phiếu ra công chúng qua các Công ty chứng khoán .
- Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phát triển mạnh bất chấp kinh tế thế giới suy giảm .
- Vị thế, tiềm năng và uy tín NHNO&PTNT VN ngày càng vững mạnh. Lãnh đạo NHNO&PTNT VN quan tâm và tin tưởng vào hoạt động của công ty.
2.1.3.2 Khó khăn
- Thêm nhiều công ty chứng khoán mới ra đời, vì vậy sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán ngày càng gay gắt.
- Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa hội đủ điều kiện về khung pháp lý, số lượng các công ty niêm yết còn ít, do vậy tình hình vẫn chưa được cải thiện căn bản.
2.2. Tình hình hoạt động của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam.
2.2.1. Kết quả hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN qua các năm.
Tình hình tổng doanh thu, tổng chi phí và lợi nhuận của Công ty qua các năm
Dơn vị: đồng
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tổng thu
4.473.715.249
12.502.287.332
31.864.434.941
Tổng chi
5.177.202.145
9.664.590.051
27.752.155.504
Lợi nhuận
(703.486.896)
2.837.697.281
4.112.279.437
Nguồn: Agriseco
* Về doanh thu
Qua bảng cho thấy doanh thu của Công ty qua các năm có sự gia tăng đáng kể. Chưa xét đến lợi nhuận của Công ty nhưng với tình hình tăng doanh thu của Công ty hiện nay thì có thể nói rằng hoạt động kinh doanh của Công ty hứa hẹn doanh thu sẽ còn tăng nhanh và nhiều trong những năm tới đây. Nhìn chung đây là một dấu hiệu rất khả quan đối với hoạt động của Công ty
* Về lợi nhuận
Qua bảng ta thấy, năm 2001 là năm đầu tiên Công ty đi vào hoạt động do đó đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều mà doanh thu chưa thu được nhiều do mục tiêu chính là khách hàng, chứ không phải lợi nhuận nên Công ty bị lỗ 703 triệu. Sang năm 2002, cùng với sự phát triển của thị trường, hoạt động của Công ty cũng tiến triển theo chiều hướng tích cực và đã đạt được mức lợi nhuận vượt trội gấp 3 lần so với năm trước. Nhưng sang đến năm 2003, mức lợi nhuận đã tăng lên rất nhiều so với các năm trước.
Có thể nói các con số trên cho thấy đây là một dấu hiệu đáng mừng từ phía Công ty. Nó chứng tỏ Công ty tìm được hướng đi đúng đắn cho mình trong quá trình hoạt động. Không thể phủ nhận đây là thành công quan trọng bước đầu trên con đường phát triển của Công ty. Bên cạnh đó, cũng phải nhìn nhận một yếu tố khách quan tác động đến mức lợi nhuận của Công ty trong thời gian qua, đó là việc Công ty được hưởng ưu đãi về thuế theo quyết định số39/2000/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết định này Công ty được tạm thời miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời gian 3 năm ( từ năm 2000 - 2002) đồng thời cũng được hưởng ưu đãi về thuế TNDN. Như vậy, trong năm 2002 Công ty vẫn còn đang được hưởng ưu đãi về thuế cũng là một trong những lý do chính góp phần làm cho lợi nhuận của Công ty tăng lên.
Bảng: Cơ cấu doanh thu từ các hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Môi giới
8,3
352,85
263
Tự doanh
1807,41
4880,78
7707,26
Quản lý danh mục đầu tư
0
0
0
Bảo lãnh, đại lý phát hành
0
888,952
6508,07
Tư vấn đầu tư cho nhà đầu tư
0
0
0
Vốn kinh doanh
311,98
1767,81
632,115
Lãi đầu tư
2347
4544,321
15945,118
Hoàn nhập dự phòng
0
120,21
825,995
(Nguồn: Báo cáo tài chính của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN năm 2001, 2002, 2003)
2.2.2. Tình hình thực hiện các hoạt động chính tại Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
2.2.1.1.Môi giới
Bảng: Kết quả giao dịch của công ty
Tháng
Mua
Bán
Số lượng ck
Giá trị
(nghìn đồng)
Số lượng ck
Giá trị
(nghìn đồng)
1/2003
75.400
1.433.010
43.600
837.500
2/2003
13.700
244.600
81.900
1.401.650
3/2003
42.300
677.710
68.800
1.282.900
4/2003
66.000
1.067.370
101.300
1.708.410
5/2003
76.410
1.324.253
57.640
989.132
6/2003
-
-
-
-
7/2003
11.210
193.137
17.440
287.548
8/2003
7.760
129.663
718.250
66.286.454
9/2003
178.990
13.118.962
296.750
29.363.649
10/2003
3.235.516
323.150.537
3.214.860
324.504.272
11/2003
1.431.030
136.342.645
1.837.820
172.880.269
12/2003
2.966.500
296.709.359
3.779.900
379.905.315
1/2004
-
-
-
-
2/2004
7.482.619
745.926.277.632
9.041.131
907.186.831.461
(Nguồn: Báo cáo kết quả của hoạt động môi giới tại Công ty TNHH chứng khoán NHHo&PTNT Việt nam)
Hoạt động môi giới là hoạt động chủ đạo và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu trong tổng thu nhập của các CTCK trong giai đoạn đầu thị trường đi vào hoạt động nói chung cũng như của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN nói riêng. Cũng như hầu hết các CTCK ở Việt Nam hiện nay, Công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam đã nghiên cứu và ban hành quy trình nghiệp vụ môi giới riêng cho mình ngay từ buổi đầu đi vào hoạt động và đã đưa phần mềm giao dịch vào hoạt động nhằm hiện đại hóa hệ thống giao dịch.
Công nghệ mua bán chứng khoán cho người đầu tư đạt tổng giá trị giao dịch là 16,19 tỷ đồng tăng 16 lần so với tổng giá trị giao dịch của tháng hoạt động đầu tiên là 1,6 tỷ. So với các CTCK khác giá trị giao dịch tối thiểu tăng 5 lần thì giá trị giao dịch của Công ty được coi là tăng mạnh. Với mức độ gia tăng về giá trị giao dịch như vậy, Công ty chiếm được 5,6% thị phần so với tổng số các CTCK thực hiện nghiệp vụ này. Vào thời điểm 7/2002 thị phần giá trị giao dịch Công ty chỉ đạt là 3%, sau khoảng 8 tháng Công ty đã có thêm 2% thị phần. Đây là kết quả rất khả quan. Sở dĩ giá trị giao dịch tăng nhanh như vậy cũng là do số lượng giao dịch Công ty thực hiện cho khách hàng tăng mạnh, tăng hơn 4 lần so với tháng đầu hoạt động và đạt gần 8% thị phần khối lượng giao dịch. Thị phần về khối lượng giao dịch của Công ty tăng nhanh hơn so với thị phần về giá trị giao dịch của Công ty cho thấy Công ty đã hoạt động tích cực trong việc thực hiện yêu cầu mua bán chứng khoán của khách hàng nhưng giá trị giao dịch còn chưa cao.
Về phí môi giới
Đối với các CTCK được thành lập sớm nhất thì trong mấy tháng đầu hoạt động, dù chiếm thị phần lớn các công ty này cũng chỉ thu được 30- 70 triệu đồng tiền phí giao dịch hàng tháng, một số công ty không thu nổi 10 triệu đồng phí môi giới. Vì thế, Công ty chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam trong tháng đầu hoạt động cũng chỉ thu được 8,3 triệu đồng. Nhưng thêm một CTCK tức là sự cạnh tranh giữa các CTCK càng mạnh mẽ hơn, do đó 4/2002 các CTCK đua nhau giảm phí môi giới để thu hút khách hàng. Công ty Chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, do khối lượng giao dịch của Công ty tăng đều và giá trị giao dịch cũng tăng nên tổng phí môi giới của Công ty vẫn tăng nhưng mức độ không nhanh.
Bảng : Mức phí của một số CTCK trên thị trường hiện nay
Tổng giá trị giao dịch trong ngày (triệu đồng)
Mức phí giao dịch (%)
100 - 200
0,45
200 - 400
0,4
400 - 500
0,35
500 trở lên
0,3
Với mức phí như trên, hầu hết các CTCK đều thu được tổng phí môi giới đáng kể mặc dù vẫn đang trong chính sách thu hút khách hàng là chính chứ chưa tính nhiều đến doanh thu. Cho đến nay tổng phí môi giới của Công ty Chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam tăng gấp 12 lần so với thời gian đầu đi vào hoạt động, chiếm phần lớn trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ mà Công ty đã thực hiện.
2.2.1.2. Tự doanh
Nghiệp vụ tự doanh đã được CTCK đăng ký thực hiện và triển khai ngay từ khi đi vào hoạt động. Các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thông qua việc mua, bán các chứng khoán niêm yết (giao dịch trên thị trường tập trung, mua lô lẻ), cổ phần của công ty không niêm yết, trái phiếu. Công ty chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam cũng đã tổ chức thực hiện nghiệp vụ này nhưng chỉ ở mức độ dự trữ chứ chưa thực sự thực hiện nghiệp vụ này theo đúng bản chất của nó. Tức là Công ty mua một số chứng khoán để phòng ngừa cho những trường hợp như: có sự sai sót trong kỹ thuật nhập lệnh: lệnh mua lại nhập thành lệnh bán hay ngược lại, khi đó không thể nói với khách hàng là do sai sót kỹ thuật được. Vì vậy, Công ty phải chịu lỗ và bù phần chứng khoán mình đã mua bán cho khách hàng để giữ uy tín.
Bảng: Kết quả nghiệp vụ tự doanh của Công ty tại thời điểm 14/10/2003
Đơn vị: đồng
Loại chứng khoán đầu tư
Số lượng
Giá trị thị trường (VNĐ)
I – Cổ phiếu
91.450
1.869.159.000
1- SAM
24.540
449.181.000
2- SAV
16.920
254.320.000
3-GIL
20.000
499.400.000
4-BPC
11.340
183.622.000
5-AGF
18.680
482.636.000
II- Trái phiếu
1.875.660
179.524.568.000
Tổng cộng
1.967.110
181.393.727.000
( Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT VN năm 2003)
Qua bảng cho thấy, giao dịch tự doanh của công ty là rất lớn và chiếm tỉ trọng lớn trong lượng vốn hiện còn dư thừa của Công ty. Tuy nhiên, tỷ lệ tự doanh vào cổ phiếu lại là thấp, chỉ chiếm 1.869.159.000 đồng trong tổng tài sản của Công ty ( chiếm 1,03% trong tổng giá trị tự doanh của Công ty). Mặc dù vậy vẫn chưa thể coi Công ty đã tham gia vào hoạt động tự doanh cổ phiếu là tích cực khi mà tỷ trọng tự doanh vào cổ phiếu của Công ty vẫn chiếm tỷ trọng tương đối so với thị trường (chiếm 18,94%) còn về trái phiếu thì là Công ty được đánh giá là có triển vọng trên toàn thị trường. Đặc biệt, Công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN đã đầu tư vào những trái phiếu chưa được niêm yết. Đây là điểm khác biệt với các CTCK khác chỉ đầu tư vào trái phiếu đã niêm yết vì đây là loại chứng khoán có độ an toàn cao.
2.2.1.3. Bảo lãnh phát hành
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành được các CTCK đăng ký thực hiện nhưng cho tới nay các CTCK mới chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc với khách hàng hoặc nhận làm đại lý phát hành. Công ty Chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam đã tham gia nghiệp vụ này với vai trò làm đại lý phát hành kỳ phiếu cho NHNO&PTNT Việt Nam.
Trong tháng 5/2002, Công ty đã làm đại lý phát hành được 178 tỷ đồng Kỳ phiếu NHNo&PTNT Việt Nam không chính thức qua Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam. Phí đại lý Công ty được hưởng: 888.893.463 đồng. Do hình thức bảo lãnh phát hành hiện nay là cam kết chắc chắn trong khi phí bảo lãnh phát hành không được vượt quá 3% nên Công ty gặp khá nhiều khó khăn khi muốn triển khai nghiệp vụ này. Và trên thị trường lúc đó cũng chỉ có CTCK Bảo Việt là thực hiện nghiệp vụ này qua việc bảo lãnh phát hành trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển với giá trị trên 100 tỷ đồng. Còn lại các CTCK đều giống Công ty NHNo&PTNT Việt Nam nhận làm đại lý phát hành cho một số công ty cổ phần niêm yết và chưa niêm yết.
Trong năm 2003, Công ty đã thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành Trái phiếu Chính phủ cho kho bạc nhà nước Trung ương (5 Hợp đồng) và Quỹ hỗ trợ phát triển (8 Hợp đồng). Công ty đã tham gia 7 đợt đấu thầu Trái phiếu qua Trung tâm giao dịch Chứng khoán, trúng thầu 298,6 tỷ đồng.
Tổng doanh số bảo lãnh phát hành của cả năm 2003 là 1.692 tỷ đồng, đạt 366% so với năm 2002.
Đặc biệt Công ty đã làm Đại lý phát hành được 611,77 tỷ đồng Trái phiếu NHNO&PTNT VN (chiếm gần 40% tổng số phát hành của toàn ngành) vừa tạo công ăn việc làm, góp phần mở ra một kênh huy động vốn mới cho NHNo&PTNT VN đồng thời tạo tiền đề để Công ty triển khai việc Tư vấn niêm yết trái phiếu cho NHNo&PTNT VN.
2.2.1.4. Quản lý danh mục đầu tư.
Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư của Công ty là nghiệp vụ giúp khách hàng quản lý vốn thông qua việc mua, bán và nắm giữ chứng khoán theo tiêu chí vì quyền lợi của khách hàng với phương châm phân tán rủi ro, đảm bảo nguồn doanh lợi.
Để thực hiện nghiệp vụ này, giữa Công ty và khách hàng cần ký hợp đồng trong đó khách hàng ủy thác cho Công ty một số vốn và Công ty sẽ thực hiện quản lý số vốn đó với các điều kiện cụ thể theo yêu cầu của khách hàng (ví dụ về danh mục đầu tư chứng khoán khách hàng lựa chọn hay đơn thuần khách hàng chỉ yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận mà danh mục đầu tư đem lại cho khoản vốn mà khách hàng bỏ ra...). Nghiệp vụ này sẽ đem lại khoản phí quản lý danh mục đầu tư cho Công ty. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này trên thị trường mới chỉ có 4 CTCK là triển khai nghiệp vụ này, đó là BVCS, BSC, IBS, TSC với giá trị ủy thác lên nhiều tỷ đồng, còn lại các CTCK khác chưa thực hiện. Công ty Chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam đã nhận thức đây là nghiệp vụ có thể đem lại niềm tin cho khách hàng nhưng cho đến nay Công ty nhận thấy vẫn chưa có đủ điều kiện để thực hiện nghiệp vụ này.
2.2.1.5. Tư vấn đầu tư.
Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán của Công ty bao gồm các lĩnh vực:
Tư vấn cho tổ chức phát hành: Hoạt động tư vấn cho tổ chức phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tài chính đến đánh giá giá trị doanh nghiệp, tư vấn về các loại chứng khoán phát hành hay giúp đỡ tổ chức phát hành cơ cấu lại tài chính, hỗ trợ các Công ty trong quá trình cổ phần hóa chuyển đổi sở hữu và phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Tư vấn cho khách hàng: Là hoạt động tư vấn cho khách hàng có nhu cầu tham gia TTCK trong việc đưa ra quyết định liên quan tới mua, bán chứng khoán.
Ngoài ra nghiệp vụ tư vấn còn bao gồm việc đưa ra các thông tin phân tích, nhận định (dưới dạng các ấn phẩm sách, báo, bản tin...) của Công ty về diễn biến của thị trường và từng loại chứng khoán.
Để thực hiện nghiệp vụ này, Công ty đã tuyển dụng và đào tạo những chuyên gia phân tích tài chính, phân tích thị trường, đồng thời kết hợp các chuyên gia tín dụng của Ngân hàng mẹ trong việc đánh giá tài chính doanh nghiệp.
Mức phí cho hoạt động tư vấn sẽ được thỏa thuận giữa khách hàng và Công ty. Hiện tại, để thực hiện chính sách tiếp thị Công ty không thu phí đối với hoạt động tư vấn cho khách hàng. Ngoài ra, công ty còn xây dựng các thông tin hướng dẫn cho các khách hàng tham gia giao dịch chứng khoán. Công ty đang triển khai nghiệp vụ tư vấn niêm yết và tư vấn cổ phần hóa. Đây sẽ là nền móng vững chắc để Công ty có thể phát triển nghiệp vụ này trong tương lai. Trên thực tế, hầu hết tất cả các CTCK đều thực hiện nghiệp vụ này chỉ để thu hút khách hàng mà không thu phí, chỉ có 2 công ty BVCS và công ty chứng khoán Sài Gòn là đã thực hiện tư vấn và có thu phí.
2.2.2. Tình hình thực hiện các hoạt động bổ trợ
2.2.2.1. Lưu ký và đăng ký chứng khoán.
Nghiệp vụ lưu ký và đăng ký chứng khoán là nghiệp vụ giúp khách hàng lưu giữ, bảo quản chứng khoán, thực hiện các quyền đối với chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng, cung cấp dịch vụ đăng ký lưu ký chứng khoán ghi nhận quyền sở hữu của khách hàng, kể cả các quyền và nghĩa vụ liên quan bằng hệ thống thông tin lưu giữ trong các tài khoản lưu ký chứng khoán.
Để thực hiện nghiệp vụ này, Công ty đăng ký là thành viên của trung tâm lưu ký và có cán bộ thực hiện công tác lưu ký chứng khoán. Việc lưu ký có thể do khách hàng mang chứng khoán đến Công ty hoặc cán bộ lưu ký nhận chứng khoán tại địa điểm khách hàng yêu cầu. Sau khi nhận lưu ký của khách hàng, Công ty thực hiện tái lưu ký các chứng khoán tại Trung tâm lưu ký để đảm bảo điều kiện giao dịch cho chứng khoán.
Bộ tài chính ban hành các mức biểu phí cho hoạt động lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng do thời gian đầu của TTCK nên các mức phí này đang được thực hiện miễn giảm 100%. Do đó, cũng như các tổ chức lưu ký khác, Công ty không thu phí lưu ký đối với khách hàng.
Công ty lưu ký tất cả các loại cổ phiếu niêm yết cho khách hàng đến giao dịch, đảm bảo an toàn và thực hiện đầy đủ các quyền của người sở hữu chứng khoán.
Bảng: Số lượng chứng khoán lưu ký tại Công ty
Chỉ tiêu
Loại chứng khoán
Số lượng
(Triệu)
% so với tổng số chứng khoán cùng loại lưu ký trên thị trường
Cổ phiếu
1,1
14%
Trái phiếu
1,6
15%
Tổng
2,7
(Nguồn: Số liệu của UBCKNN về chứng khoán lưu ký năm 2002)
Qua bảng ta thấy, bước đầu Công ty đã thực hiện dịch vụ lưu ký này rất tốt. So với tổng số 13.774.620 cổ phiếu và 11.302.140 trái phiếu niêm yết lưu ký tại các CTCK (theo số liệu của UBCKNN) thì số lượng chứng khoán mà công ty thực hiện lưu ký là khá nhiều. Ngoài ra, hiện nay Công ty đang có một số lượng khách hàng lưu ký chứng khoán tiềm năng rất lớn, vì Công ty đang triển khai quản lý dịch vụ cổ đông như là hoạt động phụ trợ cho nghiệp vụ tư vấn niêm yết và tư vấn cổ phần hóa. Do đó, mặc dù Công ty không nhằm mục đích thu phí của nghiệp vụ này nhưng Công ty sẽ có lợi ở chỗ hầu hết các cổ đông của các đơn vị này sẽ lưu ký chứng khoán tại Công ty và tiến hành giao dịch cổ phiếu niêm yết của họ trên TTCK.
2.2.2.2 Phối hợp hoạt động giữa Công ty và NHNo&PTNT Việt nam.
Từ nhu cầu của khách hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của Công ty, Công ty có thể phối hợp với NHNo&PTNT Việt nam và các đơn vị của NHNo&PTNT Việt nam trong việc cung cấp một số dịch vụ tiện ích thuận lợi cho khách hàng của Công ty. Tuy nhiên, cho đến nay những dịch vụ này vẫn chưa thực sự được triển khai do còn nhiều khách hàng chưa biết đến những tiện ích này và cũng do các Công ty còn đang muốn củng cố và phát triển các nghiệp vụ chính trong giai đoạn này. Nhưng trong thời gian tới, khi thị trường phát triển những hoạt động này sẽ giúp Công ty có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn và tăng sức cạnh tranh của Công ty so với các CTCK khác.
* Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán.
Theo quy định về thanh toán bù trừ của TTGDCK, nếu khách hàng bán chứng khoán vào ngày T+0 thì đến tận ngày T+3 họ mới nhận được tiền thông qua Công ty chứng khoán. Nếu thời điểm bán chứng khoán rơi vào giữa hoặc cuối tuần thì họ nhận được tiền sau 5 ngày (do nghỉ 2 ngày cuối tuần).
Do nhu cầu tiền mặt hoặc nhu cầu đầu tư trực tiếp vào chứng khoán khác nên khách hàng rất muốn nhận được tiền ngay sau khi bán được chứng khoán.
Vì vậy, Công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN có thể phối hợp với chi nhánh của Ngân hàng cho khách hàng vay cung ứng trước tiền bán chứng khoán. Sau khi tiền bán chứng khoán của khách hàng được Ngân hàng chỉ định thanh toán chuyển vào tài khoản của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN, Công ty sẽ đứng ra thu tiền hộ tiền vay (cả gốc và lãi) cho NHNo&PTNT VN.
Hình thức cho vay này hầu như không có rủi ro và nếu khách hàng đã bán được chứng khoán (có xác nhận của TTGDCK) thì họ chắc chắn sẽ nhận được tiền.
Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN đóng vai trò trung gian trong quá trình cho vay và thu nợ (thẩm định món vay và thu nợ hộ chi nhánh), chi nhánh NHNo&PTNT VN phê duyệt hồ sơ cho vay và giải ngân.
* Cho người lao động vay tiền mua cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần.
Trong quá trình thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ đã nảy sinh nhu cầu vay vốn để mua cổ phần lần đầu của cán bộ công nhân viên các DNNN cổ phần hóa và hộ nông dân sản xuất, cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp này.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thực hiện chỉ thị của ngân hàng nhà nước, Công ty đề xuất với NHNo&PTNT VN cung cấp các dịch vụ cho người lao động vay tiền mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa. Công ty đóng vai trò đảm bảo tiền vay thông qua việc lưu ký các cổ phiếu của người lao động coi đó như một phương tiện đảm bảo khoản vay và thực hiện việc cập nhật giá trị khoản bảo đảm trên.
* Cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán, thực hiện việc cầm cố chứng khoán.
Trong quá trình tham gia TTCK xuất hiện nhu cầu mua chứng khoán của khách hàng nhưng họ còn thiếu tiền hay khách hàng nắm giữ chứng khoán có nhu cầu tiền nhưng đồng thời họ vẫn muốn lưu giữ những chứng khoán đó để được hưởng những quyền lợi do chứng khoán đem lại (cổ tức, quyền mua chứng khoán mới, quyền bầu cử...)
Khi phối hợp với Công ty, NHNo&PTNT VN (các chi nhánh) có thể cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán hoặc cầm cố chứng khoán của khách hàng. Đây là hoạt động sinh lời vừa an toàn, vừa giúp cho Công ty thu hút khách hàng vì theo quy định của pháp luật Công ty chứng khoán không trực tiếp thực hiện các hoạt động tín dụng.
* Lập đại lý nhận lệnh tại các chi nhánh.
Đại lý nhận lệnh là các pháp nhân kết hợp với Công ty chứng khoán trong việc nhận lệnh giao dịch của khách hàng kinh doanh chứng khoán.
Điều kiện pháp lý: Ngày 29/12/2000 UBCKNN đã ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. Trong đó, tại Điều 9 cho phép các công ty chứng khoán được thành lập đại lý nhận lệnh và quy định các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật và con người trong việc thành lập đại lý nhận lệnh.
Đại lý nhận lệnh cần phải đáp ứng các yêu cầu:
Có thiết bị công bố thông tin về giao dịch cho khách hàng.
Nhân viên nhận lệnh và người có thẩm quyền sơ kiểm lệnh của đại lý phải có chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán và TTCK.
Điều kiện của NHNo&PTNT VN: Tính đến nay, NHNo&PTNT VN có hơn 1400 chi nhánh trải rộng trên địa bàn cả nước. Chính vì vậy, việc xây dựng mạng lưới phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh của Công ty có thể tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật và mạng lưới của NHNo&PTNT VN, không những không tốn kém nhiều về chi phí xây dựng và trang thiết bị ban đầu cũng như chi phí lương cho cán bộ, mà còn đem lại cho cả Công ty và các chi nhánh một khả năng cung cấp dịch vụ có lời và không rủi ro.
Ngược lại, việc xây dựng mạng lưới các đại lý nhận lệnh của Công ty có thêm khả năng cung cấp dịch vụ hưởng phí (hiện tại là 0,5%), đã giúp các chi nhánh và khách hàng của NHNo&PTNT VN tiếp cận TTCK, góp phần thực hiện sứ mệnh chiến lược của NHNo&PTNT VN là phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đồng thời phối hợp với các chi nhánh NHNo&PTNT VN thực hiện chu trình khép kín các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
* Chứng khoán hóa các khoản nợ.
Đối với các doanh nghiệp nợ NHNo&PTNT VN và không có khả năng chi trả, Công ty sẽ phối hợp với NHNo&PTNT VN xúc tiến cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển khoản nợ đọng thành tỷ lệ cổ phần trong doanh nghiệp, niêm yết và phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp trên TTCK nhằm thu hồi được khoản nợ có nguy cơ mất hẳn nói trên.
2.3. Đánh giá tình hình hoạt động của Công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
2.3.1. Những kết quả đạt được
2.3.1.1. Đánh giá về các nghiệp vụ thực hiện
Qua sự phân tích về các nghiệp vụ của công ty ở trên ta thấy dù là CTCK NHNO&PTNT VN được coi là sinh sau đẻ muộn nhưng đã cố gắng triển khai tất cả các nghiệp vụ mình có thể và cũng đã đạt được những kết quả nhất định.
Trong 5 nghiệp vụ chính mà Công ty được phép thực hiện, nghiệp vụ môi giới được Công ty tiến hành nhiều nhất và trở thành hoạt động chủ chốt của Công ty bởi đây là hoạt động ít rủi ro, yêu cầu vốn pháp định không cao và được coi là hiệu quả nhất trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động. Điều đó thể hiện một phần qua sự tăng lên đáng kể của tổng số tài khoản giao dịch được mở, giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch cũng như phí môi giới mà Công ty thu được ngày càng tăng.
Nghiệp vụ tự doanh của Công ty so với thời gian đầu đã có phần cải thiện, thể hiện ở chỗ nếu như trước đây chủ yếu Công ty mua bán lô lẻ, mua bán chứng khoán niêm yết thì nay danh mục đầu tư của Công ty đã được đa dạng hoá hơn. Công ty bắt đầu tham gia giao dịch trái phiếu và cổ phiếu không niêm yết nhiều hơn trước. Doanh thu từ nghiệp vụ này cũng chiếm một tỷ trọng ngày một lớn trong cơ cấu doanh thu. Nhưng cũng phải nói rằng nếu đem so sánh với các CTCK khác trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khó khăn như hiện nay thì hoạt động tự doanh của Công ty đã có kết quả đáng khích lệ vì đã cố gắng tự doanh một cách đa dạng cả cổ phiếu và trái phiếu, bước đầu đã bỏ qua được tâm lý sợ thua lỗ để tham gia tích cực nghiệp vụ này góp phần tăng sức cầu đáng kể cho thị trường, đặc biệt trong các giai đoạn thị trường giảm sức cầu.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của Công ty cũng trong tình trạng chung của các CTCK hiện nay là hầu hết đều chưa triển khai nghiệp vụ này và có triển khai cũng chỉ ở mức độ thấp, tức là chỉ làm đại lý phát hành.
Tuy vậy, với vai trò làm đại lý phát hành kỳ phiếu cho NHNo&PTNT VN, Công ty cũng đã làm rất tốt và đem lại cho Công ty một khoản doanh thu đáng kể. Hơn nữa để tạo ra lượng khách hàng tiềm năng cho nghiệp vụ này, Công ty cũng tích cực xúc tiến những hoạt động tư vấn cho các doanh nghiệp muốn cổ phần hoá hay niêm yết không vì mục đích lợi nhuận, mà chủ yếu là hi vọng họ sẽ trở thành khách hàng của Công ty trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành sau này. Điều này cho thấy Công ty đã ý thức được vai trò của nghiệp vụ này và đã có chính sách lâu dài để phát triển nghiệp vụ này.
Đối với nghiệp vụ tư vấn, nhận thức được đây là nghiệp vụ quan trọng và chủ yếu đối với các CTCK còn non trẻ nên Công ty đã triển khai nghiệp vụ ngay từ những buổi đầu qua nhiều hình thức phong phú. Công ty thực hiện tư vấn cho hai loại đối tượng chủ yếu là tư vấn cho tổ chức phát hành và tư vấn đầu tư cho khách hàng. Trong nghiệp vụ tư vấn Công ty hoạt động chủ yếu về khuyến khích khách hàng trước khi đầu tư, Công ty cố gắng cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích như: Đưa ra các bản tin chứng khoán hàng tuần và thực hiện tư vấn miễn phí. Tư vấn đầu tư là công việc đòi hỏi phải có năng lực phân tích cao, nhạy bén với tình hình thị trường nên Công ty đã chú trọng việc đào tạo những cán bộ giỏi để thực hiện nghiệp vụ này. Các hoạt động bổ trợ khác cũng được công ty thực hiện một cách đa dạng nhằm đem lại lợi ích cho khách hàng.
Nhìn chung, Công ty đã có hướng phát triển tất cả các nghiệp vụ trong tương lai thể hiện ở chỗ Công ty luôn chú trọng những nghiệp vụ có thể hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nghiệp vụ khác phát triển, đồng thời tích cực xây dựng một lượng khách hàng tiềm năng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Công ty khi mở rộng phạm vi hoạt động sau này
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh
Không thể phủ nhận là sau hơn hai năm đi vào hoạt động, những kết quả kinh doanh của Công ty là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những hạn chế mà hầu hết các CTCK trong buổi đầu hoạt động đều gặp phải.
Đối với các hoạt động kinh doanh thì hoạt động môi giới được coi là hoạt động chủ yếu của Công ty, song chưa đủ để khẳng định hoạt động này trong thời gian qua đã đạt được hiệu quả mong muốn. Nhìn chung, nội dung thực hiện môi giới của Công ty chủ yếu vẫn là trung gian thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nếu như ở nước ngoài có sự gắn bó mật thiết giữa môi giới và tư vấn thì ở ta, hàm lượng tư vấn trong hoạt động môi giới còn hết sức hạn chế. Cũng như hầu hết các CTCK, Công ty cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin về tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần không được triển khai thực hiện. Thêm vào đó, các dịch vụ đi kèm như cầm cố chứng khoán và ứng trước t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0366.doc