Lời nói đầu
Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng mừng và liên tục tăng trưởng. Bằng đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã khơi dậy được những tiềm năng, những nguồn lực cùng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế hoạt động một cách sôi động như hiện nay với mọi thành phần kinh tế, trong đó có hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Làm thế nào để đạt được hiệu quả cao trong kinh d
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ Kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh, nhất là kinh doanh tiền tệ, luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà lãnh đạo Ngân hàng, không một Ngân hàng nào lại muốn mình tồn tại trong tình trạng thua lỗ để một sớm, một chiều phá sản. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Nó có ảnh hưởng tích cực đến nền KTQD, đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mỗi NHTM. Trong đó nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ tài sản có của Ngân hàng. Đây là nguồn vốn hình thành chủ yếu từ việc huy động của khách hàng, do vậy Ngân hàng phải có trách nhiệm sử dụng nó một cách có hiệu quả, nghĩa là cho vay phải thu hồi được nợ (gốc + lãi). Để thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng phải giải quyết được một loạt các vấn đề về kỹ thuật nghiệp vụ, trong đó có nghiệp vụ "kế toán cho vay" nhằm phục vụ cho việc hạch toán quá trình cho vay, theo dõi thu nợ và thu lãi để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và cho khách hàng.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ (NHN0 & PTNT Láng Hạ) khi phải đối mặt trực tiếp với thị trường đặc biệt là thị trường Hà Nội- nơi có môi trường Ngân hàng cạnh tranh sôi động bậc nhất cả nước. Với chiều dài lịch sử không lớn và với những bước đi ban đầu NHNN&PTNT Láng Hạ đã gặt hái được những thành công đáng kể, bên cạnh đó còn xuất hiện những tồn tại, những vấn đề chưa hoàn thiện trong quá trình hạch toán kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng và mức độ phức tạp của kế toán cho vay, kết hợp với nhiệm vụ của đợt thực tập cuối khoá, em chọn đề tài "Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại NHNN&PTNT Láng Hạ" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Tập hợp hệ thống những lý luận của kế toán Ngân hàng- kế toán cho vay áp dụng tại Ngân hàng nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở trình bày, phân tích đánh giá khách quan và toàn diện thực trạng vận hành quy trình kế toán cho vay tại NHNN&PTNT Láng Hạ hiện nay.
- Dựa trên việc bám sát chế độ kế toán cho vay đối với các tổ chức tín dụng do NHNN ban hành. Tác giả mạnh dạn đưa ra những kiến nghị và giải pháp mang tính định hướng nhằm góp phần khắc phục những tồn tại thiếu sót trong công tác kế toán cho vay nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác này làm cho kế toán cho vay trở thành một công cụ trợ giúp đắc lực và có hiệu quả đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng NN & PTNT Láng Hạ.
* Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài có tính chất rộng bởi nó liên quan đến mảng hoạt động rất phức tạp của Ngân hàng, kế toán cho vay là "đầu mối" trong mọi lĩnh vực hoạt động Ngân hàng, mà trong giới hạn về thời gian nghiên cứu và năng lực thực tế của sinh viên thì việc giải quyết vấn đề một cách toàn diện và triệt để là không thể thực hiện được. Do vậy, em giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài trên góc độ môn học kế toán Ngân hàng, giới hạn về nội dung được xác lập ở phần 2 gồm 3 chương.
* Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở những tư duy đổi mới về tổ chức và vận hành kinh doanh, tư duy về hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay trong mối quan hệ phù hợp với từng nội dung mà đề tài đặt ra. Chúng tôi xác lập các phương pháp thích hợp như: duy vật biện chứng- lịch sử, phân tích tổng hợp, phân tích tác nghiệp, so sánh, đối chiếu, kết hợp lý luận với thực tiễn, qua đó rút ra những tồn tại thiếu sót cần khắc phục và hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán cho vay tại NHNN&PTNT Láng Hạ.
* Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về kế toán cho vay
- Chương II: Thực trạng kế toán cho vay tại NHNN&PTNT Láng Hạ
- Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp
Chương 1.
Cơ sở lý luận về kế toán cho vay.
1.1. Một vài nét về NHTM và hoạt động tín dụng Ngân hàng.
1.1.1 Một vài nét về NHTM.
1.1.1.1. Định nghĩa NHTM.
Trong lịch sử hình thành NHTM thì Ngân hàng thương mại ra đời là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của nền kinh tế. Qua một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, NHTM đang dần dần hoàn thiện và phát huy các nghiệp vụ cơ bản của mình.
Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật đã tạo điều kiện cho nhiều Ngân hàng và tổ chức tín dụng khác ra đời. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Điều 20 của Luật tổ chức tín dụng Việt Nam được quốc hội thông qua tháng 12/1997 có nêu định nghĩa " Ngân hàng Thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan như hoạt động tiền gửi, cho vay, thanh toán và các dịch vụ bảo lãnh…".
1.1.1.2. Chức năng của NHTM.
NHTM ra đời và phát triển nó thực hiện những chức năng cơ bản sau:
1.1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán.
Chức năng thủ quỹ là chức năng đầu tiên củaNHTM, gắn liền với sự ra đời của NHTM và làm cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các chức năng tín dụng, thanh toán và các dịch vụ khác.
Ngay từ khi các NHTM chưa ra đời, các thương gia buôn bán lớn có một lượng của cải dư thừa thường gửi vào các tiệm kim hoàn hoặc gửi những người nhận giữ hộ tiền với mục đích cất trữ an toàn nguồn vốn dư thừa đó. Về sau các cá nhân và các doanh nghiệp cũng tiến hành việc gửi tiền và ngoài mục đích an toàn ra họ còn có mong muốn được hưởng các dịch vụ khác như thanh toán, bảo lãnh, chi trả hộ và khi đó NHTM chính thức ra đời.
Như vậy NHTM ra đời với chức năng đầu tiên là làm thủ quỹ cho các cá nhân và doanh nghiệp gửi tiền, sau đó thực hiện việc thanh toán hộ cho khách hàng dựa trên tài khoản mà khách hàng mở tại Ngân hàng thông qua việc khách hàng uỷ nhiệm cho Ngân hàng thu hộ, chi hộ.
Với chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán, NHTM đã thực hiện việc luân chuyển, thanh toán những khối lượng vốn lớn và trên phạm vi rộng. Việc thanh toán qua Ngân hàng đã giảm bớt được khối lượng tiền mặt lưu thông, giảm chi phí giao dịch, chi phí thanh toán và hạn chế rủi ro trong quá trình thanh toán, góp phần tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng tốc độ lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế.
1.1.1.2.2.Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng này, một mặt, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở vốn đã huy động được Ngân hàng tiến hành việc cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế, điều đó đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay, hay nói cách khác nghiệp vụ tín dụng của NHTM là đi vay và cho vay.
Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật tư hành hoá đưa vào hoạt động sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Đối với NHTM hoạt động tín dụng là hoat động chủ yếu mang lại nguồn thu lớn nhất cho Ngân hàng, bên cạnh đó nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.Vì vậy Ngân hàng nghiên cứu, áp dụng biện pháp quản lý nhằm mở rộng hoạt động và đảm bảo an toàn tín dụng.
1.1.1.2.3.Chức năng tạo tiền.
Qúa trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống Ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân hàng trung ương của mỗi nước. Khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều Ngân hàng. Một Ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì số vốn đó lại chuyển sang Ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm tăng thêm vốn tiền gửi của các Ngân hàng khác. Bây giờ ta xem xét quá trình tạo tiền như sau: Một NHTMA huy động tiền gửi 10tr thì sau đó thực hiện dự trữ bắt buộc 1tr ( tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10%), khi đó NHTMA có thể cho vay tối đa 9tr. Nhưng nếu cả hệ thống các chi nhánh của NHTMA sử dụng 9tr đó cho khách hàng của mình vay bằng cách chuyển vốn từ chi nhánh này sang chi nhánh khác, liên tiếp như vậy đối với nhiều khách hàng thì hệ thống NHTMA có khả năng biến 10tr tiền gửi ban đầu tăng lên gấp nhiều lần.
Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên quan chặt chẽ với chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Thông qua đó Ngân hàng trung ương có thể tăng hay giảm lượng tiền cung ứng bằng việc thayđổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế.
1.1.2. Hoạt động tín dụng Ngân hàng.
1.1.2.1.Vai trò của tín dụng Ngân hàng.
Trong lịch sử hình thành và phát trỉên Ngân hàng, tín dụng Ngân hàng được coi là hoạt động nghiệp vụ sơ khai nhất và nó tồn tại cho đến ngày nay, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã mang lại cho Ngân hàng đến trên70% thu nhập và thực chất nghiệp vụ tín dụng là "đi vay để cho vay", là việc người sử dụng vốn vay phải hoàn trả cho Ngân hàng một khoản lãi sau một thời gian cho quyền sử dụng vốn đó. Do vậy vai trò của tín dụng Ngân hàng thể hiện:
1.1.2.1.1.Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển, vì tín dụng Ngân hàng đáp ứng về cơ bản nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp tiến hành tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Khi mà các doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, muốn vậy phải đổi mới công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, tìm kiếm môi trường kinh doanh mới, đồng thời quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng với các doanh nghiệp có sự ràng buộc trách nhiệm vay trả, do đó buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn của mình sao cho đảm bảo vừa làm ăn có lãi vừa có khả năng hoàn vốn và lãi cho Ngân hàng. Hay nói cách khác, tín dụng Ngân hàng đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng Ngân hàng mở rộng cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế bởi ở nước ta nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là rất lớn, do vậy tín dụng Ngân hàng có nhiệm vụ khai thác tối đa nguồn vốn trong nước, tìm cách thu hút nguồn vốn ngoài nước, từ đó có khả năng cấp vốn đầu tư trướ c hết cho cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu chế xuất và sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, tín dụng Ngân hàng còn là nơi cấp vốn ưu đãi cho các ngành kinh tế kém phát triển tạo đà cho tất cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển.
Tín dụng Ngân hàng có tác dụng tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế. Một doanh nghiệp dù lớn đến đâu cũng không dám chắc chắn rằng mình có đủ vốn trong kinh doanh, do có nhiều tác động từ phía nhà cung cấp hoặc từ việc tiêu thụ hàng hoá, hoặc sản xuất mang tính mùa vụ. Để đảm bảo tính hoạt động liên tục và phát triển thì cần phải có nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, do tín dụng Ngân hàng làm chức năng phân phối lại vốn tiền tệ tín dụng, thực hiện nhiệm vụ chuyển giao vốn trong nền kinh tế. Bởi Ngân hàng là trung gian tín dụng, là nơi thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, từ các khoản thu nhập lẻ tẻ của các tầng lớp dân cư trong xã hội hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở đó Ngân hàng tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có nhu cầu về vốn. Như vậy nhờ có hoạt động tín dụng Ngân hàng, vốn được điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho tốc độ chu chuyển vốn kinh doanh được liên tục và có hiệu quả.
Tín dụng Ngân hàng là công cụ lãnh đạo kinh tế.
Hiện nay nước ta đang áp dụng mô hình nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, điều đó nói lên rằng Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện các chiến lược kinh tế thông qua công cụ tài chính tín dụng nhằm khai thác mọi tiềm năng để chuyển hướng cơ cấu phát triển kinh tế cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế. Trên cơ sở định hướng chung của Nhà nước, tín dụng Ngân hàng tiến hành tập trung vào những ngành trọng điểm nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, nâng cao mức sống cho người lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế thông qua việc tạo nguồn vốn đầu tư kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu và đầu tư vốn ra nước ngòai.
Tín dụng Ngân hàng còn là công cụ giúp Ngân hàng Nhà nước cũng như ban lãnh đạo các Ngân hàng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định.
1.1.2.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với bản thân ngành Ngân hàng thể hiện cụ thể:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng: Chức năng chính của Ngân hàng là "trung gian tài chính" của nền kinh tế, vì vậy hoạt động chính của Ngân hàng là hoạt động tín dụng với nhiệm vụ đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho nền sản xuất xã hội. Nói tới Ngân hàng là nói tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó chiếm tới trên 70% hoạt động của một Ngân hàng, điều đó khẳng định sự tồn tại tất yếu của nó và các Ngân hàng phải không ngừng đổi mới cơ chế tín dụng cho phù hợp với đặc điểm nền kinh tế.
Tín dụng là hoạt động quyết định tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chính mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Kết quả kinh doanh Ngân hàng tốt hay xấu phụ thuộc vào kết quả hoạt động tín dụng Ngân hàng. Do vậy khi tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng từ giai đoạn xét duyệt cho vay đến giai đoạn thanh lí hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, an toàn và hiệu quả.
Tín dụng Ngân hàng còn có các quan hệ với các mặt nghiệp vụ chủ đạo trong Ngân hàng, nó có vai trò quyết định đến sự tồn tại của một Ngân hàng từ việc huy động vốn đến việc khai thông sử dụng nguồn vốn đó một cách có hiệu quả nhất. Đồng thời nghiệp vụ tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với các nghiệp vụ khác. Cụ thể:
- Nghiệp vụ tín dụng được bổ trợ của các hoạt động nghiệp vụ khác trong Ngân hàng. Bên cạnh hoạt động tín dụng, Ngân hàng còn thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ khác như nghiệp vụ ngân quỹ, nghiệp vụ trung gian thu hộ, chi hộ, nghiệp vụ chuyển tiền hay nghiệp vụ tài sản có khác (tư vấn, cho thuê két sắt). Tất cả các nghiệp vụ này thể hiện mảng hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng mang lại khả năng sinh lời cao cho Ngân hàng và rủi ro thấp. Các hoạt động nghiệp vụ kể trên mang tính chất là các hoạt động dịch vụ, và sự phù hợp về chất lượng của nó sẽ tạo điều kiện thu hút số lượng lớn khách hàng đến với Ngân hàng, mở ra cho Ngân hàng những cơ hội kinh doanh mới. Đồng thời đó là những nghiệp vụ giúp đa dạng hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng, giúp cho việc sử dụng nguồn vốn của Ngân hàng một cách linh hoạt một khi hoạt động tín dụng Ngân hàng gặp khó khăn.
- Mảng hoạt động nghiệp vụ kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ mang tính giám đốc hoạt động tín dụng, bởi hoạt động nghiệp vụ kế toán cho vay là thực hiện ghi chép đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình cho vay, thu nợ thu lãi, theo dõi dư nợ tín dụng, điều đó góp phần đặc biệt quan trọng trong việc quản lý theo dõi và đôn đốc thu hồi nợ gốc, lãi nhằm bảo vệ an toàn vốn cho Ngân hàng. Chính điều đó sẽ nâng cao chất lượng của mảng hoạt động tín dụng.
Nói tóm lại, tín dụng Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó phát huy vai trò là trung gian tài chính của mình để xứng đáng là đòn bẩy thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển. Nếu tín dụng không được sử dụng đúng mục đích thì hậu quả sẽ là khó lường cho cả Ngân hàng và khách hàng, ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Do vậy chính sách tín dụng được coi là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia.
1.1.2.2. Các loại hình cho vay.
1.1.2.2.1 Cho vay từng lần.
Cho vay từng lần là cho vay theo phương thức tín dụng thông thường được áp dụng tương đối phổ biến trong cho vay vốn lưu động cũng như trong cho vay trung, dài hạn. Loại cho vay này áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu và đề nghị vay vốn không thường xuyên, hoặc khách hàng mà Ngân hàng xét thấy cần thiết phải áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn chặt chẽ an toàn.
1.1.2.2.2 Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là loại cho vay trong đó được xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và được áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên sản xuất kinh doanh ổn định, có tín nhiệm với Ngân hàng.Tuỳ theo thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng, Ngân hàng cho khách hàng vay theo mức tín dụng đã ký trong hợp đồng tín dụng.
1.1.2.2.3. Cho vay theo dự án đầu tư.
Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án khác. phương thức này áp dụng đối với cho vay trung dài hạn.
Ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ.
1.1.2.2.4. Phương thức cho vay hợp vốn.
Phương thức cho vay hợp vốn được thực hiện khi Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác cùng cho vay đối với một dự án, phương án của khách hàng, trong đó có một Ngân hàng đứng ra đóng vai trò là Ngân hàng chủ trì. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng số 154/1998/QĐ/-NHNN 14 ngày 29 tháng 4 năm 1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2.2.5. Phương thức cho vay trả góp.
Khi vay vốn NHTM và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản hình thành bằng nguồn vốn vay của chủ sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
1.1.2.2.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Căn cứ nhu cầu vay của khách hàng, NHTM và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng trong phạm vi thời hiệu lựccủa hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức tín dụng dự phòng khách hàng phải trả phí cam kết. Mức phí cam kết phải được thoả thuận giữa khách hàng và NHTM. Khi khách hàng vay chính thức, phần vốn vay được tính theo lãi suất tiền vay hiện hành.
1.1.2.2.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
NHTM nơi cho vay chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là địa lý của NHTM, khi cho vay phát hành sử dụng thẻ tín dụng, NHTM nơi cho vay và khách hàng phải tuân theo quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
1.1.2.2.8. Cho vay theo phương thức khác.
Theo nhu cầu của khách hàng và thực tế phát sinh tại Ngân hàng nông nghiệp sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp với đặc điểm hoạt động trong từng thời kỳ và không trái với quy định của pháp luật.
Sau khi xem xét các phương thức cho vay, với trình độ còn hạn chế và khả năng thực tế cho phép, em sẽ trình bày các nội dung về kế toán cho vay theo hai phương thức chính trong tín dụng ngắn hạn (cho vay từng lần và cho vay theo HMTD) và tín dụng trung dài hạn. cụ thể được trình bày trong phần 2.
1.2. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán Ngân hàng.
* Kế toán là gì?
Con người khi tiến hành làm bất kỳ việc gì cũng muốn đạt hiệu quả cao,nghĩa là với chi phí tối thiểu phải đem lại lợi ích tối đa. Để đạt được điều đó, quá trình sản xuất cần phải được định hướng và tổ chức thực hiện theo những định hướng đã định. Từ đó xuất hiện nhu cầu tất yếu phải thực hện chức năng quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh, và để btiến hành hoạt động quản lý cần phải có thông tin, trong đó quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động là một trong các phương pháp thu nthập thông tin chủ yếu, mà phương pháp đó chính là hạch toán, kế toán. Vậy có thể nói hạch toán kế toán là việc quan sát, đo lường, tính toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế. Như vậy, có thể kết luận rằng, sự ra đời của hạch toán nói chung và hạch toán kế toán nói riêng là một tất yếu khách quan, do nhu cầu của sản xuất và quản lý đòi hỏi.
Ngân hàng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường, vấn đề lợi nhuận mang tính chất sống còn. ở đó kế toán là nơi phản ánh tất cả các số liệu liên quan đến hoạt động của Ngân hàng. Để điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng mang lại hiệu quả cao đòi hỏi người quản lý phải nhận thức được vai trò của thông tin kế toán. Cụ thể:
Hạch toán kế toán cung cấp cho các nhà Ngân hàng biết được tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động trong quá trình sử dụng vốn, huy động vốn, phản ánh và giám sát một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống các loại tài khoản phản ánh nguồn vốn và việc sử dụng vốn trong Ngân hàng. Từ thông tin mà kế toán Ngân hàng cung cấp giúp cho người quản lý đề ra những quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Trên cơ sở đó đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển.
Muốn hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao, nhà lãnh đạo Ngân hàng cần phải nắm bắt nhanh nhạy, chính xác các thông tin kế toán để từ đó biết được thực trạng và triển vọng phát triển, khả năng trả nợ, khả năng sinh lời trước khi quyết định bỏ ra một khoản vốn đầu tư nào đó. Giúp các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu đưa ra các luật định phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế của từng loại hình kinh tế, để từ đó thiết lập nên các mối quan hệ hợp tác, tín dụng và quan hệ thanh toán.
Khác với các ngành kinh tế khác, kế toán Ngân hàng có một số lượng chứng từ rất lớn, rất đa dạng đáp ứng nhu cầu của các mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường. Để làm được điều này đòi hỏi Ngân hàng phải có những thể thức thanh toán phù hợp, phải tổ chức quy trình luân chuyển chứng từ sao cho có khoa học, thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo an toàn tài sản.
Để phát huy vai trò của mình, kế toán Ngân hàng có các nhiệm vụ sau: Sự ghi chép phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn Ngân hàng theo đúng pháp lệnh Kế toán thống kê của Nhà nước và theo thể lệ của kế toán hiện hành trên cơ sở đó để đảm bảo an toàn tài sản (vốn) của bản thân Ngân hàng và của khách hàng, của xã hội được bảo quản tại Ngân hàng.
- Phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và theo những chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời phục vụ quá trình lãnh đạo, thực thi chính sách quản lý và chỉ đạo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Giám sát quá trình sử dụng tài sản, nguồn vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn qua việc kiểm soát trước các nghiệp vụ bên nợ và bên có ở từng Ngân hàng cũng như toàn hệ thống góp phần tăng cường kỷ luật tài chính củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh, giúp đỡ khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ Kế toán nói riêng góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của Ngân hàng.
1.3. Sự cần thiết của Kế toán cho vay.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
"Kế toán cho vay là công việc tính toán, ghi chép một cách đầy đủ chính xác các khoản thu nợ, thu lãi, theo dõi dư nợ tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó bảo vệ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng và cung cấp các thông tin cần thiết cho việc quản lý và điều hành hoạt động tín dụng của Ngân hàng".
Trong toàn bộ hoạt động của nghiệp vụ Kế toán Ngân hàng thì Kế toán cho vay được xác định là nghiệp vụ Kế toán phức tạp và rất quan trọng, nó góp phần bảo vệ an toàn vốn mà Ngân hàng đã đầu tư cho các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế được vay vốn thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền vay tại nh thông qua việc tổ chức ghi chép phản ánh một cách đầy đủ, chính xác kịp thời các khoản cho vay thu nợ, chuyển nợ quá hạn, đồng thời theo dõi giám sát chặt chẽ dư nợ đảm bảo an toàn vốn.
Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong việc chỉ đạo chấp hành chính sách tiền tệ tín dụng của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tín dụng hiện nay, cụ thể là Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện triển khai áp dụng mức lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế chủ động về vônd phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện tốt công tác Kế toán cho vay làm tham mưu đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của Kế toán cho vay, việc tổ chức bộ máy Kế toán trong mỗi Ngân hàng đều thực sự cần thiết, ở đó việc hạch toán Kế toán phải phù hợp với từng phương thức cho vay, loại cho vay, thời hạn cho vay nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng, bên cạnh đó đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng hay hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hạch toán Kế toán tiền vay.
Để phát huy được vai trò của mình, Kế toán cho vay phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, kiểm tra và xác định tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ Kế toán cho vay để đảm bảo khoản cho vay có khả năng thu hồi ngay từ khâu phát tiền vay.
Thứ hai, ghi chép và phản ánh một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về cấp tín dụng, về nghiệp vụ đầu tư, về quá trình thu hồi vốn gốc và lãi.
Thứ ba, giám đốc, theo dõi chặt chẽ các khoản mục tín dụng, đầu tư đã thực hiện thông qua việc kiểm soát và quản lý hồ sơ về cho vay trên cơ sở bảo vệ an toàn tài sản góp phần nâng cao hiệu quả, mở rộng hoạt động tín dụng toàn đơn vị cũng như toàn hệ thống.
Thứ tư, tổng hợp thông tin về hoạt động tín dụng để cung cấp cho lãnh đạo và làm tham mưu cho hoạt động nghiệp vụ cũng như chỉ đạo thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Như vậy, Kế toán cho vay là một công cụ gián tiếp tạo cho Ngân hàng những nguồn thu nhập trên cơ sở đó Ngân hàng thực hiện chức năng kinh doanh và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Với vai trò quan trọng như vậy, hệ thống Kế toán Ngân hàng phải hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi về vốn ngày càng cao của nền kinh tế.
1.4. Nội dung về Kế toán cho vay.
1.4.1. Chứng từ sử dụng trong Kế toán cho vay.
Trong quan hệ tín dụng, xét về mặt quan hệ kinh tế pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng, các tổ chức tín dụng cho vay đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người đi vay nhận nợ với Ngân hàng và phải hoàn trả trong những kỳ hạn nhất định gồm cả gốc và lãi. Tính pháp lý của các khoản nợ này được thể hiện trên các chứng từ Kế toán cho vay đã được pháp luật thừa nhận.
Vậy chứng từ dùng trong Kế toán cho vay là những giấy tờ đảm bảo về mặt pháp lý các khoản cho vay của Ngân hàng. Mọi sự tranh chấp về các khoản cho vay hay trả nợ đều phải giải quyết trên chứng từ Kế toán cho vay.
Chứng từ Kế toán cho vay gồm có:
- Chứng từ gốc: là chứng từ có giá trị pháp lý trong quan hệ tín dụng xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên đi vay và cho vay. Chứng từ gốc bao gồm: hợp đồng tín dụng, đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ, bảng Kê tính lãi, khế ước vay tiền. Trong đó, đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ và khế ước vay tiền dùng trong phương thức cho vay từng lần.
- Chứng từ ghi sổ: là chứng từ làm thủ tục Kế toán, là căn cứ được lập trên cơ sở chứng từ gốc. Chứng từ ghi sổ gồm: giấy lĩnh tiền mặt hoặc séc lĩnh tiền mặt trong trường hợp cho vay bằng tiền mặt, các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc thanh toán trong trường hợp cho vay bằng chuyển khoản.
Đối với phương thức tín dụng theo hạn mức tín dụng, khi cho vay không phải lập khế ước vay tiền mà chỉ phải ký kết hợp đồng tín dụng thì tính chất pháp lý của khoản cho vay thể hiện ngay trên các chứng từ phát tiền vay như séc lĩnh tiền mặt, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu cũng như hàng tháng tiến hành đối chiếu xác nhận nợ theo số dư các tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng trên cơ sở hạch toán chi tiết.
Các chứng từ kế toán cho vay phải có đầy đủ tính pháp lý xác định quyền chủ thể cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, chỉ rõ những người nhận nợ và cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
1.4.1.2 Nguyên tắc lập chứng từ kế toán cho vay
Để chứng từ kết toán cho vay phản ánh được chính xác sự biến động của hoạt động cho vay thì phải đảm bảo được các nguyên tắc lập chứng từ sau:
- Lập chứng từ được tiến hành ngay khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh (kể cả chứng từ do khách hàng lập hay chứng từ do nội bộ Ngân hàng lập). Có như vậy thì kế toán cho vay mới có căn cứ để phân loại, ghi sổ từng loại hình cho vay, thời hạn vay, là căn cứ để ghi sổ và tổng hợp kế toán một cách kịp thời.
- Chứng từ dùng trong hạch toán kế toán là hệ thống bản chứng từ do Ngân hàng quy định, thống nhất in ấn và phát hành. Các yếu tố của chứng từ khi lập phải ghi đầy đủ, không bỏ trống. Các chứng từ có nhiều liên thì phải kịp lồng một lần cho nhiều liên để đảm bảo sự khớp đúng giữa các liên, trong đó một liên là bản chính từ liên 2 trở đi là bản sao. Để đảm bảo tính pháp lý của chứng từ, không tẩy xoá, sửa chữa, dán giấy đè lên chỗ sai. Nếu sai thì áp dụng cách sửa sai xóa bỏ trực tiếp chỗ sai hoặc lập chứng từ khác._. để thay thế. Các giấy tờ có giá trị cao như séc thì phải huỷ bỏ chứng từ sai và lập chứng từ khác thay thế.
- Trên bản chính (liên1) các bản chứng từ do khách hàng lập và nộp vào Ngân hàng (trừ giấy nộp tiền, bảng kê nộp séc) phải có chữ ký của chủ tài khoản, kế toán trưởng và đóng dấu đơn vị, chữ ký và mẫu dấu phải được đăng ký trước tại Ngân hàng nơi khách hàng giao dịch.
Các nhân viên Ngân hàng, khi tiến hành nhiệm vụ của mình, tuỳ theo chức trách nhiệm vụ khi kiểm soát xử lý chứng từ phải ký tên trên chứng từ, mẫu chữ ký phải đăng ký trước tại kế toán trưởng hoặc nhân viên kiểm soát. Ngoài ra, trong kế toán cho vay một số chứng từ sau còn phải có chữ ký của giám đốc Ngân hàng hay được giám đốc uỷ quyền ký thay giámđốc như: các chứng từ dùng làm cơ sở cho vay, điều chỉnh nợ; các chứng từ do nội bộ Ngân hàng lập để trích tài khoản tiền gửi của khách hàng thu nợ, thu lãi, chuyển nợ quá hạn.
1.4.1.3. Tổ chức luân chuyển chứng từ kế toán cho vay.
Quá trình hoàn thành việc hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại Ngân hàng, chứng từ phải trải qua các khâu: lập hoặc tiếp nhận chứng từ, kiểm soát, xử lý nghiệp vụ, hạch toán vào các loại sổ sách thích hợp, tổ chức bảo quản. Sự vận động đó của chứng từ gọi là luân chuyển chứng từ kế toán. Với chứng từ kế toán cho vay đảm bảo nguyên tắc sau:
- Đối với chứng từ thu tiền mặt (thu gốc, lãi tiền vay) phải thực hiện "thu tiền trước, ghi sổ sau" tức là thủ quỹ sau khi đã thu đủ tiền, ký tên trên chứng từ, vào sổ quỹ, sau đó kế toán mới vào sổ sách kế toán (vào máy).
- Đối với chứng từ chi tiền mặt (cho vay theo hạn mức tín dụng) phải thực hiện "ghi sổ kế toán trước, chi tiền sau", tức là kế toán phải kiểm soát xem sổ dư tài khoản có đủ khả năng chi trả không, nếu đủ thì sau khi ghi sổ mới chuyển sang quỹ để chi tiền.
- Các chứng từ chuyển khoản được ghi Nợ-Có đồng thời khi thực hiện kế toán máy.
- Chứng từ luân chuyển trong nội bộ Ngân hàng phải do Ngân hàng tự tổ chức luân chuyển lấy, không nhờ khách hàng luân chuyển hộ. Trên cơ sở những nguyên tắc luân chuyển chứng từ trên, với chứng từ kế toán cho vay phải trải qua những công đoạn cơ bản sau:
Thứ nhất, trước khi cho vay, khách hàng phải nộp bộ hồ sơ cho vay để kế toán kiểm soát (hợp đồng tín dụng, tên khách hàng vay vốn, số tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ) đây được coi là chứng từ gốc.
Thứ hai, hoàn thành giai đoạn một với bộ hồ sơ hợp lệ, kế toán căn cứ vào hợp đồng tín dụng và các giấy nhận nợ được giám đốc Ngân hàng đồng ý cho vay, kế toán sẽ hướng dẫn cho khách hàng lập các chứng từ thanh toán để nhận tiền vay. Khi giải ngân kế toán, phải giám sát tính chặt chẽ của chứng từ và của đối tượng nhận tiền vay đảm bảo tiền lãi vay được phát ra đúng mục đích và không vượt mức tiền đã được giám đốc Ngân hàng duyệt cho vay.
Sau khi giải ngân kế toán yêu cầu khách hàng ký nhận nợ trên khế ước hoặc giấy nhận nợ. Nếu người nhận vay không phải là chủ tài khoản thì phải có giấy uỷ quyền của chủ tài khoản.
Khi giải ngân song giấy tờ đó sẽ được lưu vào hồ sơ vay vốn của khách hàng để theo dõi thu nợ, lãi.
Sau khi giải ngân, kế toán vào sổ quỹ, thủ quỹ chuyển chứng từ cho kiểm soát.
Kiểm soát tiến hành kiểm soát lại, sau đó chuyển chứng từ sang cho bộ phận nhật ký chứng từ.
Sau khi hoàn thành tập nhật ký chứng từ theo thứ tự tài khoản cho vay từ nhỏ đến lớn, trong đơn vị vay thì xếp theo từng kỳ hạn trả thì tập nhật ký chứng từ sẽ được đánh số và đưa vào nơi bảo quản theo quy định.
Trong quy trình lập và luân chuyển có nhiều nguyên nhân khiến cho chứng từ thiếu chính xác: có thể do sơ xuất, có thể do thiếu sự hiểu biết về kỹ thuật lập chứng từ, hoặc do cố ý để tham ô tài sản Nhà nước. Từ đó vấn đề đặt ra là phải kiểm soát chứng từ để đảm bảo tính đúng đắn của chứng từ trước khi cho phép nghiệp vụ kinh tế phát sinh được hoàn thành tại các đơn vị hạch toán.
1.4.1.4. Tổ chức kiểm soát và lưu trữ chứng từ.
Trong kế toán cho vay gồm hai khâu kiểm soát, đầu tiên là khâu kiểm soát của nhân viên xử lý nghiệp vụ, bao gồm kiểm soát của thanh toán viên (hay nhân viên quản lý tài khoản), các nhân viên tín dụng, thủ quỹ. Nội dung kiểm soát bao gồm kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ như: mẫu mực chứng từ, các yếu tố ghi trên chứng từ, mẫu dấu, chữ ký của chủ tài khoản, số hiệu tài khoản, ghi Nợ, ghi Có; số dư tài khoản, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Thứ hai, là khâu kiểm soát của kiểm soát viên hoặc kế toán trưởng, nhằm kiểm soát lại một lần nữa tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ, kiểm soát chữ ký của thanh toán viên và thủ quỹ.
Sau khi hoàn thành việc kiểm soát, tất cả những người có trách nhiệm kiểm soát chứng từ phải ký tên vào đúng chỗ quy định trên chứng từ.
Trải qua một quá trình luân chuyển, kiểm soát, chứng từ kế toán cho vay được tổ chức lưu trữ một cách khoa học. Với chứng từ gốc như hợp đồng tín dụng hay đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ, khế ước vay tiền thì sau khi phát tiền vay sẽ được lưu trữ trong hồ sơ vay vốn của người vay để theo dõi thu hồi nợ. Hợp đồng tín dụng xếp theo thứ tự tài khoản cho vay từ nhỏ đến lớn, trong cùng đơn vị vay thì xếp theo từng kỳ hạn trả, hợp đồng tín dụng chưa trả hết nợ được nhân viên kế toán bảo quản trong hòm có khoá chắc chắn và theo dõi để thu nợ. Với chứng từ ghi sổ thì được đóng thành tập theo từng ngày còn gọi là tập nhật ký chứng từ và cho vào phòng lưu trữ. Tại đây có một bộ phận chuyên quản lý chứng từ lại có những quy định cụ thể cho việc sử dụng chứng từ, tra soát chứng từ tránh xảy ra mất mát, sửa chữa sai mục đích.
1.4.2. Hạch toán trong kế toán cho vay.
1.4.2.1. Tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay.
Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của Ngân hàng, nó dùng để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tiền cho vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng ghi chép, phản ánh số tiền người vay trả nợ Ngân hàng theo những kỳ hạn nhất định.
Việc bố trí tài khoản cho vay trong hệ thống tài khoản kế toán Ngân hàng như thế nào là tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc chỉ đạo hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ nền kinh tế từng thời kỳ và yêu cầu bảo vệ tài sản của Ngân hàng.
Khi các đơn vị, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tư nhân có đủ điều kiện vay vốn và được Ngân hàng cho vay thì kế toán Ngân hàng sẽ mở cho mỗi người vay một tài khoản cho vay thích hợp (tài khoản phân tích).
Tài khoản cho vay thuộc nhóm 2 (20, 21, 22, 23) và có kết cấu:
Bên nợ: Ghi số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay và được gia hạn nợ
Bên có: Ghi số tiền thu nợ từ khách hàng
Ghi số tiền chuyển sang nợ quá hạn (nếu có)
Dư nợ: Phản ánh số tiền khách hàng còn nợ NH và được gia hạn nợ đến một thời điểm.
Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ người vay cũng trả nợ Ngân hàng đúng hạn. Trường hợp đến hạn trả mà người vay không đủ khả năng trả nợ và cũng không được Ngân hàng gia hạn thì số nợ đó phải chuyển sang tài khoản nợ quá hạn để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay bình thường.
Kết cấu của tài khoản nợ quá hạn:
Bên Nợ: Ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (từ TK cho vay chuyển sang)
Bên Có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn
Ghi số tiền được điều chỉnh lại kỳ hạn (chuyển sang TK cho vay)
Dư Nợ: Phản ánh số nợ quá hạn chưa hoàn trả.
Đi liền với hệ thống tài khoản cho vay là một loạt các TK liên quan khác như: Tài khoản lãi cộng dồn dư thu, dự trả
Tài khoản dự phòng phải thu hồi khó đòi
Tài khoản ngoại bảng (dùng để phản ánh tình hình nhập, xuất tài sản thế chấp, cầm cố). Phản ánh tiền lãi cho vay chưa thu hồi được TK nợ khó đòi.
1.4.2.2.Quy trình kế toán cho vay.
- Phương pháp tính, thu lãi cho vay.
Để đáp ứng được nhu cầu của công tác hạch toán kế toán, tiến tới việc phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế về kế toán tiền vay và huy động. Ngày 29 tháng 6 năm 2001, theo quy định số 1788/NHN0-TCKT của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam ban hành về phương pháp tính và hạch toán thu lãi, trả lãi về nghiệp vụ cho vay, huy động vốn. ở đó cho phép hai phương pháp tính lãi cùng song song tồn tại ( phương pháp tính lãi theo món và tính lãi theo tích số), mỗi tổ chức tín dụng phải căn cứ vào chế độ cho vay của NHN0 đã được khách hàng chấp thuận thông qua khế ước vay tiền và theo chế độ lãi suất do Tổng giám đốc NHN0 ban hành để tính thu lãi.
Cụ thể:
1.1. Phương pháp tính lãi theo món.
Phương pháp tính lãi theo món áp dụng đối với các món cho vay có quyết định trả lãi theo từng kỳ hạn bao gồm chỉ trả lãi chưa trả gốc, trả một phần gốc và lãi tương ứng, trả cả gốc và lãi.
Cách tính lấy số dư Nợ tiền vay nhân với lãi suất cam kết và thời gian tính lãi, chỉ tính ngày đầu phát tiền vay, không tính ngày thu hết gốc.
Công thức:
Thời gian tính lãi Lãi suất áp
Số tiền lãi = Số tiền nợ x --------------------- x dụng theo tháng
30 hoặc 360 hay năm
Nếu trong thời gian tính lãi có thay đổi lãi suất mà sự thay đổi đó có hiệu lực với khoản vay thì phải tính cho từng giai đoạn ứng trước với lãi suất khác nhau hoặc trong thời gian tính có biến động về số dư Nợ thì cũng phải tính theo từng thời gian có sự thay đổi đó.
1.2. Tính lãi theo tích số: áp dụng đối với khoản vay ngắn hạn có quy định thu lãi theo tháng.
Công thức:
Tổng tích số tính lãi trong tháng
Số tiền lãi = --------------------------------------- x lãi suất tháng
30
Trong đó:
Tổng tích số tính = Số dư Nợ x Số ngày trong tháng duy
Lãi trong tháng hoặc dư Có trì cùng số dư Nợ, dư Có
Nếu ngày thu lãi trùng vào ngày lễ, ngày nghỉ hàng tuần thì chuyển sang làm việc tiếp theo. Số dư tính lãi là số dư cuối ngày nghỉ lễ, nghỉ cuối tuần trên.
Thời gian tính nợ quá hạn kể từ ngày tiếp ngay sau ngày đến kỳ hạn trả, ngày đến kỳ hạn trả nhưng không trả được Nợ trong hạn (có phân kỳ trả nợ).
1.4.2.2.1. Hạch toán kế toán giai đoạn cho vay.
Việc hạch toán tiền vay được thực hiện theo những kỹ thuật khác nhau tuỳ theo từng phương thức cho vay.
ơ giai đoạn cho vay, khi mà người vay đã làm đơn xin vay gửi tới Ngân hàng và được Ngân hàng xem xét quyết định việc cho vay. Khi khoản vay được giám đốc Ngân hàng chấp nhận ký duyệt thì người vay sẽ phải lập kế ước vay tiền hoặc hợp đồng tín dụng. Sau đó, bộ phận tín dụng sẽ chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán thực hiện hạch toán cho vay. Bộ phận kế toán kiểm soát lại và hướng dẫn khách hàng lập các chứng từ kế toán nhận tiền vay theo quy định. Khách hàng phải lập 3 liên giấy nhận nợ vay tiền (nhân viên kế toán không được lập hộ khách hàng) và phải ghi đầy đủ các yếu tố trên mẫu in sẵn đảm bảo tính chất pháp lý của chứng từ cho vay. Điều này có một chút khác biệt ở phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thì khách hàng chỉ phải ký kết hợp đồng tín dụng lần đầu, còn những lần giải ngân tiếp theo khách hàng không phải làm đơn mà chỉ nộp chứng từ thanh toán hợp lệ, hợp pháp như: séc lĩnh tiền mặt, uỷ nhiệm chi, kèm theo giấy nhận nợ tiền vay, các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng… để nhận tiền vay.
Như vậy, sau khi người vay hoàn thành các thủ tục giấy tờ xin vay theo đúng quy định, kế toán cho vay căn cứ vào các chứng từ để hạch toán:
Nợ: TK cho vay khách hàng
Có: TK tiền mặt (nếu cho vay bằng tiền mặt)
TK tiền gửi của người thụ hưởng (cho vay bằng chuyển khoản)
TK thanh toán bù trừ, liên hàng (nếu thanh toán khác Ngân hàng).
Đối với món cho vay có tài khoản cầm cố, thế chấp, thì kế toán phải ghi:
Nhập: TK ngoại bảng "Tài sản cầm cố, thế chấp- 944".
Sau khi giải ngân kế toán yêu cầu khách hàng kí nhận nợ trên kế ước hoặc giấy nhận nợ. Nếu người nhận vay không phải là chủ tài khoản thì phải có giấy uỷ quyền của chủ tài khoản. Và giấy tờ đó sẽ được lưu vào hồ sơ vay vốn của khách hàng để theo dõi thu nợ + lãi.
Khi kí hợp đồng vay, Ngân hàng thoả thuận với khách hàng áp dụng phương pháp lãi cộng dồn dự thu thì định kỳ Ngân hàng sẽ tính lãi dự thu và hạch toán:
Nợ: TK lãi cộng dồn dự thu
Có: TK thu lãi.
1.4.2.2.2. Hạch toán kế toán giai đoạn thu nợ, thu lãi.
Với phương thức cho vay theo món, Ngân hàng quy định hạn trả cho từng món. Kỳ hạn đó được xác định trên kế ước hoặc giấy nhận nợ. Người vay phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng khi đến hạn và việc trả nợ đó có thể được thực hiện một hoặc nhiều lần trong mỗi kỳ hạn. mỗi lần thu nợ kế toán phải xoá nợ trên kế ước hoặc giấy nhận nợ và định kỳ phải tiến hành sao kê các giấy nhận nợ và khế ước đảm bảo sự khớp đúng giữa dư nợ trên các tài khoản cho vay và dư nợ trên kế ước và giấy nhận nợ.
Với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, kỳ hạn nợ được thể hiện ở kế hoạch trả nợ từng tháng theo thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng và đơn vị vay phải nộp tiền bán hàng hoặc các khoản thu nhập khác vào bên có tài khoản cho vay để trả nợ Ngân hàng. Theo phương thức này, Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạm vi số tiền Ngân hàng đã cho vay. Trong trường hợp đơn vị vay theo hai tài khoản thì nếu đơn vị đã trả hết nợ nhưng vẫn nộp tiền bán hàng vào thì kế toán cho vay sẽ hạch toán số tiền dư vào bên có tài khoản tiền gửi thanh toán của đơn vị.
Bút toán thu nợ gốc được hạch toán:
Nợ: TK tiền mặt tại quỹ
TK tiền gửi của khách hàng (thanh toán cùng Ngân hàng)
TK thanh toán qua lại giữa các Ngân hàng (nếu thanh toán khác Ngân hàng)
Có: TK cho vay
- Kế toán thu lãi: đến hạn trả lãi người vay phải nộp tiền hoặc trích tài khoản tiền gửi để trả, việc trả lãi có thể trả riêng hoặc kết hợp với trả gốc.
Nợ: TK thích hợp (tiền mặt hoặc tiền gửi khách hàng)
Có: TK lãi cộng dồn dự thu.
Còn khi áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thì quá trình cho vay, thu nợ thực hiện xen kẽ nhau vì vậy Ngân hàng sẽ áp dụng cách tính thu lãi theo phương pháp tích số dư nợ hàng tháng.
Căn cứ số lãi, hạch toán:
Nợ: TK thích hợp
Có: TK thu lãi cho vay.
1.4.2.2.3. Hạch toán kế toán gia hạn nợ và chuyển nợ quá hạn.
Khi đến hạn trả nợ vì những lý do khách quan khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình thì khách hàng phải làm đơn xin gia hạn nợ để Ngân hàng xem xét, và Ngân hàng cũng chỉ được gia hạn trong phạm vi chế độ tín dụng quy định và không vượt quá thời hạn món cho vay để khuyến khích khách hàng có trách nhiệm trả nợ. Khi khoản vay đó không được Ngân hàng gia hạn nợ thì kế toán cho vay làm thủ tục chuyển nợ quá hạn và hạch toán:
Nợ: TK thu nhập
Có: TK lãi cộng dồn dự thu.
Đồng thời ghi nhập TK ngoại bảng "941- Lãi chưa thu".
Chỉ khi nào khách hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng mới xuất tài sản thế chấp trả cho khách hàng.
Khi chuyển nợ quá hạn thì từ thời điểm đó kế toán tính thu lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn.
Như vậy, khi tiến hành thu hồi nợ, kế toán cho vay phải kết toán trên khế ước vay tiền. Đối với những khế ước thu hết nợ sẽ đóng thành tập riêng còn khế ước thu một phần thì lưu lại hồ sơ vay vốn của người vay để tiếp tục theo dõi thu nợ. Số khế ước chuyển nợ quá hạn được lưu ở hồ sơ nợ quá hạn.
1.4.2.2.4. Dự phòng phải thu khó đòi.
Trong mỗi khoản cho vay khách hàng, mặc dù đã qua khâu kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng nhưng vẫn không tránh khỏi những tổn thất có thể xảy ra. Do đó yêu cầu mỗi Ngân hàng phải tiến hành phân loại các khoản cho vay theo mức độ rủi ro có thể xảy ra để tiến hành trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro là dự phòng được hạch toán vào chi phí hoạt động trên cơ sở trích lập dự phòng phần giá trị khoản cho vay khả năng không thể thu hồi được.
Việc trích lập quỹ dự phòng được thực hiện như sau:
- Nhóm 1: Trích lập 0%
Với những khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ (kể cả thời gian hạn nợ)
- Nhóm 2: Trích lập 20%
với những khoản vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 181 ngày, những khoản vay không có tài sản làm đảm bảo đã quá hạn trả nợ dưới 91 ngày.
- Nhóm 3: Trích lập 50%
Với những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày đến dưới 361 ngày; những khoản cho vay không có tài sản làm đảm bảo đã quá hạn trả nợ từ 91 ngày đến dưới 181 ngày.
- Nhóm 4: Trích lập 100%.
Những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên, những khoản vay không có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày trở lên.
Nguồn dự phòng đã được trích được sử dụng để xử lý rủi ro trong các trường hợp cụ thể tại điều 11/Quyết định số 88/QĐ- HĐQT-03 ngày 25/4/2001 của Hội đồng quản trị. Quy định cũng chỉ rõ mọi khoản tiền thu hồi được từ những khoản rủi ro đã được xử lý bằng nguồn dự phòng sau khi trừ chi phí hợp lý (nếu có) sẽ được hạch toán vào thu nhập của Ngân hàng.
Việc thống kê lại những cơ sở lý luận cơ bản về kế toán cho vay giúp ta nắm chắc những kiến thức cần thiết về hạch toán kế toán tiền vay, nhận thấy những điểm đã đạt được, sự thích ứng của hệ thống kế toán Việt nam với chuẩn mực kế toán quốc tế, nó là cơ sở để đánh giá một cách đúng đắn các chỉ tiêu an toàn, hiệu quả của một ngân hàng thông qua số liệu kễ toán
Chương 2.
Thực trạng công tác kế toán cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Được thành lập cuối năm 1996 và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 3 năm 1997 theo quyết định số 334/ QĐ - NHN - 02 ngày 01/08/1996 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Với đội ngũ 13 cán bộ nhân viên ban đầu, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ xuất hiện sau khi trên địa bàn đã có nhiều Ngân hàng đang cạnh tranh gay gắt, thêm vào đó lại đúng thời kỳ nền kinh tế trong nước và khu vực gặp nhiều khó khăn làm sản xuất kinh doanh chững lại so với những năm trước. Theo luật, một doanh nghiệp mới hoạt động được phép lỗ trong 2 năm đầu, thế nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ đã thành công ngay từ năm đầu và sớm khẳng định vị trí của Chi nhánh trong hệ thống, năm 1998 Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ nhận được giấy khen của chủ tịch hội đồng quản trị của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam tặng cho đơn vị kinh doanh suất sắc nhất trên địa bàn thủ đô. Tháng 4/2000 tại đại hội thi đua ngành Ngân hàng lần thứ 4, Chi nhánh Láng Hạ lại được công nhận là đơn vị lá cờ đầu của toàn ngành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam về thành tích kinh doanh năm 1999. Phát huy truyền thống đó, mặc dù năm 2000, 2001 là năm nền kinh tế gặp nhiều khó khăn: thiểu phát thấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị ứ đọng, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do tỷ giá tăng liên tục..., nhưng Chi nhánh vẫn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng, luôn luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch, thu hút ngày càng đông số lượng khách hàng. Nói như vậy, không phải chi nhánh Láng Hạ lúc nào cũng gặp phải những khó khăn, mà bên cạnh đó Chi nhánh Láng Hạ cũng có những thuận lợi như: là đơn vị mới được thành lập nên trong quá trình hoạt động có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ các Ngân hàng khác, mặt khác Chi nhánh có vị trí thuận lợi: nằm trên địa bàn thủ đô, là trung tâm kinh tế của cả nước, nơi tập trung đông dân cư có thu nhập khá và nhiều đơn vị kinh tế lớn, nơi đây cũng được đánh giá là một thị trường cạnh tranh Ngân hàng sôi động lớn vào bậc nhất của cả nước. Chính những thuận lợi cơ bản đó đã giúp Ngân hàng Láng Hạ phát huy thế mạnh của mình. Mỗi thành công mà Chi nhánh Láng Hạ đạt được cần phải kể đến vai trò của bộ máy quản trị Ngân hàng trong việc bố trí người lao động để phát huy một cách tối đa năng lực và sở trường của từng người. Đi vào cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Láng Hạ ta sẽ biết thêm về điều đó.
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Giám đốc
Phó giám đốc phụ trách kinh doanh
Phòng kế hoạch kinh doanh
Phòng kế toán ngân quỹ
Phòng thanh toán quốc tế
Phó giám đốc phụ trách TTQT
Phòng kiếm soát
Phòng tổ chức hành chính
Với những nhiệm vụ cụ thể từng năm mà Chi nhánh Láng Hạ đặt ra trên cơ sở nhiệm vụ mà Ngân hàng nhà nước giao phó, Chi nhánh đặc biệt quan tâm đến công tác tổ chức đào tạo. Sau nhiều lần tuyển dụng, bổ sung hiện nay (năm 2001) cơ cấu tổ chức đã được biến chế một cách phù hợp, và cơ cấu phòng ban như sau:
Tính đến 31/12/2001, tổng cán bộ nhân viên tại Chi nhánh là 89 người (năm 2001 có thêm 31 người: chi nhánh khác chuyển đến 4 người, tuyển dụng mới 27 người). Trong đó, số cán bộ viên chức có trình độ trên đại học là 4 người (4,5%), có trình độ đại học là 64 người (71,9%), trình độ trung, sơ cấp là 21 người (23,6%). Các phòng đã được quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể theo quyết định 169/ HĐQT, trong đó:
Phòng kế hoạch kinh doanh chiụ trách nhiệm nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng, vừa hiệu quả vừa an toàn, thường xuyên phân loại dự nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân... giúp lãnh đạo chi nhánh chỉ đạo kiểm tra hoạt động tín dụng.
Phòng kế toán ngân quỹ chịu trách nhiệm trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và hạch toán theo quyết định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề, đồng thời phải xây dựng kế hoạch tài chính để thực hiện việc thu chi trong đơn vị cũng như nộp ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, các phòng hành chính, phòng thanh toán quốc tế, phòng kiểm soát, mỗi phòng có một chức năng nhiệm vụ riêng nhưng cũng có tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm cao đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh mỗi ngày một ổn định và vững chắc, đời sống nhan viên được nâng cao.
Như vậy, với bộ máy gọn nhẹ, đọi ngũ cán bộ nhan viên có trình độ, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ luôn đạt được những thành công đáng kể. Đến nay đã tạo được một thị phần đáng kể trên địa bàn, xây dựng mối quan hệ gắn bó với khách hàng truyền thống, tạo cơ sở vững chắc cho Ngân hàng phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo niềm tin với khách hàng.
2.1.2. Một số hoạt động cơ bản của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Về nguồn vốn
Đến 31/12/2001, tổng nguồn vốn kinh doanh tại chi nhánh đã đạt 2630 tỷ quy VND, tăng 28,7% so với cùng kì năm 2000 (số tuyệt đối tăng 630 tỷ) bình quân huy động là 35,8 tỷ đồng/ người, tăng 1,3 tỷ so với năm 2000.
Trong đó:
Nguồn vốn nội tệ đạt 2.276 tỷ chiếm 86,5% tổng nguồn vốn và tăng 519 tỷ so với năm 2000 (tăng 29,5%).
Nguồn vốn ngoại tệ đạt 354 tỷ đồng chiếm 13,5 % trong tổng nguồn vốn, tăng 68 tỷ so với năm 2000 (tăng 24%).
Chi tiết nguồn vốn:
Tiền gửi không kì hạn đạt 468,5 tỷ, chiếm 17,8% tổng nguồn và tăng 43,5 tỷ so với năm 2000.
Tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng đạt 1.586,8 tỷ, chiếm 60,3% tổng nguồn, tăng gấp 1,78 lần so với năm 2000 (tăng 698 tỷ).
Tiền gửi có kì hạn trên 1 năm và kỳ phiếu đạt 574,4 tỷ chiếm 21,8% tổng nguồn, đáng chú ý là chi nhánh đã huy động kỳ phiếu làm dịch vụ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đạt 130,8 tỷ đồng trong năm 2001. Để làm được điều đó, Chi nhánh chú trọng khai thác thế mạnh của mình trên địa bàn thủ đô, nơi tập trung đông dân cư và thu nhập khá, nhiều đơn vị kinh tế lớn như công ty xăng dầu Việt Nam, Bưu chính Viễn thông Việt Nam, điện lực Việt Nam... và các doanh nghiệp khác thuộc tổng công ty 90 -91 thông qua việc làm tốt công tác thanh toán, điều chỉnh lãi suất huy động đúng yêu cầu của cạnh tranh và hiệu quả, Chi nhánh cũng thực hiện mở rộng mạng lưới hoạt động xuống các bàn tiết kiệm ở Bách khoa, Mai dịch... để dần chiếm lĩnh thị phần kinh doanh, triển khai làm việc vào thứ 7, chủ nhật, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Nguồn vốn của Chi nhánh Láng Hạ đã góp phần điều hoà vốn cho các địa phương để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh toàn ngành.
Về hoạt động tín dụng
Đến 31/12/2001 tổng dư nợ cho vay tại chi nhánh đã đạt 1.030 tỷ đồng, tăng gấp 1,56 lần so với năm 2000 ( số tyuệt đối tăng 369tỷ). Bình quân mỗi cán bộ nhân viên đạt dư nợ là 14 tỷ đồng/ người (tăng 2,6% so với năm 2000).
Trong đó:
Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 197 tỷ đồng chiếm 19,1% tổng dư nợ và tăng 33 tỷ so với năm 2000
Dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 833 tỷ đồng chiếm 80,9% tổng dư nượ tăng 336 tỷ so với năm 2000.
Cơ cấu dư nợ phân theo loại tiền vay:
Dư nợ nội tệ đạt 601 tỷ đồng chiếm 58,3% tônge dư nợ, tăng 240 tỷ so với năm 2000.
Dư nợ ngoại tệ quy VND đạt 429 tỷ chiếm 41,7% tổng dư nợ và tăng 129 tỷ so với năm 2000.
Tổng doanh số cho vay năm 2001 đạt 1.174 tỷ đồng bằng 158,4% so với năm 2000 (tăng 433 tỷ).
Trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Láng Hạ thì cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn: 80,9% và tập trung chủ yếu vào cho vay các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2001 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước về số tuyệt đối là 1017 tỷ đồng chiếm 98,6% tổng dư nợ so với năm 2000 là 653 tỷ tăng 364 tỷ đồng, về số tương đối tăng 56%. Cho thấy hoạt động tín dụng của Ngân hàng Láng Hạ tập trung mạnh vào thị trường các doanh nghiệp quốc doanh, các công ty 90 - 91 như Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bưu chính viễn thông, tổng công ty xăng dầu Việt Nam...
Để thấy được một cách tổng quát hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn của Chi nhánh Láng Hạ ta xem xét bẳng biều về bao cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm 1998- 2001 như sau:
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
1. Nguồn vốn
858
1143
2000
2630
Nội tệ
772
986
1714
2276
Ngoại tệ
86
157
286
354
2. Sử dụng vốn
81
521
661
1031
Ngắn hạn
61
186
164
197
Trung - dài hạn
20
334
497
833
3. Nợ quá hạn (%)
0,74
0,06
0,24
0
4. Lợi nhuận
18
23
47
36,9
Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998 - 2001
Qua bảng trên ta thấy cả doanh số hoạt động về nguồn vốn và sử dụng vốn đều tăng liên tục, tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng dư nợ. Nhờ đó quỹ thu nhập của Ngân hàng liên tục tăng với tốc độ cao từ năm 1998 - 2000, tuy nhiên năm 2001 có giảm sút, chỉ còn 36,9 tỷ đồng. Cơ cấu dư nợ trung dài hạn vẫn liên tục tăng, năm 1998 chỉ chiếm 25% tổng dư nợ, năm 1999 chiếm 61%, năm2000 chiếm 99% và năm 2001 tỷ lệ này còn ở mức khá cao: 98,6%. Tổng doanh số thu nợ năm 2001 đạt 804 tỷ đồng bằng 133,8 % so với năm 2000 (tăng 203 tỷ đồng).
Ta nhận thấy doanh số dư nợ ngoại tệ liên tục tăng qua các năm, năm 1999 là 369,738 tỷ VND, đến nay là 429 tỷ VND. Các biện pháp để nâng dư nợ ngoại tệ là phục vụ tốt các khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, tích cực tìm kiếm các dự án có nhu cầu ngoại tệ của các công ty 90, 91, thẩm định kỹ để trình Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam các hợp đồng bảo lãnh tín dụng dự phòng, cho vay bằng ngoại tệ. Dư nợ ngoại tệ cao góp phần giải quyết vấn đề về thừa vốn ngoại tệ của hệ thống. Đến nay, có lẽ Láng Hạ là một trong những đơn vị có dư nợ ngoại tệ lớn nhất trong hệ thống. Năm 1999, Chi nhánh cũng nhận được giấy khen của Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam về chuyên đề hoạt động kinh tế đối ngoại. Với khả năng và kinh nghiệm hiện nay Chi nhánh Láng Hạ có thể tiếp tục đảm bảo nhu cầu ngoại tệ cho các dự án lớn. Đi đôi với việc mở rộng, chất lượng tín dụng cũng là vấn đề thường xuyên được quan tâm. Công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay thực hiện nghiêm túc theo Luật Ngân hàng và quy chế, thể chế của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Chính vì thế nợ quá hạn đã giảm mạnh, tính đến năm 2001, tỷ lệ này hầu như không có chiếm 0% tổng dư nợ, trong khi năm 2000, tỷ lệ này là 0,24% tổng dư nợ.
Sau 5 năm hoạt động, với những kết quả đạt được như trên phải kể đến:
Thứ nhất: Chi nhánh xác định đúng định hướng kinh doanh, nghiên cứu kĩ thị trường và có chiến lược khách hàng hợp lý, thường xuyên phối hợp với các khách hàng giải quyết kịp thời những vướng mắc về thủ tục, cơ chế, lãi suất nên tạo được uy tín bên vững, thu hút được các đơn vị kinh tế lớn. Chi nhánh chú trọng đổi mới phương thức hoạt động, nắm bắt chính xác thời điểm để phát triển các nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại như đẩy mạnh dịch vụ thanh toán quốc tế, tài khoản cá nhân... nhằm tận dụng nguồn thu và phát triển mạng lưới khách hàng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Thứ hai: những kinh nghiệm trong công tác quản trị điều hành. với đội ngũ lãnh đạo kết hợp được giữa trình độ và kinh nghiệm, Chi nhánh đã thực hiện nghiêm túc quy trình điều hành mang tính tập trung, dân chủ. Ban giám đốc luôn luôn đề cao việc học tập rèn luyện nhằm tu dưỡng đạo đức tác phong, năng lực chuyên môn phục vụ công tác quản trị kinh doanh Ngân hàng. Từ đó, các quyết định của Chi nhánh có tính quyết đoán, đúng đắn, sáng tạo, nâng cao được hiệu quả điều hành. Chi nhánh luôn luôn bám sát định hướng và sự chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Kịp thời báo cáo những vấn đề mới nảy sinh trong kinh doanh để giải quyết có hiệu quả những dự án vượt quyền phán quyết. Khoa học trong điều hành thể hiện ở việc phân công đúng người đúng việc, vạch rõ trách nhiệm trong ban giám đốc và đến từng phòng ban, từng cá nhân đã phát huy được năng lực, sở trường của từng người và sức mạnh tập thể. Sức mạnh của Chi nhánh là sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa công tác chuyên môn, Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên để động viên thi đua khen thưởng và xử lý kịp thời, kiên quyết các sai sót, khuyết điểm. Thực hiện việc bình xét công khai, dân chủ kết quả lao động hàng tháng, quý, năm và thực hiện trả lương theo kết quả bình xét.
Thứ ba: sự đoàn kết nhất chí cao của tập thể người lao động. Từ ban giám đốc đến nhân viên đều có lập trường tư tưởng vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, phong cách kinh doanh tốt, luôn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Như vậy, bằng kinh nghiệm và quyết tâm của toàn thể cán bộ nhân viên tin tưởng rằng Chi nhánh Láng Hạ sẽ tiếp tục có những bước tăng trưởng nhanh chóng, ổn định, vững chắc năm 2002 và những năm tiếp theo.
2.2 Thực trạng công tác kế toán cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Quá trình đổi mới từ cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật trong những năm qua đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới hệ thống công cụ quản lí, trong đó kế toán là một công cụ quan trọng ._.ính sách với tín dụng thương mại để tạo thành hành lang pháp lý cho hoạt động chính sách của tổ chức tín dụng Nhà nước, đồng thời là căn cứ để tiến hành hạch toán kết quả kinh doanh một cách chính xác hơn, phản ánh được hiệu quả thực của hoạt động tín dụng- tín dụng thương mại của mỗi tổ chức tín dụng. Thứ hai, với sự nỗ lực cố gắng của tập thể người lao động vì mục tiêu chung của chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ, kết quả tín dụng đã tăng trưởng không ngừng cả về doanh số và chất lượng: dư nợ cho vay tăng bình quân 22% qua các năm, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ giảm dần tới 0%. Với đà này, có thể tin tưởng rằng chi nhánh Láng Hạ sẽ hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra năm 2002.
Góp vào sự thành đạt vững chắc của chi nhánh Láng Hạ ngày hôm nay cần phải kể đến vai trò quan trọng của kế toán cho vay, tại đây ngân hàng đã biết khai thác một cách có hiệu quả và phát huy tính sáng tạo của các bộ phận kế toán trong việc cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý, giúp ngân hàng tận dụng cơ hội và phát huy lợi thế của mình trong kinh doanh. Tuy nhiên bản thân công tác kế toán cho vay tại chi nhánh vẫn còn một số vấn đề tồn tại, để hoàn thiện hơn công tác kế toán cho vay góp phần đắc lực hơn trong việc thực hiện mục tiêu năm 2002 của chi nhánh. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất các giải pháp và kiến nghị sau:
3.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán cho vay tại chi nhánh Láng Hạ.
3.2.1 Thực hiện kế toán dự thu, dự trả trong ngân hàng.
Như đã biết, kế toán quản trị ngân hàng là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế bằng thước đo tiền tệ, kết hợp với các phương pháp nghiệp vụ nhằm cung cấp thông tin chi tiết, đa dạng làm cơ sở cho việc ra quyết định liên quan đến mục tiêu quản trị kinh doanh và không đầy đủ, các nhà quản trị ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều hành hiệu quả hoạt động kinh doanh, nhưng nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị sẽ đưa ra quyết định kinh doanh sai lầm, làm ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của ngân hàng.
Vậy để kế toán quản trị phát huy hiệu quả trong việc phân tích hiệu quả kinh doanh, đánh giá chất lượng kinh doanh theo từng nghiệp vụ cũng như giúp cho hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh sát sao, cụ thể thì việc thực hiện kế toán dự thu, dự trả là vô cũng cần thiết. Chuẩn mực kế toán về doanh thu và chi phí cũng được ban hành, chính vì vậy ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Láng Hạ cần triển khai khi thực hiện công tác kế toán dự thu, dự trả đến từng ngày. Chương trình vi tính cần được đáp ứng nhu cầu cuối mỗi ngày phải tính được lãi dư thu của ngày đó thông qua mức dư nợ tín dụng của khách hàng, lãi suất vay cũng nhu dự thu của khoản tiền gởi có kỳ hạn, các khoản hùn vốn liên doanh, liên kết, lãi thu được từ việc mua trái phiếu tín phiếu cũng như lãi dự trả cho các khoản tiền huy động từ tiết kiệm các khoản tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn của các khách hàng, phát hành tín phiếu... Điều quan trọng nhất là phải tính toánđược tương đối chính xác cấu các khoản chi phí thường xuyên của ngân hàng như chi lương, khấu hao tài sản, chi phí quản lý, chi mua sắm vật tư, văn phòngphẩm...Để từ đó cuối mỗi ngày nhà lãnh đạo ngân hàng có thể biết được hiệu quả kinh doanh của ngày hôm đó ra sao?,lãi hay lỗ, lãi lỗ do đâu? ở khâu nào chiếm tỷ trọng cao nhất(lãi cho vay hay thu phí dịch vụ...) Từ đó nhà quản trị ngân hàng có thể đưa ra được các quyết định kinh doanh một cách kịp thời sát thực nhằm giảm thiểu các khoản lỗ và nâng cao hoạt động kinh doanh ở các nghiệp vụ đem lại lãi cao cho ngân hàng.
Bên cạch đó việc hoạch toán dự thu dự trả, số dư cuối niên đã phản ánh được năng lực quản trị tính dụng, đầu tư tài chính của ngân hàng. Là căn cứ để ngân hàng đưa ra các quyết định kinh doanh cả trong thời gian dài, thời gian ngắn thậm chí trong một ngày. Tính cập nhật này giúp ngân hàng tận dụng được cơ hội trong kinh doanh.
3.2.2. Giải pháp về chứng từ vay vốn.
Mặc dù hệ thống sổ sách chứng từ sử dụng trong vay vốn. Ngân hàng đã được cải tiến khá nhiều so với thời kỳ ngân hàng còn đang vận hành thủ công. Nhưng số lượng các chứng từ hầu như không giảm nó vẫn được coi là những thủ tục pháp lý khi đặt quan hệ tín dụng với ngân hàng. Tại NHNN & PTNT Láng Hạ cũng vậy, hiện nay hồ sơ vay vốn vẫn còn mang nặng các thủ tục giấy tờ rườm rà, nhiều cái không cần thiết, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc làm hồ sơ, mất nhiều thời gian có khi là mất cả ngày để chạy qua chạy lại xin chữ ký, thiếu giấy tờ nọ, thiếu chứng nhận kia... điều đó vô tình đã làm mất đi thời cơ kinh doanh khiến doanh nghiệp chịu nhiều thiệt thòi và không vay được vốn khi họ thực sự đang khát vốn. Nên chăng, cần đơn giản hoá thủ tục vay vốn trong một số trường hợp cụ thể:
Về hồ sơ vay vốn đối với các doanh nghiệp đã giao dịch với ngân hàng nhiều năm, có uy tín trong hoạt động vay trả đúng hạn,có doanh số hoạt động tiền gửi cao. Ngân hàng có thể chỉ cần báo cáo kế toán của một năm gần nhất và trong quá trình cho vay cán bộ tín dụng cũng như cán bộ kế toán theo dõi chặt chẽ việc sử dụng vốn vay và theo dõi doanh số hoạt động trên tài khoản tiền gửi để biết được mức độ biến động phản ánh khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Đối với các tờ đơn xin vay vốn của tư nhân(vợ hoặc chồng) có thế chấp bằng các giấy tờ có giá hoặc tài sản, đề nghị phải có chữ ký của cả vợ hoặc chồng, nếu với người chưa lập gia đình thì phải có chữ ký của bố hoặc mẹ để tránh các tranh chấp xảy ra nếu có kiện tụng sau này khi mà khách hàng không trả được nợ, ngân hàng buộc phải xiết nợ tài sản, các giấy tờ có giá.
3.2.3 Giải pháp về tài khoản cho vay.
Tại NHNN & PTNT Láng Hạ cũng như hệ thống NHNN & PTNT Việt Nam nói chung tiến hành áp dụng hệ thống tài khoản chung ban hành cho các tổ chức tín dụng theo quyết định số 435/1998/QĐ-NNHH2 ngày 25-12-1998 của Thống đốc NHNN, điều này rất thuận lợi ngay khi chuyển sang sử dụng hệ thống kế toán máy do ngân hàng nông nghiệp không phải thực hiện mã hoá tài khoản sử dụng. Tuy nhiên việc sử dụng tài khoản nợ quá hạn còn phức tạp, rườm rà. Thực tế, các món vay đã quá hạn chúng tài khoản đang tài khoản đang chia thành 3 loại:
+ Tài khoản cho vay quá hạn đến 180 ngày.
+ Tài khoản cho vay quá hạn có khả năng thu hồi từ 180- 360 ngày.
+ Tài khoản cho vay quá hạn trên 360 ngày.
Như vậy đối với một khách hàng vay trung, dài hạn rút vốn nhiều lần một hợp đồng vay có thể tồn tại 4 tài khoản: Tài khoản cho vay trong hạn, tài khoản cho vay quá hạn đến 180 ngày, từ 180- 360 ngày, trên 360 ngày và kèm theo đó là các tài khoản lãi tương ứng với từng thời hạn. Việc phân chia các khoản nợ quá hạn làm nhiều giai đoạn như vậy đã làm cho bảng cân đối phất sinh thêm rất nhiều tài khoản, số liệu tài khoản rất dài, kéo theo đó là các báo cáo về tín dụng phức tạp hơn, việc tính lãi cũng vì thế mà trở nên khó khăn hơn mặc dù bản chất của các món nợ này chỉ là nợ chưa đòi được.
Mặc dù việc sử dụng tiêu trí thời gian để đánh giá một món vay chưa thu được là đúng, tuy nhiên nếu ta phân chia thời gian nhỏ quá thì sẽ bất tiện cho công tác kế toán cũng như báo cáo tiền vay trong thời gian ngắn, cứ 6 tháng kế toán lại phải thực hiện chuyển nợ qúa hạn một lần, và khi cần thiết lại phải xem số liệu về một tài khoản vay thì phải tìm và tra soát qua hàng loạt các tài khoản chi tiết, điều đó gây rất nhiều khó khăn. nên chăng mỗi món vay chỉ cần sử dụng hai tài khoản là tài khoản nợ quá hạn áp dụng đối với các khoản vay chưa trả được dưới một năm( 360 ngày) các khoản nợ này là căn cứ cho ngân hàng tiện trong việc theo dõi và đôn đốc sát sao các doanh nghiệp trả nợ cho ngân hàng, cũng như việc mua bán nợ sau này.
Bên cạnh đó, việc lập dự phòng các khoản cho vay khó thu hồi theo quyêt định số 488/ 2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 chỉ được lập dựa trên cơ sở định hướng tức là dựa trên các báo cáo tuổi nợ khoản cho vay ). Cách trích lập dự phòng này là bị động khi khoản vay xảy ra rủi ro rồi mới trích lập dự phòng. Nên chăng NHNN & PTNT nên triển khai việc lập dự phòng các khoản vay khó thu hồi trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế là (1). Dự phòng các khoản vay khó thu hồi cần được lập khi số tiền tổn thất đã được xác định cụ thể hoặc (2). Số tiền tổn thất có thể chưa được xác định nhưng có các dấu hiệu phát sinh tổn thất. Hay tóm lại, việc lập dự phòng được dựa trên việc đánh giá khả năng thu hồi các khoản cho vay. Với căn cứ này sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng không làm giảm thu nhập hoặc VTC của ngân hàng.
3.2.4. Giải pháp trong hạch toán thu nợ, thu lãi.
Việc giảm nhẹ công việc tính toán cũng như các thao tác bằng tay của các thanh toán viên theo dõi tiền vay đang là mục tiêu mà các chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng rất quan tâm.
Với một quy trình giao dịch trực tiếp với khách hàng tại trụ sở chi nhánh NHNN & PTNT Láng Hạ. Khi một hợp đồng tín dụng được duyệt và cánbộ tín dụng tiến hành mở hợp đồng trên máy vi tính thì ngay lập tức hạn mức tín dụng sẽ được cài đặt sẵn và máy tính sẽ không cho phép thanh toán viên lập bút toán rút tiền vay quá hạn mức hợp đồng, làm như vậy thanh toán viên sẽ không mất công cộng các phiếu rút tiền vay của khách hàng xem đã vượt hạn mức hay chưa, cũng không sợ có sai sót trong việc tính toán nhầm dẫn đến việc phải điều chỉnh các bút toán không cần thiết.
Thứ hai, các cán bộ tin học ở NHNN & PTNT Láng Hạ nên quan tâm đến việc cài đặt một chương trình thu lãi tự động cho các thanh toán viên. đối với các khách hàng vừa có tài khoản tiền gửi vừa có tài khoản tiền vay tại ngân hàng thì đến kỳ thu lãi từ 26-30 hàng tháng nên có một chương trình thu lãi tự động trích thẳng số lãi phải thu trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Việc còn lại của thanh toán viên chỉ là đối chiếu số đã thu trên tài khoản tiền gửi với phiếu tính lãi in ra đã được cán bộ tín dụng và thanh toán viên kiểm tra khớp đúng. Sau đó lưu vào sổ phụ phiếu tính lãi đó và thông báo cho khách hàng biết. Như vậy việc thu lãi tự động này đã làm giảm nhiều bút toán tính lãi thực hiện bằng tay của thanh toán viên, mặt khác tránh được việc thu thiếu, thu sót, thu nhầm giúp cho công việc thu lãi vừa đơn giản lại vừa hiệu quả hơn.
Song song với việc thu lãi tự động là việc nhập ngoại bảng tự động đối với khoản lãi không thu được từ ngày 26-30 hàng tháng. Máy sẽ tự động hất những khoản lãi chưa thu được sang tài khoản lãi chờ thu và sau 90 ngày sẽ chuyển sang ngoại bảng. Việc còn lại của thanh toán viên là đối chiếu khớp đúng với phiếu lãi và in ra báo cáo lãi chưa thu để báo cáo với giám đốc và in ra một bảng để kế toán theo dõi. Tuy nhiên có nhiều trường hợp khách hàng chậm trả nợ do gặp khó khăn về tài chính và muốn gia hạn nợ, để tránh gây thiệt thòi cho khách hàng khi phải chịu lãi suất nợ quá hạn khi máy tự động cứ đến 90 ngày sẽ chuyển sang nợ quá hạn, thì Ngân hàng mà cụ thể là kế toán cho vay phải thông báo cho cán bộ tín dụng về khoản lãi chưa thu đến hạn trước 10-15 ngày để cán bộ tín dụng đôn đốc khách hàng nộp tiền vào tài khoản để trả nợ kịp thời hoặc làm thủ tục gia hạn nợ kịp thời tránh sự nhanh nhạy của máy tính, và để Ngân hàng không phải làm thủ tục chỉnh sửa.
Với tổ chức tín dụng lưu động. Tại NHN0 và PTNT Láng Hạ, việc mở rộng thị trường phần hoạt động của chi nhánh là vấn đề có tính chiến lược nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng ngày càng tăng, chi nhánh đã mở 2 phòng giao dịch tại Bách Khoa và tại Mai Dịch, về lâu dài sẽ trở thành một chi nhánh Ngân hàng cấp IV thực hiện một số nhiệm vụ kinh doanh chính như huy động vốn và cho vay. ở đây việc nhận và chuyển giao vốn được thực hiện hàng ngày về trung tâm Láng Hạ. Tại mỗi địa bàn này, cán bộ tín dụng có thể kiêm luôn trách nhiệm thu lãi tiền vay với các món vay nhỏ lẻ, hộ sản xuất, gia đình, cá nhân. Tuy nhiên quanh vấn đề này còn một số mặt đáng quan tâm như chưa có điều khoản nào của NHN0 và PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ hiện nay cho phép cán bộ tín dụng thu lãi tiền vay, đó là chưa kể đến những việc có thể xảy ra như cán bộ tín dụng thu lãi về tạm sử dụng hoặc thông đồng với kế toán tham ô, lợi dụng tiền lãi thu được. Để thực hiện việc cán bộ tín dụng thu lãi cho vay đảm bảo thu đúng, thu đủ một phần nào đó hỗ trợ cho công tác tín dụng của Ngân hàng đạt kết quả tốt, nên chăng phải có những chỉ dẫn thực hiện cụ thể:
- Thông báo cho tất cả khách hàng và chính quyền địa phương biết về việc cán bộ phụ trách địa bàn được thu lãi tiền vay.
- Ghi vào hợp đồng tín dụng một điều khoản thoả thuận là khách hàng nộp lãi cho cán bộ tín dụng phải có "Biên nhận thu lãi tiền vay" giao cho người nộp lãi lưu giữ một liên (liên 2).
Sử dụng "Biên nhận thu lãi tiền vay" để giao cho cán bộ tín dụng thực hiện việc thu lãi. Biên nhận thu lãi tiền vay cần đóng thành quyển có sêri và số liên tục từ 1-30 hoặc từ 1-50 phù hợp với khối lượng công việc của cán bộ tín dụng từ 1-2 ngày. Mỗi số biên nhận gồm 3 liên, liên 1 thể hiện việc thu tiền - là chứng từ gốc- khi cán bộ tín dụng nộp tiền vào Ngân hàng lập "bảng kê thu nộp lãi tiền vay" kèm theo liên 01. Kế toán căn cứ vào tổng số tiền, tên người vay, số hợp đồng tín dụng hoặc số khế ước trên bảng kê lập phiếu tạm thu lãi trên máy vi tính và hạch toán chi tiết vào từng hợp đồng tín dụng hoặc khế ước vay tiền theo chế độ hiện hành, liên 2 giao cho khách hàng giữ, liên 3 do cán bộ tín dụng bảo quản làm căn cứ để cấp quyển biên nhận khác. Quyển "biên nhận thu lãi tiền vay" được bảo quản trong kho như bảo quản ấn chỉ có giá. Việc xuất kho và giao nhận quyển này được thực hiện trên một biên bản giao nhận có ý kiến đề nghị của cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng và phê duyệt của giám đốc Ngân hàng. Kế toán xuất kho ấn chỉ ghi rõ tên người nhận, sêri, quyển từ số ... đến số... Khi cán bộ tín dụng nộp liên 3 cũng được kế toán thanh toán phụ trách địa bàn của CBTD đó và trưởng phòng kế toán kiểm soát nhập kho lưu trữ theo tháng, theo địa bàn. Trước khi một món vay đến hạn từ 5 đến 10 ngày kế toán thanh toán phải thông báo cho khách hàng và CBTD biết số gốc và lãi còn phải nộp trả Ngân hàng để cán bộ tín dụng chủ động đôn đốc người vay thanh toán trả nợ. Cần quy định rằng, CBTD khi thu lãi của khách hàng phải nộp ngay vào Ngân hàng, trưởng phòng tín dụng, kế toán phải kiểm tra định kỳ việc thu lãi của CBTD. Nếu chậm nộp hoặc tham ô, lợi dụng phải có hình thức kỷ luật thích đáng.
3.2.5. Giải pháp thu lãi đối với từng món vay.
Qua số liệu chương II ta thấy, tại chi nhánh Láng Hạ số tiền lãi chưa thu tương đối lớn, từ đó ít nhiều cũng ảnh hưởng đến nguồn thu nhập cơ bản của Ngân hàng.
Hiện nay tại chi nhánh NHN0 & PTNT Láng Hạ đang áp dụng tính lãi hàng tháng còn nợ gốc chỉ khi đến hạn mới thu. Việc thu lãi hàng tháng ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của đơn vị vay vốn nhất là các đơn vị có vòng quay vốn chậm, chu kỳ sản xuất mang tính thời vụ. Hơn nữa, đối với những món vay có giá trị nhỏ thì việc thu lãi hàng tháng gây khó khăn cho người đi vay và làm cho chi phí hoạt động của Ngân hàng cũng như công việc của kế toán viên không cần thiết. Nên chăng thực hiện việc thu lãi phải tạo được điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn và giảm cường độ lao động của kế toán viên cần:
- Đối với doanh nghiệp, cá nhân có vòng chu chuyển vốn nhanh, có thu nhập thường xuyên ổn định thì vẫn áp dụng thu lãi hàng tháng. Điều này có lợi cho khách hàng vì số tiền lãi được rải đều ra các tháng trong một thời hạn vay, đồng thời Ngân hàng có thu nhập đều đặn hàng tháng.
- Đối với đơn vị vay có vòng quay chu chuyển vốn chậm, sản xuất mang tính thời vụ, Ngân hàng không nên áp dụng thu lãi hàng tháng mà nên thu lãi vào ngày cuối của kỳ hạn nợ khi khách hàng trả nợ gốc cho Ngân hàng. Như vậy là Ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng có thể trả được cả gốc và lãi khi thu hoạch hoặc tiêu thụ sản phẩm, tránh tình trạng phát sinh nhiều ở tài khoản "lãi chưa thu".
- Đối với những món vay có giá trị nhỏ, thời hạn dưới 6 tháng, Ngân hàng có thể thu lãi vào ngày cuối cùng của kỳ hạn nợ. Khi thu nợ gốc, tạo điều kiện cho khách hàng có thêm thời gian tập trung vào sản xuất kinh doanh, tăng thêm tài sản cho xã hội.
3.2.6. Giải pháp về ứng dụng tin học.
Nhờ có sự ứng dụng tin học mà hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã có những bước tiến đáng kể. Ngày nay việc hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng đang là vấn đề cấp bách, nó góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc cho từng nhân viên Ngân hàng, đảm bảo các nghiệp vụ được thực hiện một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng khi giao dịch với nhau.
Tại chi nhánh NHN0 và PTNT Láng Hạ, mặc dù đã được trang bị khá hiện đại nhưng vẫn chưa được triển khai một cách đầy đủ các phềm mềm ứng dụng, chưa được trang bị máy rút tiền tự động, một số phần mềm khi đưa vào sử dụng vẫn bộc lộ một số hạn chế, trục trặc kỹ thuật gây trở ngại cho kế toán trong việc theo dõi thời hạn trả nợ, trả lãi của từng món vay. Xuất phát từ thực tế tin học tại chi nhánh Láng Hạ, xin có một số giải pháp sau:
- Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng cấp trên, tập trung triển khai khẩn trương. Dự án hiện đại hoá Ngân hàng cấp trên và hệ thống thanh toán (do WB tài trợ) một cách đồng bộ, chất lượng. ưu tiên đầu tư đủ kinh phí cho công tác hiện đại hoá Ngân hàng một cách có hiệu quả cả trên phương diện nghiên cứu ứng dụng công nghệ và trang thiết bị. Tập trung vào các ứng dụng và dịch vụ: thanh toán, tín dụng, thông tin quản lý và mở rộng các dịch vụ Ngân hàng từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
Nâng cấp, hoàn thiện và triển khai rộng các trang Web của NHNN và các NHTM Nhà nước nhằm phục vụ tốt hơn các công tác quản lý, điều hành và hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngành, nâng cao hơn chất lượng phục vụ khách hàng của các NHTM. Đẩy mạnh khai thác thông tin, dịch vụ qua mạng Internet.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý, để theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin và tình hình ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động đổi mới Ngân hàng, cần xem xét, sửa đổi, hoàn thiện và ban hành mới hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, cơ chế nghiệp vụ phải theo kịp và phù hợp với tốc độ phát triển, đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin. Như việc sớm nghiên cứu trình chính phủ ban hành các quy định (mang tính pháp luật) về chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, thừa nhận việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên vật mang tin để làm chứng từ kế toán và thanh toán cho Ngân hàng, và các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế và cá nhân trong các hoạt động thanh toán.
Sửa đổi và sớm ban hành quy chế, quy trình xử lý nghiệp vụ kế toán và các văn bản có liên quan đến công tác cho phù hợp với công nghệ mới nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đưa hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng vào hoạt động chính thức. Tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM triển khai dự án của WB. Hiện đại hoá Ngân hàng và các hệ thống thanh toán, quản lý khách hàng tập trung, giao dịch 1 cửa.
- Đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Việc hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng dựa trên nền tảng kỹ thuật tin học đòi hỏi phải tiến hành đồng thời với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, thực hiện từng bước quá trình đào tạo, đào tạo lại con người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ kỹ thuật, có chính sách quản lý và sử dụng hợp lý nguồn cán bộ thuộc lĩnh vực CNTN.
Cụ thể như:
+ Kiểm tra, đánh giá lại việc sử dụng lực lượng cán bộ tin học tại đơn vị; có kế hoạch sử dụng, tuyển dụng một số kỹ sư tin học có đủ năng lực để kịp phục vụ cho việc tiếp nhận vận hành các hệ thống kỹ thuật tin học do WB tài trợ.
+ Nghiên cứu để sớm có giải pháp kiện toàn mô hình tổ chức phòng tin học tại chi nhánh.
+ Nghiên cứu và ban hành cơ chế đầu tư thoả đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu, cần đầu tư nguồn kinh phí và có cơ chế xử lý chi phí đào tạo khi phải thuê giáo viên ngoài ngành theo giá thị trường để đào tạo nâng cao kiến thức cho đội ngũ kỹ sư tin học. Tạo điều kiện cho số cán bộ kỹ thuật có năng lực đi học, nghiên cứu, thực tập về công nghệ thông tin ở nước ngoài, số cán bộ này sẽ làm nòng cốt trong công tác đào tạo lại đội ngũ kỹ thuật công nghệ thông tin.
+ Tiếp tục mở các lớp đào tạo cho đội ngũ cán bộ tin học và cán bộ xử lý nghiệp vụ bằng nhiều hình thức và mức trình độ khác nhau:
đ Khai thác, sử dụng hệ điều hành Windows 95/98/2000; Windows-NT
đ Phương pháp cài đặt, khai thác sử dụng trang Web, quản lý thư tín điện tử.
đ Quản lý lỗi phát sinh của hệ thống chuyển tiền điện tử liên Ngân hàng. Làm được điều này sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đạt được nhiều thuận lợi với hiệu quả kinh tế cao nhất, đồng thời nó tạo ra một ê kíp làm việc nhịp nhàng, chặt chẽ giữa kế toán cho vay và tín dụng với khách hàng.
3.2.7. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực.
Ngân hàng thương mại với vị thế là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đòi hỏi trình độ cao không chỉ quản trị, điều hành mà cả kỹ thuật công nghệ. Trong xu thế hướng tới nền kinh tế tri thức, hội nhập khu vực và thế giới, để tồn tại và phát triển, càng đòi hỏi các NHTM phải có đội ngũ cán bộ có trình độ cao trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, tiền tệ, tín dụng, kế toán, tin học, pháp chế. Do vậy, việc tổ chức đào tạo nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt, trình độ sau đại học, trên đại học là một yêu cầu cấp thiết.
Riêng đối với cán bộ kế toán cho vay không ngừng trau dồi kiến thức về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, sử dụng thành thạo máy tính, phải nắm bắt tình hình thực tế và quan sát, theo dõi để chủ động xử lý các nghiệp vụ một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Hơn nữa, cán bộ kế toán cho vay cần có sự linh hoạt, năng động và sáng tạo trong công việc, biết phối hợp tốt với cán bộ tín dụng trong quá trình cho vay, thu nợ, theo dõi kỳ hạn trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và khách hàng. Bên cạnh đó cán bộ kế toán cho vay phải có trách nhiệm trong công việc, khi tiếp xúc giao dịch với khách hàng phải có thái độ niềm nở, văn minh lịch sự, phục vụ tận tình và tác phong nhanh nhẹn để tạo được niềm tin và uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng.
3.3. Một số kiến nghị.
Để các giải pháp trên có tính khả thi, chúng tôi kiến nghị:
3.3.1. Về phía Nhà nước.
Kế toán cho vay là một nghiệp vụ kế toán quan trọng không những đối với quá trình kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy hoạt động của Ngân hàng ngoài chức năng kinh doanh còn thể hiện việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó Nhà nước cần ban hành các luật lệ, chính sách nhằm tạo ra hành lang, pháp lý ổn định cho sự hoạt động của các doanh nghiệp, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Cần cải tiến các chính sách tài chính, thuế để Nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp một cách chặt chẽ trên cơ sở tôn trọng pháp luật mà vẫn đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh và khả năng tự thích nghi trong kinh tế thị trường.
Gần đây, hai bộ luật Ngân hàng mới được ban hành là Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng nên chăng cần có quy định về trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong việc xử lý thu hồi nợ khó đòi, đồng thời có quy định một cách cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ của khách hàng, nếu họ không thực hiện đúng nguyên tắc chế độ tín dụng Ngân hàng thì phải chịu hình thức xử lý bằng pháp luật như thế nào. Có như vậy mới giảm bớt được tình trạng gia tăng của nợ khó đòi. Từ đó đảm bảo cho nghiệp vụ kế toán cho vay thực sự phát huy vai trò bảo vệ an toàn tài sản của Ngân hàng và của xã hội.
Phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng Thương mại trong và ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời kiến nghị Nhà nước quan tâm đầu tư đến các dự án hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh để có thể hội nhập tài chính Ngân hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.3.2. Đối với Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước.
Cần có thêm các hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về nội dung các tài khoản liên quan đến quá trình cho vay, thu nợ, thu lãi, nhập ngoại bảng. Một số tài khoản trong hệ thống tài khoản vẫn thiếu, chưa đáp ứng được quá trình hạch toán.
Các chuẩn mực kế toán ban hành như chuẩn mực kế toán số 14 "doanh thu và thu nhập khác" cần có thuyết minh rõ hơn về các khoản tiền không được xác định là thu nhập ngay thì việc qui đổi giá trị sẽ thu được trong tương lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận doanh thu sẽ thực hiện như thế nào? và cơ chế tài chính cho việc quy đổi đó ra sao?.
Hiện nay tại các NHN0 Việt Nam nói chung và NHN0 và PTNT Láng Hạ nói riêng áp dụng hình thức cho vay tín chấp là chủ yếu đối với các doanh nghiệp Nhà nước hay đó là các khách hàng này có đủ uy tín về tài chính. Trong đó, uy tín về tài chính lại được thể hiện qua bảng tài chính mà thực tế nó chưa có đủ độ tin cậy hoàn toàn. Một mặt, bảng tài chính là do doanh nghiệp đó tự lập nên cộng thêm ý đồ làm đẹp báo cáo tài chính để Ngân hàng thẩm định cho vay vốn, mặt khác, báo cáo tài chính của doanh nghiệp có thể được công ty kiểm toán tiến hành kiểm toán, nhưng tính chất bắt buộc phải chịu trách nhiệm khi đưa ra một ý kiến về bảng tài chính lại chưa được quy định thành luật cụ thể. Do đó, khi xảy ra tình trạng mất vốn đối với khoản vay tín chấp thì gánh nặng lại thuộc về Ngân hàng cho vay. Hơn nữa vẫn chưa có những luật đồng bộ cho việc xử lý, phát mại tài sản thế chấp do vậy doanh thu được xác định tương đối chắc chắn trong tương lai là khó thực hiện được trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, đi đôi với các chính sách, chế độ, văn bản quy định về cho vay đối với các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và các chuẩn mực kế toán do bộ tài chính ban hành cần phải có các bộ luật và các văn bản dưới luật đi kèm để chính sách chế độ ấy có tính khả thi cao và gần với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà đặc biệt là các NHTM.
3.3.3. Về phía Ngân hàng- Chi nhánh NHN0 & PTNT Láng Hạ.
Như đã biết, trong cơ chế thị trường thì Ngân hàng nào có dịch vụ tốt nhất sẽ thu hút được nhiều khách hàng nhất. Vì vậy đổi mới công nghệ là thực sự cần thiết, thực tế địa bàn Láng Hạ cho thấy là nơi tập trung nhiều dân cư có trình độ dân trí cao và thu nhập lớn nên có khả năng trang bị máy rút tiền tự động và có thể phục vụ khách hàng một cách đa dạng và thuận tiện hơn. Cụ thể về công nghệ thanh toán tại chi nhánh NHN0 & PTNT Láng Hạ có kiến nghị: Đề nghị trung tâm công nghệ thông tin triển khai một số phần mềm ứng dụng trong giao dịch trực tiếp như nối mạng với kho bạc Nhà nước, các chương trình tiền gửi, hệ thống ứng dụng tiền gửi một nơi, lĩnh một nơi.
Tận dụng mối quan hệ truyền thống với các đơn vị có uy tín lớn, chi nhánh cần có kiến nghị NHNN & PTNT Việt Nam cần có quy chế ưu đãi về ngoại tệ đối với các doanh nghiệp trong định mức thuộc tổng công ty 90- 91.
Về hạn mức tín dụng: Đối với hạn mức tín dụng vượt quyền phán quyết của chi nhánh, đề nghị trung ương cho phép chi nhánh được thực hiện hạn mức tín dụng chung (cả dư nợ ngắn + trung dài hạn) vì nếu trình trung ương từng dự án riêng rẽ sẽ ảnh hưởng về mặt tiền gửi trong cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
Trong Ngân hàng, với đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, có năng lực nên để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì vấn đề đào tạo sau đại học là một trong những nhiệm vụ chiến lược, mang lại hiệu quả, có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, để nâng cao hiệu quả thực sự của hoạt động đào tạo sau đại học, xin có một số kiến nghị sau:
- Mỗi cá nhân học viên khi làm đề tài nghiên cứu nên gắn thực tiễn với Ngân hàng để có kiến nghị, giải pháp cụ thể thiết thực.
- Cần xác định rõ việc học là quá trình gian khổ để nâng cao trình độ và đạt hiệu quả cao trong công việc, từ đó mới có điều kiện để vươn lên.
- Chi nhánh nên gắn bó chặt chẽ với Học viện Ngân hàng và viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng, bởi đó là những cơ sở đào tạo sau đại học thuộc ngành Ngân hàng, có những điều kiện tổ chức đào tạo sát thực phù hợp với Ngành.
Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHN0 & PTNT Láng Hạ, dưới sự giúp đỡ của đơn vị thực tập đã giúp chúng em tiếp cận được với thực tế một cách cụ thể hơn. Trên cơ sở lý luận và thực tế có được, nhận thấy tồn tại của chi nhánh đều xuất phát từ thực tế chung của toàn bộ hệ thống NHN0. Do vậy, những giải pháp, kiến nghị mà chúng tôi đưa ra đều có tính định hướng, mong rằng trong tương lai giúp cho công tác kế toán ngày một hoàn thiện hơn, giảm nhẹ các công đoạn trong kế toán cho vay. Và nếu NHN0 Láng Hạ làm được điều đó sẽ là cơ sở cho các Ngân hàng nông nghiệp khác làm theo vì NHN0 Láng Hạ luôn là đơn vị mang danh hiệu lá cờ đầu trong phong trào thi đua toàn hệ thống.
Kết luận.
Kế toán Ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng là một công cụ đắc lực để quản lý vốn tín dụng- tài sản lớn nhất của Ngân hàng. Ngoài nhiệm vụ ghi chép, phản ánh để quản lý chặt chẽ tài sản, kế toán cho vay còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, công tác tín dụng Ngân hàng, tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh trong ngành Ngân hàng. Do vậy, hoàn thiện kế toán cho vay là mục đích và điều kiện cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHN0 & PTNT Láng Hạ.
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi cố gắng đi sâu vào quy trình kế toán cho vay từ giai đoạn tiếp nhận hồ sơ vay vốn đến khi kết thúc để thấy được những vấn đề thực tế, những kết quả mà Ngân hàng đã đạt được và chưa đạt được qua đó mong muốn tìm ra nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại, những cơ sở của sự thành công.
Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những khâu, những nội dung xung quanh vấn đề kế toán hay rộng hơn là những kiến nghị có tính chất định hướng, bổ sung cho việc hoàn thiện công tác kế toán cho vay.
Mặc dù còn có những hạn chế về mặt thời gian và trình độ lý luận, thực tiễn. Nên em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để hoàn thiện nội dung đề tài, góp phần nhỏ vào hoạt động của NHN0 Láng Hạ.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Hà Thị Minh Nguyệt, các thầy cô trong bộ môn kế toán Ngân hàng, các nhân viên thư viện trường, các cán bộ kế toán của Chi nhánh NHN0 & PTNT Láng Hạ đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0295.doc