Lời nói đầu
Quá trình hội nhập khu vực và thế giới, đặc biệt là khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực mang lại nhiều cơ hội phát triển cũng như nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung. Các ngân hàng thương mại hiểu rằng chỉ có đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, cung cấp những sản phẩm chất lượng và tiện ích thì mới có thể đứng vững trong cạnh tranh, từ đó nâng cao hiệu quả khách hàng của mình. Sự đa dạng tạo yếu tố khách quan thúc
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẩy các ngân hàng thương mại đầu tư trang thiết bị, ứng dụng công nghệ mới trong thanh toán thay thế phương pháp thanh toán cổ điển mà trong đó thanh toán thẻ đã đáp ứng yêu cầu phát triển đó.
Dịch vụ thẻ ngày càng trở nên phổ biến và được ưu chuộng trên toàn cầu. Nó là minh chứng cho sự kết hợp thành công giữa ngành công nghệ thông tin và điện tử viễn thông trong hoạt động ngân hàng. Thẻ ngân hàng là một loại hình dịch vụ mới dựa trên kỹ thuật hiện đại được ứng dụng và phổ biến trên thế giới từ khoảng 20 năm trở lại đây, phục vụ chủ yếu cho lĩnh vực tiêu dùng của dân cư. Các dịch vụ về thẻ là hết sức đa dạng: thẻ có thể dùng để thanh toán khi mua hàng hoá dịch vụ, rút tiền mặt, gửi tiền, vay tiền, chuyển khoản, kiểm tra số dư tài khoản, thanh toán hoá đơn, bảo hiểm....
Tuy thẻ ngân hàng được sử dụng trên toàn cầu và rất phổ biến ở các nước phát triển cũng như đang phát triển, nhưng thị trường Việt Nam chỉ biết đến thẻ vào đầu những năm 90 khi Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) - ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam tiến hành đưa các dịch vụ thẻ vào trong hoạt động kinh doanh của mình. Và trong suốt thời gian đó đến nay, Vietcombank vẫn còn nhiều vấn đề bất cập hạn chế hiệu quả của loại hình dịch vụ này. Hơn nữa, sự phát triển của dịch vụ này tại Vietcombank chưa xứng với tiềm năng hiện có của Vietcombank nói riêng và của Việt Nam nói chung. Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể để hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu là "Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam ”. Đề tài tiến hành đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Vietcombank .
Đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nghiệp vụ thanh toán thẻ của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Để hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn GS.TS. Nguyễn Hữu Tài cùng các anh chị cán bộ phòng Thanh toán và Quản lý thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tận tình quan tâm, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Chương 1: Những vấn đề chung về nghiệp vụ thanh toán thẻ của ngân hàng thương mại.
1.1. Tổng quan về hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm và các loại hình ngân hàng thương mại.
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường là tất yếu dẫn đến sự ra đời của các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là các NHTM.
ở Việt Nam, năm 1988 mới hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm:
Ngân hàng Trung ương: cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
ở Việt Nam cũng vậy, quá trình xây dựng và phát triển ngân hàng đã phải trải qua những giai đoạn khó khăn, phức tạp nhưng sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam có những nét khác biệt so với các ngân hàng trên thế giới. Trải qua gần 20 năm đổi mới, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành nghị định 53 HĐBT (26/3/1988) với nội dụng “Cải tổ ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp duy nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành định chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Ngày 23/51990 nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai pháp lệnh trên được thay thế bằng hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, tạo được một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Bộ mặt ngành ngân hàng đã thay đổi, hoạt động sôi nổi và đầy ý nghĩa, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành.
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, vẫn với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn về NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu chức năng, vai trò của NHTM.
1.1.2. Các chức năng của ngân hàng thương mại.
Chức năng huy động vốn: Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân , các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM có thể huy động vốn qua các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân hàng, phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một ràng buộc về trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo quy định của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có.
Chức năng cung cấp tín dụng và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ này, NHTM sử dụng phần lớn số vốn đã huy động để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế qua các hình thức như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.
Qua các chức năng này NHTM đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng là tạo tiền, trở thành nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm xã hội, mở rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó liên quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động lại chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm.
Cung cấp các hoạt động dịch vụ trung gian: Ngoài các chức năng cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM gồm có:
Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán.
Dịch vụ tư vấn đầu tư
Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới hình thức lệ phí hoặc hoa hồng.
Có thể nói, các chức năng của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với nhau. Chức năng huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho NHTM. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM.
1.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thẻ ngân hàng.
Thẻ ngân hàng được ra đời tại Mỹ từ những năm đầu thế kỷ XX xuất phát từ thói quen cho khách hàng mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ dựa trên uy tín của khách đối với các tiệm này. Thông thường, các chủ tiệm theo dõi khách một cách riêng rẽ, ghi rõ các khoản mà khách hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách hàng trả tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua. Tuy nhiên, dần dần, nhiều người trong số các chủ tiệm bán hàng hoá, dịch vụ này nhận thấy họ không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả sau như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình thành ý tưởng về sản phẩm thẻ.
Năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần đầu tiên cung cấp cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán trả chậm. Công ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin in nổi nhằm nhận diện, phân biệt khách hàng, cung cấp, cập nhật dữ liệu về khách hàng bao gồm các thông tin về tài khoản và thông tin về giao dịch thực hiện.
Các tổ chức khác dần nhận ra những giá trị của loại hình dịch vụ nói trên của Western Union và chỉ trong một vài năm sau đó, rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả chậm cho khách hàng của mình theo phát triển theo phương thức của Western Union, trong đó, tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924, cho phép người dân sử dụng thẻ này để mua xăng dầu tại các cửa hàng trên toàn quốc.
Vào năm 1950, Frank Mc Namara và Ralph Schneider, hai doanh nhân người Mỹ, đồng thành lập ra Diners' Club sau một lần đi ăn ở nhà hàng và quên đem theo tiền mặt. Chính việc phải cam kết thanh toán sau đã gợi lên một ý tưởng kinh doanh thẻ đối với Frank Mc Namara. Và tấm thẻ tín dụng đầu tiên, được làm bằng chất liệu plastic đã được ra đời kể từ đó. Hai ông đã cung cấp cho bạn bè , đồng nghiệp của mình thẻ Diners Club, cho phép họ có thể ghi nợ khi ăn, nghỉ tại một số nhà hàng, khách sạn ở NewYork và thanh toán số tiền này định kỳ theo tháng mà không giới hạn số tiền được phép chi tiêu.
Sau Diners Club, vào năm 1958, công ty American Express cũng tham gia vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành công tên tuổi của mình trong lĩnh vực mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh tranh của mình, American Express chú trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du lịch (T & E) - một lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ và châu Âu trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới.
Đến trước năm 1970, khái niệm về thẻ tín dụng đã được nhiều người biết đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, Bank of America chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmericard của mình cho các ngân hàng khác thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, chính thức bắt đầu giai đoạn tăng tốc trong phát triển. Người dân đi du lịch nhiều hơn, trên đất Mỹ và ra nước ngoài mà không còn lo lắng tới việc phải có sẵn tiền để thanh toán. Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định dành cho những đối tượng giàu có và nổi tiếng mà dần trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng. Thương hiệu BankAmericard với một loạt sản phẩm có màu xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Bằng việc ký hợp đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí thanh toán chuyển đổi, Bank of America đã nhanh chóng tăng được lượng thẻ phát hành cũng như ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các ĐVCNT trên khắp nước Mỹ và mở rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của Bank of America thật sự được chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên BankAmericard, tên thẻ Visa ra đời với màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng.
Cũng vào năm 1966, ba nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết định hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank Card Association (ICA). Sau này, tên ICA được chuyển đổi thành MasterCard. ICA ban hành các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù trừ, các biện pháp marketing, bảo mật và các vấn đề liên quan tới luật pháp nhằm vận hành công việc một cách hiệu quả.
Năm 1968, ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi toàn cầu thông qua việc liên kết với ngân hàng Banco National của Mexico. Sau thời gian đó, ICA tìm kiếm đối tác tại thị trường châu Âu, cho ra đời thẻ Eurocard. Cũng vào năm 1968, ICA kết nạp thêm thành viên là một số ngân hàng của Nhật, nhằm từng bước thâm nhập và nắm bắt thị trường Đông á này.
Tại Việt Nam thẻ thanh toán lần đầu tiên được chấp nhận vào năm 1990, khi Vietcombank ký hợp đồng đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa với chi nhánh ngân hàng Pháp BFCE tại Singapore và phương thức thanh toán mới này chính thức du nhập và phát triển tại Việt Nam.
Ngày nay, thẻ ngân hàng đã có mặt trên khắp thế giới với các hình thức, chủng loại đa dạng, phong phú đang ngày càng đáp ứng đầy đủ những nhu cầu riêng lẻ của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của hai tổ chức thẻ quốc tế Visa và MasterCard, trên thế giới còn có hàng loạt các tổ chức thẻ khác mang tính quốc tế và khu vực ra đời như: JCB, American Express, Airplus, Maestro Eurocard, Visioncard... Sự phát triển mạnh mẽ này đã khẳng định xu thế phát triển tất yếu của thẻ thanh toán.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ thanh toán.
Khái niệm của thẻ thanh toán:
Thẻ ngân hàng, sau đây gọi tắt là "thẻ", là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính phát hành và cung cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ) dùng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhân thẻ. Do đặc điểm dùng để thanh toán nên thẻ ngân hàng còn được gọi là "thẻ thanh toán".
Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của thẻ ngân hàng nói chung:
- Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với việc ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
- Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, hoặc rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp.
- Thẻ ngân hàng còn được dùng để thực hiện nhiều chức năng khác như xem số dư, sao kê tài sản, chuyển khoản, thanh toán một số loại hoá đơn,... thông qua hệ thống máy rút tiền tự động hay còn gọi là hệ thống tự phục vụ ATM.
Đặc điểm của thẻ thanh toán: Thẻ là một công cụ thanh toán có những đặc điểm khác biệt so với các phương tiện thanh toán khác. Qua nhiều giai đoạn phát triển, ngày nay thẻ đã được chế tạo theo kỹ thuật vi mạch điện tử. Thẻ được làm bằng nhựa cứng, trắng, gồm ba lớp ép sát, kích thước tùy theo mỗi loại thẻ. Tuy nhiên, đặc điểm thường có ở mỗi loại thẻ là:
Mặt trước của thẻ gồm :
Các huy hiệu của tổ chức phát hành thẻ, tên thẻ
Biểu tượng của tổ chức thẻ
Logo của thẻ
VISA: con chim bồ câu đang bay trong không gian 3 chiều.
MASTER: có hai hình tròn lồng nhau nằm ở góc dưới bên phải (một hình màu da cam, một hình màu đỏ) và dòng chữ MasterCard màu trắng chạy ở giữa; trên hai hình tròn lồng nhau là hai nửa quả cầu lồng nhau in chìm.
JCB: có 3 màu (xanh công nhân, đỏ, xanh lá cây), có chữ JCB chạy ở giữa.
AMEX: là hình đầu người chiến binh.
Số thẻ
VISA: có hai loại số thẻ gồm 16 số và 13 số, luôn bắt đầu bằng số 4.
MASTER: số thẻ gồm 16 số và luôn bắt đầu bằng số 5.
AMEX: số thẻ gồm 15 số, luôn bắt đầu bằng số 37 hoặc số 34.
JCB: luôn có 16 số, chia làm 4 nhóm và thường bắt đầu bằng số 35.
Ngày hiệu lực của thẻ
Họ và tên của chủ thẻ
Số mật mã đợt phát hành
Một số đặc điểm riêng của từng loại thẻ
Mặt sau của thẻ :
Dãy băng từ có khả năng lưu trữ các thông tin bảo mật
Băng chữ ký
Số thẻ có thể in lại
1.2.3. Phân loại thẻ.
Thẻ được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau gồm: phân theo công nghệ sản xuất, phân theo chủ thể phát hành, phân theo tính chất thanh toán thẻ, phân theo phạm vi lãnh thổ, phân theo mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng.
1.2.3.1. Theo công nghệ sản xuất.
Thẻ khắc chữ nổi: Đây là loại thẻ xuất hiện đầu tiên, thực hiện dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi. Trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Hiện nay không còn được sử dụng nữa vì kỹ thuật quá thô sơ, dễ bị lợi dụng làm giả.
Thẻ băng từ: Thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với dải băng từ chứa thông tin được mã hoá ở mặt sau của thẻ. Hiện tại, đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Cùng với kỹ thuật in chìm nhiều lớp biểu tượng và hologram, cộng thêm in ảnh và chữ ký của khách hàng trên thẻ, các tổ chức thẻ và ngân hàng phát hành thẻ đã làm cho loại thẻ này tăng thêm tính bảo mật và an toàn trong khi sử dụng thẻ.
Thẻ thông minh: Thẻ thông minh là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thể hiện sự kết hợp thành công những ứng dụng hiện đại của công nghệ thông tin trong lĩnh vực thẻ, đó là việc sử dụng chíp điện tử. Thông thường, trên tấm thẻ thông minh được gắn chíp điện tử thay thế cho dải băng từ sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ thông minh có cả chíp điện tử và băng từ. Dựa trên kỹ thuật xử lý tin học, thẻ sẽ được gắn chíp bộ nhớ và chíp xử số liệu. Trong đó, chíp bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thông tin cung cấp cho thẻ trong mỗi lần sử dụng, còn chíp xử lý số liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc điều chỉnh các thông tin trong bộ nhớ.
1.2.3.2. Theo chủ thể phát hành.
Thẻ do ngân hàng phát hành: Là loại do ngân hàng phát hành giúp khách hàng sử dụng một cách linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rái nhất trên toàn cầu hiện nay, ví dụ như thẻ Visa, MasterCard, JCB...
Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: Là loại thẻ du lịch, giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành. Hiện nay, trên thế giới thẻ Diners Club, American Express (gọi tắt là Amex) và thẻ JCB được sử dụng phổ biến nhất. Ngoài ra, một số công ty lớn cũng phát hành thẻ riêng cho các đối tượng công ty đó hướng theo mục đích kinh doanh của công ty.
1.2.3.3. Theo tính chất thanh toán.
Thẻ tín dụng: Là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho phép khách hàng chi tiêu trước, trả tiền sau theo quy định của ngân hàng. Với mỗi ngân hàng, thời gian yêu cầu chủ thẻ phải thanh toán dư nợ thẻ là khác nhau phụ thuộc vào từng loại thẻ của mỗi tổ chức. Trong trường hợp đến hạn thanh toán, chủ thẻ thanh toán đầy đủ số dư nợ (theo bảng thông báo giao dịch ngân hàng lập gửi cho chủ thẻ) thì chủ thẻ sẽ được miễn lãi và phí phạt chậm trả đối với số dư nợ cuối kỳ. Đây là tính chất tuần hoàn của thẻ tín dụng. Ngược lại, khi chủ thẻ không thanh toán đúng hạn hay chỉ thanh toán một phần số dư nợ cuối kỳ thì chủ thẻ sẽ phải chịu khoản lãi theo mức ngân hàng định . Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay công ty phát hành thẻ tín dụng cho khách hàng dựa theo hình thức thế chấp hoặc dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng.
Thẻ ghi nợ: Là loại thẻ được ngân hàng phát hành cho khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Thẻ ghi nợ thường không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc số dư thực có của chủ thẻ trong tài khoản thẻ. Chủ thẻ chỉ chi tiêu trong phạm vi mình có, nhưng hiện nay để sản phẩm mang tính hấp dẫn nhiều ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền quá số dư trong tài khoản một khoản nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định, tiêu dùng nhiều hơn số tiền mình có trong thẻ, hình thức này gọi là thấu chi. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay tín dụng, không có việc phân loại khách hàng để hưởng hạn mức tín dụng do đó khách hàng chỉ cần có tài khoản tại ngân hàng đều có thể tiếp cận tới sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
+ Thẻ on-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ.
+ Thẻ off-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày.
Thẻ ATM: Thẻ ATM là loại thẻ với chức năng chuyên biệt để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc ở các ngân hàng. Đây được coi là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép khách hàng tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền trong tài khoản thẻ. Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Thẻ rút tiền có hai loại:
+ Chỉ để rút tiền tại những máy rút tiền tự động của ngân hàng phát hành.
+ Được sử dụng để rút tiền không chỉ ở ngân hàng phát hành mà còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham gia tổ hợp thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ.
1.2.3.4. Theo tiêu thức lãnh thổ.
Thẻ nội địa: Là loại thẻ chỉ sử dụng trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, do vậy đồng tiền được sử dụng trong giao dịch mua bán hàng hoá hay rút tiền mặt phải là đồng bản tệ. Loại thẻ này cũng có công dụng như các loại thẻ trên nhưng hoạt động của nó đơn giản bởi nó chỉ do một ngân hàng hay một tổ chức điều hành từ việc phát hành đến xử lý trung gian thanh toán.
Thẻ quốc tế: Đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn cầu, sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý bởi các tổ chức tài chính lớn trên thế giới như MasterCard, Visa hoặc các công ty điều hành như Amex, JBC, Diners Club... hoạt động theo một hệ thống thống nhất và đồng bộ.
1.2.3.5. Theo đối tượng sử dụng.
Thẻ Vàng: Là sản phẩm thẻ có hạn mức tín dụng cao, phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu chi tiêu lớn. Loại thẻ này hiện nay thường phát hành cho các khách hàng có thu nhập cao, có khả năng tài chính lành mạnh. Thẻ có hạn mức tín dụng lớn hơn thẻ chuẩn, thường do hệ thống MasterCard phát hành.
Thẻ Chuẩn: Là sản phẩm thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ Vàng. Đây là loại thẻ được phát hành và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay.
1.2.3.6. Theo mục đích sử dụng.
Thẻ kinh doanh: Là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử dụng, nhằm giúp cho công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu vào các công việc chung của nhân viên. Hàng tháng, hàng quý và hàng năm, công ty sẽ được cung cấp những thông tin quản lý một cách tóm tắt và chi tiết về việc chi tiêu của từng nhân viên, từng bộ phận trong công ty.
Thẻ du lịch và giải trí: Là loại thẻ do các công ty tư nhân phát hành để phục vụ cho ngành du lịch và giải trí.
Mặc dù được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng các loại thẻ trên đều có đặc điểm chung là dùng để thanh toán, chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ. Vì vậy, chúng được gọi là thẻ thanh toán.
1.2.4. Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thanh toán thẻ.
1.2.4.1. Tổ chức thẻ quốc tế.
Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu, quản lý mọi hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Đây là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có mạng lưới hoạt động rộng khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và các sản phẩm đa dạng, ví dụ tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, công ty Diners Club, công ty Mondex...
1.2.4.2. Ngân hàng phát hành.
Thẻ ngân hàng ra đời trực tiếp từ mối quan hệ gắn bó giữa người mua hàng, các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ và các tổ chức tài chính tín dụng. Khi ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng trở thành thành viên chính thức hoặc đại lý cho các tổ chức và công ty thẻ thì toàn bộ hệ thống phát hành và thanh toán thẻ trở nên đồng bộ. Ngân hàng phát hành là ngân hàng được sự cho phép của tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức và công ty này. Ngân hàng phát hành là ngân hàng tên in trên thẻ, do ngân hàng đó phát hành thể hiện thẻ đó là sản phẩm của mình
1.2.4.3. Hiệp hội các ngân hàng thanh toán và phát hành thẻ.
Hiệp hội các ngân hàng thanh toán và phát hành thẻ là do một nhóm ngân hàng liên kết với nhau, tổ chức thành lập ra. Hiệp hội sẽ soạn thảo ra các quy định riêng về các tổ chức, cấp phép, bù trừ, thanh toán, áp dụng cho tất cả các thành viên của hiệp hội, đồng thời tổ chức về vấn đề cạnh tranh trên thị trường và vấn đề pháp lý.
1.2.4.4. Chủ thẻ.
Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền (nếu là thẻ do công ty uỷ quyền sử dụng) được ngân hàng phát hành thẻ, có tên in nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo những điều khoản, điều kiện do ngân hàng phát hành quy định.
Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ (ĐVCNT), ứng tiền mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự động ATM.
1.2.4.5. Ngân hàng thanh toán.
Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận các loại thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ trên địa bàn. trong hợp đồng chấp nhận thẻ ký kết với các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ, ngân hàng thanh toán thẻ cam kết: Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng; Cung cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo những hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động; quản lý và xử lý những giao dịch có sử dụng thẻ tại những đơn vị này.
1.2.4.6. Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT).
Các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ như một phương tiện thanh toán được gọi là đơn vị chấp nhân thẻ (ĐVCNT). ĐVCNT bao gồm nhiều lĩnh vực: những nhà hàng ăn uống, khách sạn, sân bay... Tại nhiều nước trên thế giới, khi thẻ ngân hàng đã trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng, chúng tăng trưởng có thể nhìn thấy những biểu trưng chủ yếu tại những ngành hàng, dịch vụ có thu hút nhiều khách nước ngoài như: cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ, lưu niệm tại các trung tâm thương mại, những nhà hàng, khách sạn lớn, các đại lý bán vé máy bay...
1.2.5. Những lợi ích của việc sử dụng dịch vụ thanh toán thẻ.
1.2.5.1. Đối với nền kinh tế xã hội.
Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông: Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai đầu tiên của thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. ở những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể.
Tăng nhanh khối lượng chủ thể chuyển, thanh toán trong nền kinh tế: Hầu hết mọi giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh toán trực tuyến (online) vì vậy tốc độ chủ thể chuyển, ttm nhanh hơn nhiều so với những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc... Thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ, mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng.
Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước: Trong thanh toán thẻ, các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Nhờ đó các ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác quản lý thuế của Nhà nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia. Thực tế hiện nay, mọi chế độ, chính sách liên quan đến thẻ đều dựa trên chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước.
Thực hiện biện pháp "kích cầu" của Nhà nước: Sự tiện lợi mà thẻ mang lại cho người sử dụng, đơn vị chấp nhân thẻ, ngân hàng... khiến cho ngày càng có nhiều người ưu chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng thẻ. Điều này làm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần thực hiện biện pháp "kích cầu" của Nhà nước.
Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu tư nước ngoài: Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương tiện văn minh của thế giiới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện đại hhơn. Đây cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1.2.5.2. Đối với người sử dụng thẻ.
Sự linh hoạt và tiện lợi trong thanh toán ở trong và ngoài nước: Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh hoạt hơn hẳn các phương tiện thanh toán khác. Chủ thẻ có thể thực sự cảm nhận được điều này khi đi du lịch hay công tác ở nước ngoài. Thẻ thanh toán như Visa, MasterCard và trong phạm vi nhỏ hơn là Amex và Diners được chấp nhận trên toàn cầu.
Tiết kiệm thời gian mua, giá trị thanh toán cao hơn: Thẻ thanh toán có nhiều tiện ích hơn tiền mặt hay séc du lịch cả trước, trong và sau chuyến đi. Với séc du lịch, chủ thẻ phải dự định trước xem sẽ tiêu bao nhiêu và phải đến ngân hàng làm thủ tục để mua séc trước chuyến đi, đồng thời thanh toán tiền trước cho ngân hàng cùng với một khoản phí dù trên thực tế họ chưa hề sử dụng séc này. Khi trở về, nếu chưa sử dụng hết số tiền trên séc, hoặc người có séc lại phải mất thời gian và chi phí để đến ngân hàng làm thủ tục đổi lại từ séc thành tiền hoặc sẽ chấp nhận rủi ro về tỷ giá khi giữ séc đó lại cho lần sử dụng sau.
Khoản tín dụng tự động, tức thời: Khả năng mua hàng không bị gò bó là một tiện ích của thẻ thanh toán. dù việc mua bán có được dự tính trước hay không thì thẻ thanh toán cũng là một nguồn tín dụng tự động giúp cho các chủ thẻ khỏi phải đến ngân hàng xin vay. Thường thì người ta có tâm lý ngại đến ngân hàng làm thủ tục xin vay, và họ sẽ đánh giá cao thẻ như là một khoản tín dụng ngắn hạn, thủ tục phát hành đơn giản.
Bảo vệ người tiêu dùng: Nếu hàng đã mua không đủ tiêu chuẩn chất lượng thì chủ thẻ có thể yêu cầu được ngân hàng phát hành thẻ bảo vệ, thậm chí có thể được bồi thường. Một số ngân hàng phát hành còn có chế độ bảo hiểm kèm theo: có hàng hoá thay thế hàng hoá bị mất cắp, hư hỏng hay thất lạc, trả tiền bảo hiểm tai nạn hoặc tử vong đối với hàng hoá hay dịch vụ thanh toán bằng thẻ thanh toán.
Rút tiền mặt: Chủ thẻ có thể rút tiền mặt một cách nhanh chóng ở bất cứ mơi nào, vào bất cứ lúc nào tại ngân hàng hoặc qua máy rút tiền tự động (ATM) và sử dụng một số dịch vụ khác do máy ATM cung cấp như: trả nợ vay, chuyển khoản, xem số dư tài khoản...
Kiểm soát được chi tiêu: Với sa._.o kê hàng tháng do ngân hàng gửi đến chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính toán được phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản giao dịch.
1.2.5.3. Đối với ĐVCNT.
Đảm bảo chi trả: Đối với người bán lẻ, thẻ thanh toán thuận lợi hơn so với séc. Trường hợp khách hàng muốn thanh toán bằng séc cho một món hàng có giá trị lớn hơn mức đảm bảo của tờ séc thì cửa hàng đứng trước sự lựa chọn khó khăn: hoặc là chấp nhận thanh toán séc với số tiền lớn hơn hạn được đảm bảo và chịu rủi ro nếu ngân hàng phát hành từ chối thanh toán hoặc sẽ không bán được hàng, doanh số bán sẽ giảm. Với thẻ thanh toán, ĐVCNT có thể yên tâm là đã được ghi có vào tài khoản ngay khi thông tin được truyền qua hệ thống máy móc điện tử đến ngân hàng thanh toán.
Tăng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ và thu hút thêm khách hàng: Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán nhanh chóng, tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh số cung ứng hàng hoá dịch vụ ĐVCNT cũgn tăng lên. Thẻ thanh toán tạo cho ĐVCNT một khả năng cạnh tranh lớn hơn so với các đổi thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong giao dịch, mua bán khi thanh toán thẻ là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài, các nhà đầu tư.
Nhanh chóng thu hồi vốn: Khi dữ liệu về giao dịch thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc ĐVCNT nộp hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của ĐVCNT được ghi có ngay. Số tiền này họ có thể sử dụng ngay vào mục đích quay vòng vốn hoặc các mục đích khác.
An toàn, bảo đảm: Giao dịch thẻ được trả tiền ngau vào tài khoản của ĐVCNT, nhưng dù chưa được thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng ít có nguy cơ bị mất sắp hơn là séc hay tiền mặt.
Nhanh chóng giao dịch với khách hàng: Khi giao dịch tiền mặt, việc đếm tiền, ghi chép sổ sách là rất phức tạp. Còn giao dịch thẻ, với các thiết bị chuyển ngân điện tử tại điểm bán hàng EFTPOS ( Electronic Funds Transfer at Point Of Sale) được sử dụng ngày càng nhiều thì đơn giản, người ta chỉ việc đưa bưng từ của thẻ qua thiết bị này, mọi thông tin trên thẻ được nhận dạng, giao dịch được thực hiện.
Giảm chi phí bán hàng: Thẻ thanh toán giúp ĐVCNT giảm đáng kể các chi phí cho việc đếm, bảo quản tiền, quản lý tài chính nhờ vậy cũng giảm được chi phí bán hàng. Điểm bất đồng giữa ĐVCNT và ngân hàng đó là về khoản phí mà ĐVCNT phải trả cho ngân hàng.
1.2.5.4. Đối với ngân hàng.
Lợi nhuận ngân hàng: Lợi ích lớn nhất mà thẻ đem lại cho ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ là lợi nhuận. Thu nhập từ thẻ mà ngân hàng có được là: phí ĐVCNT, phí sử dụng thẻ ( phí thường niên ) và lãi suất cho khoản tín dụng mà chủ thẻ chậm thanh toán. Đó là chưa kể các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng và đầu tư kèm theo.
Dịch vụ toàn cầu: Là thành viên của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay MasterCard, một ngân hàng dù nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể cho khách hàng một phương tiện thanh toán quốc tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn nào. Nhờ mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua tổ chức thẻ quốc tế Visa để trả tiền cho tất cả các khoản này, việc phân bổ tới các ngân hàng khác có liên quan sẽ do Visa thực hiện.
Hiệu quả cao trong thanh toán: Bằng việc khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ, ngân hàng sẽ thực hiện số giao dịch séc, tiền mặt ít hơn. Điều này mang lại cho ngân hàng nhiều lợi ích: thực hiện số giao dịch ít hơn, những thông tin thường nhật được cung cấp bởi các tổ chức thẻ quốc tế Visa, MasterCard dưới hình thức điện tử làm cho việc ghi nợ tương ứng vào các tài khoản của khách hàng được nhanh hơn, đơn giản hơn... hoạt động của ngân hàng nhờ vậy cũng hiệu quả hơn.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng: Thẻ thanh toán ra đời, làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến cho ngân hàng một phương tiên thanh toán đa tiện ích, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. không chỉ có vậy, ở các nước phát triển, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng càng có thêm cơ hội để phát triển các dịch vụ song song như: đầu tư hoặc bảo hiẻm cho các sản phẩm...
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: Đưa thêm một loại hình thanh toán mới phục vụ khách hàng buộc ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện: nâng cao trình độ, trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật công nghệ để cung cấp cho khách hàng những điều kiện tốt nhất trong thanh toán, đảm bảo uy tín, sự an toàn, hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng.
Tăng nguồn vốn cho ngân hàng: Nhờ thẻ thanh toán số lượng tiền gửi của khách hàng để thanh toán thẻ và số lượng tài khoản của các ĐVCNT cũng tăng lên. Với lượng giao dịch thẻ tương đối lớn, các tài khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một lượng vốn bằng tiền đáng kể, cũng có thể coi là một nguồn sinh lợi cho ngân hàng.
1.2.6. Nghiệp vụ thanh toán thẻ của ngân hàng thương mại hiện nay.
1.2.6.1. Nghiệp vụ phát hành.
Điều kiện phát hành: Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ khi ngân hàng xin phát hành có đủ các điều kiện sau:
Có năng lực tài chính, không vi phạm pháp luật.
Đảm bảo hệ thống trang thiết bị cần thiết phù hợp với tiêu chuẩn và đảm bảo an toàn cho hoạt động phát hành, thanh toán thẻ. Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn để vận hành và quản lý hệ thống này theo thông lệ quốc tế.
Chứng minh được sự cần thiết, hiệu quả kinh doanh và tính khả thi của việc đầu tư vào hệ thống phát hành và thanh toán thẻ.
Báo cáo và cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin và tài liệu có liên quan theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước khi xét đơn xin phát hành thẻ.
Ngân hàng xin phát hành thẻ phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngoại hối và cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế, đồng thời phải là hội viên chính thức của Tổ chức thẻ quốc tế.
Đối tượng phát hành: Thẻ có thể được phát hành cho cá nhân hay cho các công ty. Nếu phát hành thẻ cho các công ty thì phải nói rõ người được ủy quyền sử dụng thẻ. Người yêu cầu phát hành thẻ phải mở tài khoản tại ngân hàng phát hành, vấn đề ký quỹ hay thế chấp tùy thuộc vào mối quan hệ tín dụng của người yêu cầu đối với ngân hàng.
Quy trình phát hành
Tiếp nhận hồ sơ phát hành thẻ: khi khách hàng muốn mua thẻ sử dụng
khách hàng đến chi nhánh ngân hàng để hoàn thành một số thủ tục cần thiết.
Ngân hàng thẩm định lại hồ sơ: chi nhánh phát hành tiến hành xem xét lại hồ sơ được lập đúng chưa, tình hình tài chính (nếu là công ty) hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (nếu là cá nhân), số dư trên tài khoản của khách hàng, mối quan hệ tín dụng với ngân hàng trước đây (nếu có). Sau đó chuyển cho trung tâm thẻ.
Trung tâm thẻ lập hồ sơ quản lý thẻ, in thẻ và chuyển cho chi nhánh phát hành thẻ.
Phát thẻ: chi nhánh phát hành yêu cầu chủ thẻ ký tên và đăng ký chữ ký mẫu ở ngân hàng. Sau khi thẩm định và phân loại các khách hàng, chi nhánh ngân hàng ghi những thông tin cần thiết về chủ thẻ đồng thời mã hóa và ấn định mã số cá nhân (PIN) cho chủ thẻ, nhập dữ liệu về chủ thẻ vào tập tin quản lý và giao thẻ cho khách hàng.
Sơ đồ 1.1. Nghiệp vụ phát hành thẻ
(1)
(2)
(1)
Chi nhánh
phát hành
Chủ thể
Trung tâm
thẻ
(3)
(4)
(1) Gửi hồ sơ (2) Thẩm dịnh và gửi đi
(3) In và chuyển thẻ (4) Giao thẻ
Sơ đồ 1.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ
1.2.6.2. Nghiệp vụ thanh toán.
(1)
Đơn vị chấp nhận thẻ
Chủ thể
(2)
(6)
(5)
(8)
(7)
(4)
(3)
(9)
(10)
Ngân hàng thanh toán
Tổ chức thẻ quốc tế
Ngân hàng phát hành
Quy trình thanh toán
Chủ thẻ dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các ĐVCNT hoặc ngân hàng đại lý.
ĐVCNT hoặc ngân hàng đại lý khi nhận được thẻ từ khách hàng phải kiểm tra tính hợp lệ của thẻ, nếu hợp lệ thì sẽ cung cấp hàng hóa dịch vụ cho khách hàng.
ĐVCNT giao dịch với ngân hàng (gửi hóa đơn cho ngân hàng thanh toán).
Ngân hàng thanh toán tiến hành thanh toán cho ĐVCNT.
Ngân hàng thanh toán tiến hành thanh toán với Tổ chức thẻ quốc tế.
Tổ chức thẻ quốc tế ghi Có cho Ngân hàng thanh toán.
Tổ chức thẻ quốc tế báo Nợ cho Ngân hàng phát hành.
Ngân hàng phát hành thanh toán nợ cho Tổ chức thẻ quốc tế.
Ngân hàng phát hành gửi sao kê cho chủ thẻ.
Chủ thẻ thanh toán nợ cho ngân hàng phát hành.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ thanh toán thẻ của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Các nhân tố khách quan.
Thói quen tiêu dùng của người dân: có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển thẻ bởi nó tạo ra môi trường thanh toán thẻ. Một thị trường mà người tiêu dùng chỉ có tói quen thanh toán bằng tiền mặt sẽ không thể là môi trường tốt để phát triển thị trường thẻ.
Trình độ dân trí: trình độ dân trí thể hiện qua nhận thức của người dân về thẻ, một phương tiện thanh toán đa tiện ích của ngân hàng. Trình độ dân trí cao đồng nghĩa với khả năng thích nghi và áp dụng được nhũng thành tựu khoa học kỹ thuật vào cuộc sống để phục vụ con người.
Thu nhập của người dân: đây là nhân tố quan trọng có tính chất quyết định. Người dân có thu nhập cao mới có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng để cất giữ, nhờ thế số lượng tài khoản mới tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng phát triển dịch vụ thẻ.
Môi trường pháp lý: tại bất cứ quốc gia nào thì hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của các ngân hàng đều được tiến hành trong một khuôn khổ pháp lý nhất định. Khuôn khổ pháp lý đó được thể hiện thông qua các quy chế, quy định cụ thể về lĩnh vực kinh doanh thẻ. Các quy chế, quy định đó có thể khuyến khích việc kinh doanh và sử dụng thẻ nếu đó là những quy chế hợp lý phù hợp với tình hình thực tế, nhưng nó sẽ có tác động ngược lại nếu quá chặt chẽ hoặc quá lỏng lẻo không phù hợp với điều kiện kinh doanh của các ngân hàng.
Môi trường cạnh tranh: yếu tố này quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp thị phần của một ngân hàng khi tham gia thị trường thẻ. Nếu trên thị trường chỉ có một ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ thì ngân hàng đó sẽ có lợi thế độc quyền nhưng thị trường khó trở nên sôi động do không có các yếu tố cạnh tranh về giá và chất lượng dịch vụ.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan.
Vốn và trình độ công nghệ của ngân hàng: thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán đòi hỏi môi trường công nghệ cao. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngân hàng có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng dịch vụ ngân hàng nói chung và đó là điều kiện tiên quyết để tiến hành hoạt động thanh toán thẻ.
Trình độ của đội ngũ nhân viên làm nghiệp vụ thanh toán thẻ: để làm được các nghiệp vụ về thẻ, các nhân viên phải nắm vững các quy trình phát hành và thanh toán thẻ, hiểu biết về lĩnh vực tin học, năng động, sáng tạo và không ngừng học hỏi để trau dồi kinh nghiệm. Ngân hàng nào có chính sách đào tạo nhân lực cho kinh doanh thẻ hợp lý thì ngân hàng đó sẽ có cơ hội đẩy nhanh việc kinh doanh thẻ trong tương lai.
Định hướng phát triển của ngân hàng: nếu một ngân hàng có định hướng phát triển dịch vụ thẻ sẽ phải xây dựng cho mình các kế hoạch phát triển phù hợp. Chiến lược đó được xây dựng trên nền tảng điều tra, khảo sát các đối tượng khách hàng mục tiêu, khảo sát thị trường, đối thủ cạnh tranh...
1.4. Rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thẻ.
1.4.1. Rủi ro với ngân hàng phát hành.
Rủi ro này xảy ra khi các chủ thẻ cố tình có hành vi gian dối. Họ sử dụng thẻ thanh toán ở các điểm chấp nhận thẻ khác nhau với mức thanh toán thấp hơn hạn mức thanh toán nhưng lại có tổng mức thanh toán cao hơn hạn mức thanh toán cho phép. Rủi ro này chỉ được phát hiện khi ngân hàng phát hành nhận được đầy đủ hoá đơn do các đại lý thanh toán gửi đến. Nhưng lúc phát hiện thì mức độ vượt hạn mức thanh toán đã ở mức cao ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng phát hành.
Một rủi ro nữa thường xảy ra với thẻ tín dụng quốc tế là chủ thẻ lợi dụng tính chất của thẻ để lừa ngân hàng phát hành. Do tính chất của thẻ tín dụng có thể sử dụng rộng khắp tại nhiều nước khác nhau miễn là nơi đó có đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế nên chủ thẻ có thể đưa thẻ của mình cho người khác sử dụng tại các quốc gia ngoài quốc gia mà chủ thẻ sinh sống.
Chủ thẻ còn có thể lấy tiền của ngân hàng bằng cách giả vờ khai báo đánh mất thẻ nhưnguồn vốn trong chính thời gian đó lại lấy để sử dụng trong khi thẻ chưa kịp vào danh sách đen. Hoặc chủ thẻ thay băng chữ ký = một băng trắng và ký một chữ ký hoàn toàn khác với chữ ký cũ và cũng ký chữ ký này khi thực hiện việc thanh toán rồi sau đó từ chối ngân hàng thanh toán khoản chi tiêu do chính mình thực hiện.
1.4.2. Rủi ro với ngân hàng thanh toán.
So với ngân hàng phát hành thì ngân hàng thanh toán là nơi ít gặp rủi ro hơn do họ chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán giữa ĐVCNT và ngân hàng phát hành. Nhưng có một số trường hợp rủi ro gặp phải khi ngân hàng thanh toán có sai sót trong việc cấp phép như chuẩn chi giá trị thanh toán lớn hơn giá trị cấp phép. Trường hợp nữa là ngân hàng thanh toán không kịp thời cung cấp danh sách đen cho các đơn vị chấp nhận thẻ mà trong thời gian đó đơn vị chấp nhân thẻ lại thanh toán thẻ có trong danh sách này. Lúc đó, ngân hàng thanh toán phải chịu rất khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán.
1.4.3. Rủi ro với đơn vị chấp nhân thẻ.
Rủi ro với đơn vị chấp nhân thẻ là rủi ro do bị ngân hàng phát hành từ chối thanh toán toàn bộ số tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung do ĐVCNT thanh toán cho thẻ đã hết thời hạn hiệu lực mà không phát hiện ra. Nhiều khi ĐVCNT có quan niệm sai lầm rằng khi mình chỉ chịu rủi ro ở phần vượt hạn mức nên đã thanh toán nhiều thương vụ vượt hạn mức một tỷ lệ nhỏ mà không xin cấp phép hoặc xin cấp phép đã bị từ chối nhưng vẫn cứ chấp nhận thanh toán. Thực tế, ngân hàng thanh toán sẽ từ chối toàn bộ số tiền của thương vụ chứ không phải chỉ phần vượt hạn mức.
1.4.4. Rủi ro với chủ thẻ.
Mỗi thẻ ngân hàng có một mã số cá nhân bí mật (số PIN) mà chỉ chủ thẻ mới được biết. Trong quá trình sử dụng vô tình chủ thẻ để lộ số PIN và đồng thời bị maats thẻ hoặc bị đánh cắp mà chưa kịp báo cho ngân hàng phát hành. Người lấy được thẻ có thể dùng thẻ này rút tiền tại các máy ATM nơi việc rút tiền chỉ dựa trên số PIN. Trường hợp này chủ thẻ phải chịu hoàn toàn rủi ro khi bị mất tiền.
Trong thời gian gần đây các ngân hàng và chủ thẻ còn phải đối đầu với nguy cơ ngày càng tăng của nạn thẻ giả được làm rất tinh vi. Sau khi nhận thẻ tín dụng và tính tiền chúng đã lén lút quét tấm thẻ một lần nữa qua máy tính mà khách hàng không hay biết để lấy cắp thông tin. Như vậy, bọn làm thẻ giả đã thông đồng với nhân viên của ĐVCNT để đánh cắp thông tin và làm thẻ giả có nội dung như thẻ thật đang lưu hành.
Chương 2: Nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2.1. Tổng quan về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại Thương VN.
Thành lập ngày 01/04/1963 mà tiền thân là Cục ngoại hối Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) là một ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tiên của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Khi mới thành lập Vietcombank chỉ có một cơ sở tại Hà Nội. Tới nay, Vietcombank đã phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh gồm Ngân hàng Ngoại Thương Trung ương và hơn 50 chi nhánh cấp I, II và hơn 35 phòng giao dịch tại các thành phố trên toàn quốc, 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài và 1 công ty tài chính, 3 công ty trực thuộc gồm 1 công ty tài chính, 1 công ty chứng khoán và 1 công ty khai thác và quản lý tài sản nợ với tổng số khoảng 2900 cán bộ công nhân viên. Vietcombank đầu tư vốn cổ phần vào 14 doanh nghiệp bao gồm: 2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật, 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng. Ngoài ra Vietcombank còn tham gia 4 liên doanh với nước ngoài, có quan hệ đại lý với hơn 1200 ngân hàng tại 85 nước và các vùng lãnh thổ trên thế giới.
Hiện nay, Vietcombank được coi là một ngân hàng thương mại của Việt Nam có uy tín nhất, được Nhà nước xếp vào 1 trong 23 doanh nghiệp đặc biệt. Qua nhiều năm đổi mới và tự hoàn thiện, Vietcombank đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước phát triển, ứng dụng thành tựu khoa hoc kỹ thuật để hoàn thiệnvà phát triển nghiệp vụ ngân hàng, khuyếch trương quan hệ buôn bán trên các thị trường lớn, đầy tiềm năng. Vietcombank đã thực sự vững chắc, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời ngày càng khẳng định mình là một ngân hàng đứng đầu trong cả nước, cố gắng vương lên với phương châm "Uy tín hiệu quả - luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt" và đóng góp nhiều kinh nghiệm cho xây dựng và hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Trụ sở chính
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng Quan hệ ngân hàng đại lý
Phòng Tổ chức cán bộ và Đào tạo
Phòng Quan hệ khách hàng
Phòng vốn
Phòng Kế toán tài chính
Phòng quản lý Thẻ
Trung tâm thanh toán
Phòng Thông tin tuyên truyền
Phòng Pháp chế
Phòng Quản lý Xây dựng cơ bản
Phòng Quản trị
Phòng Tổng hợp Thanh toán
Tổng hợp và Phân tích Kinh tế
Phòng Quản lý tín dụng
Phòng Đầu tư dự án
Phòng Quản lý vốn liên doanh cổ phần
Phòng kế toán Quốc tế
Phòng Công nợ
Trung tâm tin học
Phòng quản lý các đề án công nghệ
Phòng Thông tin tín dụng
Văn phòng
Phòng Kinh doanh ngoại tệ
Phòng kế toán vốn
Mạng lưới trong nước
Sở giao dịch
Các chi nhánh
Các công ty con
Mạng lưới ngoài nước
Văn phòng đại diện
Paris, Moscow, Singapore
Công ty Tài chính Việt Nam
Tại Hồng Kông
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Ban tổng giám đốc
Hội đồng tín dụng
ALCO
Phòng tín dụng: Có thể nói đây là một trong những phòng nắm giữ một nghiệp vụ hết sức quan trọng của Vietcombank. Phòng tiến hành thực hiện các nghiệp vụ bắt đầu từ khâu huy động vốn từ các thị trường I (gồm các nguồn huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế) và thị trường II (gồm các nguồn từ Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước) cho đến việc tiến hành các hoạt động cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều
Phòng kế toán giao dịch: Phòng có chức năng quan trọng là kiểm tra, giám sát và quản lý hệ thống các tài khoản của các đối tượng khách hàng từ cá nhân cho đến các loại hình doanh nghiệp. Với chức năng chủ yếu đó, phòng chia thành ba bộ phận chức năng: (1)Bộ phận giao dịch viên: làm việc trực tiếp với khách hàng tiếp nhận chứng từ trực tiếp và góp phần giải đáp các thắc mắc của khách hàng; (2)Bộ phận liên hàng: đây là bộ phận làm nhiệm vụ hạch toán kiểm tra và rà soát các hoạt động thanh toán liên hàng cả trong nước và quốc tế; (3)Bộ phận tập trung: làm chức năng tập hợp số liệu hạch toán và kiểm tra một cách tổng hợp.
Phòng thanh toán thẻ: Phòng thanh toán thẻ đóng vai trò là phòng thực hiện nghiệp vụ cụ thể, quản lý, điều tiết và chịu trách nhiệm đẩy giao dịch giữa khách hàng với bên ngoài. Ngân hàng Ngoại thương là đơn vị duy nhất chấp nhận 5 loại thẻ tín dụng quốc tế : Visa, MasterCard, Amex, JCB, DinerClub. Phòng thanh toán thẻ tại Hội sở chính có 2 nghiệp vụ: mảng thanh toán và mảng phát hành.
Phòng hối đoái: Phòng được chia thành bốn bộ phận cơ bản: (1)Bộ phận không cư trú; (2)Bộ phận quản lý tiền gửi của người Việt Nam (gửi bằng ngoại tệ); (3)Bộ phận chuyển tiền đi; (4)Quầy giao dịch: nhận tiền gửi, đổi ngoại tệ. Với nhiệm vụ cơ bản: (1)Tiến hành các hoạt động thanh toán và chuyển đổi ngoại hối; (2)Mở và quản lý các tài khoản bằng ngoại tệ; (3)Thay mặt chủ tài khoản tiến hành các hoạt động thanh toán bằng ngoại tệ; (4)Thanh toán các Séc nhờ thu bằng ngoại tệ; (5)Tham gia mạng Swift quốc tế.
Phòng thanh toán xuất khẩu: Ngân hàng Ngoại thương đóng vai trò là ngân hàng đại lý phục vụ nhà xuất khẩu, thay mặt nhà xuất khẩu yêu cầu thanh toán từ nhà nhập khẩu.
Phòng bảo lãnh: Vietcombank tiến hành thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh rất sớm và hoạt động khá hiệu quả, góp phần đáng kể vào lợi nhuận hàng năm của ngân hàng cũng như nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2.1.3.1. Tình hình chung.
Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới có nhiều biến cố lớn như cuộc khủng khoảng tài chính và tiền tệ năm 1997, đồng tiền chung châu Âu ra đời, sự cố máy tính, sự sáp nhập của các tập đoàn kinh tế, định chế trong hệ thống tài chính ngân hàng thế giới tiếp tục diễn ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư nước ngoài, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nên tốc độ phát triển kinh tế chỉ được duy trì ở mức khiêm tốn. Tuy vậy, cùng với những biện pháp tháo gỡ khó khăn linh hoạt của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì với những cố gắng, nỗ lực lớn lao của mình Ngân hàng Ngoại thương vẫn luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định liên tiếp qua các năm.
Ngoài các hoạt động cho vay thông thường Ngân hàng Ngoại thương đã tăng cường hoạt động qua thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng trưởng lợi nhuận. Trong những năm qua Ngân hàng Ngoại thương luôn phát huy vai trò là một ngân hàng uy tín nhất trong các lĩnh vực tài trợ, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh và các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế, do vậy trong điều kiện cạnh tranh gay gắt Ngân hàng Ngoại thương vẫn giữ vững được thị phần ở mức cao và ổn định.
2.1.3.2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam trong những năm gần đây.
Năm 2003, dưới sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua những biến động phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới, tiếp tục phát triển và duy trì tốc độ tăng trưởng cao (7,24%). Ngành ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ sở tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tế, góp phần ổn định vĩ mô, tạo dựng môi trường tài chính ngân hàng lành mạnh hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn chung năm 2003, các ngân hàng thương mại nói chung và Vietcombank nói riêng đã thận trọng hơn khi xem xét cho vay vì vậy đã làm giảm bớt áp lực cho công tác hoạt động vốn. Lãi suất VND đã chững lại và có xu hướng giảm. Tuy nhiên, lãi suất vốn trên thị trường quốc tế vẫn còn ở mức thấp nên việc hoạt động vốn ngoại tệ còn gặp khó khăn. Trong năm 2003, công tác quản trị vốn đã và đang không ngừng được tăng cường về chất và lượng.
Việc điều hành quản trị lãi suất được thực hiện một cách năng động theo tín hiệu thị trường, cơ chế quản lý vốn tập trung toàn hệ thống được củng cố và phát huy hiệu quả, các hình thức huy động vốn được đa dạng hoá mang tính đặc trưng của Vietcombank (chứng chỉ tiền gửi, lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng SEA Games.....), công tác quản trị thanh khoản đã được nâng cao và được quán triệt trong toàn hệ thống. Nhờ đó, công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả khả quan.
Trong năm 2003, Vietcombank đã tích cực triển khai hàng loạt các sản phẩm được mới dựa trên nền tảng công nghệ cao, định hướng kinh doanh rõ ràng được quán triệt thống nhất trong toàn hệ thống nên đã thu được những kết quả kinh doanh đáng khích lệ.
Nguồn vốn: Tổng nguồn vốn của Vietcombank đến 31/12/2003 đạt 97.320 tỷ quy đồng Việt Nam, tăng 19,42% so với năm 2002, vượt kế hoạch 8% và chiếm 20,3% vốn huy động của toàn ngành ngân hàng.
Vốn huy động:
Cơ cấu nguồn vốn có sự chuyển dịch theo hướng tích cực và phù hợp với định hướng chiến lược của Vietcombank . Đó là, tăng tỷ lệ vốn huy động bằng VND và đặc biệt là tỷ lệ huy động vốn từ nền kinh tế.
Nguồn vốn huy động bằng VND có tốc độ tăng trưởng mạnh (67%), đạt 30.802 tỷ VND, chiếm 43% tổng nguồn vốn so với 33% năm 2002. Ngược lại, nguồn vốn ngoại tệ chỉ tăng 8% so với năm 2002, đạt 41.007 tỷ VND.
Sự tăng trưởng chậm vốn ngoại tệ chủ yếu là do 3 nguyên nhân: (i) nguồn vốn huy động ngoại tệ từ dân cư giảm do lãi suất ngoại tệ tiếp tục duy trì ở mức thấp; (ii) nhập siêu của nền kinh tế vẫn còn cao; (iii) cạnh tranh lãi suất huy động vốn gay gắt giữa các ngân hàng thương mại.
Vốn chủ sở hữu.
Vào thời điểm 31/12/2003 - thời điểm xây dựng Đề án tái cơ cấu - vốn chủ sở hữu của Vietcombank là 1.893 tỷ đồng (trong đó vốn Điều lệ được cấp là 1.100 tỷ), chiếm 2,8% tổng tài sản.
Hệ số an toàn tối thiểu của Vietcombank thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn vì vậy việc bổ sung vốn trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với Ngân hàng. Từ khi bắt đầu thực hiện Đề án đến nay, Vietcombank đã được Chính phủ cấp thêm 1.400 tỷ vốn Điều lệ dưới dạng trái phiếu đặc biệt (năm 2002: 1000 tỷ VND, năm 2003: 400 tỷ VND).
Hoạt động tín dụng: Thực hiện chủ trương của Ban lãnh đạo " Năm 2003 năm tăng cường kiểm tra, kiểm soát nâng cao chất lượng tín dụng ", Vietcombank đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của toàn hệ thống.
Tính đến 31/12/2003, tổng dư nợ tín dụng của Vietcombank là 39.269 tỷ VND, tăng 35,2% so với năm 2002, vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra từ đầu năm (27,1%).
Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng tiếp tục thay đổi tích cực và an toàn theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đố với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (tỷ trọng dư nợ tín dụng khu vực Nhà nước chiếm 60,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 12,6%, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 26,6%). Tuy nhiên, tổng dư nợ của NHNTVN chỉ chiếm 10,9% tổng dư nợ của toàn nghành ngân hàng.
Tỷ trọng dư nợ bằng ngoại tệ chiếm 46,5%, tăng 47,4%. Dư nợ tín dụng bằng VND tăng 23,8% so với năm 2002. Sự thay đổi tỷ trọng dư nợ này phù hợp với cơ cấu nguồn vốn của NHNTVN và tăng hiệu quả sử dụng vốn khi lãi suất tiền gửi ở nước ngoài vẫn còn ở mức thấp. Dư nợ ngắn hạn tính đến 31/12/2003 đạt 21.772 tỷ VND, chiếm tỷ trọng khá cao (55%) trong tổng dư nợ, tăng 37,2% so với năm 2002. Nợ ngắn hạn sử dụng chủ yếu để thu mua thuỷ sản, sắt thép, phân bón, gạo, xăng dầu và cho mục đích tiêu dùng. Dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 17.485 tỷ VND, chiếm 45% tổng dư nợ, tăng 41% so với năm trước. Dư nợ tăng thêm chủ yếu do giải ngân các dự án đã ký trước đây của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các dự án cơ sở hạ tầng và cho vay mới nhà máy Xi măng Chinfon.
Trong 3 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu, NHNTVN đã vận dụng tổng hợp nhiều giải pháp như dùng Quỹ dự phòng rủi ro, khai thác và bán các tài sản xiết nợ, tích cực thu nợ trực tiếp từ khách hàng, giãn nợ, tham gia vốn cổ phần để xử lý nợ tồn đọng. Tính đến cuối năm 2003, nợ quá hạn đối với các khoản vay hiện hành chỉ chiếm 2,2% tổng dư nợ, so với 2,8% năm 2002 và mức trung bình của ngành ngân hàng. Nợ quá hạn tồn đọng về cơ bản đã được xử lý, giảm từ 1.035 tỷ năm 2002 xuống 372 tỷ năm 2003.
Thanh toán quốc tế vẫn tiếp tục là thế mạnh của NHNTVN. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2003 đạt gần 12,5 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 28% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước.
Phát triển mới trên nền tảng công nghệ hiện đại.
Củng cố nền tảng công nghệ.
Trong nhiều năm qua, nền tảng công nghệ của NHNTVN đã không ngừng được củng cố và phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế Swift và hệ thống thẻ tín dụng bắt đầu được triển khai vào những năm 90 của thế kỷ trước, sản phẩm ngân hàng lõi VCB Vision 2010 được chính thức đưa vào sử dụng trong toàn hệ thống vào năm 2001, được ngân hàng trực tuyến VCB Online, hệ thống thẻ ghi nợ BCV Connect-24 được đưa vào năm 2002.
Năm 2003, NHNTVN tiếp tục phát triển nền tảng công nghệ của mình bằng việc tiếp tục triển khai và hoàn thành Dự án Hiện đại hoá Ngân hàng và Hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ (Dự án WB). Đây là dự án công nghệ lớn nhất từ trước đến nay của NHNTVN, có phạm vi bao trùm mọi hoạt động của ngân hàng.
Phát triển sản phẩm mới.
NHNTVN hiện chiếm 50% thị phần thanh toán thẻ và 40% thị phần phát hành thẻ quốc tế. Trong năm 2003, NHNTVN đã được tổ chức thẻ quốc tế VISA trao giải " Ngân hàng đứng đầu thị trường 2003".
Năm 2003, NHNTVN phát hành được 123.964 thẻ VCB Connect24, tăng 4 lần so với năm 2002, nâng tổng số thẻ lên 153.313 thẻ, đồng thời phát hành được 9.832 thẻ VCB Visa và VCB Master, tăng 28% so với năm 2002. Riêng với thẻ VCB Amex, NHNTVN mới chỉ bắt đầu phát hành trong năm 2003 nhưng đã thu được kết quả khá khả quan, đạt 1.044 thẻ. Ngân hàng cũng ký liên minh thẻ với 11 ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam sử dụng hệ thống máy ATM, nhằm kết nối hệ thống ATM giữa các ngân hàng mở rộng tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng, tăng hiệu quả kinh doanh cho các ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư cho toàn xã hội.....
Kết quả kinh doanh: Tổng thu nhập của Ngân hàng đạt 5.046 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2002. Trong đó, thu lãi tiền gửi, tiền cho vay tăng 21% và chiếm tỷ trọng hơn 80% thu nhập. Thu nhập ngoài lãi tăng 52% do cácc chi nhánh tích cực đòi các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Ngoài ra, thu nhập tăng còn do thu lãi về hoạt động kinh doanh tăng 49%, thu dịch vụ ngân hàng tăng 30% so với năm 2002.
Tổng chi phí đạt 4.169 tỷ đồng, tăng 13% so với năm 2002. Một số khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng chi phí tăng mạnh là: chi trả lãi tiền gửi, tiền vay chiếm 70% tổng chi, tăng 17%, chi nghiệp vụ kinh doanh chiếm 6% tổng thu nhập, tăng 51%. Lợi nhuận trước thuế năm 2003 đạt 877 tỷ đồng, tăng 167% so với năm 2002.
2.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2.2.1. Thủ tục phát hành thẻ.
Thẻ tín dụng quốc tế: là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng từ lâu trên thế giới. Bằng các hình thức đảm bảo như tín chấp, thế chấp, chủ thẻ có thể phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các điểm bán hàng có chấp nhận thẻ và có thể rút tiền mặt. Đặc điểm của thẻ là “chi tiêu trước, trả tiền sau”, nghĩa là khi chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán hàng hóa và dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ thì thẻ được coi là cam kết của ngân hàng sẽ thanh toán cho đơn vị chấp nhận thẻ; khi chủ thẻ thực hiện giao dịch ứng tiền mặt tức là chủ thẻ đã nhận được một khoản vay từ ngân hàng; chủ thẻ chỉ phải thanh toán số tiền giao dịch cho ngân hàng sau khi nhận được sao kê thẻ tín dụng từ ngân hàng và chủ thẻ được miễn lãi nếu trả được tiền đúng thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được sao kê. Thẻ tín dụng quốc tế có thời gian ân hạn từ 16 – 45 ngày ._.nh toán thẻ, là nơi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và là nơi bắt đầu của nghiệp vụ thanh toán thẻ. Do đó, khi càng có nhiều cơ sở chấp nhận thẻ tại nhiều nơi và thuộc nhiều loại hình kinh doanh khác nhau thì sự tiện ích của việc sử dụng thẻ càng tăng. Vì vậy, NHNTVN muốn cạnh tranh được với các ngân hàng khác về loại hình dịch vụ này thì phải:
Trang bị đầy đủ các máy móc thiết bị, nên trang bị máy POS thay vì dùng máy chà hoá đơn, vừa để an toàn cho CSCNT vừa tạo được sự yên tâm cho khách hàng.
Cần có quy chế trích thưởng hay chương trình khuyến mãi nhằm khuyến khích các CSCNT đạt doanh số lớn. Đặc biệt là mạng thanh toán phải luôn ổn định, cung cấp cho khách hàng một được thanh toán tốt nhất.
Giải quyết cho các CSCNT mới được mở tài khoản mà không cần nộp tiền đảm bảo số dư tối thiểu của tài khoản. Trường hợp CSCNT nào cần rút hết tiền cũng nên chấp nhận cho họ rút hết số dư.
Thành lập bộ phận chăm sóc khách hàng có nhiệm vụ phát đầy đủ bản tin cảnh giác, trực tiếp thu hoá đơn tại các CSCNT, thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng máy móc.
Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ thẻ cho các CSCNT để giúp họ giải đáp những vướng mắc trong thanh toán.
Mở rộng các CSCNT sang các ngành khác không chỉ trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng khách sạn truyền thống như hiện nay, xây dựng một mạng lưới CSCNT vệ tinh phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ như: bưu điện, trạm ban xăng dầu, đưồng sắt, hãng bảo hiểm, cửa hàng thời trang, đồ gia dụng, hãng taxi.....
Xây dựng và thực hiện các chiến dịch quảng cáo, tiếp thị một cách tổng thể, có kế hoạch và thường xuyên hơn.
Có sự phối hợp đồng bộ các bộ phận nghiệp vụ tạo hậu thuẫn cho việc mở rộng các CSCNT, chẳng hạn như một trong những điều kiện cho các đơn vị kinh doanh vay vốn là đơn vị đó phải là đại lý thanh toán thẻ cho ngân hàng.
Thường xuyên thăm CSCNT và tổ chức thăm dò ý kiến khách hàng.
Cần phải làm cho các CSCNT nhận thức được rằng chấp nhận thanh toán thẻ là để tăng nguồn thu qua bán hàng, từ đó cần tránh phân biệt đối xử với khách hàng, tránh lợi dụng thu thêm phí thanh toán hoặc ép khách hàng thanh toán bằn ngoại tệ để hưởng chênh lệch giá.
3.3.3. Hoàn thiện công tác bảo mật và hạn chế rủi ro.
Hoàn thiện công tác bảo mật
Một trong những công tác giúp tăng uy tín cho ngân hàng và tăng độ tin cậy cho khách hàng về thẻ thanh toán là việc đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin. Để đảm bảo an toàn cho khách hàng khi sử dụng thẻ, NHNTVN cần phải phối hợp với các Tổ chức thẻ quốc tế và các công ty cung cấp phần mềm để xây dựng những chương trình quản lý và bảo mật thông tin cho khách hàng khi tham gia vào dịch vụ thẻ. Đặc biệt, ngân hàng cần giữ bí mật một số khóa bảo mật, quan trọng nhất là khóa PIN của khách hàng.
Hạn chế rủi ro
Trong kinh doanh thẻ, ngoài các yếu tố rủi ro như mọi nghiệp vụ khác còn bị các nhóm tội phạm luôn rình rập để có thể khai thác và gây tổn thất cho các ngân hàng thông qua việc sử dụng thẻ giả, thẻ bị ăn cắp thông tin,... Gần đây nhất, bọn tội phạm đã sử dụng BIN của một số ngân hàng nước ngoài để làm thẻ giả và đem vào sử dụng, thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ ở Việt Nam. Vì vậy, ngân hàng cần phải:
Trước tiên là phổ biến rộng rãi các quy định về sử dụng, thanh toán thẻ cho các chủ thẻ, tập huấn và cập nhật thường xuyên kiến thức nghiệp vụ, các quy định của từng Tổ chức thẻ quốc tế cho đơn vị chấp nhận thẻ và các cán bộ nghiệp vụ liên quan để thực hiện đúng quy định.
Tập trung phối hợp với các Tổ chức thẻ quốc tế và cơ quan an ninh quốc tế để phòng và chống bọn tội phạm trong lĩnh vực thẻ.
Hạn chế rủi ro trong việc phát hành và sử dụng thẻ: cán bộ phát hành phải kiểm tra, xác minh các thông tin phát hành thẻ và các thông tin của khách hàng một cách kỹ lưỡng bằng nhiều hình thức.
Mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ hoặc trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp cho các rủi ro phát sinh từ nghiệp vụ phát hành thẻ.
Tìm hiểu kỹ đơn vị chấp nhận thẻ trước khi tiến hành ký kết hợp đồng thanh toán thẻ, đặc biệt là về tư cách, hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính của đơn vị chấp nhận thẻ.
Hạn chế rủi ro nội bộ: thường xuyên kiểm tra hệ thống máy tính của mình, đảm bảo tính hoạt động liên tục và ổn định; tăng cường kiểm soát các bước thực hiện nghiệp vụ của cán bộ; hạn chế tối đa tình trạng trục trặc kỹ thuật trong hệ thống và phải có biện pháp xử lý kịp thời khi có sự cố xảy ra.
3.3.4. Cải tiến công nghệ và kỹ thuật.
áp dụng công nghệ tiên tiến: Đây chính là một tiền đề hết sức quan trọng để ngân hàng tiếp tục triển khai một loạt các ứng dụng công nghệ tiên tiến như ngân hàng điện tử, mở rộng hệ thống rút tiền tự động ATM, tăng cường hệ thống thông tin quản lý (MIS), ứng dụng các chuẩn mực hệ kế toán quốc tế. Trong đó, ngân hàng điện tử cần được ứng dụng trong việc cung cấp dịch vụ thẻvì nó rất tiện ích cho khách hàng, có thể ngồi tại nhà thực hiện các giao dịch thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc trả các khoản chi phí phát sinh thường xuyên.... qua mạng. Đặc biệt, khi các biện pháp hỗ trợ bán phát triển thì đây là phương thức thanh toán tiện lợi cho cả chủ thẻ và cơ sở chấp nhận thẻ. Tuy nhiên, để tạo lòng tin cho khách hàng khi sử dụng phương thức thanh toán qua mạng trực tuyến này, ngân hàng cần có giải pháp kỹ thuật bảo mạtt an toàn nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ thẻ tham gia thanh toán thẻ qua mạng.
Trang thiết bị đồng bộ: Với nhận thức công nghệ là nền tảng quan trọng để mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển sản phẩm mới và đưa các sản phẩm ngân hàng hiện đại trên thế giới áp dụng vào hoạt động ngân hàng, nên tiện ích của thẻ ngân hàng sẽ được tạo ra và gắn liền với các thành tựu công nghệ thông tin. Tuy nhiên, công nghệ thông tin lại phát triển rất nhanh, nhiều kỹ thuật được coi là tiên tiến cách đây vài năm nhưng nay đã trở thành lỗi thời. Công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực thẻ ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Trước đây, công nghệ thẻ từ là giải pháp kỹ thuật chính sử dụng trong thẻ. Nhưng đến nay, với công nghệ vi mạch điện tử, thẻ thông minh (Smart Card) ra đời có ưu việt trong chống giả mạo đã gây được lòng tin trong giới kinh doanh thẻ. Với mỗi kỹ thuật chế tạo thẻ (từ tính hay vi mạch điện tử) đều có một hệ thống thiết bị đầu cuối phục vụ cho quá trình lưu hành (máy kiểm tra, máy ATM, máy POS....). Nhiều ngân hàng nước ngoài trước đây đã bỏ ra những khoản đầu tư khổng lồ để phát triển hệ thống đầu cuối sử dụng thẻ từ, giờ đây khi thẻ thông minh thay thế, sự thay đổi kéo theo một chi phí quá đắt. Đây là một bài học lớn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói riêng. Vậy với lợi thế của người đi sau có điều kiện tiếp thu những công nghệ mới nhất của các nước đi trước, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam cần biết lựa chọn phát triển hệ thống máy móc thiết bị đầu cuối theo hướng tương thích vói hệ thống của thế giới. Cụ thể cần coi trọng sự đồng bộ của hệ thống kỹ thuật bao gồm việc trang bị hệ thống máy kiểm tra, ATM, POS với loại thẻ thanh toán lựa chọn là công nghệ thẻ vi mạch điện tử để đẩm bảo tương thích với hệ thống của thế giới.
Thiết lập hệ thống dự phòng cho dịch vụ thẻ: Đối với dịch vụ thẻ, tiêu chuẩn về độ chính xác và thời gian xử lý giao dịch của khách hàng là rất quan trọng, đặc biệt đối với những giao dịch do khách hàng tự thực hiện. Với đặc tính máy in thẻ là một loại máy đặc chủng, gặp sự cố rất khó khắc phục - Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã có thời máy bị hỏng 2 tháng liền nên làm ảnh hưởng đến tình hình phát hành thẻ của ngân hàng. Do vậy, ngân hàng cần suy nghĩ đến việc trang bị máy dự phòng để thay thế kịp thời khi có sự cố xảy ra.
3.3.5. Đẩy mạnh công tác tiếp thị và có chính sách khách hàng phù hợp.
Để có một chính sách khách hàng phù hợp và hiệu quả, ngân hàng cần phải phân đoạn thị trường và xác định đối tượng khách hàng của từng đoạn thị trường, cụ thể:
Đối với khách hàng truyền thống: Là những khách hàng đã từng có quan hệ lâu dài với ngân hàng và có doanh số thanh toán thẻ cao. Với đối tượng khách hàng này, ngân hàng cần có chính sách ưu đãi đặc biệt dưới hình thức khuyến mãi, trao thưổng hoặc cung cấp một số ưu đãi khi khách hàng sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như về tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu.... Ngoài ra ngân hàng cần quan tâm đến việc trang bị đầy đủ máy móc, có chươnguồn vốn trình bảo dưỡng thường xuyên nhằm đảm bảo máy móc luôn hoạt động tốt. Mặc dù những việc này NHNTVN cũng đã thực hiện nhưng chưa thành chương trình hoạt động thường xuyên, liên tục. Do vậy, ngân hàng cần phải có chương trình khuyến mãi cụ thể thông báo cho từng khách hàng và thực hiện một cách thường xuyên, ngoài ra, cần phải luôn thăm hỏi, chăm sóc khách hàng, có như vậy mới giữ chân được khách hàng.
Đối với khách hàng chiến lược: Ngân hàng cần củng cố và xây dựng mối quan hệ với các đối tác chiến lược gồm: Hãng hàng không, Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, các hãng bảo hiểm như Bảo Việt, Prudential..., Tổng công ty xăng dầu, các công ty du lịch, lữ hành, các công ty thương mại dịch vụ... Trước hết đây là những công ty lớn, hoạt động kinh doanh có uy tín, thu nhập của nhân viên cao và ổn định nên trước tiên ngân hàng có thể khai thác đối tượng sử dụng thẻ là nhân viên của chính các công ty này. Ngoài ra, đây là những công ty hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tiêu dùng cho cá nhân và có lưu lượng khách hàng giao dịch lớn, nên ngân hàng có thể chọn làm đại lý thanh toán thẻ hoặc địa điểm để đặt máy ATM. Với khách hàng này, cần khẩn trương đặt vấn đề cung cấp dịch vụ thẻ với họ, giải thích cho họ hiểu rõ những tiện ích mà thẻ mang lại, đồng thời cũng phải có chính sách khuyến mãi hấp dẫn trong giai đoạn đầu khi họ sử dụng dịch vụ thẻ của ngân hàng.
Đối với khách hàng tiềm năng: Đây là những khách hàng trong tương lai sẽ sử dụng dịch vụ thẻ gồm học sinh, sinh viên..... đây là đối tượng có trình đọ hiểu biết về công nghệ hiện đại và nắm bắt nhanh những tiện ích của nền công nghệ ứng dụng. Tuy nhiên, hiện tại họ chưa có thu nhập nên chưa có nhu cầu sử dụng dịch vụ thẻ nhưng chắc chắn trong tương lai họ sẽ là khách hàng tích cực sử dụng dịch vụ thẻ. Với đối tượng khách hàng này, ngân hàng nên dùng hình thức tuyên truyền kiến thức về dịch vụ thẻ thông qua các khoá nói chuyện chuyên đề để họ có kiến thức và gây được hình ảnh về thẻ.
3.3.6. Nâng cao chất lượng và trình độ của cán bộ ngân hàng.
Bất kể công việc gì dù khó khăn đến đâu nhưng đều có thể khắc phục được nếu có nhân tố “con người”. Con người sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của công việc đó. Hiện nay, cán bộ thẻ của NHNTVN đa phần còn rất trẻ và năng động. Tuy nhiên, họ vẫn còn thiếu kinh nghiệm của một nhà kinh doanh giỏi. Do đó, ngân hàng cần chú trọng tới công tác đào tạo cho cán bộ. Cụ thể là:
Thành lập một bộ phận nghiên cứu và phát triển sản phẩm chuyên biệt gồm một số cán bộ phòng thẻ và trung tâm tinhọc, thực hiện chức năng nghiên cứu mở rộng các tiện ích sản phẩm cũng như nghiên cứu các sản phẩm thẻ mới.
Tổ chức đào tạo cán bộ tiếp thị đảm bảo có kiến thức marketing cần thiết về dịch vụ thẻ. Đội ngũ tiếp thị này phải có thể chương trình chăm sóc khách hàng thường xuyên, đặc biệt đối với các cơ sở chấp nhận thẻ truyền thống để lắng nghe ý kiến khách hàng nhằm phục vụ ngày một tốt hơn, nhất là trong điều kiện đang ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ thẻ thì việc tranh giành rất dễ xảy ra.
Đào tạo kiến thức cơ bản về tin học và công nghệ thông tin cho cán bộ nghiệp vụ, chú trọng bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận nghiên cứu phát triển. Đối với bộ phận quản lý rủi ro, các cán bộ này phải liên tục cập nhật các thông tin về thẻ giả mạo qua hệ thống mạng hoặc các phương tiện truyền thông quốc tế để có kiến thức phổ biến cho các cơ sở chấp nhận thẻ phòng ngừa và hạn chế bớt rủi ro có thể xảy ra.
Đào tạo kiến thức quản trị hệ thống tin học và công nghệ thông tin cho cán bộ quản lý.
Đào tạo kiến thức vận hành, sử dụng và bảo quản các thiết bị chuyên dụng.
Định kỳ tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ thẻ để cập nhật cá ứng dụng mới của dịch vụ thẻ và trao đổi các vấn đề mới phát sinh cho cán bộ xử lý nghiệp vụ.
Xây dựng tiêu chí đánh giá trình độ nghiệp vụ và tốc độ xử lý công việc của các nhân viên theo từng bộ phận xử lý công việc như thời gian duyệt hồ sơ phát hành thẻ, thời gian gửi thẻ cho khách hàng, thời gian trả lời thông tin về tài khoản.... nhằm tạo cho khách hàng sự hài lòng nhất.
3.4. Một số kiến nghị.
3.4.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước.
3.4.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quy định về nghiệp vụ thẻ.
Việc xây dựng, củng cố môi trường pháp lý là hết sức cần thiết vì chúng ta vẫn chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho việc phát hành và thanh toán thẻ quốc tế. Hiện nay Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt ban hành ngày 25/11/1993 đã không còn phù hợp so với thực tế bởi các hình thức thanh toán qua Email, qua Internet không thuộc phạm vi điều chỉnh của nó. Mặc dù Thống đốc NHNNVN đã ban hành quy chứ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng số 371/1/1999/QĐ/NHNN1 ngày 19/1/1999, quy chế này vẫn còn những bất cập về phương diện kỹ thuật trong thanh toán thẻ mang tính cơ bản, chưa được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp quy.
Về nghị định thanh toán: Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời từ năm 1993 căn cứ vào pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Hiện nay luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã ban hành thay thế các pháp lệnh nói trên. đây chính là cơ sở pháp lý cần thiết để thay đổi lại Nghị định 91, cụ thể là:
- Việc thấu chi trên tài khoản tiền gửi: Nghị định 91/CP nghiêm cấm để dư nợ tài khoản tiền gửi. Nhưng hiện nay các dịch vụ về ngân hàng đã phát triển hơn nhiều so với trước, phục vụ khách hàng thuận tiện hơn trong khi vẫn quản lý được khách hàng trong chừng mực cho phép nên việc cho phép các đơn vị có tín nhiệm có thể thấu chi trên tài khoản của họ theo thoả thuận ở một mức độ nhất sẽ tạo điều kiện phục vụ tốt hơn cho đơn vị, đồng thời làm cho dòng thanh toán qua ngân hàng không bị ùn tắc, nhất là trong thanh toán điện tử phát triển.
- Về các phương thức thanh toán trong Nghị định 91/CP đưa ra và trong Quyết định 22/QĐ-NH1 hướng dẫn đến nay chưa cập nhật một số thể thức thanh toán mới xuất hiện như: chuyển tiền điện tử...
- Về khuyến khích các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt: cần bổ xung các quy định hạn chế sự thanh toán bằng tiền mặt trong nghị định thanh toán. Điều này làm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, giữ vững tính định hướng trong quản lý kinh tế của Nhà nước và góp phần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán thẻ nói riêng.
Về Quyết định 371/1/1999/QĐ/NHNN1: việc xử lý các vi phạm có liên quan đến thẻ sẽ làm cho khách hàng tin tưởng và an tâm trong việc sử dụng thẻ, từ đó chiến lược Marketing thẻ của ngân hàng trở nên có hiệu quả hơn và dịch vụ thẻ trở nên phổ biến và quảng đại quần chúng.
- Trong kinh doanh thẻ ngoài yếu tố rủi ro như mọi nghiệp vụ khác còn bị các nhóm tội phạm luôn rình rập để có thể khai thác và gây tổn thất cho các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng mới tham ra nghiệp vụ này thông qua việc sử dụng thẻ giả, thẻ bị ăn cắp thông tin,... Hoặc cũng có trường hợp nhân viên CSCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ. Vấn đề này xảy ra sẽ làm mất uy tín, thiệt hại cho cả người sử dụng và ngân hàng. Do vậy Nhà nước phải có mức độ xử lý đối với những trường hợp làm thẻ giả và thông qua cơ quan có thẩm quyền thi hành án một cách nghiêm minh. Chẳng hạn như ở Pháp khi phát hiện làm thẻ giả, tuỳ theo mức nặng nhẹ sẽ phạt tù ở mức cao nhất là 7 năm tù.
- Chúng ta nên tiêu chuẩn hoá các đặc điểm về thẻ giả mạo để tạo điều kiện cho cơ quan hữu quan (như các cơ quan Interpol Việt Nam, cơ quan điều tra xét hỏi...) giúp cho nghiệp vụ thẻ an toàn.
Ban hành các quy định mới: Dịch vụ rút tiền tự động ATM đã phát triển khá mạnh và gần như khá ồ ạt trong vài năm trở lại đây. Nhưng cho tới nay, ngân hàng Nhà nước vẫn chưa ban hành Quy chế hay Quy định nào về dịch vụ ATM. Mặc dù các Ngân hàng thương mại có thể áp dụng theo Quy chế về thẻ ngân hàng, ban hành kèm theo Quyết định số 371/1999/NHNN5, nhưng dịch vụ ATM liên quan đến vấn đề chấp nhận chứng từ điện tử trong giao dịch mà hiện nay chưa có văn bản pháp lý điều chỉnh nào cả.
Bên cạnh đó, trước sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, đặc biệt là mạng Internet giúp mọi người có thể dễ dàng mua sắm, trao đổi, giao dịch một cách tiện lợi. Vậy khi ứng dụng việc thanh toán thẻ qua mạng Internet sẽ đòi hỏi phải có quy định về pháp lý và chứng từ điện tử. Điều này đòi hỏi ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu và sớm ban hành quy chế cụ thể về chứng từ điện tử để các ngân hàng thương mại có cơ sở thực hiện.
3.4.1.2. Thành lập trung tâm thanh toán bù trừ cho các giao dịch thẻ.
Thực tế hiện nay, các ngân hàng quản lý phát hành và thanh toán thẻ theo mạng riêng của mình, điều này có lợi là phù hợp với kinh phí đầu tư thiết bị công nghệ của từng ngân hàng nhưng có một bất cập là nó không tạo điều kiện thực hiện thống nhất các giao dịch về thẻ và phát sinh những phí tổn không cần thiết. Đơn cử là nếu thẻ ANZ Access Card được đem rút tiền ở máy ATM của VCB, khi đó giao dịch thanh toán giữa VCB và ANZ phải thực hiện thông qua trung tâm thanh toán của tổ chức thẻ quốc tế MasterCard và phải chịu một khoản phí do tổ chức này quy định, chưa kể tiền chênh lệch do hai lần chuyển đổi ngoại tệ. Rõ ràng điều này là phức tạp hoá giao dịch và tăng chi phí. Hơn nữa, một số loại thẻ ghi nợ nội địa không nối mạng quốc tế như thẻ Connect 24 của VCB chỉ có thể rút tiền tại máy ATM của VCB mà thôi.
Như vậy với xu hướng phát triển thẻ như hiện nay, rất cần thiết phải thành lập một trung tâm thanh toán bù trừ riêng cho các giao dịch thẻ trong nước. Trung tâm này sẽ là đầu mối để quản lý mạng xương sống, thông qua đó nối kết các loại thẻ khác nhau, các dịch vụ của những ngân hàng khác nhau.
3.4.1.3. Quảng bá, phổ cập kiến thức về thẻ và sử dụng thẻ.
Trong những năm 2000 trở lại đây, thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam càng có những biến đổi tích cực. Tuy vậy công chúng đón nhận thẻ ngân hàng không nồng nhiệt như đón nhận các sản phẩm công nghệ khác như Internet và Mobiphone... do việc giới thiệu sản phẩm tài chính này vào thị trường chưa được đầu tư đúng mức. Khái niệm thẻ ngân hàng tuy không con xa lạ đối với công chúng nhưng vẫn chưa thực sự quen thuộc. Điều này cho ta thấy việc quảng cáo sản phẩm này chưa rầm rộ, không có một chiến lược để cho mọi người dân có những hiểu biết nhất định cần có trong giai đoạn đầu chu kỳ sống của mỗi sản phẩm mới. Độ dài của khoảng thời gian này còn phụ thuộc nhiều vào chúng ta. Chúng ta cần có đầu tư thoả đáng vào giai đoạn này thì sản phẩm mới đạt được sự tăng trưởng mong muốn ở các giai đoạn tiếp sau. Đối với công việc quảng cáo, với một sản phẩm thì việc này cần phải thực hiện trước khi sản phẩm ra đời. Nhưng tăng trưởng đã thấy việc quảng cáo sản phẩm này còn chậm và yếu, mới chỉ sử dụng hình thức cổ điển như bìa, áp phích... Các ngân hàng phải đầu tư một khoản tiền để xây dựng và in đậm sản phẩm thẻ vào suy nghĩ của dân chúng bằng phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra cần đặt các Cartalogue, áp phích tại trung tâm công cộng có lượng người qua lại nhiều, tại các khu vực hay nơi tổ chức các hội thảo thương mại, kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước cũng nên phối hợp với hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ, các tổ chức thẻ quốc tế và một số nghành chức năng liên quan để triển khai chương trình quốc gia giới thiệu và tuyên truyền về thẻ tín dụng quốc tế giúp thay đổi dần thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán của mọi tầng lớp dân cư.
3.4.2. Đối với các Bộ, ngành có liên quan.
Tuy không trực tiếp đưa ra những chính sách, quy định hỗ trợ nghiệp vụ thanh toán thẻ những các Bộ, ngành cũng cần có những biện pháp để giúp đỡ các ngân hàng thực hiện tốt hoạt động của mình để cùng nhau phối hợp đấu tranh chống gian lận. Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh thuộc nghành nào cũng hàm chứa rủi ro. Hoạt động kinh doanh thẻ của các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Điều cơ bản là các tổ chức, ngân hàng kinh doanh thẻ phải nghiên cứu, phân tích, học hỏi và phối hợp với nhau để có thể đương đầu với những rủi ro và phòng ngừa nguy cơ rủi ro bằng những biện pháp kỹ thuật và nghiệp vụ thích hợp một cách hiệu quả. Tuy nhiên trong thực tế có những rủi ro vượt quá tầm kiểm soát của ngân hàng. Đó là hành động giả mạo thẻ và các giao dịch thẻ giả đều là hành vi của bọn tội phạm nắm được công nghệ cao. Do đó việc các ngân hàng kết hợp với nhau để chống lại tội phạm nay là chưa đủ mà cần phải phối hợp lực lượng công an kinh tế. Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một hành lang pháp lý nào điều chỉnh hành vi giả mạo liên quan đến thẻ ngân hàng. Do vậy cần đưa ra những điều luật xử phạt đối với hành vi gian lận của loại tội phạm này.
3.4.3. Đối với Nhà nước.
3.4.3.1. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi.
Để hoạt động thanh toán thẻ phát triển, Nhà nước cần sớm có luật thanh toán để phù hợp hơn với thực tiễn.
Để đảm bảo việc sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng tuân thủ theo chế độ quản lý ngoại hối hiện hành, Nhà nước có thể ban hành chi tiết việc quản lý thẻ chi tiêu bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Trong đó, Nhà nước cần quy định rõ trách nhiệm của chủ thẻ khi mang thẻ ra khỏi quốc gia và trang bị các phương tiện cho ngân hàng phát hành xác định hạn mức của thẻ mang qua biên giới.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi có tranh chấp phát sinh, Nhà nước cần sớm ban hành các quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong sử dụng thẻ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ luật hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ giả, cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ, gian lận trong thanh toán thẻ để ngăn chặn và phòng ngừa
3.4.3.2. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Hiện nay, ý thức của người dân Việt Nam chưa cao. Nhiều trạm điện thoại công cộng hay thậm chí là những khu cảnh quan cũng bị những kẻ thiếu ý thức phá phách, làm hư hại. Các máy ATM của các NHTM nói chung và của NHNTVN nói riêng cũng trong tình trạng đó, gây tổn thất rất nhiều cho các ngân hàng. Vì vậy, Nhà nước cần có biện pháp xử lý những kẻ gây rối và phá phách, đồng thời phối hợp với cơ quan địa phương có biện pháp giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân.
3.4.3.3. Đầu tư công nghệ và thi hành các chính sách thuế ưu đãi.
Khi mới bắt đầu tham gia vào lĩnh vực thẻ, các NHTM nói chung và
NHNTVN nói riêng đều phải dành một nguồn vốn lớn để đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị hiện đại như máy ATM, các máy đọc thẻ...
Kết luận
Có thể nói, yêu cầu đặt ra cho hệ thống ngân hàng Việt Nam là hết sức nặng nề trước bối cảnh nền kinh tế thị trường còn nhiều khó khăn. Để hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, cần phải mở rộng dịch vụ ngân hàng, đưa sản phẩm ngân hàng, đưa văn minh thanh toán tới mọi nhà và mọi người.
Để thực hiện được điều đó, Ban lãnh đạo NHNTVN ngay từ năm 2000 đã xác định: “đẩy mạnh dịch vụ thẻ ngân hàng, coi đây là một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu khách hàng cũng như cơ cấu sản phẩm của NHNTVN”. Được phát triển trên nền tảng công nghệ tiên tiến, dịch vụ thẻ của ngân hàng trong những năm vừa qua đã thực sự khởi sắc và đạt được những thành công ban đầu. Tuy nhiên, giữ vai trò là ngân hàng đầu tiên tham gia vào nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Việt Nam nên NHNT còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Đó là: dịch vụ thẻ còn chưa phổ biến, công tác Marketing chưa được chú trọng, chất lượng dịch vụ chưa đồng đều, đầu tư nguồn lực chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng của sản phẩm dịch vụ, rủi ro cao, công tác phát triển mạng lưới còn yếu.
Từ thực tiễn đó, tôi xin đưa ra một số giải pháp để phát triển nghiệp vụ thanh toán thẻ tại NHNT VN trở nên hoàn thiện hơn.
Thứ nhất : Giải pháp về hoạt động Marketing ngân hàng
Thứ hai : Mở rộng mạng lưới
Thứ ba : Hoàn thiện công tác bảo mật và hạn chế rủi ro
Thứ tư : Cải tiến công nghệ và kỹ thuật
Thứ năm : Thay đổi hạn mức tín dụng và mức phí giao dịch
Thứ sáu : Nâng cao chất lượng và trình độ của cán bộ ngân hàng
Với những giải pháp chiến lược đưa ra, em thực sự hy vọng sẽ được phát huy để khắc phục các mặt còn tồn tại, góp phần hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thẻ của NHNT VN cũng như của thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam trên chặng đường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo
TS Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê.
TS Phan Thị Thu Hà - TS Nguyễn Thị Thu Thảo, 2002, Giáo trình ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống Kê.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2001, 2002, Báo cáo thường niên.
Lê Văn Tề, 1999, Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán quốc tế tại Việt Nam, NXB Trẻ.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, 1993, Văn bản chế độ nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, Hà Nội.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, 2003, Báo cáo hoạt động thẻ năm 2003.
Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN (19/10/1999) về Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng.
http:// www. acbbank. com.vn
http:// www. vietcombank. com.vn
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, 2003, Báo cáo thường niên 2003.
Danh mục các chữ cái viết tắt
NHNTVN/ VCB/ Vietcombank: Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
ĐVCNT: Đơn vị chấp nhận thẻ
PIN: Personal Identification Number - Mã số cá nhân
TCTQT: Tổ chức thẻ quốc tế
BIN: Bank Identification Number - Mã số ngân hàng
ATM: Automated Teller Machine - Máy rút tiền tự động
CAT: Card Authorisation Terminal - Máy cấp phép tự động
EDC: Electric Data Capturer - Máy thanh toán thẻ tự động
ACB: Ngân hàng thương mại Cổ phần á châu
VBARD/ Agribank: NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
ANZ: Ngân hàng Australia và New Zealand
BIDV: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
EXIMBANK: NH Cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam
HSBC: Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải
EPS: Easy Pay System
NAC: Network Access Controller
ICB: Ngân hàng Công thương Việt Nam
Techcombank: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
UOB: United Oversea Bank
Mục lục
lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề chung về nghiệp vụ thanh toán thẻ của Ngân hàng thương mại 3
1.1. Tổng quan về hoạt động của NHtm 3
1.1.1. Khái niệm và các loại hình Ngân hàng thương mại 3
1.1.2. Các chức năng của Ngân hàng thương mại 4
1.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ của NHTM 6
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán 6
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ thanh toán 8
1.2.3. Phân loại thẻ 10
1.2.3.1. Theo công nghệ sản xuất 10
1.2.3.2. Theo chủ thể phát hành 11
1.2.3.3. Theo tính chất thanh toán 11
1.2.3.4. Theo tiêu thức lãnh thổ 12
1.2.3.5. Theo đối tượng sử dụng 13
1.2.3.6. Theo mục đích sử dụng 13
1.2.4. Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thanh toán thẻ 14
1.2.4.1. Tổ chức thẻ quốc tế 14
1.2.4.2. Ngân hàng phát hành 14
1.2.4.3. Hiệp hội các NH phát hành và thanh toán thẻ 14
1.2.4.4. Chủ thẻ 14
1.2.4.5. Ngân hàng thanh toán 15
1.2.4.6. Đơn vị chấp nhận thẻ 15
1.2.5. Những lợi ích của việc sử dụng dịch vụ thẻ thanh toán 15
1.2.5.1. Đối với nền kinh tế xã hội 15
1.2.5.2. Đối với người sử dụng thẻ 16
1.2.5.3. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ 18
1.2.5.4. Đối với ngân hàng 19
1.2.6. Nghiệp vụ thanh toán thẻ của NHTM hiện nay 20
1.2.6.1. Nghiệp vụ phát hành 20
1.2.6.2. Nghiệp vụ thanh toán 22
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ thanh toán thẻ của Ngân hàng thương mại 23
1.3.1. Nhân tố chủ quan 23
1.3.2. Nhân tố khách quan 24
1.4. Những rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán thẻ 24
1.4.1. Rủi ro với ngân hàng phát hành 24
1.4.2. Rủi ro với ngân hàng thanh toán 25
1.4.3. Rủi ro với đơn vị chấp nhận thẻ 25
1.4.4. Rủi ro với chủ thẻ 26
Chương 2: Nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 27
2.1. Tổng quan về nhntVN 27
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển NHNTVN 27
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNTVN 28
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNTVN 30
2.1.3.1. Tình hình chung 30
2.1.3.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam trong những năm gần đây 31
2.2. Nghiệp vụ thanh toán thẻ tại NHNTVN 35
2.2.1. Thủ tục phát hành thẻ 35
2.2.2. Quy trình sử dụng và thanh toán thẻ 38
2.2.3. Thực trạng hoạt động thanh toán thẻ tại NHNTVN 40
2.2.3.1. Hoạt động thanh toán thẻ tín dụng quốc tế 40
2.2.3.2. Mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ 44
2.2.3.3. Hoạt động của hệ thống giao dịch tự động ATM 45
2.3. Đánh giá tổng quát về nghiệp vụ thanh toán thẻ tại NHNTVN 48
2.3.1. Những thành tựu đạt được 48
2.3.1.1. Về sản phẩm dịch vụ 48
2.3.1.2. Về công nghệ ngân hàng 51
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 52
2.3.2.1. Hạn chế 52
2.3.2.2. Nguyên nhân 53
Chương 3: Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 57
3.1. Phân tích thị trường cạnh tranh 57
3.1.1. Nhu cầu thị trường 57
3.1.2. Đối tượng khách hàng tiềm năng 57
3.1.3. Phân tích ngân hàng 58
3.1.4. Phân tích tình hình cạnh tranh 59
3.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 60
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ tại NHNTVN 62
3.3.1. Giải pháp về hoạt động Marketing ngân hàng 62
3.3.2. Mở rộng mạng lưới 63
3.3.3. Hoàn thiện công tác bảo mật và hạn chế rủi ro 64
3.3.4. Cải tiến công nghệ và kỹ thuật 65
3.3.5. Đẩy mạnh công tác tiếp thị và có CS khách hàng phù hợp 67
3.3.6. Nâng cao chất lượng và trình độ của cán bộ ngân hàng 68
3.4. Một số kiến nghị 69
3.4.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước 69
3.4.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quy định về nghiệp vụ thẻ 69
Thành lập trung tâm thanh toán bù trừ cho các giao dịch thẻ 71
3.4.1.3. Quảng bá phổ cập kiến thức về thẻ và sử dụng thẻ 72
3.4.2. Đối với các Bộ, ngành có liên quan 73
3.4.3. Đối với Nhà nước 73
3.4.3.1. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi 73
3.4.3.2. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân 74
3.4.3.3. Đầu tư công nghệ và thi hành các chính sách thuế ưu đãi 74
kết luận 75
tài liệu tham khảo 76
danh mục các chữ cái viết tắt 77
mục lục 78
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29449.doc