Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Cổ phần Phương Nam Hà Nội

Lời mở đầu Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không ngừng không những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển. Các mối liên hệ kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển và dần dần tạo thành một thị trường thế giới thống nhất. Trên cơ sở các mối quan hệ kinh tế giữa các nước dẫn đến vấn đề xuất nhập khẩu và hệ thống liên ngân hàng giữa các quốc gia được đẩy lên một tầm cao mới. Ngoại thương p

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Cổ phần Phương Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển, lúc này thanh toán quốc tế rất cần thiết cho việc trao đổi và thanh toán giữa các quốc gia, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đối ngoại và ngoại thương. Hệ thống thanh toán ngày nay rất phát triển. Thiết nghĩ rằng, việc nghiên cứu vấn đề này là rất cần thiết cho mỗi thành viên khi tham gia nghiên cứu kinh tế. Thời kỳ từ 1989 trở lại đây đã phản ánh rõ nét tính cấp thiết của thanh toán quốc tế. Mong rằng sự tìm hiểu này sẽ tạo lập được một số thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu hệ thống thanh toán quốc tế đi sâu sát hơn về tình hình quốc tế và Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà đặc biệt là trong ngoại thương. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại Cổ phần Phương Nam- Hà Nội dưới sự hướng dẫn của TS- Đào văn Hùng, Em đã chọn đề tài nghiên cứu “Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thánh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM – Hà Nội”. Trong quá trình học và nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu xót, Em rất mong được sự góp ý để có thể hoàn thiện thêm kiến thức về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Các phương thức thanh toán quốc tế I. Các phương thức thanh toán quốc tế......................................................................... 1.1Khái niệm và các đặc trưng về thanh toán quốc ế............................................05 1.2Tính bức xứcvà cần thiết của hệ thống thanh toán quốc tế trong ngoại thương..................................................................................................................05 1.3Các nhân tố ảnh hưởng đến phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại thương.................................................................................................06. 2. Các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng trong ngoại thương: 2.1 Hối phiếu.....................................................................................................08 2.2 Séc...............................................................................................................09 2.3Kỳ phiếu.......................................................................................................12 3. Các điều kiện thanh toán quốc tế quy định trong hợp đồng mua bán ngoại thương: 3.1 Điều kiện tiền tệ:.........................................................................................14 3.2 Điều kiện địa điểm thanh toán....................................................................16 3.3 Điều kiện thời gian thanh toán....................................................................16 3.4 Điều kiện phương thức thanh toán..............................................................16 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thanh toán quốc tế. 4.1Tỷ giá hối đoái.............................................................................................17 4.2Vai trò của Ngân hàng trong thanh toán quốc tế.........................................17 Chương II: Thực trạng của hệ thống thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần phương nam . I . Tổng quan về Ngân hàng Phương nam Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM...................19 Các hoạt động kinh doanh chủ yếu..............................................................20 II. Tình hình hoạt động các nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh NHTMCP Phương Nam. Chính sách liên quan đến dịch vụ thanh toán quốc tế của Ngân hàng...................28 2.2 Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại NHTMCP- Phương Nam...................30 2.3 Hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Hà Nội..............................................32 2.3.1Phương thức thanh toán quốc tế L/C ...............................................................34 2.3.2 áp dụng phương thức thanh toán quốc tế L/C vào hoạt động.........................37. 2.3.3 Tín dụng theo hình thức thanh toán bằng L/C................................................39 2.4 Ưu và nhược điểm về hoạt động kinh doanh của chi nhánh..................................42 2.4.1 Ưu điểm..........................................................................................................42 2.4.2 Nhược điểm.....................................................................................................44 Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị dể phát triển hệ thống thanh toán quốc tế thông qua các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của NHTMCP- Phương Nam...................................................................................................46. Giải pháp và kiến nghị. Đối với vấn đề thanh toán quốc tế........................................................................47 Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu tại chi nhánh Hà Nội ...............................................................................47 Tăng tổng dư nợ cho vay xuất nhập khẩu..............................................48 Chủ động tìm bạn hàng..........................................................................52 Hoạt động Marketing một cách có hiệu quả..........................................53 Bảo đảm lượng ngoại tệ cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu..........55 Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trong Ngân hàng..................55 Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam.................................................. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tạo thế cạnh tranh mới..................56 Củng cố và mở rộng hệ thống chi nhánh................................................57 Nâng mức uỷ quyền phans quyết cho vay ngoại tệ.................................57 Nới lỏng hoạt động huy động vốn..........................................................58 Kiến nghị đối với Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước.............................................. Về hệ thống luật và văn bản dưới luật....................................................58 Về chủ trương cơ cấu lại ngân hàng.......................................................59 Thành lập ngân hàng chi nhánh xuất nhập khẩu....................................60 Phát triển thị trường hối đoái hoàn hảo để mở rộng nguồn vốn bằng ngoại tệ, cung cấp cho hệ thống cho vay xuất nhập khẩu.................................62 Kết luận.......................................................................................................................63 Chương I: Các phương thức thanh toán quốc tế Khái niệm và sự cần thiết phải nghiên cứu TTQT 1.Khái niệm về thanh toán quốc tế. Chúng ta đều hiểu rằng , ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không nhiều thì ít với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển kinh tế. Đòi hỏi của con người đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế giới. Khái niệm về thanh toán quốc tế. Chúng ta đều biiết rằng, ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không ít thì nhiều với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển thị trường. Đòi của con người đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế giới. Quá trình trao đổi này kéo theo hai loại quan hệ: 1> quan hệ thanh toán trực tiếp giữa người mua và kẻ bán, 2> quan hệ thanh toán gián tiếp giữa các quốc gia. Vì những quan hệ thanh toán này vượt qua biên giới, người ta gọi đó là thanh toán quốc tế. Vậy: Khi biên giới hữu hình giữa các quốc gia còn tồn tại thì mọi hoạt động thanh toán, chuyển, nhượng tiền, tài sản giữa một nước với các nước khác trên thế giới được gọi là thanh toán quốc tế (TTQT). Tính bức xúc và cần thiết của hệ thống TTQT trong ngoại thương. Không phải đợi đến khi thế giới nhất thể hoá thành một cộng đồng, nhu cầu tồn tại và phát triển tốt hơn cho con người đã thúc đẩy các nước phải có quan hệ buôn bán, đầu tư và liên kết với nhau. Do vậy, TTQT giữa các nước là điều kiện tất yếu. Suy cho cùng, mục tiêu phấn đấu thiết lập cơ sở chung cho các đồng tiền từ đầu thế kỷ đến nay như hệ thống tiền tệ thế giới và các thiết chế tài chính đa quốc gia là nhằm hỗ trợ cho quá trình TTQT giữa các nước trên thế giới. Từ điều kiện khách quan cho đến chủ quan đều phản ánh rõ TTQT là rất cần thiết. Thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung đều liên quan đến TTQTđể hội nhập và cùng phát triển với kinh tế các nước trên thế giới. Đó là điều kiện để phát triển và hội nhập cùng kinh tế khu vực và thế giới, cùng với các tổ chức kinh tế tạo sức mạnh cho kinh tế đối ngoại và ngoại thương lên một bước tiến mới. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTQT trong ngoại thương. Giữa các quốc gia, ngoại tệ là tài sản dự trữ dùng để đối thoại với nước ngoài. Cho nên việc lưu chuyển ra vào của loại tiền tài sản này được chính phủ theo dõi. Quá trình theo dõi nói rtên làm cho việc buôn bán với nước ngoài được thể hiện trên sổ sách quốc gia. Loại sổ sách mà quốc gia dùng để thể hiện các luồng thanh toán và trả nợ giữa người trong nước và ngoài nước được gọi là cán cân thanh toán. Các nhân tố được phản ánh trên cán cân thanh toán đồng thời cho ta thấy sự ảnh hưởng và sự tác động đến sự biến động của TTQT. Tài khoản vãng lai. Tài khoản vốn. Tài khoản dự trữ chính thức. - Tài khoản vãng lai:bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá dịch vụ. - Tài khoản vốn: bao gồm mua, bán các tài sản như cổ phần, trái phiếu, tài khoản ngân hàng, bất động sản và doanh nghiệp. - Tài khoản dự trữ chính thức: bao gồm mua bán tài sản dự trữ quốc gia, ngoại tệ, vàng và quyền rút vốn đặc biệt (SDRs). Thương mại quốc tế là sự xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình như dầu mỏ, quần áo, xe hơi... đều phản ánh hoạt động thanh toán thông qua các phương tiện thanh toán quốc tế. Dịch vụ cũng thuộc nhóm tài khoản vãng lai, bao gồm các khoản phải thanh toán và các khoản được thanh toán về cố vấn, luật pháp, dịch vụ kỹ thuật, bản quyền, bằng phát minh và tài sản tri thức, tiền đóng bảo hiểm, phí vận chuyển, chi tiêu du lịch. Các khoản thương mại mang hình thái dịch vụ này thường được gọi là thương mại vô hình. Đồng thời, yếu tố thu nhập cũng bao quát những khoản thanh toán và khoản được trả từ tiền lãi, cổ tức đến tất cả những thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài. Tài khoản vốn gồm 3 nhóm: đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán và vốn khác. Cán cân vốn đo lường chênh lệch giữa bán tài sản cho người nước ngoài và mua tài sản từ nước ngoài. Không giống như mua bán hàng hoá và dịch vụ, mua bán tài sản tài chính ảnh hưởng đến những khoản thanh toán và nhận được trong tương lai do đầu cơ về vốn. Tài sản dự trữ chính thức đó là những khoản mà một quốc gia phải chi trả để thanh toán cho người nước ngoài vì thâm hụt cán cân thanh toán, ngân hàng trung ương của quốc gia đó nên giảm bớt tài sản dự trữ chính thức như vàng, ngoại tệ, SDRs, hoặc vay ngân hàng trung ương nước khác. Ngược lại, nếu quốc gia có thặng dư trên cán cân thanh toán, ngân hàng trung ương nước đó sẽ trả nợ nước ngoài hoặc tăng thêm tài sản dự trữ. Tóm lại, mọi vấn đề đều tập trung để cân bằng cán cân thanh toán trong mỗi quốc gia khi tham gia và hội nhập với kinh tế các nước để có sự phát triển hài hoà và nhịp nhàng. Tài khoản vốn và tài khoản vãng lai ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống thanh toán quốc tế trong ngoại thương. Đồng thời hai tài khoản trên càng phát triển bao nhiêu thì thanh toán quốc tế càng phát triển, tài khoản dự trữ chính thức dưới tác động của chính phủ ảnh hưởng tới hệ thống thanh toán khi sự phát triển không cân đối của nền kinh tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại và ngoại thương. 2. Các phương tiện thanh toán thông dụng trong ngoại thương. Các phương tiện lưu thông tín dụng (hối phiếu, kỳ phiếu, séc) được dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở của sự phát triển tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, có vai trò rất quan trọng trong thanh toán quốc tế. Trong thời đại hiện nay, quy mô phát triển cực kỳ rộng lớn của các nghiệp vụ cho vay, các phương tiện lưu thông tín dụng đã trở thành vật mang hình thái tiền tệ đặc thù. Khác với tiền kim loại mang đầy đủ giá trị, các phương tiện lưu thông tín dụng không có giá trị nội tại mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ mà thôi. Tiền thật là do Nhà nước phát hành còn phương tiện lưu thông tín dụng phần lớn là do kết quả của hợp đồng mua bán hàng hoá và các nghiệp vụ của ngân hàng tạo ra. 2.1 Hối phiếu (Bill of exchange) Thương phiếu là công cụ thanh toán quốc tế thông dụng. Thương phiếu bao gồm hai loại: hối phiếu và kỳ phiếu trong đó hối phiếu được sử dụng rộng rãi hơn. a-Khái niệm và đặc trưng của hối phiếu. Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu của người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. Qua khái niệm cho thấy, hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng: -Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi số tiền phải trả với nội dung liên quan tới việc trả tiền. Do đó nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. -Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu : Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên hối phiếu. -Tính lưu thông của hối phiếu : hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn của nó. b- Điều kiện thành lập hối phiếu : -Về mặt hình thức quy định: + Hối phiếu làm thành văn bản (bắt buộc). +Hình mẫu hối phiếu không quyết định giá trị pháp lý của hối phiếu . +Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết hoặc in sẵn, đánh máy bằng một thứ tiếng nhất định và thống nhất. +Hối phiếu lập thành một hay nhiều bản, mỗi bản đều đánh số thứ tự, các bản đều có giá trị như nhau. Bản nào đến trước thì thanh toán trước, bản nào đến sau thì vô giá trị. -Về nội dung: + Tiêu đề của hối phiếu: “Hối phiếu”. + Địa đIểm ký phát hối phiếu: địa điểm ký phát hoặc địa chỉ người ký. + Ngày tháng ký phát: xác định thời gian trả tiền của hối phiếu. 2.2séc (Cheque) Khái niệm chung. Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản. Đối với người có tiền mở tại ngân hàng một tài khoản, ngân hàng sẽ cấp cho người gửi tiền một quyển séc. Mỗi lần muốn rút tiền thì viết một tờ séc đưa đến ngân hàng để lĩnh tiền. Đặc điểm của séc -Tính thời hạn: tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn hiệu lực của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó tuỳ thuộc vào phạm vi không gian mà séc lưu hành và luật pháp của các nước quy định. Nói chung séc lưu hành trong nội địa thời gian ngắn hơn lưu hành trong TTQT. Séc dùng để trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc là 8 ngày làm việc kể từ ngày phát hành séc nếu là séc lưu hành trong một nước, là 20 ngày làm việc nếu lưu thông ngoài nước trong cùng một châu lục, là 70 ngày nếu séc được trả ở một nước ngoài châu lục.Quá thời hạn trên nếu séc quay trở lại ngân hàng thì séc sẽ mất hiệu lực. Đối với séc du lịch thì không kể thời gian. Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do vậy séc phải có những quy định về hình thức và nội dung theo luật định: Về nội dung: . Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi trên tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi nhận dược séc thì phải chấp hành lệnh này vô điiêù kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc không đủ tính pháp lý. . số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải ghi bằng số và ghi bằng chữ phải khớp đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi rõ địa điểm và ngày tháng lập séc, tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ người hưởng số tiền trên séc, chữ ký của người phát hành séc (nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của người có tài khoản, kế toán trưởng và dấu của tổ chức đó). Tất cả các yếu tố trên cần phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá, ghi cùng loại chữ, một thứ mực, không ghi bằng mực đỏ. Điều cơ bản quan trọng là người phát hành séc phải có tiền mở ở ngân hàng, số tiền trên tờ séc không vượt quá số dư trên tài khoản ở ngân hàng. Sơ đồ lưu thông séc: người mua người bán NGÂN Hàng Lưu thông séc qua một ngân hàng (NH) (1): giao hàng. (2): Phát hành séc thanh toán. (3): Mang séc đến ngân hàng lĩnh tiền. (4):Báo có cho người hưởng lợi Séc. (5):Quyết toán giữa NH với người mua. nh Bên bán Lưu thông Séc qua 02 NH người mua người bán nh Bên mua (1): Giao hàng. (2):Phát hành Séc thanh toán. (3): Nhờ NH thu hộ tiền ghi trên Séc. (4): Thu tiền. (5): NH trả tiền cho người hưởng Séc. (6): Quyết toán giữa NH với người mua. Các loại Séc: Séc tên là loại Séc ghi rõ tên người hưởng lợi (không thể chuyển nhượng). Séc vô danh là loại Séc không ghi tên người hưởng lợi (Séc có thể chuyển nhượng). Séc gạch chéo (Crossed cheque) là loại Séc trên mặt trước của nó có hai gạch chéo song song với nhau. Séc gạch chéo không thể dùng dể rút tiền mặt, thường dùng để chuyển khoản qua NH. Có hai loại Séc gạch chéo: + Séc gạch chéo thường (Cheque crossed generaly) gạch chéo không tin tức là giữa hai gạch song song không ghi tên NH lĩnh hộ tiền. + Séc gạch chéo đặc biệt (Cheque crossed specially) gạch chéo có ghi tin tức là giữa hai gạch chéo có ghi tên một tên NH nào đó và chỉ có NH đó mới có quyền lĩnh tiền mà thôi. Séc chuyển khoản ( cheque transferable) là loại Séc mà người ký phát Séc ra lệnh cho NH rtích từ tài khoản của mình chuyển sang tài khoản khác của người khác trong hoặc ngoài NH. Séc du lịch ( Traverller’s cheque) là loại Séc do NH phát hành và được trả tiền tại bất cứ một chi nhánh nào hoặc đại lý nào của NH đó. Séc xác nhận (Certified cheque) là loại Séc được NH chấp nhận việc trả tiền. Mục đích xác nhận là nhằm đảm bảo khả năng chi trả cho tờ Séc, chống Séc khống. 2.3 Kỳ phiếu:( Promissory note) Ngược lại với Hối phiếu, Kỳ phiếu là do con nợ viết ra để hứu cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán trên, trong thanh toán quốc tế Kỳ phiếu ít được sử dụng hơn Hối phiếu. a. Khái niệm. Hối phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát hành ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc lệnh của người này trả cho người khác theo quy định trong Kỳ phiếu đó. b.Đặc điểm và điều kiện: Như Kỳ phiếu thương mại, tuy nhiên nó có một số đặc thù sau: Kỳ hạn Kỳ phiếu được ghi rõ trên nó. Một Kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi. Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của NH hoặc công ty Tài chính. Sự bảo lãnh nay đảm bảo khả năng thanh toán của Kỳ phiếu. Kỳ phiếu khác với Hối phiếu làthường có hai bản: bản 01 và bản 02, Kỳ phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi Kỳ phiếu đó. 3. Các điều kiện thanh toán quốc tế quy định trong hợp đồng mua bán Ngoại thương Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên thì phải đề ra để giải quyết và thực được quy định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Cácđiều kiện đó là: Điều kiện về tiền tệ. Điều kiện về địa điểm. Điều kiện về thời gian. Điều kiện về phương thức thanh toán. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Những điều kiện này được thể hiện ra trong các điều khoản thanh toán của các hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, của các hợp đồng mua bán ngoại thương ký kết giữa người mua và người bán. Trong nghiệp vụ mua bán với các nước, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ các điều kiện thanh toán quốc tế để có thể vận dụng một cách tốt nhất trong việc ký kết và mua bán ngoại thương nhằm phục tùng các yêu cầu chính sách đối ngoại và đặt các yêu cầu cụ thể sau: Khi xuất khẩu: Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ, kịp thời tiền hàng, thu về càng nhanh càng tốt. Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của ssó thu nhập ngoại tệ khi có những biến động tiền tệ xảy ra. Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị trường, phát triển thêm thị trường mới. Khi nhập khẩu: Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn Trong các điều kiện không thay đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt. Góp phần vào việc nhập khẩu của ta theo đúng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân một cách thuận lợi. 3.1 Điều kiện tiền tệ. Căn cứ vào mục đích sử dụng, tiền tệ trong thanh toán chia làm hai loại: Tiền tệ tính toán là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng. Tiền tệ thanh toán là tiền tệ được dùng để thanh toán nợ nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại, và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: + So sánh lực lượng của hai bên mua và bán. + Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế. +Tập quán sử dụng đồng tiền đó trên thế giới. +Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên khủng hoảng thu chi quốc tế của các nước làm cho tiền tệ thường xuyên biến động. Vì vậy, các khoản ngoại hối có thể bị tổn thất do ngoại hối đó sụt giá hoặc những khoản chi ngoại hối có thể bị tổn thất do tăng giá. Cho nên diều kiện đảm bảo hối đoái rất cần thiết. Những điều kiện đảm bảo hối đoái thường dùng trong TTQT về ngoại thương như sau: a. Điều kiện đảm bảo vàng: Hình thức của điều kiện đảm bảo vàng là giá cả hàng hoá với tổng giá hợp đồng được quy định bằng một số lượng vàng nhất định hoặc đều dùng một đồng tiền để tính toán và thanh toán, đồng thời quy định giá vàng lúc đó trên thị trường nhất định làm cơ sở đảm bảo. Tuy vậy hình thức đảm bảo này chỉ là tương đối nên ít được dùng. b. Điều kiện đảm bảo ngoại hối: Lựa chọn đồng tiền tương đối ổn định, xác định mối quan hệ tỷ giá với đồng tiền thanh toán để đảm bảo giá trị của tiền tệ thanh toán là điều kiện để đảm bảo ngoại hối. Điều kiện đảm bảo ngoại hối có hai cách quy định sau đây: -Trong hợp đồng quy định đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán là một loại tiền, đồng thời xác định tỷ giá giữa đồng tiền đó với một đồng tiền khác. Đến khi trả tiền, nếu tỷ giá thay đổi thì giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng phải được điều chỉnh một cách tương ứng. -Trong hợp đồng quy định đồng tiền tính toán là một đồng tiền(thường là đồng tiền tương đối ổn định) và thanh toán bằng đồng tiền khác. Khi trả tiền căn cứ vào tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán để tính ra số tiền phải trả là bao nhiêu. Đây là cách dùng trong thanh toán quốc tế hiện nay. c. Điều kiện đảm bảo theo “ rổ” tiền tệ: -Trong điều kiện hiện nay, khi mà hàm lượng vàng của tiền tệ không còn ý nghĩa thiết thực đối với việc xác định tỷ giá hối đoái, hệ thống tỷ giá cố định dưới mọi hình thức đã bị tan vỡ, tỷ giá hoạt động dữ dội và thả nổi tự do, sức mua của tiền tệ nhiều nước giảm sút nghiên trọng thì việc áp dụng các điều kiện đảm bảo hối đoái nói trên là không còn ý nghĩa thiết thực nữa. Để khắc phục tình hình trên, người ta dựa vào ngoại tệ của nhiều nước để đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập bằng ngoại tệ trên hợp đồng. Cách đảm bảo đó gọi là đảm bảo hối đoái theo “rổ” ngoại tệ được chọn. d. Điều kiện đảm bảo căn cứ vào tiền tệ quốc tế: SDR ECU (UERO) Tổng giá trịgiá hợp đồng được tính toán và thanh toán bằng một ngoại tệ nào đó, đồng thời chọn SDR (hoặc UERO) làm tiền tệ đảm bảo đồng tiền của hợp đồng. e. Điều kiện đảm bảo căn cứ vào biến động của giá cả: Số tiền phải thanh toán căn cứ vào tìnhhình biền động của chế độ giá cả mà thay đổi một cách tương ứng. Tuy nhiên, trong Ngoại thương thường ít dùng cách này bởi vì chỉ số giá không phản ánh đầy đủ và sự biến động tiền tệ, bởi vì có nhiều yếu tố tác động đến biến động giá cả, trong đó nhân tố tiền tệ chỉ là một Số tiền phải trả că cứ vào tình hình biến động giá cả hàng đó trên thị trường hay giá thành sản xuất loại hàng đó. 3.2 Điều kiện địa điểm thanh toán. Trong thanh toán giữa các nước, địa điểm thanh toán có thể ở nước nhập khẩu, hoặc ở nước xuất khẩu, nước thứ ba. Nhưng thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời cũng còn cho thấy rằng dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thường ở nước ấy. 3.3 Điều kiện thời gian thanh toán: Điều kiện thời gian thanh toán có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn, lợi tức, khả năng có thể trách được những biến động về tiền tệ thanh toán, do đó nó là vần đề quan trọng và thường xảy ra tranh chấp các bên trong đàm phán ký kết hợp đồng. Trong TTQT, điều kiện thời gian thanh toán trong các nghiệp vụ Ngoại thương phức tạp hơn cả , thường có ba cách quy định: Thời gian trả tiền trước. Thời gian trả ngay. Thời gian trả tiền sau. 3.4 Điều kiện phương thức thanh toán: Phương thức thanh toán là điều quan trọng nhất trong các điều kiện TTQT. Các phương thức thanh toán quốc tế dùng trong Ngoại thương bao gồm có: Phương thức chuyển tiền. Phương thức ghi sổ. Phương thức nhờ thu. Phương thức tín dụng chứng từ. 4. Các yếu tố tác động đến TTQT. TTQT là một hệ thống vô cùng phức tạp nhưng là sự cần thiết của mỗi quốc gia khi tham gia phát triển và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên hệ thống thanh toán quốc tế cũng bị chi phối bởi các yếu tố về tỷ giá hối đoái, các chính sách và biện pháp tài chính với vai trò của NH trong nền kinh tế đó để điều chỉnh cán cân TTQT một cách hợp lý. 4.1 Tỷ giá hối đoái: Thay đổi tỷ giá để điều chỉnh cán cân thanh toán là một biện pháp mà chính phủ các nước thường sử dụng. Thông qua chính sách phá giá (Devaluation) hay giảm giá (depreciation) tiền tệ để thúc đẩy nhanh xuất khẩu hàng hoá, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào trong nước làm tăng thu ngoại hối và hạn chế nhập khẩu hàng hoá, đầu tư ra nước ngoài nhằm giảm nhu cầu ngoại hối, do đó đã góp phần điều chỉnh sự thiếu hụt của cán cân thanh toán, Việc điều chỉnh cán cân thanh toán thường xảy ra khi cán cân thanh toán bị thiếu hụt hoặc dư thừa. Tuy nhiên trên thực tế, người ta chỉ điều chỉnh cán cân thanh toán khi nó bị thiếu hụt mà thôi. Chính vì vậy, khi phá giá hoặc giảm giá tiền tệ đồng nghĩa với nhu cầu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng nhanh đến khả năng TTQT tăng toạ điều kiện để điều chỉnh cán cân thanh toán cân bằng. 4.2 Vai trò của Ngân hàng trong thanh toán quốc tế. Trước hết, thông qua nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp với các đại lý NH ở nước ngoài để cho vay ngoại tệ nhằm bổ sung vào lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, việc vay nợ các ngân hàng cần cân bằng cán cân thanh toán chỉ diễn ra trong phạm vi nhỏ giữa NH nước này với nước kia. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, với sự lũng đoạn trong phạm vi quốc tế, một nước nào đó cần tín dụng để cứu nguy cán cân TTQT của mình có thể sử dụng thẻ tín dụng của nhiều NH khác hoặc của các tổ chức tiền tệ quốc tế trên cơ sở ký kết các hiệp định giữa họ. Sau nữa, NHTW áp dụng các chính sách tiền tệ và tín dụng để thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào nước mình để tăng số thu nhập trong cán cân thanh toán, do đó làm giảm bớt mức thiếu hụt của cán cân này. Chính sách chiết khấu thường được sử dụng nhiều nhất. Cuối cùng, việc sử dụng hai cách trên của ngân hàng vẫn chưa giải quyết hết tình trạng thiếu hụt của cán cân TTQT thì các nước phải xuất vàng để trả nợ. Cần phải phân biệt việc xuất vàng để cân bằng cán cân TTQT thiếu hụt với việc xuất vàng với tư cách là hàng hoá thông thường trong quan hệ mua bán. Ngoài ra việc áp dụng tất cả các biện pháp trên mà không giải quyết được tình trạng thiếu hụt cán cân TTQT thì phải dùng biện pháp “phá sản” tức là tuyên bố vỡ nợ, đình chỉ trả nợ nước ngoài. Chương II: Thực trạng của hệ thống thanh toán quốc tế ở nhcp- phương nam I. Tổng quan về Ngân hàng cổ phần phương nam. Sự ra đời của Ngân hàng TMCP PHƯƠNG NAM Cách mạng tháng 8 thành công, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử mới của đất nước. Và kể từ đó hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt nam chính thức được hình thành và phát triển. Khoảng thời gian vào thập kỷ 90, hệ thống Ngân hàng đã không ngừng thay đổi và phát triển. Sự phân cấp chức năng quản lý và phát hành tiền tệ với chức năng kinh doanh tiền tệ trong hệ thống Ngân hàng đã làm ra đời hàng loạt ngân hàng thương mại trong đó có các ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM, là ngân hàng thương mại cổ phần. Có mạng lưới kinh doanh khá rộng, các đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm: Văn phòng đại diện tại TP-Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông tin. Ngoài ra, Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM còn lập các chi nhánh và phòng giao dịch như ở Đồng tháp, Long xuyên, Hà nội, tham gia sáng lập và góp vốn trong các đơn vị liên doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Khách hàng chính của Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp, Xây dựng, Giao thông vận tải, Bưu chính viễn thông, Thương mại, Du lịch...và các khách hàng cá nhân tại các khu tập trung dân cư (Thành phố, thị xã). Là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam đi đầu trong việc cải tiến công nghệ thông tin ngân hàng; Là thành viên chính thức của Hiệp hội các ngân hàng châu á, thành viên của Hiệp hội Visa, Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam. Trước sự vận động mạnh mẽ của thị trường, sự giao dịch tiền tệ, cung cầu tiền tệ ngày càng lớn, Ngày 1/04/1993 Ngân hàng TMCP PHƯƠNG NAM được thành lập tại 258 Minh Phụng P.2, Q.11. TP.HCM và được gọi tên là Hội Sở Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM cho đến nay. Đặc điểm và tình hình hoạt động của thời kỳ này: Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ được tăng cường, sản phẩm dịch vụ Ngân hàng khá phong phú (ngoài cho vay ng._.ắn hạn, trung và dài hạn, có nhiều loại cho vay mới ra đời như: cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ, trả thay bảo lãnh). Kinh doanh đối ngoại phát triển mạnh; Đội ngũ cán bộ được đào tạo lại và thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển không ngừng. Với sự lớn mạnh không ngừng về nhu cầu của các thành phần kinh tế trong vấn đề vốn vay, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và các dịch vụ tiện lợi cho việc kinh doanh. Trước tinh hình đó, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đã mạnh dạn mở rộng quy mô hoạt động ra phía Bắc và các đại lý ở nước ngoài như: một số nước châu á, Anh quốc, Hoa kỳ... Cho đến ngày 1/1/2001 thì Hội Sở Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM mở thêm các chi nhánh tại Hà nội. Và từ đó đến nay cùng với chi nhánh cấp II Định Công đặt tại Xóm I xã Định Công Huyện Thanh Trì thì chi nhánh thứ 2 đặt tại 115-Trần Hưng Đạo đối diện với Ga Hà Nội. Tổng quát về hoạt động kinh doanh của NH TMCP PHƯƠNG NAM. Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM liên tục đổi mới, cơ bản hoàn thiện hệ thống pháp quy, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và thực tế phát sinh. Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát huy hết khả nănghoạt động trên mọi lĩnh vực: Đầu tư tín dụng, huy động vốn và các hoạt động dịch vụ Ngân hàng khác. Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM, sau hai năm đi vào hoạt động, khởi đầu cho việc thực hiện thắng lợi định hướng kế hoạch phát triển 5 năm (2001 - 2004) với năm 2001 thành công về việc kinh doanh và mở rộng mạng lưới hoạt động thì năm 2002 Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM dần khẳng định được bước tiến vững chắc trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. *Huy động vốn. Huy động vốn là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với cácloại hình doanh nghiệp khác. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như các nhà quản lý ngân hàng trong việc thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ doanh nghiệp và cá nhân là một thước đo quan trọng về sự công nhận của công chúng đối với ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả năng huy động vốn đối với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM với 10 năm hoạt động, ngân hàng đã khẳng định được vị trí của mình trên thương trường và chiếm được uy tín của khách hàng. Do đó, ngân hàng đã đề ra kế hoạch 5 năm (2001 - 2004), trong kế hoạch đó thì việc mở rộng thị phần ra phía Bắc đã thu được nhiều lợi thế kinh doanh, đồng thời cơ cấu lãi suất hợp lý, kỳ hạn đa dạng như: tuần, tháng 3 – 6 – 9 - 12 và trên 12 tháng phù hợp với nhu cầu của người dân; tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị các dịch vụ ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy, ngân hàng đã thu được các kết quả khả quan như: Năm 2000 mức huy động đạt 867 tỷ đồng tăng 38,5% so với năm 1999 là 626 tỷ đồng. Năm 2001 tổng mức huy động vốn đạt 1033 tỷ đồng tăng 19% so với cuối năm 2000 (867 tỷ đồng). Trong đó vốn huy động đạt 839 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 80% tổng mức huy động, tăng 15% chủ yếu nguồn tiền gửi tiết kiệm (VND và ngoại tệ) của dân cư đều tăng 31% (212 tỷ đồng). Có thể khái quát hoạt động huy động vốn theo Bảng sau: Bảng 1: Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu năm 1998 năm 1999 năm 2000 năm2001 Tổng tài sản 321 715 968 1,163 tổng vốn huy động 232 626 867 1,033 (Nguồn : Báo cáo thường niên của Hội sở) *Hoạt động tín dụng. Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng để tài trợ cho chỉ tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa: thông qua các khoản vay của ngân hàng, thị trường có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó cho họ có khả năng nhân thêm các khoản tín dụng mới từ nhiều nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM, khoản mục cho vay chiếm quá mức giá trị tổng tài sản và tạo ra khoảng 2/3 nguồn thu của ngân hàng; bởi vì ngânhàng cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong mục đích vay vốn của khách hàng – từ việc vay để sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ xuất nhập khẩu và cá nhân, gia đình cán bộ công nhân viên, dân cư sinh hoạt, làm kinh tế phụ, mua nhà, mua sắm các trang thiết bị cần thiết theo chương trình trả góp của ngân hàng Phương Nam… Trong những năm gần đây, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đạt được những thành tựu lớn trong lĩnh vực hoạt động tín dụng như: -Tổng dư nợ cuối năm 2001 đạt 839 tỷ đồng tăng 21% so với cuối năm 2000 (696 tỷ đồng). Trong đó: dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 254 tỷ đồng bằng 80% nguồn vốn cho phép tăng 35% so với cuối năm 2000. Chứng tỏ dư nợ cho vay trung hạn và dài hạn hợp lý. -Dư nợ quá hạn phát sinh trong năm 2001 chỉ chiếm 3,4% doanh số cho vay; giảm 2,5% so với năm 2000, doanh số thu nợ đạt 840 tỷ đồng tăng 7% so với năm 2000. -Tổng dư nợ quá hạn đến năm 2001: 13,69 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 1,6% tổng dư nợ, giảm gần 50% so với nợ quá hạn cuối năm 2000 (27,36 tỷ đồng). -Nợ khoanh: 6,6tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 0,79% tổng dư nợ; giảm 2,8 tỷ đồng so với cuối năm 2000 (9,5 tỷ đồng). -Đến cuối năm 2002 tổng dư nợ đạt xấp xỉ 1.100 tỷ đồng. Trong đó: + Dư nợ trung, dài hạn chiếm xấp xỉ 40% tổng dư nợ. + Nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 1,5% tổng dư nợ. Tình hình dư nợ cho vay phản ánh hàng năm theo thành phần kinh tế: Trong 3 năm qua tỷ trọng vay vốn của các thành phần kinh tế tương đối ổn định với các mức: +Thành phần kinh tế khác khoảng 53,3% +Doanh nghiệp tư nhân : 21,9% + Công ty TNHH : 24,4% + Hộ gia đình & HTX : 6,4% Bảng 2: Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Phân theo thành phần kinh tế 1. Thành phần kinh tế khác 370,968 444,670 595,120 2. Doanh nghiệp tư nhân 152,424 184,580 246,18 3. Công ty TNHH 169,824 187,936 248,450 4. Hộ gia đình & HTX 44,544 52, 102 68,200 (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Hội sở) Như vậy, năm 2001 nợ quá hạn và nợ chờ xử lý sau khi trừ quỹ dự phòng rủi ro bù đắp tín dụng (Nợ quá hạn ròng) chỉ chiếm 0,43% tổng dư nợ (chỉ tiêu hướng dẫn <5%), chiếm tỷ lệ thấp từ trước đến nay. Chứng tỏ hoạt động tín dụng ngày càng chú trọng đến chất lượng nhiều hơn. Đây cũng là một trong những chỉ tiêu để Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đủ điều kiện phát triển mạng lưới hoạt động. *hoạt động thanh toán quốc tế. So với các ngân hàng lớn, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM có quy mô vốn nhỏ hơn và là một ngân hàng thương mại trẻ với 10 năm kinh nghiệm so với hàng trăm năm của ngân hàng khác; tuy nhiên ngân hàng đã biết nắm bắt nhu cầu thanh toán ngày cành tăng của các tổ chức kinh tế về triênr khai thực hiện tín dụng xuất nhập khẩu. Tổng doanh số thực hiện thanh toán quốc tế đến 31/12/2001 đạt 16,2 triệu USD, giảm 19% so với năm 2000 (20 triệu) bằng 30% kế hoạch năm : chưa đạt yêu cầu. Nhưng năm 2002 doanh số thực hiện đạt 30,7 triệu USD tăng gần 81% so với năm 2001. Điều này cho thấy thanh toán quốc tế đang phát triển mạnh tạo khả năng thu lớn cho ngân hàng tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số vốn của ngân hàng. *Công tác mua bán ngoại tệ chi trả kiều hối. Năm 2001 doanh số mua bán ngoại tệ tăng so với năm 2000 nhưng chủ yếu mua bằng ngoại tệ tiền mặt chiếm tỷ trọng 92% doanh số mua, cụ thể Bảng 3 Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2000 +,- % Doanh số mua vào 10.119 triệu USD 9.015 triệu USD +12% Doanh số bán ra 10.541 triệu USD 9.610 triệu USD +10% Doanh số chi trả kiều hối 4.180 triệu USD 4.290 triệu USD -0,2% (Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2001 của hội sở) Hoạt động mua bán ngoại yệ tuy đạt được kết quả trên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, nhất là hoạt động chi trả kiều hối doanh số đạt còn thấp, một mặt do biến động sự kiện 11/09, lương kiều hối chuyển về có phần giảm, mặt khác người dân muốn giữ tiền mặt ngoại tệ sợ bị biến động về tỷ giá đã ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, việc đăng ký ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng gặp khó khăn, không đáp ứng đủ yêu cầu của các ngân hàng. nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn chưa có biện pháp để tạo nguồn ngoại tệ và bộ phận làm công tác kiều hối hoạt động còn mang tính chất thụ động. *Các hoạt động dịch vụ và nghiệp vụ khác. -Công tác kho quỹ: năm 2001 khối lượng tiền mặt qua quỹ ngân hàng khá lớn, cụ thể: Tổng thu : 4.187 tỷ đồng +Tiền mặt đạt: 3.283 tỷ đồng, tăng 20% +NPTT : 406 tỷ đồng, giảm 47% +TM ngoại tệ : 498 tỷ đồng, tăng 72% Tổng chi : 4.177 tỷ đồng +Tiền mặt đạt: 3.273 tỷ đồng, tăng 20% +NPTT : 408 tỷ đồng, giảm 47% +TM ngoại tệ : 496 tỷ đồng, tăng 72% Với khối lượng tiền mặt qua quỹ ngân hàng rất lớn nhưng đã thực hiện nghiêm ngặt chế độ thu chi, kiểm đếm, đóng gói niêm phong đầy đủ, chính xác,… thể hiện tinh thần trách nhiệm cao và đã trả được 68 món tiền thừa cho khách hàng. -Công tácthanh toán – kế toán: trong năm 2001, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đạt 1.687 tỷ đồng (7.715 món), tăng 30% so với năm 2000, trong đó thanh toán bằng uỷ nhiệm chi chuyển tiền được khách hàng sử dụng lớn nhất. Công tác kế toán được tăng cường và bố trí hợp lý được bổ sung trang thiết bị mới trong toàn hệ thống nên cập nhật số liệu kịp thời, chính xác, đầy đủ. -Hoạt động mua bán chứng khoán: là một trong những hoạt động chính của ngân hàng hiện nay, doanh số mua vào trong năm 15 tỷ đồng, doanh số bán ra 22 tỷ đồng, cuối năm còn lại 26 tỷ đồng chưa đến hạn thanh toán, lãi thu về trên 2,2 tỷ đồng tăng 15%. *Kết quả kinh doanh của ngân hàng. Các hoạt động kinh doanh chính như đã nêu phản ánh được phần lớn két quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cụ thể kết quả kinh doanh của Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM trong ba năm vừa qua như sau: Bảng 4 Báo cáo thu nhập – Chi phí Đơn vị: triệu đồng VN Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 tổng thu nhập 99,760 123,731 153,608 tổng chi phí 83,261 102,315 131,336 Lợi nhuận trước thuế 16,414 21,416 22,272 (Nguồn: báo cáo thường niên của Hội sở) Cho thấy: Năm 2001 Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đạt lợi nhuận trước thuế 21.4 tỷ đồng tăng 31% so với năm 2000. Năm 2002 mức lợi nhuận trước thuế đạt 22.3 tỷ đồng tăng 4,00% so với năm 2001. Đặc biệt năm 2002, các chi phí tăng lên nhiều do việc tăng cơ sở hạ tầng cho các chi nhánh, tham gia trên thị trường tiền tệ. Mặc dù đồng USD bị sự cạnh tranh lớn của đồng UERO nên cũng gây xao động cho thị trường tài chính gây nên một số tổn thất cho ngân hàng trong kinh doanh ngoại tệ. Cụ thể trong năm 2002 hoạt động thu – chi của Hội Sở như sau: Bảng 5: Đơn vị: VND Các khoản thu nhập Trong kỳ Luỹ kế năm A- Thu nhập 16.240.732.337 153.608.685.043 I. Thu về hoạt động tín dụng 14.108.532.394 140.873.566.772 - Lãi cho vay 13.471.443.859 137.168.329.532 - Nghiệp vụ bảo lãnh 1.095.000 19.977.997 -Nghiệp vụ cho thuê tài chính - Khác 433.992.533 4.485.959.243 II. Thu về DV TToán & Ngân quỹ 556.655.433 6.797.276.531 -Lãi tiền gửi 317.287.314 - Dịch vụ thanh toán 312.724.274 3.516.573.582 - Dịch vụ Ngân quỹ 36.643.346 105.326.865 III. Thu từ các hoạt động khác 905.626.048 3.983.694.990 -Lãi góp vốn, Mua cổ phần 143.000.000 - Tham gia thị trường tiền tệ 198.113.083 3.319.977.413 - Kinh doanh ngoại hối 635.573.670 390.471.337 - Nghiệp vụ Uỷ thác & Đại lý 527.981 8.606.357 - Dịch vụ tư vấn - Kinh doanh & Dịch vụ Bao - Các dịch vụ khác 71.411.314 621.639.331 IV. Khoản thu nhập bất thường 669.918.462 1.954.346.751 ( Nguồn: báo cáo thu nhập- chi phí năm 2002 của hội sở ) II. thực trạng hoạt động các nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ phần phương nam-hà nội 2.1 Chính sách liên quan đến dịch vụ thanh toán quốc tế của Ngân hàng h Công văn số 2725/CV-NHCT5 Hướng dẫn thực hiện mở và thanh toán L/C at sight ngày 29/9/1999. Theo công văn này ngân hàng sẽ mở L/C at sight cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị... mà trong hợp đồng ngoại thương quy định thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ trả tiền ngay. Trong hướng dẫn, đề cập chủ yếu đến mức ký quỹ áp dụng cho các đối tượng là doanh nghiệp Nhà Nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mỗi đối tượng cụ thể đều có mức ký quỹ khác nhau phù hợp với mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp đó với ngân hàng. h Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/5/2001 về việc mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm. Theo quyết định này ngân hàng được phép mở thư tín dụng trả chậm cho khách hàng trong trường hợp khách hàng đề nghị theo như hợp đồng thương mại đã ký. Quyết định còn đưa ra quy định ngân hàng phải yêu cầu tài sản đảm bảo từ khách hàng, có thể bằng ký quỹ, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thanh toán.... quyết định này còn hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể cùng các yếu cầu cụ thể khác... h Quyết định số 51/HĐQT của Hội Đồng Quản Trị về việc tổ chức triển khai hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng phương nam. Đưa ra các điều kiện chiết khấu, hạn mức chiết khấu đối với các chi nhánh ngân hàng trong hệ thống công thương, số tiền chiết khấu ttối đa 95% giá trị bộ chứng từ, lãi suất chiết khấu đối với L/C mở bằng ngoại tệ tối thiểu là 4% năm, thời gian chiết khấu. Cùng các quy định cụ thể về quy trình nghiệp vụ chiết khấu, hạch toán nghiệp vụ và xử lý quá trình chiết khấu chứng từ.... Đặc điểm của các quyết định của Ngân hàng phương nam là luôn có kèm mẫu các giấy tờ để thống nhất trong toàn hệ thống. Ngoài ra hoạt động xuất nhập khẩu còn liên quan đến nhiều bộ ngành khác nhau nên cũng cần biết thêm về các văn bản khác như : hThông tư số 5/2000/TT-BTM hướng dẫn thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính Phủ số 242/199/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong đó quy định các mặt hàng cấm xuất khẩu cũng như cấm nhập khẩu. Thông tư quy định chi tiết đến từng mặt hàng. Đồng thời kèm theo mã số hàng hoá để quy chuẩn tạo điều kiện thuận lợi trong các giao dịch thương mại. Thông tư này có tính chất quy chiếu đối cới các ngân hàng, để từ đó đồng ý hay không đồng ý với những yêu cầu vay vốn để xuất nhập khẩu các loại hàng hoá cụ thể. Liên quan đến xuất nhập khẩu trong thời gian gần đây, bộ thương mại đã bãi bỏ rất nhiều các loại giấy phép con và còn tiếp tục bãi bỏ trong thời gian tới. Những thông tin này ngân hàng cần cập nhật và nắm vững để tránh có những đòi hỏi vô lý về hồ sơ, thủ tục. Đồng thời, ngân hàng cũng cần chú ý đến hạn nghạch của từng mặt hàng xuất nhập khẩu đó. Bộ thương mại liên tục thông báo về số lượng cũng như các mặt hàng ưu đãi, để từ đó ngân hàng có những quyết định tín dụng chính xác, tránh tình trạng cho vay để xuất nhập khẩu những mặt hàng đã hết hạn nghạch hay không được ưu tiên. 2.2 Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM . Thông qua hơn 10 năm hoạt động của Ngân hàng PHƯƠNG NAM, vai trò của Ngân hàng trên thị trường ngày càng được khẳng định. So với các Ngân hnàg quốc doanh hay một số Ngân hàng thương mại khác thì tuổi đời của Ngân hàng còn rất trẻ, nhưng do nắm được thời cơ khi hoà nhập vào lúc nền kinh tế đang bước đầu đi vào đúng quỹ đạo phát triển của nền kinh tế thị trường. Chính vì thế các mặt dịch vụ của Ngân hàng về tín dụng, thanh toán có tiền đề tốt để phát triển. Hơn thế nữa, Ngân hàng có thể đứng vững sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997 càng làm cho uy tín của Ngân hàng được củng cố trên thị trường. Do đố, trong vài năm gần đây Ngân hàng đã mở thêm nhiều các chi nhánh, đại lý ở các miền của Tổ quốc và các nước trên thế giới như: Anh quốc, Hoa kỳ, các nước Đông Nam á ... Hoạt động của Ngân hàng đang trong thời gian mở rộng về quy mô nên có sự giảm sút về lợi nhuận do chi phí tăng để phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cấp các chi nhánh trên cả nước và các đại lý ở nước ngoài. Mặc dù vậy, thu nhập vẫn tăng một cách ổn định. Năm 2001 thu nhập đạt 123,731 tỷ đồng tăng 24,13% so với năm 2000 và năm 2002 thu nhập đạt 153, 608 tỷ đồng tăng 24,15% so với năm 2001. Ngân hàng PHƯƠNG NAM đã cho thấy mặc dù mở rộng các chi nhánh, đại lý nhưng các cơ sở cũ vẫn ổn định việc kinh doanh. Với việc mở rộng kinh doanh đó làm cho lợi nhuận trước thuế giảm đáng kể như: Năm 2001 lợi nhuận trước thuế đạt 21,416 tỷ đồng tăng 30,47% so với năm 2000 Năm 2002 lợi nhuận trước thuế đạt 22,272 tỷ đồng chỉ tăng 4,00% so với năm 2001 Tuy tình hình kinh doanh năm 2002 có phần sút giảm, nhưng hoạt động thanh toán quốc tế của Hội sở ngày càng tạo được uy tín đối với khách hàng.Có thể thấy, uy tín của ngân hàng được thể hiện qua doanh số đạt được: Bảng 6: Đơn vị: triệu USD. Chỉ tiêu Năm 2000 năm 2001 năm 2002 Số lượng (món) 123 82 307 Doanh số thanh toán quốc tế 19.96 16.2 30.7 (Nguồn: Báo cáo kinh doanh) Dựa vào Báo cáo thực hiện kim ngạch thanh toán quốc tế của Hội sở có thể cho ta biết một cách chung nhất về dịch vụ thanh toán quốc tế trong toàn Ngân hàng PHƯƠNG NAM. Tổng doanh số thực hiện thanh toán quốc tế năm 2000 đạt 19,96 -triệu USD tăng 60,96% so với năm 1999 (12,4 triệu USD), năm 2001 đạt 16,2 triệu USD giảm 19% so với năm 2000. Tuy nhiên đến ngày 31/12/2003 doanh số này lại tăng lên đáng kể là 30,691 triệu USD tăng gần gấp hai lần so với năm 2001 (tăng 89,45%) nhưng chỉ đạt 61,38% so với chỉ tiêu năm 2002 là 50 triệu USD. Đặc biệt trong năm 2002 chỉ có Chi nhánh của Ngân hàng tại Hà Nội đạt 111,39% so với chỉ tiêu của Hội Sở đề ra, cho thấy hoạt động của cơ sở đạt hiệu quả tốt. Với các mục tiêu đã đạt được, công tác thanh toán quốc tế đã thu được một số kết quả nhất định: Chất lương ngày càng được nâng cao, liên tục 5 năm liền chưa xảy ra trường hợp phát sinh sự cố đáng kể. Thể hiện được uy tín của Ngân hàng trong và ngoài nước. Triển khai thực hiện Tín dụng Xuất –Nhập khẩu trực tiếp, kết quả giải quyết hồ sơ nhanh, góp phần thu hút và tăng thêm uy tín nơi khách hàng. Đội ngũ cán bộ đã được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, có sự kết hợp giữa người cũ và người mới nhằm nâng cao nghiệp vụ và bảo đảm tính an toàn trong kinh doanh. Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho chi nhánh, kết quả đạt 100% khá giỏi. -Thực hiện tốt chế độ báo cáo thống kê theo định kỳ và chất lượng đạt yêu cầu. Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM mặc dù kế hoạch năm 2002 không đạt được như chỉ tiêu đề ra, nhưng có thể cho thấy được sự thâm nhập thị trường khá nhánh. Nắm bắt được thời cơ thuận lợi để mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế , tuy mới hoạt động mà năm 2002 doanh số kim nghạch đã tăng sấp xỉ 81% so với năm 2001. Điều này cho thấy doanh nghiệp đã dần thu hút được sự chú ý của các nhà kinh doanh về uy tín, chất lượng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán một cách hiệu quả. 2.3 Hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Hà Nội Chi nhánh Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM được thành lập năm 2001 tính đến nay đã đi vào hoạt động được hai năm. Có thể nói với hai năm tham gia một thị trường mới thực sự là rất khó khăn đối với doanh nghiệp , nhưng điều đó không làm cho ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM lùi bước mà vẫn thâm nhập vào thị trường giàu tiềm năng này. Do có các chính sách ưu đãi hợp lý, các nghiiệp vụ giải quyết nhanh chóng không để dây rưa đã tạo cho ngân hàng tạo được uy tín khi mới thành lập với các khách hàng và các bạn hàng cũ của Hội sở cũng như ở các chi nhánh khác. Với kế hoạch 5 năm (2001-2004) của Hội sở, chi nhánh Hà Nội cũng chú trọng phát triển các mặt về hoạt động tín dụng, hoạt động huy động vốn, hoạt động thanh toán quốc tế … cho phù hợp với vị thế là chi nhánh thuộc trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá của cả nước. Trong đó hoạt động thanh toán quốc tế góp phần quan trọng. Hai năm vừa qua, hoạt đông thanh toán quốc tế góp phần không nhỏ trong mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh của chi nhánh với các chỉ tiêu vượt định mức mà Hội Sở giao. Cụ thể: Bảng 7: Doanh số thanh toán quốc tế Đơn vị: 1,000 USD STT Khoản mục Năm 2001 Năm 2002 Thanh toán quốc tế. 2020.000 5569.500 1 Doanh số L/C nhập khẩu 622.350 1023.500 2 Doanh số thanh toán Tài trợ nhập khẩu 947.650 3046.000 3 Thu hộ Ngân hàng nước ngoài 200.000 400.000 4 Doanh số L/C xuất khẩu 250.000 750.000 5 Nhờ Ngân hàng nước ngoài thu hộ - 150.000 6 Chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam - 200.000 (Nguồn báo cáo tình hình kinh doanh khác của chi nhánh) Chi nhánh Hà Nội là một trong các chi nhánh mới đi vào hoạt động từ năm 2001, do đó dịch vụ thanh toán quốc tế cũng bước đầu thâm nhập vào thị trường nên hoạt động còn một số khó khăn, tuy nhiên qua bảng doanh số kim ngạch thanh toán quốc tế của chi nhánh cho thấy tình hình đáng mừng của bộ phận này. Chi nhánh mới hoạt động nhưng năm 2001 đã đạt được 2.020 triệu USD vượt kế hoạch 101% so với kế hoạch giao kể cả khi toàn bộ ngân hàng chỉ 30% kế hoạch năm. Đến năm 2002 doanh số thanh toán quốc tế tăng lên một cách đáng kể đạt 5.5695 triệu USD đạt 111,39% so với kế hoạch của năm và tăng hơn 2 lần doanh số năm 2001 đạt được. Kết quả của dịch vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh đạt được là do: -Chất lượng ngày càng được nâng cao, thể hiện được uy tín của Ngân hàng PHƯƠNG NAM với Ngân hàng trong và ngoài nước. -Triển khai thực hiện Tín dụng Xuất – Nhập khẩu trực tiếp, kết quả giải quyết nhanh hồ sơ, góp phần thu hút và tăng thêm uy tín nơi khách hàng. - Đội ngũ cán bộ được tăng cường cả về số lượng, chất lượng vàcó sự kết hợp giữa người cũ và người mới nhằm nâng cao nghiệp vụ và đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh. 2.3.1 Phương thức thanh toán quốc tế L/C Về các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu, chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM –Hà Nội nói riêng và các ngân hàng khác đều đặt ra rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Tuy nhiên, vì tính chất của tín dụng xuất nhập khẩu, vì ưu nhược điểm của các hình thức tín dụng và quan trọng hơn cả là yêu cầu của thị trường nên chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM áp dụng hình thức tín dụng thông qua L/C là chủ yếu. Sơ đồ quy trình thực hiện thanh toán quốc tế qua thư tín dụng (L/C) (3) gửi L/C Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu Nhà xuấtkhẩu (7) y/c thanh toán (8) thanh toán Y/c mở L/C (2) (9) báo nợ (4) báo có L/C (6) trình chứng từ (1) ký hợp đồng (5)giao hàng Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương. Nhà nhập khẩu làm thủ tục đề nghị ngân hàng phục vụ mình mở L/C theo yêu cầu đã thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương. Ngân hàng xem xét đề nghị mở L/C, nếu chấp nhận mở và gửi L/C sang ngân hàng nước ngoài được chỉ định. Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu thông báo cho người xuất khẩu đã có L/C. Nhà xuất khẩu sau khi xem xét các ràng buộc trong L/C phù hợp với hợp đồng đã ký kết, tiến hành giao hàng. Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu của L/C, xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng sau khi kiểm tra chứng từ lần nữa, sẽ gửi bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, yêu cầu thanh toán theo chỉ định Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu tiến hành thanh toán. Ngân hàng giao bộ chứng từ nhận hàng cho người nhập khẩu đổi lấy việc thanh toán hoặc cấp tín dụng. Trong hình thức tín dụng bằng việc mở L/C thì cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu đều có lợi. Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với một nhà xuất khẩu là doanh nghiệp nước ngoài sẽ vấp phải nhiều vấn đề. Cả nhà nhập khẩu và xuất khẩu đều mong phía mình có lợi. Nghĩa là nhà nhập khẩu muồn biết chắc hàng hoá đã được giao phù hợp với các điều kiện của hợp đồng trước khi tiến hành thanh toán. Tương tự, nhà xuất khẩu cũng không muốn rời hàng thậm chí còn không muốn tiến hành sản xuất trước khi biết chắc là sẽ được thanh toán tốt đẹp. Do đó, nhà xuất khẩu sẽ muốn phòng ngừa trước những rủi ro không thanh toán trong tương lai của nhà nhập khẩu. Trong trường hợp này L/C sẽ đáp ứng nhu cầu của cả hai với tư cách là một phương tiện thanh toán. Nó đồng thời cũng có thể là công cụ tín dụng. Thật vậy, với những đảm bảo mà nó mang lại cho mỗi bên, đảm bảo giao hàng đối với nhà nhập khẩu và đảm bảo thanh toán đối với nhà xuất khẩu, nên các bên có thể xin vay để phục vụ nhu cầu vốn của mình. + Đối với nhà nhập khẩu, mở L/C được xem là hình thức tài trợ của ngân hàng.Với mọi biến cố xẩy ra thì thương vụ vẫn được diễn ra. Mọi thư tín dụng đều được mở theo yêu cầu của nhà nhập khẩu. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C, có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nếu bộ chứng từ hợp lý. Ngân hàng sẽ gánh hết rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thực hiện hợp đồng với nhà xuất khẩu. Khi đó ngân hàng mở L/C sẽ vẫn thanh toán cho phía nước ngoài rồi chấp nhận cấp tín dụng cho khách hàng. Dó đó, trước khi mở L/C ngân hàng cũng phải tiến hành những bước thẩm định khách hàng như khả năng thanh toán, tình hình tài chính, uy tín vay nợ, tỷ lệ vốn xin mở L/C so với tổng vốn cần thiết,..... và yêu cầu những khoản đảm bảo. ở đây, xin nói kỹ về các khoản ký quỹ là khoản mà ngân hàng thường yêu cầu khách hàng đối với hình thức này. Mức độ ký quỹ sẽ tuỳ thuộc vào điểm tín dụng mà ngân hàng chấm cho khách hàng. ở Việt Nam mức ký quỹ có thể là 0% nhưng cũng có thể là 100%, tỷ lệ ký qũy càng lớn chứng tỏ mức rủi ro của L/C này càng cao. Đôi khi khoản tiền ký quỹ đã trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các khoản ký quỹ 100%. Do đó để khắc phục, ngân hàng tiến hành cho khách hàng vay khoản ký quỹ đó. Như vậy mức độ rủi ro đã giảm xuống vì dư nợ đã phát sinh ngay từ khi thương vụ chưa diễn ra thay vì nó phát sinh một cách bị động đối với ngân hàng khi thương vụ đã xảy ra, và trong tình trạng đó khách hàng thường có tư tưởng trốn nợ. ý nghĩa của khoản ký quỹ này là một khoản đảm bảo cho ngân hàng khi rủi ro xẩy ra, khi đó ngân hàng sẽ dùng khoản ký qũy này để bù đắp. Và, một khi khách hàng đã đồng ý ký quỹ chứng tỏ khách hàng có năng lực về vốn và ràng buộc khách hàng làm tròn nghĩa vụ của người nhận bảo lãnh. Có những quy định như là nếu khách hàng vi phạm hợp đồng hay hợp đồng chấp dứt thì khoản ký qũy này sẽ mất, coi như một khoản phí trả cho ngân hàng vì đã cung cấp dịch vụ. + Đối với nhà xuất khẩu. Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở: khi đó L/C như một tài sản đảm bảo khách hàng sẽ có tiền trong tương lai và do đó những yêu cầu xin vay để thực hiện hợp đồng sẽ trở nên có đảm bảo hơn bao giờ hết, và vốn sẽ được cấp cho khách hàng để tiếp tục sản xuất. Rõ ràng, giữa khách hàng và ngân hàng có một đảm bảo tín dụng tốt nên ngân hàng sẽ không từ chối cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu, khi đó họ sẽ có đủ vốn để tiến hành gom hàng, sản xuất, đảm bảo cho việc giao hàng chắc chắn sẽ diễn ra. Nhà xuất khẩu cũng có thể bán lại cho ngân hàng hợp đồng với nhà nhập khẩu để đổi lấy một khoản tiền. Chúng ta không nên hiểu là khi nhà xuất khẩu bán hợp đồng cho ngân hàng là vì họ không còn đủ khả năng thực hiện hợp đồng mà đơn giản vì việc bán đó đã mang lại lợi nhuận. Đồng thời việc ngân hàng mua hợp đồng không có nghĩa ngân hàng đứng ra gánh rủi ro cho khách hàng mà vì ngân hàng hi vọng sẽ thu được một khoản tiền cao hơn khi hợp đồng được thực hiện. Việc bán hợp đồng này là việc nhà xuất khẩu trao cho ngân hàng quyền truy đòi tiền thanh toán của nhà nhập khẩu, còn trách nhiệm của nhà xuất khẩu sẽ chỉ dừng lại ở bước giao hàng theo thoả thuận ba bên, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu. Như vậy, ngân hàng đã giúp cho khách hàng của mình rảnh tay sản xuất mà không phải lo đến việc thu tiền, trong khi đó ngân hàng càng ngày càng chuyên nghiệp hơn trong nghiệp vụ này. 2.3.2 áp dụng phức thanh toán L/C vào hoạt động Như chúng ta đã biết, trong thanh toán quốc tế, có rất nhiều hình thức thư tín dụng, song tại chi nhánh Ngân hàng PHƯƠNG NAM áp dụng hai hình thức thư tín dụng chủ yếu là L/C at sight và L/C trả chậm. Tuy nhiên, chỉ có L/C at sight được áp dụng phổ biến vì mức độ rủi ro của hai loại thư tín dụng này khác nhau rất nhiều. Sự khác nhau này do tính thời điểm của L/C quy định: như chúng ta đã biết, thời hạn càng dài thì độ rủi ro càng cao do tư bản luôn luôn vận động từ hình thái này sang hình thái khác. Cả hai hình thức thư tín dụng này đều có giá trị thanh toán khi ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu gửi về ngân hàng bộ chứng từ hoàn hảo. Và cả hai hình thức đều có thể mở bằng vốn của khách hàng hoặc vốn của ngân hàng (có quy định mức ký quỹ phù hợp với từng đối tượng khách hàng khác nhau). + Nhưng đối với L/C at sight việc thanh toán của ngân hàng với nước ngoài cũng đồng thời (hoặc gần như đồng thời) với việc thanh toán của khách hàng với ngân hàng. Như vậy, nếu trong trường hợp mở bằng vốn của khách hàng thì khách hàng chuyển tiền vào cho ngân hàng thanh toán. Còn nếu bằng vốn của ngân hàng, khách hàng sẽ phải nhận nợ ngay lập tức do đó tính bảo đảm sẽ cao hơn vì ngân hàng thường nắm chắc số hàng hoá của khách hàng để thu nợ và gốc trên số hàng hoá đó, mọi động thái của khách hàng ngân hàng đều biết để có thể xử lý kịp thời. + Trong khi đó L/C trả chậm nghĩa là việc ngân hàng thanh toán cho ngân hàng nước ngoài và việc khách hàng thanh toán cho ngân hàng diễn ra không đồng bộ. Khách hàng trả cho ngân hàng sau một thời gian như trong hợp đồng đã quy định. Khi đó ngân hàng thường khó kiểm soát được khách hàng do ngoài nguyên nhân kinh doanh không có lãi, không thu được tiền hàng thì còn có thể xẩy ra trường hợp khách hàng quay vòng vốn của ngân hàng, sử dụng vào mục đích khác khi chưa đến thời hạn thanh toán với ngân hàng. Đồng thời tính thời điểm còn ảnh hưởng đến rất nhiều loại rủi ro tín dụng khác nữa đặc biệt là rủi ro tỷ giá. Ngân hàng thường đồng ý mở thư tín dụng cho các đối tượng có quan hệ tín dụng lành mạnh, uy tín, hoặc có bảo lãnh mở L/C, một hình thức đảm bảo cho loại tín dụng này. Đối với các hình thức tín dụng này, khách._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0026.doc
Tài liệu liên quan