Lời cảm ơn
Trong thời gian hơn ba tháng thực tập tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban lãnh đạo công ty, đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của các anh chị cán bộ phòng kinh doanh, chính sự giúp đỡ đó đã giúp em hoàn thiện và nắm bắt những kiến thức thực tế về nghiệp vụ cho thuê tài chính nói riêng cũng như nghiệp vụ tín dụng nói chung. Những kiến thức thực tế này sẽ là hành trang ban đầu cho quá trình công t
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện & phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác, làm việc sau này của em. Vì vậy, em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban lãnh đạo công ty, tới toàn thể cán bộ công ty về sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị trong thời gian em thực tập vừa qua. Qua đây, em xin chúc Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ngày càng phát triển, kính chúc các cô chú, các anh chị luôn thành đạt trên các cương vị công tác của mình.
Em cũng xin đặc biệt cảm ơn tình cảm và sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của thầy giáo- TS Phạm Quang Trung. Nhờ sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy, em đã có được những kiến thức quý báu về cách thức nghiên cứu vấn đề cũng như nội dung của chuyên đề. Nhờ đó, mà em có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn tình cảm và sự truyền thụ kiến thức của tập thể giáo viên khoa Ngân hàng- Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân trong suốt quá trình em học tập và nghiên cứu.
Lời nói đầu
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Cộng với sự biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản hàng loạt, những doanh nghiệp ngấp nghé đứng bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, kỹ thuật công nghệ lạc hậu với vốn đầu tư thấp, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, manh mún, chưa tạo lập được cho mình một cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ, vững chắc nhất định để nắm bắt những cơ hội phát triển kinh tế.
Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vốn có đã trở thành giải pháp kịp thời và đúng đắn góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tuy buổi đầu hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam đã có những thành công nhất định song do mơí đi vào hoạt động chưa lâu nên các công ty cho thuê tài chính còn gặp nhiều khó khăn, bất cập...Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động của nó ra sao, tổ chức như thế nào, hoàn thiện và phát triển hoạt động này như thế nào ... đang là những vấn đề cấp bách, cần được quan tâm nghiên cứu.
Trên cơ sở kiến thức được học và nghiên cứu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, nhằm góp phần giải quyết các vấn đề nêu trên, em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về cho thuê tài chính.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương I
Những vấn đề lý luận chung về cho thuê tài chính
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Lịch sử hình thành của hoạt động cho thuê
Cho thuê tài sản là một công vụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước công nguyên tại thành phố Sumenan của người UR. Các thầy tu giữ vai trò cùng cho thuê, người thuê là những nồng dân tự do. Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa,đất ruộng, nói chung bao gồm rất nhiều tài sản rất đa rạng.
Trong nền văn minh cổ đại khác như Hy lạp - La mã hay Ai cập cũng đã xuất hiện các hình thức thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước.
Tuy nhiên các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua kiểu truyền thống (Traditional Lease) Phương thức giao dịch của hình thức này tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng ngàn năm tồn tại cuả nó, đã không có 1 sự thay đổi lớn về tinh chất giao dịch
Phải cho đến thế kỷ 19, hoạt động cho thuê đã có sự giao tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, trài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ 20, giao dịch cho thuê đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa kỳ. Nguyên nhân của sự phát triển này là do hoạt động cho thuê đã có những thay đổi về tính chất của giao dịch. Vào năm 1952, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, một công ty tư nhân của Mỹ là Unitedstates Lrasing Conpration đã sáng tạo ra nghiệpvụ cho thuê trung và dài hạn (Finanial Lease, Capitl Lease). Sau đó nghiệp vụ này đã phát triển sang Châu âu và với tên gọi "Credit Bail". Cũng năm 1960, hợp đồng cho thuê đầu tiên được thảo ra ở Anh có giá trị 18000 bảng Anh.
Bước sang thập niên 70, nghiệp vụ cho thuê tài chính đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cho đến nay, nó đã trở thành hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn có tính an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các bêntham gia và đối với toàn xã hội.Theo một thống kê gần đây cho thấy ngành công nghiệp cho thuê tài chính có giá trịnh trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1996 và 450 tỷ USD vào năm 2000.
Ngày nay, hoạt động cho thuê tài chính đang phát triển rất mạnh mẽ ở các quốc gia đang phát triển và tầm quan trọng của hình thức này ngày càng được khẳng định
1.1.2 Các tiêu chuẩn xác định một giao dịch là cho thuê tài chính.
a. Theo Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC).
Hiện nay phần lớn các nước đưa ra các tiêu chuẩn dựa trên các tiểu chuẩn mà Uỷ ban tiêu chuẩn kế troán quốc tế đã quy định để xác định một giao dịch được gọi là thuê tài chính.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ một giao thuê nào thoả thuận ít nhất là 1 trong 4 tiêu chuẩn đó đều được gọi là thuê tài chính. Bốn tiêu chuẩn đó như sau:
1- Quyền sở hữu tài sản được giao khi hết thời hạn hợp đồng.
2- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua.
3. Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn hoạt động của tài sản.
4. Hiệu giả của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản.
Nguồn: Internationl Accountring Standards Conrittee, IAS 17, 1993/1994, P236.
b. Theo Họiđồng tiêu chuẩn kế toán tài chính Mỹ (FASB)
ở Mỹ hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB) đã quy định 4 tiêu chuẩn như sau:
1. Quyền sở hữu của tài sản thuê được chuyển giao cho người đã thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê
2. Hợp đồng thuê cho phép người được thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê với giá thấp hơn ở thời điểm nào đó hoặc đến khi chấm dứt thời hạn thuê.
3. Thời hạn thuê bằng 75% hoặc cao hơn so với đời sống hoạt động ước tính của tài sản thuê.
4. Hiện giá của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% hoặc hơn so với giá trị tài sản thuê.
c. Theo quyết định 1205 - CT/CĐKT ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
ở Việt Nam, theo quyết định này, một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thoả mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn sau:
1. Chuyển sở hữu tài sản thuê cố định thuê được chuyển giao cho bên đi thuê khi hết hạn hợp đồng.
2. Hợp đồng cho phép bên đi thuê lựa chọn mua tài sản cố định thuê với giá thấp hơn giá trị của tài sản cố định tại một thời điểm nào đó hoặc vào lúc kết thúc hợp đồng.
3. Ký hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4 thời gian hoạt động của tài sản thuê.
4. Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi theo hợp đồng ít nhất bằng 90% giá trị của tài sản cố định thuê.
Cần lưu ý rằng, trong tiêu chuẩn bốn sử dụng cụm từ "giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi" là hoàn toàn tối nghĩa mà thông thường người ta dùng từ giá trị hiện tại và gọi tắt là hiện giá (The present valuc), có nghĩa là 1 khoản tiền trong tương lai được quy đổi về hiện tại được tính theo lãi suất.
Trong trường hợp thuê giá trị tương lai (Future Value) là số tiền mà người đi thuê phải trả theo hợp đồng. Hiện giá của khoản thanh toán tiền thuê được tính theo công thức sau:
f f f
P = ---------- + --------- +... ... + -----------
( 1 + i) (1 + i)1 (1 + i ) n -1
Trong đó:
p- Hiện giá
f- Giá trị tươnglai tức là tiền thuê phải trả mỗi định kỳ
n- Số định kỳ thanh toán tiền thuê.
d. Theo quy định tạm thời về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam ban hành theo Nghị định 64CP của CP ngày 9/10/1997.
Tại điều 1 của quy chế này đã chỉ ra: cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được 2 bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Cũng theo quy chế này, một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn 1 trong những điều kiện sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên.
2. Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê theo giả danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
3. Thời hạn cho thuê 1 loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
4. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hoạt động thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Quốc gia
Tiêu thức
IAS
Hoa kỳ
Anh
Hàn Quốc
Indonexia
Việt nam
- Chuyển giao quyền sở hữu khi ký kết thuê hợp đồng
có
có
có
Không quy định cụ thể
có
- Quyền chọn mua
có
có
Không bắt buộc
Không bắt buộc
có
có
- Quyền huỷ ngang hợp đồng
Không được
Không được
Không được
Không được
Không được
Không được
- Thời hạn thuê tỉnh theo đời sống hữu dụng của tài sản thuê
Phần lớn
³ 15% tối đa không quá 30 năm
Phần lớn
Tài sản ? 5 năm: 60% tài sản Ê 5 năm: 70%
Tài sản có đời sống ³ 2 năm
³ 75%
- Hiện giá của các khoản tiền thuê tối thiểu so với giá trị hợp lý của tài sản thuê
Bằng hoặc lớn hơn
³ 90%
³ 90%
Trả đủ tiền thuê
³ 90%
Bảng 1.1: Bảng thống kê tiêu chuẩn để được coi là giao dịch cho thuê tài chính của một số nước.
1.1.3. Những bên có liên quan trong một giao dịch cho thuê tài chính:
Trong quá trình giao dịch của nghiệp vụ cho thuê trung và dài hạn này thường có sự tham gia rất nhiều chủ thể. Đồng thời giữa các bên có sự liên đới trong nhiều lĩnh vực theo những chức năng và vai trò nhất định.
Thông thường, một giao dịch cho thuê tài chính thường có sự tham gia của các bên sau đây, người cho thuê (công ty Leasing hay nhà chế tạo có trực tiếp cho thuê sản phẩm của họ người thuê (các doanh nghiệp hay thể nhân), người cho vay (ngân hàng hay các chế định tài chính khác), người cung cấp (nhà chế tạo thiết bị hay nhà cung cấp). Sau đây, ta sẽ đi vào xem xét từng đối tượng trên.
a. Người cho thuê (lessor).
Người cho thuê là nhà tài trợ vốn cho người thuê, là người sẽ thanh toán toàn bộ giá trị mua bán thiết bị theo thoả thuận giữa người thuê và nhà cung cấp và là chủ sở hữu tài sản về mặt pháp lý. Trong trường hợp cho thuê tài sản của chính họ thì người cho thuê cũng đồng thời là nhà cung cấp thiết bị.
Theo điều 2 của quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam thì bên cho thuê là Công ty cho thuê tài chính có tư cách pháp nhân, được cấp giấy phép hoạt động theo quy chế này.
Công ty cho thuê tài chính là một loại công ty tài chính, hoạt động chủ yếu là cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác.
Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam bao gồm:
- Công ty cho thuê tài chính do ngân hàng, Công ty tài chính hoặc ngân hàng, công ty tài chính cùng với doanh nghiệp khác của Việt Nam thành lập.
- Công ty cho thuê tài chính liên doanh giữ bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp khác với bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tài chính quốc tế.
- Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài của ngân hàng công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài.
b. Người thuê (Lessee).
Người thuê là khách hàng thuê thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự tài trợ tín dụng của công ty cho thuê tài chính. Người thuê cũng là người có quyền sử dụng, hưởng dụng những lợi ích do tài sản đem lại và có trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thoả thuận.
Theo quy định tại quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam, bên thuê (người thuê) là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê theo mục đích kinh doanh hợp pháp của mình, hiện nay bên thuê bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân (sau đây gọi chung là doanh nghiệp).
c. Nhà cung cấp hay nhà chế tạo (Manufacturer or Supplier).
Nhà cung cấp là người cung cấp tài sản, thiết bị theo thoả thuận với người thuê và các điều khoản mua bán thiết bị đã ký kết với người cho thuê.
d. Người cho vay (lender).
Người cho vay là một định chế tài chính hay là 1 người nào đó cho người cho thuê vay một phần của khoản tiền mua sắm thiết bị để cho thuê.
1.1.4. Những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới hoạt động cho thuê.
a. Môi trường luật pháp:
- Hệ thống luật pháp: Là những văn bản luật chi phối cho hoạt động cho thuê và các hoạt động có liên quan, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên trong hoạt động cho thuê. Những văn bản này tạo ra môi trường pháp lý để các giao dịch cho thuê hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
- Các cơ quan quản lý nhà nước:
Là các cơ quan công quyền như Ngân hàng nhà nước, cơ quan công chứng, Toà án, cơ quan thuế. Những cơ quan này có trách nhiệm giám sát và kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời công nhận tính hợp pháp của giao dịch cho thuê, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và xét xử, giải quyết các tranh chấp.
Hoạt động cho thuê cũng như hoạt động tín dụng khác rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường pháp lý. Do đó, môi trường pháp lý vừa có tác dụng thúc đẩy hoạt động cho thuê, nhưng đồng thời chính nó cũng có thể là nguyên nhân ngăn cản sự phát triển của hoạt động này. Do vậy, nó có tính hai mặt, bởi vậy sau khi công ty tài chính quốc tế (IFC) nghiên cứu cơ sở pháp lý đưa đến thành công của dịch vụ cho thuê ở một số nước đã rút ra một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc sau:
+ Pháp luật về hợp đồng kinh tế và sở hữu tài sản:
Hệ thống luật pháp của nước đó phải định nghĩa rõ ràng về bản chất các giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người thuê và người cho thuê. Đưa ra các phương thức cho thuê cũng là điều cần thiết. Hơn nữa, cần phan biệt rõ ràng giữa cho thuê với các giao dịch thương mại và các hình thức tín dụng khác để tránh cho hoạt động này phải tuân thủ những điều khoản bất lợi trong luật pháp điều chỉnh các hoạt động đó.
+ Pháp luật về thuế:
Luật thuế phải có các tham chiểu và các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ thuế và ưu đãi thuế đối với cả người thuê và người cho thuê. Điều này giúp người thuê xác định được chi phí so với việc vay vốn ngân hàng để mua tài sản. Về phía người cho thuê, chi phí của họ phải được ưu đãi tương đối mới có thể thúc đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này.
+ Pháp luật về khuyến khích đầu tư:
Hoạt động của công ty cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước nên luật khuyến khích đầu tư nên áp dụng cho hoạt động này. Luật phải thể hiện thái độ bình đẳng đối với việc mua máy móc, thiết bị và thuê máy móc thiết bị.
+ Pháp luật về công ty cho thuê:
Thông thường trong giai đoạn đầu thì chỉ có việc công ty tài chính và ngân hàng mới được thực hiện nghiệp vụ cho thuê. Công ty cho thuê nên là công ty độc lập hay phụ thuộc, địa vị pháp lý của nó ra sao? ngoài ra là các quy định cụ thể về hoạt động cụ thể của các công ty này.
Môi trường luật pháp là nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động cho thuê. Những thay đổi về mặt pháp lý như sửa đổi quy định và hợp đồng, luật thuê, các quy định về khấu hao v.v... có thể dẫn tới phá vỡ hợp đồng hoặc đem lại sự thua lỗ cho người cho thuê và cả người thuê.
b. Môi trường kinh tế:
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Hoạt động tín dụng gắn liền với môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, sự tăng trưởng kinh tế... Một thay đổi nhỏ của môi trường kinh tế vĩ mô có thể dẫn tới những thay đổi rất lớn trong ngành công nghiệp cho thuê tài sản.
- Môi trường kinh tế vi mô: Tác động chủ yếu của môi trường kinh tế vi mô là sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp cho thuê tài sản. ở mức độ phát triển cao, hoạt động cho thuê tài sản chịu sự cạnh tranh rất lớn, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh với các hình thức tài trợ khác. Tại nhiều nước phát triển, vào những năm mới thập kỷ 80, để duy trì khối lượng kinh doanh lớn và khả năng cạnh tranh, nhiều công ty cho thuê đã tiến hành các giao dịch cho thuê với mức lãi suất phi thực tế và những rủi ro tín dụng rất cao v.v.. dẫn đến hậu quả là vào những năm đầu của thập kỷ 90, nhiều công ty đã rơi vào tình trạng phá sản.
Những rủi ro đối với hoạt động cho thuê liên quan đến môi trường kinh tế thường xuyên xảy ra. Có thể kể tới như:
+ Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại: Do tình hình biến động xấu của nền kinh tế dẫn tới đình trệ sản xuất và làm giảm nhu cầu thuê thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất.
+ Rủi ro do thay đổi tỷ giá (Exchange rate risk): Do sự thay đổi tỷ giá hối đoái theo hưởng bất lợi cho người cho thuê (người thuê) đối với loại thiết bị nhập khẩu hay cho thuê quốc tế.
+ Rủi ro do thay đổi lãi suất (Interest rate risk): Do sự biến động lãi suất trên thị trường vốn dẫn đến có sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê (hay người thuê).
c. Môi trường kỹ thuật công nghệ:
Một số hình thức giao dịch cho thuê chuyên biệt tương đối nhạy cảm với những thay đổi trong giá cả và tính năng kỹ thuật của tài sản cho thuê (máy tính, phương tiện giao thông v.v...). Trong hoạt động cho thuê, tài sản cho thuê thường được cung cấp thông qua nhà chế tạo hay nhà cung cấp. Vì thế, để đảm bảo cho một giao dịch cho thuê diễn ra thuận lợi, cả người cho thuê và người đi thuê cần phải có những kiến thức nhất định về đặc điểm kỹ thuật, công nghệ, giá cả của tài sản cho thuê.
Những rủi ro đối với hoạt động cho thuê liên quan tới môi trường kỹ thuật - công nghệ có thể kể tới như:
- Tài sản cho thuê được thu hồi không thể cho thuê tiếp hay bán chúng.
+ Tài sản tồn tại những khuyết tật tiềm ẩn.
+ Tài sản đã lỗi thời, không thể tái chế nâng cấp.
+ Tài sản bị hư hỏng, mất phẩm chất.
- Tài sản do nhà cung cấp giao cho người thuê không đúng theo hợp đồng, là tài sản không được phép kinh doanh.
Nhìn chung, những rủi ro liên quan đến tài sản thuê diễn ra rất đa dạng, đòi hỏi cả người cho thuê và người thuê cần nghiên cứu, đánh giá chính xác để có biện pháp phòng ngừa, hạn chế.
1.2. Các phương thức cho thuê tài chính:
1.2.1. Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên (hợp đồng cho thuê trực tiếp).
Theo phương thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng.
Phương thức tài trợ này thường do các công ty kinh doanh bất động sản và công ty sản xuất máy móc, thiết bị thực hiện, như các nhà đầu tư xây dựng cao ốc văn phòng, các chung cư, sau đó ký các hợp đồng cho thuê với khách hàng. Các tổ chức tài chính rất ít áp dụng phương thức tài trợ này.
Hình thức tài trợ này có những đặc điểm căn bản sau:
- Hàng hoá thường là những loại tài sản có giá trị không quá lớn và thuộc các loại máy móc thiết bị.
- Chỉ có 2 bên tham gia trực tiếp vào giao dịch: Người cho thuê và người thuê.
- Vốn tài trợ hoàn toàn do người cho thuê đảm nhiệm.
- Người cho thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu.
Phương thức tài trợ này có sự tham gia của 2 bên được thực hiện như sau:
Sơ đồ 1: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên
(2a)
Người đi thuê
Người cho thuê
(1)
(2b)
(3)
(1) Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
(2a) Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi thuê.
(2b) Người cho thuê giao tài sản cho người đi thuê.
(3) Theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê cho người cho thuê.
Ngoài những đặc điểm chung của phương thức cho thuê, loại hợp đồng này còn có những đặc điểm chính như sau:
Ngoài những đặc điểm chung của phương thức cho thuê, loại hợp đồng này còn có những đặc điểm chính như sau:
Người cho thuê
Người thuê
1. Sử dụng các loại máy móc, thiết bị của chính họ để cho thuê
1. Thuê máy móc, thiết bị từ người có tài sản đó
2. Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ
2. Ký kết với nhà cung cấp 1 phụ kiện hợp đồng về cung cấp
3. Cung cấp các loại phụ tùng và dịch vụ bảo tín cùng với thiết bị theo một hợp đồng phụ.
3. Trả tiền thuê theo định kỳ và trả tiền phụ tùng và dịch vụ
4. Nhận các khoảng tiền thuê những khoản tiền dịch vụ thu hợp đồng phụ
4. Bán lại thiết bị khu chúng bị lạc hậu và nhận thuê thiết bị mới
5. Nhận lại tài sản đã lỗi thời và cung cấp thiết bị thay thế.
1.2.2. Cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên:
Theo hình thức này, người thuê sẽ thoả thuận với nhà cung ứng về các điều khoản mua tài sản mình có nhu cầu và sau đó người cho thuê sẽ tiến hành mua tài sản để cho người cho thuê thuê. Hình thức này thường được các công ty cho thuê tài chính sử dụng để tài trợ cho các doanh nghiệp. Rõ ràng, theo phương thức này, người cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu của người đi thuê và đã được hai bên thoả thuận theo hợp đồng thuê. Quy trình tài trợ có sự tham gia của ba bên, bao gồm: Người cho thuê, người đi thuê và người cung cấp.
Sơ đồ 3: Tài trợ cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên:
Người cho thuê
( Lessor)
2c 2a 1b 1a 2d 3
Người đi thuê
( Lessee)
Người cung cấp
(Supplier)
1c
2b
1a. Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê tài sản.
1b. Người cho thuê và người cung cấp ký hợp đồng mua tài sản.
1c. Người cung cấp và người đi thuê ký hợp đồng bảo hành bảo dưỡng 9có thể người cho thuê ký với người cung cấp về việc bảo hành và bảo dưỡng cho người đi thuê).
2a. Người cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho người cho thuê.
2b. Người cung cấp chuyển giao tài sản cho người đi thuê.
2c. Người cho thuê thanh toán tiền mua tài sản.
2d. Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi thuê.
3. Theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê cho người cho thuê.
Phương thức tài trợ có sự tham gia của ba bên còn được gọi là phương thức thuê mua thuần (net lease) là phương thức cho thuê tài chính được áp dụng phổ biến nhất, vì có các ưu điểm sau:
- Người cho thuê không phải mua tài sản trước và như vậy sẽ làm cho vòng quay của vốn nhanh hơn vì không phải dự trữ hàng tồn kho.
- Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa người cung cấp và người đi thuê và giữa họ cũng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt động của tài sản, cũng như thực hiện việc bảo hành và bảo dưỡng tài sản. Như vậy người cho thuê có thể trút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản.
- Người cho thuê không trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho người đi thuê và như vậy sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận hàng của người đi thuê, vì do có sự nhầm lẫn về mặt kỹ thuật.
Xuất phát từ các ưu điểm trên đây mà các ngân hàng và các tổ chức tài chính đã áp dụng chủ yếu phương thức này để tài trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt đối với cho thuê thiết bị. Trên thế giới 80% hợp đồng cho thuê tài chính áp dụng theo phương thức này.
* Các phương thức tài trợ cho thuê tài chính đặc biệt.
1.2.3. Tái cho thuê (lease back):
Tái cho thuê hay còn gọi là bán và thuê lại (Sale and lease back) là một dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có sự tham gia của hai bên. Trong hoạt động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng. Trong trường hợp đó họ buộc phải bán lại một phần tài sản cố định cho ngân hàng hoặc công ty tài chính, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng và như vậy sẽ có thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Đôi lúc ngâ hàng cũng áp dụng phương thức tài trợ này như là 1 biện pháp giải quyết nợ quá hạn mà không cần phải dùng đến biện pháp thanh lý tức là đề nghị tuyên bố phá sản doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng khó khăn tài chính. Cần lưu ý rằng khu dùng phương thức này như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn ngân hàng còn kèm theo các biện pháp như kiểm soát các khoản thu, khuyến cáo về việc bán các tài sản chưa cần dùng, tham gia vào quản trị doanh nghiệp.
Phương thức tái cho thuê áp dụng trong hai trường hợp trên đây là sự chuyển hoá từ cho vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn. Nhưng tại sao ngân hàng lại chấp nhận tài trợ trung và dài hạn hơn là cho vay ngắn hạn? vì cho thuê tài chính là kỹ thuật cấp tín dụng ít rủi ro, do đó ngân hàng có thể sử dụng nó để thay thế cho vay ngắn hạn khi mà không còn cách nào khác để giúp cho xí nghiệp có thể giải quyết được khó khăn về tài chính. Nếu không giải quyết bằng cách này doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng phá sản và trong trường hợp đó ngân hàng có thể bị thiệt hại lớn hơn.
Sơ đồ 3: Tái cho thuê.
2a
2b
Người đi thuê
( doanh nghiệp)
Người cho thuê ( NH hoặc công ty tài chính )
1a
1b
2c
3
1a) Người cho thuê (ngân hàng hoặc công ty tài chính) ký hợp đồng mua tài sản của doanh nghiệp).
1b) Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
2a) Doanh nghiệp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho ngân hàng.
2b) Ngân hàng lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho doanh nghiệp được phép sử dụng tài sản.
2c) Ngân hàng trả tiền mua tài sản cho doanh nghiệp là biện pháp giải quyết nợ quá hạn thì khoản thanh toán này được thu hồi khoản nợ quá hạn.
3. Theo định kỳ doanh nghiệp thanh toán tiền thuê cho ngân hàng.
1.2.4. Hợp đồng cho thuê thực hiện kết (Syndicate Leases):
Hợp đồng cho thuê liên kết là loại hợp đồng gồm nhiều bên tài trợ cho một người thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính của các nhà tài trợ. Trong trường hợp tài sản có giá trị lớn, nhièu định chế tài chính hay các nhà chế tạo cùng nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều ngang. Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hay các nhà chế tạo lớn giao tài sản của họ cho chi nhánh của họ thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết theo chiều dọc. Các bước và đặc điểm trong giao dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có khác biệt lớn so với phương thức cho thuê điển hình.
Sơ đồ 4: Hợp đồng cho thuê liên kết.
Quyền sở hữu tài sản
Người thuê
Các định chế tài chính
Các nhà chế tạo
Tiền thuê
Các chi nhánh
Các mối quan hệ tương tự thuê mua tài chính
Người cho thuê
Người thuê
1. Có thể là sự liên kết giữa các định chế tài chính và các nhà sản xuất hay giữa công ty mẹ và các chi nhánh
1. Là một doanh nghiệp nhận tài sản thuê
2. Các loại tài sản dùng trong giao dịch thường là những loại có giá trị cao
2. Thực hiện các nghĩa vụ trả tiền thuê, bảo quản tài sản, chịu rủi ro, mua bảo hiểm... như trong phương thức cho thuê
3. Các công ty con chuyên doanh cho thuê có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu trong từng lĩnh vực công nghệ hay loại thiết bị cụ thể
4. Các đặc điểm khác tương tự phương thức cho thuể.
1.2.5. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:
Đây là hình thức đặc biệt của phương thức cho thuê tài chính, chỉ mới được phổ biến trong thời gian gần đây, xuất phát từ thực tế là các công ty Leasing có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tự tài trợ cho khách hàng.
Theo thể thức cho thuê này, người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay nhiều người cho vay nào đó. Theo luật pháp của 1 số quốc gia khoản tiền vay này không được vượt quá 80% tăng giá trị tài sản tài trợ. Vật thế chấp cho khoản vay này là quyền sở hữu tài sản cho thuê và các khoản tiền thuê mà người thuê sẽ trả trong tương lai. Hình thức cho thuê này đem lại lợi nhuận và mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn của người cho thuê.
Sơ đồ 5: Thoả thuận cho thuê bắc cầu:
Người cho vay
Tiền cho vay
Tiền trả nợ
Người thuê
Người cho thuê
Tài sản
Tiền thuê
Người cho vay
Người cho thuê
Người thuê
1. Cấp tín dụng trung và dài hạn cho người cho thuê
1. Sở hữu tài sản cho thuê và nhận được sự miễn giảm thuế
1. Trả tiền thuê tài sản cho người cho thuê
2. Nhận tiền trả nợ vay bằng tiền thuê do người thuê trả theo yêu cầu của người cho thuê
2. Mượn đối ứng bằng phần lớn giá trị tài sản và bảo đảm khoản nợ vay bằng cả tài sản cùng với các khoản tiền cho thuê tài sản đó
2. Ngoài ra không có sự khác biệt so với một giao dịch cho thuê điển hình.
3. Khoản cho vay được bảo đảm bằng tài sản và tiền thuê
3. Trả nợ bằng tiền thuê tài sản. Phần tiền thuê vượt số tiền vay được giữ lại
Hình thức cho thuê này thường được sử dụng trong những giao dịch cho thuê đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, chẳng hạn cho thuê một máy bay thương mại hay một tàu chở hàng hoặc 1 tổ hợp chuyên ngành lớn v.v..
VD: Trong thời gian qua Tổng công ty hàng không Việt Nam đã thực hiện một số hợp đồng theo phươ._.ng thức cho thuê này với các tổ chức tài chính nước ngoài. Năm 1989 hãng hàng không Việt Nam đã thuê mua hai máy bay hành khách ATR 72 với giá 20 triệu USD của Công ty Stook Leasing LTD và công ty này lại được 4 ngân hàng của Pháp cho vay để thực hiện hợp đồng thuê này với hãng hàng không Việt Nam.
Cần chú ý rằng trong hình thức cho thuê này, vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ, người cho thuê vẫn đóng vai trò chủ sở hữu tài sản cho thuê và thông thường người cho thuê phải thế chấp chính tài sản mà họ đã cho thuê cho người cho vay. Hình thức thế chấp tài sản cho thuê này sẽ làm giảm nhẹ rủi ro cho người cho vay.
1.2.6. Cho thuê giáp lưng (Under lease):
Mặc dù phương thức cho thuê có thể tài trợ được cho cả nhưng doanh nghiệp mà ngân hàng hoặc công ty tài chính chưa có độ tin tưởng cao, nhưng không có nghĩa là tài trợ cho bất cứ ai. Vì vậy trong nhiều trường hợp người cần tài sản muốn đi thuê nhưng không thể thực hiện trực tiếp từ những người cho thuê chuyên nghiệp. Lý do có thể rất nhiều, có thể là người đó đã không thực hiện những hợp đồng kinh tế trong quá khứ (hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng thu mua), có thể là hoạt động yếu kém theo cách đánh giá của các tổ chức tài chính hoặc đơn giản là vì doanh nghiệp đó chưa có được người cho thuê biết đến, như những công ty cho thuê nước ngoài họ chỉ chấp nhận tài trợ cho những công ty lớn của Việt Nam. Trong những trường hợp như thế đòi hỏi phải áp dụng phương thức cho thuê giáp lưng.
Cho thuê giáp lưng là phương thức mà trong đó, thông qua sự đồng ý của người cho thuê, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài sản đó. Trên thực tế thực chất người đi thuê thứ nhất chỉ là người trung gian giữa người cho thuê và người đi thuê thứ hai, nhưng về mặt pháp lý thì người đi thuê thứ nhất phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng với người cho thuê. Với phương thức cho thuê này, mặc dù doanh nghiệp không đủ điều kiện để trực tiếp thuê mua với người cho thuê, vẫn có thể thuê được tài sản để sử dụng cho sản xuất kinh doanh.
Sơ đồ 6: Cho thuê giáp lưng.
Người cho thuê
3b 1a 2
Người đi thuê II
Người đi thuê I
3a
1b
1a) Người cho thuê và 1 người đi thuê I ký hợp đồng thuê mua.
1b) Người đi thuê thứ I và người đi thuê thứ II ký hợp đồng thuê mua.
2. Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người đi thuê thứ II.
3a) Người đi thuê thứ II trả tiền thuê cho người thuê thứ I.
3b) Người đi thuê thứ I trả tiền thuê cho người thuê.
Cần lưu ý rằng tiền thuê mà người đi thuê thứ hai phải trả thường cao hơn tiền thuê mà người đi thuê thứ nhất trả cho người cho thuê. Phần chênh lệch giữa hai khoản tiền thuê đó người đi thuê thứ I được hưởng, coi như là hoa hồng trách nhiệm. Ngoài ra, thê giáp lưng cũng áp dụng trong trường hợp người đi thuê thứ I đã thuê tài sản và sử dụng tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì có thể cho người khác thuê lại với sự đồng ý của người cho thuê.
1.3. Phân biệt cho thuê tài chính với thuê vận hành, tín dụng ngân hàng và mua trả góp.
1.3.1. Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành:
Cho thuê tài chính và cho thuê vận hàng đều là các hình thức của hoạt động cho thuê tài sản. Hai hình thức này đều nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu về máy móc, thiết bị mà không cần bên thuê phải bỏ ra toàn bộ số tiền mua ngay lập tức. Nhưng xét về bản chất hai hình thức cho thuê tài sản này có sự khác biệt rõ ràng.
- Thời gian cho thuê vận hành thường rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu ích của tài sản và khi người thuê muốn chấm dứt hợp đồng thuê, họ chỉ cần báo trước với người cho thuê. Trong khi đó, thời gian cho thuê tài chính chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản thuê đồng thời hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không được huỷ ngang.
- Phí thuê vận hành thường lớn hơn phí thuê tài chính do trong thuê vận hành người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành, chi phí về rủi ro liên quan đến tài sản mà không phải do bên thuê gây ra.
- Đối với cho thuê vận hành thông thường người đi thuê chỉ được lựa chọn tài sản thuê trên cơ sở những tài sản mà bên cho thuê có sẵn. Nhưng đối với cho thuê tài chính, người thuê có thể tự ý mình lựa chọn những tài sản thuê theo nhu cầu của mình rồi sau đó thoả thuận với người cho thuê.
-Theo hình thức cho thuê vận hành, tài sản thuê không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà được ghi như một khoản chi phí bình thường khác. Trong hợp đồng cho thuê vận hành không quy định về chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi kết thúc thời hạn thuê nó không phải là một giải pháp tài trợ cho việc mua tài sản trong tương lai. Do vậy thuê vận hành không được coi là hình thức tài trợ tín dụng cho các doanh nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất. Nhưng đối với cho thuê tài chính trong hợp đồng quy định khi kết thúc thời hạn theo giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận đủ dự liệu trước trong hợp đồng hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hay làm đại lý bán tài sản đó theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Cho nên, cho thuê tài chính đã trở thành một hình thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy cho thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn được công nghệ mà mình mong muốn, để từ đó nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành.
Cho thuê tài chính
Cho thuê vận hành
1. Thời hạn thuê:
Cho thuê tài chính có thời hạn dài so với thời gian hữu dụng của tài sản, thông thường bằng 2/3 thời gian hữu dụng của tài sản.
- Thời hạn cho thuê ngắn chiếm 1 tỷ lệ nhỏ so với thời gian hữu dụng của tài sản.
2. Mức thu hồi vốn của một hợp đồng thuê:
- Thông thường mức vốn gốc được thu hồi gần bằng với giá trị tài sản (tổng số tiền tài trợ), đặc biệt đối với thuê động sản.
- Mức vốn được thu hồi nhỏ hơn nhiều so với giá trị tài sản.
3. Sự huỷ ngang:
- Hợp đồng thuê tài chính thường không được phép huỷ ngang.
- Hợp đồng thuê vận hành có thể được phép huỷ ngang
4. Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo hiểm và đóng thuế tài sản
- Người đi thuê phải thanh toán tiền bảo dưỡng, đóng bảo hiểm và thuế tài sản
- Người cho thuê thanh toán tiền bảo hiểm, bảo dưỡng và thuế tài sản
5. Chuyển quyền sở hữu hoặc bán tài sản:
- Trong hợp đồng cho thuê tài chính hai bên có thể thoả thuận sẽ chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc bán lại tài sản sau khi kết thúc hợp đồng.
- Không có thoả thuận chuyển quyền sở hữu hoặc bán lại tài sản trong hợp đồng thuê thông thường.
6. Trách nhiệm về rủi ro liên quan đến tài sản:
- Người đi thuê chịu phần lớn các rủi ro, kể cả những rủi ro không phải do mình gây ra.
- Người cho thuê chịu phần lớn rủi ro chỉ trừ những rủi ro do lỗi của người đi thuê gây ra.
7. Cung ứng tài sản thuê:
- Tài sản thuê thường do người thuê đặt hàng, giao nhận và sử dụng.
- Tài sản thuê thường do người cho thuê cung ứng.
Những điểm khác biệt trên đây thực chất là khác biệt mang tính phổ biến của hai phương thức cho thuê nói trên. Tuy nhiên, trong đời sống thực tế, người ra có thể vận dụng hết sức linh hoạt và đa dạng. Điều đó phụ thuộc vào các điều kiện chủ quan và khách quan của các chủ thể tham gia vào các giao dịch thuê tài sản. Chính vì vậy, đôi lúc cũng khó phân biệt được 1 giao dịch, gọi là thuê thông thường hay thuê tài chính, hay nói cách khác ranh giới giữa chúng cũng không ít trường hợp mập mờ.
1.2.3. Phân biệt cho thuê tài chính với tín dụng ngân hàng:
Thực chất cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn nhưng so với hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng cho thuê tài chính vẫn mang những điểm khác biệt.
- Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp trực tiếp bằng tiền và doanh nghiệp sẽ sử dụng số tiền đó để mua máy móc thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất của mình. Nhưng đối với cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho doanh nghiệp vằng các tài sản như máy móc, thiết bị...
Như vậy, so với tài trợ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, cho thuê tài chính đảm bảo cho bên tài trợ là khoản tiền đã bỏ ra được sử dụng đúng mục đích.
- Phí cho thuê đối với hoạt động cho thuê tài chính thường cao hơn so với lãi suất cho vay trung và dài hạn do phí cho thuê được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với chi phí phát sinh đối với tài sản và chi phí quản lý của công ty cho thuê tài chính.
- Trong giao dịch cho thuê tài chính, ngoài sự tham gia của bên thuê và bên cho thuê còn có sự tham gia của nhà cung cấp, người cho vay v.v.. còn đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng chỉ có sự tham gia của hai bên là người vay và ngân hàng.
- Ngoài ra, hoạt động cho thuê tài chính đảm bảo an toàn đối với nhà tài trợ so với tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Trong tín dụng ngân hàng, khi người đi vay đã được ngân hàng cho vay thì ngân hàng thường rất khó kiểm soát việc sử dụng tiền vay nếu như họ không đủ tinh thần trách nhiệm hay dự án của họ gặp khó khăn. Nhưng trong cho thuê tài chính, thì bên cho thuê giữ quyền sở hữu đối với tài sản thuê nên khi bên thuê có những biểu hiện vi phạm hợp đồng như không thanh toán tiền thuê, hoặc có dấu hiệu thua lỗ, giải thể thì bên cho thuê có thể thu hồi tài sản cho thuê về ngay lập tức.
Như vậy, hoạt động cho thuê tài chính có ưu điểm hơn so với tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Nó giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn trung và dài hạn đồng thời nó có độ an toàn hơn xét trên phương diện nhà tài trợ.
Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và tín dụng ngân hàng
Tiêu thức
Thuê tài chính
Vay vốn trung, dài hạn của ngân hàng
- Hình thức tài trợ
Bằng hiện vật
Bằng tiền
- Đối tượng
Các loại động sản
Động sản và bất động sản
- Quyền sở hữu
Do bên cho thuê chiếm giữ cho đến khi quyền mua của bên thuê được thực hiện
Bên đi vay chiếm giữ ngay từ đầu
1.3.3. Phân biệt cho thuê tài chính và hình thức bán hàng trả góp:
Mua (bán) hàng trả góp là một hình thức mua (bán) hàng trong đó người mua tiến hành trả tiền mua hàng trong một khoảng thời gian từ 1 đến 5 năm, được áp dụng đối với trường hợp người mua có thế chấp và cả không có thế chấp.
Khi một doanh nghiệp mua tài sản theo hình thức này, họ sẽ tiến hành thiết lập hợp đồng với chủ tài sản - là nhà chế tạo hay định chế tài chính. Thoả thuận này cho phép công ty thanh toán tiền mua thiết bị làm nhiều kỳ, vào những thời điểm được ấn định trước và mỗi lần trả 1 phần giá trị của tài sản cùng tiền lãi. Nếu công ty tuân thủ hoàn tất các điều khoản của hợp đồng thì vào thời điểm kết thúc, chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sở hữu cho người mua.
Thông thường, khi hợp đồng có hiệu lực người mua phải trả ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25% đến 30% giá trị của tài sản, phần còn lại sẽ trả góp theo quy định.
Hình thức tài trợ này có nguồn gốc từ những biện pháp khuyến mại của các công ty chế tạo lớn nhằm đẩy mạnh việc bán sản phẩm của họ. Trong giai đoạn đầu, người bán thường giao quyền sở hữu tài sản cho người mua ngay khi hợp đồng có hiệu lực. Nhưng biện pháp này đem lại cho người bán quá nhiều rủi ro, nên sau này người bán thường giữ lại quyền sở hữu đối với thiết bị, thay vì nhân vật thế chấp của người mua và hình thức bán trả góp trở thành khá tương đồng với thuê tài chính.
Sơ đồ 6: Phương thức giao dịch mua (bán) hàng trả góp
HĐ mua trả góp
Người mua
Người bán
Tiền trả góp
Quyền sử dụng tài sản
Tiền mua tài sản
Quyền sở hữu tài sản
Mua (bán) trả góp thường được các cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán v.v...) và các tổ chức tài chính quốc tế coi như một hình thức cho thuê tài sản, mặc dầu trong thời kỳ mới xuất hiện nó chính là một hình thức của tín dụng thương mại. Sở dĩ có tình trạng này là do trong số thập kỷ gần đây hình thức bán hàng trả góp đã được các nhà chế tạo phát triển thành một hình thức tài trợ thông qua tài sản hiện vật và nó cũng được các tổ chức tín dụng, các nhà kinh doanh cho thuê sử dụng như một hình thức tài trợ. Mặt khác, về tính chất giao dịch, nó không còn sự khác biệt lớn so với cho thuê, mà chỉ có điều khoản chuyển giao quyền sở hữu tài sản ở thời điểm kết thúc hợp đồng là điểm khác biệt so với một số hợp đồng cho thuê.
Bảng 1.4: Sự khác nhau giữa CTTC và mua( bán) hàng trả góp
Tiêu thức
Cho thuê tài chính
Mua (bán) hàng trả góp
1. Chủ thể tài trợ
Công ty cho thuê
Nhà cung cấp
2. Thời hạn hợp đồng
Trung và dài hạn
Ngắn hạn và trung hạn (trung bình từ 1 đến 5 năm)
3. Tỷ lệ tài trợ trên giá trị của tài sản
Công ty cho thuê thường là tài trợ 100% giá trị của tài sản
Nhà cung cấp chỉ tài trợ một phần giá trị của tài sản, phần còn lại người mua phải thanh toán ngay khi ký hợp đồng mua tài sản
4. Giá trị còn lại của tài sản
Có thể chuyển giao cho người thuê khi hợp đồng hết hạn
Chuyển giao cho người mua khi kết thúc hợp đồng
5. Quyền sở hữu tài sản
Thuộc về người cho thuê và có thể được chuyển giao cho người thuê
Có thể thuộc về người mua ngay khi ký kết hợp đồng
.
1.4. Lợi ích của hoạt động cho thuê tài chính:
1.4.1. Lợi ích đối với nền kinh tế:
a. Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Do tính chất của hoạt động cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành phần kinh tế cá nhân và các tổ chức tài chính đầu tư vốn để kinh doanh cho nên hoạt động cho thuê tài chính đã thu hút được những nguồn vốn trong nội bộ nền kinh tế.
Mặt khác, cho thuê tài chính còn góp phần giúp các quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế thông qua các loại máy móc thiết bị cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài này không làm tăng các khoản nợ nước ngoài của quốc gia nhận viện trợ. Điều này giúp cho quốc gia giảm bớt khó khăn trong việc xét cho vay của các tổ chức tài chính quốc tế.
Đối với các quốc gia đang phát triển, việc tích luỹ vốn cho đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân do các doanh nghiệp đều thuộc loại vừa và nhỏ, thu nhập quốc dân thấp, hiệu quả của nền kinh tế thấp. Do vậy cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn quốc tế giúp cho các doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất gia tăng công suất, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
b. Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật.
Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc thiết bị các trình độ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư.
Đối với nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Pháp.. cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
Đối với các quốc gia đang phát triển thì nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều. Nhất là trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay, việc đầu tư công nghệ phải kịp thời nhanh chóng. Nếu có chính sách đúng đắn, hoạt động cho thuê tài chính có thể đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng, ở các nước đang phát triển, trong tình trạng thiếu thông tin, trình độ quản lý yếu, trình độ đánh giá về kỹ thuật yếu, luật pháp không rõ ràng có thể dẫn đến việc chuyển giao những công nghệ, lỗi thời, gây ô nhiễm môi trường, hao tốn nguyên vật liệu, sử dụng nhiều lao động, điều kiện an toàn không đảm bảo, sản xuất ra sản phẩm chất lượng kém. Khi đó hoạt động cho thuê tài chính lại gây lãng phí nguồn lực cho đất nước. Như vậy cho thuê tài chính mang lại rất nhiều lợi ích nhưng cũng tồn tại những mặt trái mà ta cần phải hiểu để có biện pháp hạn chế phòng ngừa.
1.4.2. Lợi ích đối với người cho thuê:
a. Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ có tính an toàn cao.
Do quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê nên họ có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những biểu hiện đe doạ sự an toàn của giao dịch cho thuê đó, người cho thuê có thể thu hồi tài sản ngay lập tức, tức còn trong các hình thức cho vay bằng tiền khác rất khó thực hiện được biện pháp này.
Thêm vào đó, khi tiến hành tài trợ bằng hình thức này sẽ đảm bảo rằng khoản tiền tài trợ sử dụng đúng mục đích mà người tài trợ yêu cầu, nhờ vậy, đảm bảo khả năng trả nợ của người vay.
Do đây là hình thức tài trợ không phải trực tiếp bằng tiền mà là bằng tài sản hiện vật nên hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát.
Cuối cùng, hình thức tài trợ này giúp người cho thuê không bị khó khăn về khả năng thanh toán do tiền thuê và vốn được thu hồi dựa trên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của tài sản.
b. Cho thuê tài chính giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh.
Trong thời gian diễn ra giao dịch cho thuê tài chính, vốn tài trợ được thu hồi dần cho phép người cho thuê tái đầu tư chúng vào hoạt động kinh doanh sinh lợi và giữ vững nhịp độ hoạt động.
Người cho thuê có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh do có thể tập trung vào lĩnh vực hẹp nên có điều kiện đầu tư theo chiều sâu về cả hình thức kinh tế kỹ thuật và nghiệp vụ tín dụng.
Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính cũng còn nhiều bất lợi đối với người cho thuê nhất là khi môi trường kinh tế, vĩ mô không thuận lợi chẳng hạn tại các quốc gia không có quy định rõ ràng về quyền sở hữu hay không có thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ... thì nguy cơ bị quốc hữu hoá, đọng vốn, hoặc bị lỗ trong kinh doanh là đều rất dễ xảy ra.
1.4.3. Lợi ích đối với người đi thuê:
- Người cho thuê không phải bỏ tiền ra ngay một lúc để mua sắm tài sản cố định nhưng vẫn có tài sản để sử dụng: Nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất luôn luôn diễn ra ở các doanh nghiệp nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng để đáp ứng vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tự có thấp, để giải quyết nhu cầu trên doanh nghiệp có thể đi thuê tài chính, với thủ tục nhanh gọn họ có thể có ngay tài sản mà không cần có vốn.
- Nhanh chóng đổi mới công nghệ do tài sản thuê được khấu hao nhanh, tài sản cố định của doanh nghiệp được khấu hao theo quy định của Bộ tài chính, nhiều khi thời hạn quá dài ảnh hưởng đến sự đổi mới công nghệ còn tài sản thuê tài chính có thời gian thu hồi vốn từ 60 - 70% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản do vậy tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị.
- Giúp doanh nghiệp có thể hoãn thuế thu nhập doanh nghiệp. Do tài sản thuê được khấu hao nhanh và tiền thuê được hạch toán thẳng vào chi phí khác vốn đi vay hay dùng vốn tự có để đầu tư tài sản cố định doanh nghiệp chỉ được hạch toán vào chi phí một tỷ lệ khấu hao theo quy định của Bộ tài chính, số tiền khấu hao này thường là nhỏ hơn giá trị tiền thuê thẳng vào chi phí sẽ làm chi phí tăng thêm so với các loại đầu tư khác làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm đi đồng thời nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cũng giảm đi. Sang đến các năm sau khi doanh nghiệp thực hiện xong nghĩa vụ hợp đồng, bên cho thuê chuyển giao máy móc thiết bị với giá trị thực của nó (hoặc bằng 0) thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó. Doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục sử dụng tài sản trong 1 thời gian dài mà không cần phải khấu hao hoặc khấu hao theo một tỷ lệ rất nhỏ không đáng kể. Lúc này, lợi nhuận tăng lên, doanh nghiệp nộp ngân sách nhiều hơn.
- Thuê tài chính có khả năng tài trợ cho doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng: Doanh nghiệp muốn đi vay ngân hàng ngoài các điều kiện tín dụng ngặt nghèo doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp. Nhưng hình thức đi thuê tài chính bên thuê không yêu cầu khách hàng phải có tài sản thế chấp vì tài sản đứng tên bên cho thuê, chính tài sản là vật đảm bảo cho bên thuê. Lợi ích này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp mới thành lập chưa đủ uy tín đối với ngân hàng.
- Thuê tài chính có khả năng thu hút nguồn vốn lớn từ bên ngoài thông qua việc vay vốn và nhập khẩu máy móc thiết bị việc thu hút vốn từ bên ngoài của công ty cho thuê tài chính bằng cách: vay vốn trực tiếp từ các tổ chức nước ngoài và nhập máy móc thiết bị bằng hình thức trả chậm. Để mua hàng trả chậm doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu của nhà cung cấp là phải có 1 ngân hàng có uy tín do họ chỉ định đứng ra bảo lãnh. Doanh nghiệp muốn ngân hàng bảo lãnh thì bản thân doanh nghiệp phải có đầy đủ các điều kiện tín dụng. Do vậy, cũng như cho vay nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng. Nhưng nếu thông qua công ty cho thuê tài chính thì vấn đề này được giải quyết dễ dàng hơn nhiều. Việc thu hút vốn từ bên ngoài thông qua công ty cho thuê tài chính khắc phục được nhược điểm nhập thiết bị lạc hậu về máy móc thiết bị có sự thẩm định của công ty.
- Tiền thuê được tính linh hoạt hơn so với vay ngân hàng, tiền thuê được tính phù hợp với chu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp về cả thời hạn cũng như giá trị.
+ Về giá trị:
++ Đối với các doanh nghiệp đã hoạt động lâu năm, máy móc thiết bị xin thuê sản xuất mặt hàng truyền thống, dòng lưu chuyển tiền mặt đều đặn thì doanh nghiệp có thể thoả thuận với công ty cho thuê tài chính trả tiền thuê giá trị bằng nhau qua các kỳ thanh toán.
++ Đối với đơn vị có nhu cầu xin thuê loại máy móc thiết bị có hao mòn vô hình lớn (như máy vi tính), họ muốn khấu hao nhanh và giá trị tiền thuê trả theo phương pháp giảm dần tuyến tính.
++ Đối với doanh nghiệp mới thành lập, sản phẩm sản xuất ra chưa nhiều, chi phí ban đầu còn lớn thì doanh nghiệp có thể trả tiền thuê theo phương pháp tăng dần tuyến tính.
+ Về thời hạn: Việc xác định thời hạn (kỳ thanh toán) của hình thức thuê tài chính cũng rất linh hoạt có thể trả từng tháng hoặc theo mùa vụ phù hợp với kỳ luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp.
Qua các cách tính tiền thuê như trên cho thấy: Cho thuê tài chính khắc phục được cách tính đơn điệu như cách tính trả nợ tiền vay của ngân hàng, giúp cho các doanh nghiệp khi thuê tránh được những khó khăn về tài chính, chủ động trong kinh doanh.
Bên cạnh những lợi ích mà cho thuê tài chính đem lại cho các doanh nghiệp đi thuê vẫn còn một số bất lợi phải xem xét:
- Phí tài trợ cho thuê tài chính thường cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn.
- ở giai đoạn cuối của thoả thuận cho thuê tài chính, dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng người thuê vẫn chưa được quyền sở hữu tài sản, cho nên chưa được sử dụng tài sản thuê vào mục đích khác.
- Trong trường hợp hoạt động đã có sự liệu mua tài sản với giá tượng trưng bị phá vỡ, người thuê đã bị thiệt hại do mất quyền ưu tiên này, do trong phí thuê đã tính nộp cả phần tiền trả cho quyền chọn mua.
Thuận lợi
Bất lợi
1. Cho thuê tài chính là một nguồn hình tài trợ mà doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận mà không bị đòi hỏi về những thủ tục rườm rà.
1. Chi phí thuê tài chính thường coa hơn chi phí vay vốn để công ty tự đầu tư vì công ty cho thuê tài chính thu lợi nhuận của họ trên các khoản tiền
2. Cho thuê tài chính cho phép doanh nghiệp có thể gia tăng năng lực sản xuất của mình mà không cần bỏ ra số tiền đầu tư ngay từ ban đầu
2. Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt
3. Các khoản chi trả tiền thuê làm giảm lợi nhuận và do đó nó làm giảm nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp
3. Nếu tài sản được chuyển trả cho người cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính thì doanh nghiệp không được hưởng phần giá trị còn lại của tài sản
4. Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp đổi mới được công nghệ, tiếp cận được với những công nghệ hiện đại
4. Doanh nghiệp không được hưởng những khoản tiền thuê miễn giảm dành cho tài sản thuê
5. Có thể chịu những ràng buộc bởi một số biện pháp bảo đảm cho tài sản thuê như phải cam kết không vay dài hạn, thuê, mua chịu khi chưa có ý kiến của người cho thuê.
Bảng 1.5: Những thuận lợi và bất lợi của hoạt động cho thuê tài chính đối với người thuê.
1.5. Hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước trong khu vực.
Đối với các nước đang phát triển, hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện muộn hơn nhưng nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất của các quốc gia này. Do vậy, hoạt động cho thuê tài chính đã đạt được các kết quả khả quan. Đến năm 1994, các giao dịch cho thuê tài chính ở các nước này ước tính như sau: Hàn Quốc: 9,24 tỷ USD; Inđônêxia: 1,81 tỷ USD, Malayxia: 700 triệu USD; Singapo: 270 tỷ USD.
Là một nước đi sau, chúng ta có thể xem xét hoạt động cho thuê tài chính ở các quốc gia khác trên thế giới, để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho mình để hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta đạt được hiệu quả cao nhất.
1.5.1. Hoạt động cho thuê tài chính ở Nhật Bản:
Công ty cho thuê tài chính đầu tiên ở Nhật Bản ra đời vào năm 1963 và cho đến nay Nhật Bản đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao trong lĩnh vực này. Theo số liệu của các cuộc điều tra, ở Nhật Bản có hơn 90% các công ty sử dụng phương thức cho thuê tài chính để tài trợ vốn cho doanh nghiệp mình. Họ chủ yếu sử dụng loại hình này để tài trợ cho các thiết bị xử lý thông tin bao gồm máy tính, phần mềm máy tính, các thiết bị liênlạc và hàng loạt các loại hình thiết bị phục vụ sản xuất, hoạt động kinh doanh.
Các công ty cho thuê tài chính của Nhật Bản phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn vay ngân hàng như các nguồn tài chính để tài trợ nguồn vốn vay ngân hàng như các nguồn chính để tài trợ. Một số công ty cho thuê tài chính lớn nhất của Nhật Bản có vốn chủ sở hữu chỉ chiếm khoảng 1% so với tổng nguồn vốn, các công ty này thường ở vị trí trong bảng xếp hạng các khách hàng vay theo lượng tiền vay của các ngân hàng.
Trong quá trình toàn cầu hoá của công nghiệp Nhật Bản bắt đầu tư năm 1973, các công tu cho thuê tài chính đã tiến hành mở chi nhánh của mình tại HongKong, Singapore, Indonexia , rồi đến các nước Đông Nam á khác và các công ty cho thuê tài chính bắt đầu thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính xuyên quốc gia được tài trợ trực tiếp từ Nhật Bản.
Chính phủ Nhật Bản đã có những chính sách khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính thông qua thuê hay việc tài trợ lãi suất thấp để các công ty cho thuê tài chính thực hiện việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về máy móc, thiết bị. Không giống như ở Mỹ hay ở Anh, những khuyến khích về thuế được giành cho người thuê máy móc, thiết bị mà không phải giành cho các công ty cho thuê tài chính. Đồng thời, Chính phủ còn thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính thông qua việc đảm bảo các khoản nợ vay.
Thông qua việc liên doanh của các công ty cho thuê tài chính của Nhật Bản với các công ty cho thuê tài chính của các nước trong khu vực Châu á khác, các nước này có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong lĩnh vực cho thuê tài chính từ Nhật Bản.
1.5.2. Hoạt động cho thuê tài chính ở Trung Quốc:
Hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc vào đầu những năm 80 với mục đích chính là nhập khẩu các thiết bị và công nghệ hiện đại của nước ngoài thông qua các nguồn vay nước ngoài. Đến nay, kinh doanh trên lĩnh vực cho thuê tài chính ở Trung Quốc đã có những bước phát triển nhất định.
Các thiết bị cho thuê ở Trung Quốc rất đa dạng, bao gồm các loại máy móc, thiết bị thuộc lĩnh vực dệt may, điện, chế biến thức ăn, hoá chất... Đồng thời các tài sản cho thuê có thể từ các máy móc đơn lẽ cũng như các dây chuyền sản xuất, các thiết bị mới hay các thiết bị đã qua sử dụng. Số lượng các giao dịch cho thuê tài chính trong lĩnh vực nhập khẩu bằng sáng chế hay phần mềm cũng như các dự án thuê các máy móc nhập khẩu cũng đang gia tăng.
ở Trung Quốc, các công ty cho thuê tài chính có thể thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau, từ các công ty cho thuê tài chính của nhà nước đến các công ty cho thuê tài chính của địa phương, các công ty cho thuê tài chính của trong nước, liên doanh hay của nước ngoài.
Trung bình, một công ty cho thuê tài chính hoạt động trên cả thị trường trong nước và quốc tế có mức vốn là 3 triệu USD . Chính phủ Trung Quốc đã có những ưu tiên rất lớn về thuế đặc biệt là thuế nhập khẩu thiết bị và các công ty cho thuê tài chính còn được miễn thuế trong 2 năm đầu. Đồng thời còn đưa ra một hệ thống pháp lý đầy đủ, chặt chẽ nhằm giúp hoạt động cho thuê tài chính phát triển. Các công ty cho thuê tài chính ở Trung Quốc còn được hỗ trợ về nguồn vốn từ các ngân hàng, quỹ uỷ thác đầu tư, các quỹ bảo hiểm xã hội.
1.5.3. Hoạt động cho thuê tài chính ở Hàn Quốc:
Từ những năm đầu thập kỷ 70 nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt được những tỷ lệ tăng trưởng nhanh và quá trình công nghiệp hoá luôn đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Nhưng nguồn vốn giành cho đầu tư rất hạn chế do thị trường vốn trong nước không phát triển mạnh. Nguồn vốnt tiết kiệm trong nước quá ít so với nhu cầu đầu tư, Hàn Quốc phải đi vay vốn từ nước ngoài, bên cạnh đó Chính phủ đã đưa ra nghiệp vụ cho thuê tài chính như là giải pháp cung cấp vốn cho đầu tư phát triển.
Hoạt động cho thuê tài chính từ khi ra đời đã phát triển nhanh chóng ở Hàn Quốc. Tổng khối lượng giao dịch cho thuê tài chính đã tăng trưởng với tỷ lệ trung bình hơn 100% trong suốt nữa cuối của những năm 70 giữa những năm 80 -82 cuộc khủng hoảng dầu lửa đã làm suy giảm toàn bộ nền kinh tế của Hàn Quốc và đã ảnh hưởng đến thị trường cho thuê tài chính ở Hàn Quốc. Đến năm 1983, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, hoạt động cho thuê tài chính cũng phát triển trở lại và đạt được những tỷ lệ khả quan...
Hoạt động cho thuê tài chính ở Hàn Quốc phát triển mạnh trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp. Các thiết bị cho thuê hiện nay chủ yếu là các máy móc, thiết bị sản xuất trong nước, Chính phủ Hàn Quốc đã cho phép công ty cho thuê tài chính chuyên môn hoá được phép pháp hành các giấy nợ đến 10 lần giá trị vốn tự có. Chính phủ còn hỗ trợ cho các công ty cho thuê tài chính thông qua các quỹ đầu tư quốc gia. Đồng thời Chính phủ cũng định hướng hoạt động của các công ty cho thuê tài chính nhằm hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
1.6. Yêu cầu phải phát triển và hoàn thiện hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta:
Trong những năm nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế bao cấp trên thị trường không tồn tại sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Bởi khi đó nh._. thị trường thực tế thì vẫn còn nhỏ bé này, đã có tới chín công ty cho thuê tài chính tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Vậy rõ ràng là cty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần phải có các giải pháp, chính sách linh hoạt để thắng các đối thủ cạnh trạnh, chiếm lĩnh thị trường.
- Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho công ty:
+ Đánh bại đối thủ cạnh tranh khi họ muốn thâm nhập vào đoạn thị trường của ta.
+ Xâm nhập và chiếm lĩnh các đoạn thị trường của các đối thủ cạnh tranh.
+Tìm kiếm những đoạn thị trường mới còn bỏ ngỏ.
Vậy nghiên cứu đối thủ cạnh tranh công ty nên tập trung vào những vấn đề sau:
+ Những thuận lợi và khó khăn hiện nay của đối thủ cạnh tranh.
+ Chính sách sản phẩm, giá cả của đối thủ cạnh tranh.
+ Chính sách phân phối của đối thủ cạnh tranh.
+Chiến lược giao tiếp khuyếch trương của đối thủ cạnh tranh.
+ Các đoạn thị trường mục tiêu hiện này và trong tương lai của đối thủ cạnh tranh.
Chắc chắn những thông tin mà công ty thu thập được sẽ giúp ích cho công ty trong việc ra hoạch định chiến lược kinh doanh của mình, đảm bảo thắng trong cạnh tranh và thu hút khách hàng.
3.2.2 Tạo lập các nguồn vốn hoạt động:
Muốn tăng sức cạnh tranh trên thị trường, công ty cho thuê tài chính cần tạo lập vốn đầu vào với mức lãi suất thấp nhất. Do đó, các giải pháp tạo lập các nguồn vốn bằng nhiều hình thức cũng là biện pháp góp phần phát triển thị trường của công ty.
Trong phần này, sẽ liệt kê các nguồn vốn mà công ty cho thuê tài chính thuộc các ngân hàng thương mại có thể huy động. Vấn đề huy động bao nhiêu, thì trong từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể công ty sẽ có các quyết định phù hợp, mục tiêu mới cũng vẫn là tạo ra một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí bình quân thấp nhất để sử dụng hiệu quả nguồn vốn.
Vay vốn từ các tổ chức, tín dụng:
Hiện nay nguồn vốn tự có của công ty đã sử dụng mà công ty phải vay từ ngân hàng mẹ, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam sẽ là nơi cung cấp vốn chính cho hoạt động của công ty. Vay vốn từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công ty sẽ được hưởng theo cơ điều hoà nội bộ với mức lãi suất ưu tiên thấp hơn so với đi vay các tổ chức tín dụng khác. Đây sẽ là nguồn vốn được tính đến đầu tiên do có chi phí thấp. Có thể dùng nguồn vốn này để tài trợ cho các khách hàng truyền thống, có uy tín của công ty.
Phát hành trái phiếu trong nước:
Việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng uy tín của công ty trên thị trường cho thuê tài chính, công ty có thể bán chúng trên thị trường chứng khoán. Một khi trái phiếu của công ty được chấp nhận và xếp hạng cao trên thị trường chứng khoán thì tạo rất nhiều thuận lợi cho công ty.Việc phát hành này giúp công ty chủ động trong qui mô và lãi suất của nguồn vốn huy động. Một trong những cách phát hành thuận tiện nhất là công ty nên nhờ ngân hàng mẹ bảo lãnh phát hành. Khi đó chi phí sẽ rẻ và có thể huy động được nguồn vốn lớn và đúng hạn.
Tuy nhiên, công ty phải tính toán lãi suất huy động với chi phí thích hợp để có lãi và phải đảm bảo qui định phù hợp về thời hạn trái phiếu cũng như phương thức thanh toán trái phiếu.
Nguồn vốn thông qua việc liên doanh với nước ngoài:
Việc liên doanh với các công ty cho thuê tài chính nước ngoài có thể giúp cho công ty giải quyết những khó khăn về vốn, đặc biệt là với các hợp đồng cho thuê tài chính vượt quá khả năng của công ty.
Thông qua hoạt động liên doanh công ty có thể mở rộng thị trường đồng thời các cán bộ công ty có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm cho thuê tài chính.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam bảo lãnh cho công ty vay vốn nước ngoài:
Việc vay vốn này thông qua hình thức: Vay trực tiếp bằng tiền và bảo lãnh mua máy móc thiết bị trả chậm để cho các doanh nghiệp thuê.Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả. Khi áp dụng giải pháp này công ty cần thận trọng với sự biến động của tỷ giá.
Hợp tác đồng tài trợ:
Với các dự án lớn, công ty có thể hợp tác đồng tài trợ với các công ty cho thuê tài chính khác hay các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các bên tham gia sẽ được nhận phần lợi nhuận dựa trên tỷ lệ vốn tham gia.
Việc đồng tài trợ giúp công ty giảm khó khăn về nguồn vốn hoạt động đồng thời cũng là biện pháp nhằm hạn chế rủi ro cho công ty.
Tuy vậy, giải pháp này chỉ thích hợp với những dự án lỡn, còn đối với các dự án qui mô vừa và nhỏ thì công ty nên sử dụng biện pháp đi vay.
Có thể nhận vốn uỷ thác từ các tổ chức Quốc tế tài trợ cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
3.2.3 Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính của công ty:
Tài trợ bằng hình thức cho thuê tài chính có độ an toàn cao hơn so với hình thức cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng do quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê trong suốt thời hạn cho thuê và cho thuê tài tài trợ bằng hiện vật nên đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Tuy nhiên bất kể lĩnh vực đầu tư nào cũng đều có rủi ro, đặc biệt là khi nghiệp vụ cho thuê tài chính còn mới mẻ ở Việt Nam.
Do vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm phòng chống các rủi ro trong hoạt động của công ty là cần thiết nhằm giúp cho hoạt động của công ty phát triển một cách bền vững.
Trong hoạt động cho thuê tài chính có hai loại rủi ro chính sau:
Một là: Rủi ro về thanh toán tiền thuê: rủi ro về thanh toán tiền thuê xảy ra khi người đi thuê không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ tiền thuê khi đến hạn.
Hai là: Rủi ro về tài sản cho thuê: rủi ro về tài sản cho thuê xảy ra khi bên cung cấp thiết bị không giao đúng chủng loại thiết bị theo hợp đồng thuê tài chính phải chấm dứt trước thời hạn, công ty cho thuê tài chính nhận lại tài sản nhưng không bán hoặc cho thuê tiếp được.
Biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính:
- Lựa chọn khách hàng: Để có điều kiện thẩm định chính xác khách hàng và phối hợp thu thiền thuê được dễ dàng thì trong thời gian đầu, công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nên lựa chọn các khách hàng truyền thống, khách hàng có uy tín.
- Nghiêm túc thực hiện qui trình nghiệp vụ cho thuê tài chính: từ đó lựa chọn được các khách hàng và dự án cho thuê có tính khả thi để đảm bảo cho công ty có thể thu hồi được tiền gốc và phí thuê. Nội dung hợp đồng mua thiết bị, hợp đồng cho thuê phải chặt chẽ, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của bên cho thuê.
Khi đã ký kết hợp đồng cho thuê tài chính, công ty phải phân công các cán bộ theo dõi chặt chẽ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc kiểm tra định kỳ tài sản thuê giúp công ty kịp thời phát hiện, xử lý hay ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.
- Thẩm định dự án: Muốn phòng ngừa hiệu quae rui ro trong hoạt động cho thuê tài chính thì công tác thẩm định trước khi xét duyệt cho thuê là hết sức quan trọng. Yêu cầu của công tác thẩm định là phải xem xét, đánh giá toàn diện các vấn đề trên hai phương diện chủ yếu sau: về người đi thuê và dự án xin thuê.
Về người đi thuê, cần xem xét trên một số mặt sau:
Đánh giá tư cách pháp nhân và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường:
Bao gồm các văn bản, tài liệu, nguồn thu nhập thông tin, điều tra thị trường hay các tổ chức tín dụng liên quan đến tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khác hàng,
+ Tư cách pháp nhân, uy tín của khách hàng trong quan hệ với bạn hàng, ngân hàng, cơ quan tài chính. Đạo đức, năng lực quản lý, điều hành, trình độ chuyên môn của người đứng đầu doanh nghiệp.
Đánh giá về khả năng tài chính:
Dựa trên các tài liệu liên quan đến tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng (các báo cáo tài chính theo định kỳ, báo cáo kế hoạch sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kiểm tra, thanh tra, báo cáo chi tiết cộng nợ, các hồ sơ, hợp đồng liên quan đến đầu ra của dự án) sau khi đã đối chiếu, kiểm tra tính xác thực của số liệu, công ty sẽ tiến hành phân tích cụ thể tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Tính toán các chỉ tiêu tài chính quan trọng như: hệ sô thanh toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh, hệ số nợ tổng tài sản, hệ số nợ vốn cổ phần, hệ số thanh toán lãi vay, hiệu suất sử dụng tổng tài sản, hệ số sinh lời của tài sản, vòng quay hàng tồn kho, hệ số tự tài trợ.. để có thể đánh giá được năng lực tài chính của doanh nghiệp: khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt hay xấu, mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp như thế nào, khả năng sinh lợi trên vốn của chủ là bao nhiêu, cơ cấu vốn ra sao v.v..
Lĩnh vực hoạt động của khách hàng:
Công nghệ máy móc, thiết bị hiện tài của doanh nghiệp, trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân, nguồn cung cấp nguyen, vật liệu, chủng loại, chất lượng, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, xu hướng phát triển của thị trường, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp..
Về dự án cho thuê:
Thẩm định tài sản thuê:
Trong hoạt động cho thuê tài chính việc lựa chọn và định giá tài sản thuê thuộc quyền và trách nhiệm của người đi thuê. Nhưng với tư cách là nhà tài trợ tài chính, bên cho thuê không thể khômg xem xét kỹ lưỡng tài sản và hiệu quả của dự án cho thuê.Thẩm định về tài sản cần chú trọng một số vấn đề sau:
+ Tính pháp lý của tài sản (đặc biệt với máy móc, thiết bị nhập khẩu)
+ Chất lượng trình độ công nghệ, kỹ thuật của tài sản ( tuổi thọ, công suất, khả năng vận chuyển, lắp đặt, tốc độ lỗi thời..) có phù hợp với năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp không? đối với những tài sản có tính đặc chủng cần tìm hiểu xuất xứ và kinh nghiệm của nhà sản xuất.
+ Giá cả phù hợp với thiết bị cùng loại trên thị trường.
+ Năng lực sử dụng, vận hành, mức độ an toàn, điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị trong quá trình sử dụng.
+ Xu hướng sử dụng tài sản đó trong tương lai: cơ chế bán ? tương lai của ngành công nghiệp sử dụng tài sản đó.
Thẩm định khả năng tài chính của dự án:
Có nhiều phương pháp để công ty có thể đánh giá về khả năng tài chính của dự án như: phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ điều chỉnh (MIRR), phương pháp phân tích điểm hoà vốn v.v.. Nhưng phươngpháp vẫn được sử dụng nhiều nhất là NPV và IRR.
NPV là chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng cho biết tổng lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được qua dự án.
IRR cho biết tỷ lệ hoàn vốn của dự án, nó là tỷ lệ chiết khấu của dự án khi NPV = 0. Để quyết định đầu tư, nhà đầu tư sẽ chọn dự án có IRR³ tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ sinh lời tối thiểu mà nhà đầu tư mong muốn nhận được.
Thông thường, người ta sẽ kết hợp cả hai chỉ tiêu NPV và IRR để ra quyết định về tính hiệu quả về mặt tài chính của dự án thuê. Nếu có nhiều phương án thuê thì phương án được lựa chọn là phương án thoả mãn:
NPV > 0 và NPV max
IRR³ tỷ lệ hoàn vốn mong đợi của nhà đầu tư.
Tuy nhiên có trường hợp kết luận thu được qua việc đánh gái hai chỉ tiêu NPV và IRR để quyết định đầu tư lại trái ngược nhau. Khi đó, chỉ tiêu NPV được xem là chỉ tiêu quan trọng hơn để đưa ra kết luận cuối cùng
Thẩm định về nhà cung cấp:
Việc tìm hiểu về nhà cung cấp cũng do khách hàng thực hiện. Nhưng nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra từ phía nhà cung cấp (rủi ro do sự lừa đảo cố ý của nhà cung cấp tài sản ) công ty nên tiến hành kiểm tra, đánh giá về uy tín, khả năng tài chính của nhà cung cấp.
Đồng thời công ty cũng nên ràng buộc nhà cung cấp trong hợp đồng mua thiết bị bằng các biện pháp bảo dưỡng, bảo hành hay yêu cầu mua lại thiết bị khi hợp đồng cho thuê tài chính buộc phải kết thúc trướcthời hạn.
Thực hiện các biện pháp bảo đảm:
- Mua bảo hiểm tài sản cho thuê: Mọi tài sản cho thuê nói chung đều phải được bảo hiểm, phí bảo hiểm do người thuê chịu, công ty cho thuê tài chính là do người thụ hưởng bảo hiểm. Tuỳ từng tài sản mà lựa chọnloịa hình bảo hiểm thích hợp.
- Với tài sản mà tốc độ lỗi thời cao, cần xác định thời hạn cho thuê phù hợp, thu hồi nhanh vốn bằng một số biện pháp: chỉ tài trợ tối đa 70%, tổng số vốn, phần còn lại yêu cầu người thuê tham gai ngay từ đầu; thu tiền thuê giảm dần tuyến tính; lãi suất cho thuê tính cao hơn thông thường.
- Đối với các dự án thuê của các doanh nghiệp là thành viên của các Tổng công ty công ty có thể yêu cầu Tổng công ty đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp thuê tài chính. Khi đó, nếu dự án không có khả năng trả nợ, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho công ty thì Tổng công ty chịu trách nhiệm trả nợ thay cho doanh nghiệp thành viên của mình.
- Đối với các dự án của các doanh nghiệp mà khả nămg tài chính không mạnh mới tiến hành hoạt động kinh doanh hay hoạt động của doanh nghiệp chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro thì công ty vẫn có thể cho thuê với điều kiện doanh nghiệp phải tham gia góp vốn cơid công ty để tài trợ cho dự án. Việc tham gia góp vốn của doanh nghiệp đi thuê sẽ là động lực để các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của dự án và nhờ đó công ty hạn chế độ rủi ro.
Công ty nên đề nghị các doanh nghiệp tham gia góp vốn ở mức khoảng 30 - 35% - đây là mức góp vốn mà doanh nghiệp thường chấp nhận được.
- Theo dõi chặt chẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng. Tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc sử dụng tài sản thuê để kịp thời kiến nghị xử lý và ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Với những khách hàng thuê tài sản mà pháp luật không qui định phải đăng ký sở hữu, phạm vị hoạt động xa trụ sở công ty thì công ty có thể cử cán bộ của mình trực tiếp giám sát quá trình hoạt động của máy móc, thiết bị để thường xuyên có thông tin chính xác nhất về tình hình sử dụng máy móc, thiết bị và sản xuất kinh doanh của khác hàng.
- Thực hiện trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính theo qui định.
- Liên kết với các công ty cho thuê tài chính khác để đồng tài trợ trong các dự án lớn nhằm phân tán rủi ro.
ổn định tổ chức, đào tạo cán bộ:
Mở rộng cơ cấu tổ chức:
Như đã đề cập ở chương II, cơ cấu tổ chức phòng ban của công ty hiện nay (3 phòng ban: phòng kinh doanh, phòng tổng hợp, phòng kế toán) là chưa phù hợp, các cán bộ công ty đồng thờiphải đảm nhiệm nhiêud công việc cùng một lúc, ví dụ như tại phòng kinh doanh, các cán bộ phải lo nguồn vốn đầu vào cho đến lo đầu ra của vốn; từ việc tiếp xúc với khách hàng thuê, hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ cho thuê đến việc liên hệ với toàn bộ các chi nhánhnhd đi mở mang hoạt động cho thuê kiêm luôn là hoạt động tiếp thị, maketing.. Do vậy, trong thời gian tới, công ty nên bổ sung một số phòng ban sau:
1. Phòng Marketing:
Phòng này có chức năng xây dựng chiến lược marketing - mix cụ thể là nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, từ đó lập ra các chính sách khách hàng, sản phẩm hợp lý tạo định hướng phát triển cho công ty. Bên cạnh đó, phòng này còn có chức năng tiếp xúc khách hàng, thực hiện các biện pháp khuyếch trương quảng cáo về hoạt động của công ty, tìm kiếm khách hàng tạo điều kiện cho phòng kinh doanh thực hiện các khâu tiếp theo.
2. Phòng kỹ thuật:
Phòng này bao gồm các chuyên gia có trình độ, am hiểu về máy móc, thiết bị và công nghệ, có khả năng đưa ra các kết luận đúng đắn về trình độ công nghệ, chức năng, chất lượng, giá cả của tài sản. Tuy nhiên, vì tài sản cho thuê của các công ty cho thuê của các công ty cho thuê rất đa dạng, nên cán bộ của phòng này không nhất thiết phải hiểu biết về tất cả các loại tài sản cho thuê, và chỉ cần nắm vững kiến thức về các loại tài sản cho thuê chủ yếu của công ty, đồng thời có nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật để có thể có những tư vấn chính xác và cần thiết.
3. Phòng nhập khẩu:
Trong tương lai, các công ty cho thuê tài chính sẽ được phép nhập khẩu trực tiếp. Do đó, để đảm bảo điều kiện hoạt động chuyên sâu cho các phòng ban, công ty cần nghiên cứu tổ chức phòng nhập khẩu, chuyên trách vào lĩnh vực này, đảm bảo cho việc nhập khẩu máy móc diễn ra thuận lợi.
4. Phòng quản lý tài sản cho thuê:
Phòng này kết hợp với phòng kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc khách hàng có sử dụng đúng tài sản thuê theo hợp đồng hay không. Đồng thời, cán bộ phòng này phải được đào tạo, có trình độ và am hiểu pháp luật về hoạt động cho thuê và các cấn đề liên quan đến tranh chấp tài sản thuê v.v.. Bên cạnh đó, phòng này còn có nhiệm vụ quản lý tài sản đã kết thúc thời hạn thuê mà quyền sở hữu không thuộc về bên thuê, thực hiện việc thanh lý hay trao đổi trên thị trường máy móc, thiết bị cũ.
Công tác, kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Cán bộ kiểm soát kiểm tra hồ sơ cho thuê ngay sau khi cán bộ kinh doanh bàn giao hồ sơ cho cán bộ hành chính - kế toán để bổ sung kịp thời trước khi đưa hồ sơ vào bảo quản, lưu giữ.
Thực hiện công tác kiểm tra thường xuyên đối với hồ sơ dự án đã cho thuê tài chính.
Chiến lược đào tạo phát triển:
- Đào tạo lại về kỹ thuật nghiệp vụ cho thuê tài chính bằng cách:
+ Giữa cán bộ đi học các khoá đoà tạo về cho thuê tài chính của các trường Đại học tổ chức. Nếu có điều kiện cho các cán bộ đi thực tập ở các công ty Leasing các nước có thị trường Leasing phát triển và có sự tương đồng về quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam như Trung Quốc, Indonesia..
+ Thường xuyên tập huấn trao đổi nghiệp vụ giữa các cán bộ trong công ty và các công ty cho thuê tài chính khác.
- Cập nhật các kiến thức về kinh tế - xã hội, định hướng phát triển kinh tế của đất nước trợ giúp cho việc thẩm định dự án xin thuê của doanh nghiệp.
Bên cạnh các khoá học về nghiệp vụ cho thuê tài chính, công ty cần tiếp tục cử các cán bộ thàm gia vào các khoá học về nghiệp vụ ngân hàng, tin học, ngoài ngữ của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam để ngày một nâng cao kiến thức cho các cán bộ của công ty. Với đội ngũ cán bộ được trang bị đầy đủ kiến thức, với năng lực và sáng tạo sẽ là yêu tố quyết địnhcho sự phát triển của công ty trong tương lai.
Sắp xếp đội ngũ nhân viên một cáh hợp lý, đúng người, đúng việc để họ có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình cũng là yêu tố giúp công ty đạt được hiệu quả cao hơn.
3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam :
Thực tế hoạt động của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng và các công ty cho thuê tài chính khác nói chung đều cho thấy rằng nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam và những bất cập trong hệ thống văn bản quản lý của chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan. Do vậy, để hoạt động của các công ty cho thuê tài chính có thể đạt được hiệu quả tốt nhất thì bên cạnh các giải pháp từ phía bản thân công ty, công ty cần có sự quan tâm giúp đỡ từ phía các cơ quan nói trên nhằm tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam. Vậy dưới đây, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến, kiến nghị đối với các cơ quan, ban ngành có liên quan:
3.3.1 Kiến nghị với chính phủ:
Chính phủ cần ban hành một nghị định mới thay thế cho Nghị định 64CP ngày 9/10/1997.
1.Nên mở rộng đối tượng cho thuê: Không nên chỉ giới hạn là các doanh nghiệp trong nền kinh tế mà bao gồm tất cả các tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, chứng minh được khả năng thành toán tiền thuê.
2. Mở rộng nghiệp vụ cho thuê tài chính: Trong cho thuê tài chính theo Nghị định 64/ CP mới chỉ qui định công ty chỉ được thực hiện hợp đồng theo thoả thuận ba bên của các loại hợp đồng khác thì chưa được đề cập tới đề nghị chính phủ cho phép các công ty cho thuê tài chính được thực hiện thêm một số nghiệp vụ như bán và tài thuê, cho thuê liên kết nhằm mở rộng hoạt động của của công ty cho thuê tài chính và hỗ trợ các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động.
3. Pháp luật về quyền sở hữu: Cần có qui định rõ ràng về việc các tài sản thuê phải được đăng ký quyền sở hữu tại một cơ quan nhà nước cụ thể nhằm tránh tình trạng rủi ro có thể xảy ra đối với các công ty cho thuê tài chính. Đồng thời chính phủ cũng qui định để một cơ quan chuyên trách đứng ra chịu trách nhiệm về vấn để này. Cuối cùng, Chính phủ sớm ban hành những văn bản pháp luật qui định việc xử lý trường hợp xảy ra khi người cho thuê thu hồi tài sản trước khi hết hạn hợp đồng.
4. Về vấn đề máy móc, thiết bị nhập khẩu:
- Cho phép các công ty cho thuê tài chính được đăng ký mã số nhập khẩu. Khi có mã số, công ty được quyền nhập khẩu trực tiếp không phải xin phép từng lần, hoặc uỷ thác.
- Tài sản thuê do các công ty cho thuê tài chính nhập khẩu sẽ được áp dụng mức tuế nhập khẩu (hoặc miễn thuế nhập khẩu) như bên được thuê tự nhập khẩu tài sản này.
- Bộ Tài chính, Tổng cục hải quan cho áp dụng “ đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu”. Khi người nhập khẩu là công ty cho thuê tài chính hay bên nhận uỷ thác cho công ty cho thuê tài chính đối với những máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng loại trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để làm tài sản cố định cho dự án.
5. Các qui định về thuế, phí và thu sử dụng vốn:
Các qui định về thuế rất quan trọng đối với sự phát triển hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Theo kinh nghiệm hoạt động của các công ty cho thuê tài chính nếu thuế nới lỏng và có chính sách ưu đãi hơn các loại hình đầu tư khác thì cho thuê tài chính trở nên hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- Công ty cho thuê tài chính được đưa vào đối tượng các doanh nghiệp được áp dụng mặt khuyến khích đầu tơ trong nước vì thực chất công ty cho thuê tài chính nhập máy móc, thiết bị để thực hiện dự án đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp trong nước.
- Công ty cho thuê tài chính được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hai năm đầu hoạt động.
- Bên thuê sẽ được miễn lệ phí trước bạ khi mua lại tài sản từ các công ty cho thuê tài chính ở thời điểm kết thúc hợp đồng cho thuê.
- Trong trường hợp được thực hiện nghiệp vụ bán và tái thuê cần được miễn thuế chuyển quyền sở hữu.
- Thu nhập của các công ty cho thuê tài chính chủ yếu là thu lãi cho thuê, không giống như các Ngân hàng thương mại kinh doanh vì nghiệp vụ.. do vậy, không nên áp dụng mức thuế sử dụng vốn ở mức cao nhất (0,5%/tháng) mà chỉ nên ở mức 0,2 - 0,3%/tháng như đối với các doanh nghiệp sản xuất , giao thông vận tải..
6. Giấy phép lưu hành: Bên thuê được phép sử dụng tài sản thuê khi có bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu của bên cho thuê.
7.Thu tiền bằng ngoại tệ: cho phép các công ty cho thuê tài chính được thu nợ bằng ngoại tệ nếu đầu tư bằng ngoại tệ như các Ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Chính phủ nên sớm ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp
3.3.2. Kiến nghị với các Bộ, ngành liên quan:
a. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:
- Nguồn vốn hoạt động: Ngân hàng Nhà nước cho phép các công ty cho thuê tài chính được vay vốn, cũng như huy động tiền gửi trung và dài hạn từ các tổ chức tín dụng và dân cư, cũng như được vay vốn từ các nguồn tài trợ: nguồn vốn ưu đãi như nguồn vốn ODA, các dự án tài trợ của Chính phủ, Ngân hàng, các tổ chức Quốc tế như hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trợ giúp người hồi hương tạo công ăn việc làm..
- Thành lập hiệp hội cho thuê tài chính, chức năng của hiệp hội là:
+ Khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính , cung cấp cho các thành viên hiệp hội các khuôn mẫu Quốc tế cho việc học tập trao đổi kinh nghiệm.
+ Cung cấp các vấn đề về luật cũng như các qui định về cho thuê tài chính, cung cấp các ấn phẩm về hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới cũng như trong nước.
+ Tổ chức các hội nghị, hội thảo về cho thuê tài chính . Tổ chức các cuọc gặp gỡ nhà cho thuê, người đi thuê và nhà cung cấp thiết bị trong phạm vi trong nước cũng như Quốc tế.
+ Đầu mối đề nghị giải quyết những khó khăn vướng mắc về cơ chế trong hoạt động cho thuê tài chính.
b. Kiến nghị với Bộ Tài chính:
Hiện nay, khi các doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị thì thuế giá trị gia tăng được khấu trừ trong vòng từ 1-3 tháng sau khi mua. Nhưng đối với các doanh nghiệp khi đi thuê tài chính thì theo qui định của Bộ Tài chính thuế đó sẽ được khấu trừ dần qua mỗi lần doanh nghiệp thanh toántiền thuê cho công ty. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí cao hơn, làm giảm sức cạnh tranh. Vậy đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi để cho các doanh nghiệp đi thuê được khấu trừ thuế giá trị giá tăng một lần ngay khi ký hợp đồng.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
Với vai trò là Ngân hàng mẹ, những sự giúp đỡ từ phía Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. để công ty có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, đạt được các mục tiêu đề ra, đề nghị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hỗ trợ công ty những vấn đề sau:
- Với đặc thù kinh doanh một loại hình đơn lẻ, không được phép mở ra các loại hình kinh doanh khác để hỗ trợ như nhận tiền gửi, cho vay ngắn hạn.., nên công ty gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn vốn để cho thuê. Do nguồn vốn điều lệ của công ty đã sử dụng hết nên nguồn vốn kinh doanh của công ty sẽ chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay. Đề nghị Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có chính sách hỗ trợ về vốn cụ thể là có chính sách ưu đãi về nguồn vốn và lãi suất cho công ty đảm bảo khi có khách hàng là có đủ nguồn vốn để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Đặc biệt đề nghị Ngân hàng hỗ trợ công ty phát hành trái phiếu công ty nhằm nâng cao vị thế của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
- Phê duyệt qui trình, qui chế về nghiệp vụ cho thuê tài chính nhằm tạo hành lang pháp lý cho công ty trong việc mở rộng phạm vi kinh doanh.
- Có chính sách đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, đào tạo chuyên sâu cho các bộ của công ty .
- Đề nghị các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phối hợp cùng công ty mở rộng hoạt động cho thuê tài chính tại địa bàn các chi nhánh. Bên cạnh những nội dung trong hoạt động hợp tác hiện nay, giữa chi nhánh và công ty có thể thực hiện đồng tài trợ đối với một dự án. Đây là hoạt động nhằm đa dạng hoá sản phẩm của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và cũng để tạo đà phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính .
- Cuối cùng, Ngân hàng có thể hỗ trợ tạo điều kiện cho công ty mở rộng khách hàng thông qua tuyên truyền quảng cáo, các hội nghị khách hàng của Ngân hàng hay giúp đỡ công ty tự tổ chức khách hàng của mình.
Như vậy, qua ba tháng thực tập tại công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ”. Tuy rằng, chỉ là những ý kiến chủ quan, cá nhân, em rất mong được sự quan tâm, xem xét của công ty để những ý kiến này có thể đóng góp vào sự phát triển của công ty trong tương lai.
Kết luận
Hoạt động cho thuê tài sản mới được áp dụng tại Việt Nam trong những năm gần đây nhưng phần nào đã chứng tỏ được ưu thế của mình, đặc biệt là đối với việc nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp. Sự góp mặt của các Công ty cho thuê tài chính đã góp phần giúp hoạt động cho thuê tài sản phát triển tại Việt Nam, hoà nhập với thị trường cho thuê khu vực và thế giới, giúp đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập chưa lâu nhưng cũng đã tạo lập cho mình một vị thế trên thị trường. Mặc dù trong quá trình hoạt động còn nhiều hạn chế nhưng những thành tựu Công ty đạt được thật đáng ghi nhận nhất là trong khi môi trường pháp lý còn chưa đồng bộ như hiện nay.
Bằng những hiểu biết, cố gắng của mình cùng với sự giúp đỡ tận tình của các anh chị, cô chú cán bộ Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và thầy giáo hướng dẫn, TS Phạm Quang Trung, em đã hoàn thành đề tài tốt nghiệp với hi vọng sẽ góp phần giúp hoạt động cho thuê của Công ty ngày càng hoàn thiện và phát triển. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ, khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên chắc chắn đề tài của em còn nhiều thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các cô chú, anh chị cán bộ công ty, thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ tài chính, Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê, 1999.
David Begg, Kinh tế học, tập 1, NXB Chính trị quốc gia.
Edward Reed- Edward Gill, Ngân hàng thương mại, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Fedric Minskin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật, 1996.
Lê Vinh Danh, Tiền và hoạt động ngân hàng, NXB Chính trị quốc gia, 1998.
Lưu Thị Hương, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục, 2000.
Lê Văn Tư, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2002.
Ngân hàng ĐT&PTVN - Công ty cho thuê tài chính: Báo cáo thường niên 2001-2002.
Ngân hàng ĐT&PTVN - Công ty cho thuê tài chính: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002.
Ngân hàng ĐT&PTVN - Công ty cho thuê tài chính: Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty.
Ngân hàng ĐT&PTVN - Công ty cho thuê tài chính: Quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Ngân hàng ĐT&PTVN - Công ty cho thuê tài chính: Kế hoạch kinh doanh năm 2003.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam: Báo cáo sơ kết hoạt động công ty cho thuê tài chính 2001.
Nghị định số 64/ CP của Chính phủ.
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt nam.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, NXB Chính trị quốc gia, 2000.
Thông tư số 03/TT-NH5 ngày 9/2/1998 của Ngân hàng nhà nước Việt nam hướng dẫn nghị định 64/CP.
Thông tư số 03/TT- NH2 ngày 14/7/1999 của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn hạch toán nghiệp vụ cho thuê.
Tài liệu hội thảo cho thuê tài chính do TECHCOMBANK và MBF đồng tổ chức ngày 4/4/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Tô Tử- Nguyễn Hải Sản: Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua, NXB Trẻ thành phố HCM.
Tạp chí Ngân hàng.
Tạp chí Thị trường tài chính và tiền tệ.
Tạp chí Kinh tế và phát triển.
Tạp chí Kinh tế và dự báo.
Thời báo Kinh tế Việt nam.
Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Nguyễn Quang Ninh: Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê, 1999.
Vũ Cao Đàm, Phương pháp nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học kỹ thuật, 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0166.doc