1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM
……………….
Họ và tên tác giả: NGUYỄN MINH PHƯƠNG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT
TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM ĐỐI
VỚI TỔ CHỨC THAM GIA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ĐẮC SINH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2008
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP
GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.1 BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI ĐỐI
VỚI SỰ AN TOÀN CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
1.1.1 Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là định chế tài chính được thành lập nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động của
hệ thống tài chính ngân hàng.
1.1.2 Sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi
Ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn hàng đầu trong nền kinh tế. Hoạt động của
ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro, trong đó rủi ro về tín dụng, rủi ro kinh doanh ngoại tệ,
rủi ro trong các nghiệp vụ thanh toán, ... là những rủi ro lớn, dễ xảy ra ảnh hưởng rất
lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, trong lịch sử phát triển của ngân
hàng, các nước trên thế giới đã phải tìm ra các giải pháp để kiểm soát và xử lý khi rủi
ro xảy ra. Họ đã xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế để có thể phòng ngừa và
kiểm soát rủi ro. Các chỉ tiêu này được sử dụng như một thước đo, giúp người quản
lý và điều hành có thể dự báo, nhận định tình hình, đề ra các giải pháp xử lý kịp thời.
Để có thể xử lý các rủi ro, họ cũng xây dựng các biện pháp nghiệp vụ như một công
cụ để xử lý bằng cách trích từ chi phí nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro. Với các khoản
trích này được tích lũy trong một thời gian, đã giúp cho ngân hàng có đủ nguồn lực
vật chất để xử lý khi rủi ro xảy ra. Tuy nhiên giải pháp này không thu được nợ mà chỉ
có thể xử lý các khoản vay khó đòi bằng chi phí của mình.
Bên cạnh đó, khi khả năng thanh khoản bị đe dọa, hoặc ngân hàng không còn
khả năng chi trả, có nguy cơ dẫn đến phá sản, dẫn đến tổn thất không chỉ cho ngân
hàng mà còn tổn thất cho người gửi tiền. Lúc đó cần có một tổ chức đứng ra thực
3
hiện nghĩa vụ chi trả cho người gửi tiền và trong hoạt động của mình, bằng những
công cụ tài chính tổ chức đó có thể hỗ trợ tài chính hoặc xử lý nợ của ngân hàng, tổ
chức đó là bảo hiểm tiền gửi.
Việc ra đời của tổ chức bảo hiểm tiển gửi là điều kiện cần thiết để góp phần
duy trì sự ổn định trong hoạt động của các ngân hàng và sự an toàn của hệ thống tài
chính ngân hàng. Quan trọng hơn là tạo niềm tin trong công chúng đối với hoạt động
ngân hàng.
Xác định được tầm quan trọng của bảo hiểm tiền gửi, nhiều quốc gia thường
vận hành hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại quốc gia mình một cách riêng biệt phù hợp
với mục tiêu chính sách công của quốc gia đó. Sự lựa chọn phương thức hoạt động
của một hệ thống bảo hiểm tiền gửi phụ thuộc vào những yếu tố riêng có của từng
quốc gia.
1.1.3 Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm đặc biệt chỉ xuất hiện trong nền kinh
tế thị trường. So với các loại hình bảo hiểm khác, ngoài tính chất chung của hoạt
động bảo hiểm là lấy số đông bù số ít, bảo hiểm tiền gửi có những đặc điểm riêng có:
1.1.3.1 Bảo hiểm tiền gửi là loại hình tổ chức bảo hiểm đặc biệt, hoạt động
vì mục tiêu của chính sách công, không vì mục tiêu lợi nhuận
Ở hầu hết các quốc gia bảo hiểm tiền gửi được thành lập nhằm thực hiện mục
tiêu bảo vệ người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định hệ thống tài chính
ngân hàng. Do đó hoạt động của bảo hiểm tiền gửi thực thi chính sách nhằm mục tiêu
quản lý nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận.
4
1.1.3.2 Đối tượng được bảo hiểm là tiền gửi của khách hàng gửi vào ngân
hàng
Hàng hóa mà dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi cung cấp là bảo hiểm cho tiền gửi của
người gửi tiền gửi vào tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Các loại hình bảo hiểm
khác thường cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như: bảo hiểm thiệt hại vật chất bất ngờ,
bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm công nghiệp, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm bắt buộc cho
nghĩa vụ của chủ xe cơ giới… Bảo hiểm tiền gửi bảo hiểm cho loại hàng hóa đặc biệt
đó là tiền gửi.
1.1.3.3 Khách hàng của bảo hiểm tiền gửi là những tổ chức nhận tiền gửi
chứ không phải là khách hàng gửi tiền
Thông thường các loại hình bảo hiểm khác thì việc bảo hiểm trực tiếp vì quyền
lợi của người tham gia bảo hiểm nhưng đối với loại hình bảo hiểm tiền gửi thì bảo
hiểm cho khách hàng của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khách hàng của các
loại hình bảo hiểm khác là những người có nhu cầu và mong muốn được hưởng một
khoản tiền trong trường hợp xảy ra rủi ro mất mát đối với sức khỏe, tài sản của mình
và người thân. Còn khách hàng của bảo hiểm tiền gửi là những tổ chức nhận tiền gửi
bắt buộc phải tham gia để bảo vệ cho quyền lợi của khách hàng gửi tiền vào những tổ
chức nhận tiền gửi đó. Tóm lại, khách hàng của bảo hiểm tiền gửi tham gia bảo hiểm
vì quyền lợi của bên thứ ba.
1.1.3.4 Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm là tổ chức nhận tiền gửi chứ không
phải là người gửi tiền
Tuy bảo hiểm tiền gửi bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền song trách
nhiệm nộp phí thuộc về tổ chức nhận tiền gửi. Với các loại bảo hiểm thông thường
người được bảo hiểm phải trực tiếp nộp phí để có được khoản bảo hiểm trong tương
lai. Nhưng đối với bảo hiểm tiền gửi thì người được chi trả khi xảy ra rủi ro lại không
phải là người đóng phí bảo hiểm. Bảo hiểm tiền gửi được coi như bảo hiểm cho nghĩa
vụ của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền.
5
1.1.3.5 Việc chi trả bảo hiểm tiền gửi áp dụng đối với người gửi tiền
Đối với các trường hợp tổ chức nhận tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, bảo
hiểm tiền gửi sẽ có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền với hạn mức
và trong khoảng thời gian theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
1.1.3.6 Việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi mang tính bắt buộc đối với các tổ
chức tài chính có huy động tiền gửi, không thông qua hợp đồng bảo hiểm
Đối với các loại hình bảo hiểm khác để xác nhận việc tham gia bảo hiểm phải
thông qua hợp đồng được ký giữa bên bảo hiểm và bên nhận bảo hiểm. Việc tham
gia bảo hiểm là tùy thuộc vào nhu cầu và sự lựa chọn của khách hàng, không mang
tính bắt buộc. Đối với loại hình bảo hiểm tiền gửi thì các tổ chức tài chính có huy
động tiền gửi, nhất là tiền gửi của đối tượng là cá nhân thì bắt buộc phải tham gia bảo
hiểm tiền gửi.
1.1.3.7 Giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi phải được niêm yết công khai ở
tất cả các điểm giao dịch của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Do việc tham gia bảo hiểm tiền gửi mang tính chất bắt buộc và nhằm mục tiêu
bảo vệ người gửi tiền do đó Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi phải được niêm yết
công khai tại tất cả các điểm giao dịch để người gửi tiền yên tâm vì quyền lợi của
mình được bảo vệ.
1.1.3.8 Bảo hiểm tiền gửi có quyền thu hồi Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền
gửi trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định của
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các quy
định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Trong một số trường hợp nhất định, các tổ chức
này vi phạm thì bảo hiểm tiền gửi có quyền thu phí phạt và thu hồi chứng nhận, thậm
chí chấm dứt bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức vi phạm. Ví dụ như vi phạm về
6
thời hạn nộp phí, không nộp phí trong thời gian dài hoặc do yêu cầu của Ngân hàng
nhà nước.
1.1.3.9 Công cụ bảo hiểm tiền gửi là sự lựa chọn của nhiều quốc gia vì lợi
ích đối với xã hội và nền kinh tế
Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền, góp phần đảm
bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Cụ thể là chi trả tiền gửi được bảo hiểm nếu
tổ chức nhận tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán; trong trường hợp
tổ chức nhận tiền gửi lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nếu việc giải thể, phá sản có thể
gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài
chính, ngân hàng cũng như sự ổn định chính trị, kinh tế - xã hội, bảo hiểm tiền gửi có
thể hỗ trợ bằng cách cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ của các đơn vị này. Do lợi ích của
bảo hiểm tiền gửi đem lại là rất lớn đối với hệ thống tài chính và việc thực hiện chính
sách công, do đó công cụ bảo hiểm tiền gửi là sự lựa chọn của nhiều quốc gia trên thế
giới.
1.1.4 Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi được đánh giá là một trong các giải pháp bảo
đảm ổn định và an toàn trong hoạt động ngân hàng thông qua cơ chế bảo vệ quyền lợi
cho người gửi tiền. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi được thể hiện trên nhiều góc độ do
xuất phát từ bản chất của dịch vụ mà bảo hiểm tiền gửi cung cấp. Đó là loại hình dịch
vụ công đặc biệt, có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới tất cả các thành viên trong xã
hội. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi có tác dụng thu hút tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong cộng đồng, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng. Từ đó
tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế vững chắc. Vai trò nổi bật của bảo hiểm tiền gửi được
thể hiện trên các mặt sau:
7
1.1.4.1 Bảo vệ người gửi tiền có hiểu biết giới hạn về tài chính, góp phần
củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng
Mục tiêu của chính sách công cho bảo hiểm tiền gửi thường được nêu ra là
bảo vệ những người có hiểu biết giới hạn về tài chính, đó là những người có những
khoản tiền gửi nhỏ. Họ được bảo vệ vì những lý do sau đây. Thứ nhất, bảo hiểm tiền
gửi bảo vệ những người gửi tiền cá nhân trước những hậu quả của sự đổ vỡ các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Thứ hai, quỹ dự phòng bảo hiểm tiền gửi làm giảm
bớt gánh nặng đối với người gửi tiền được bảo hiểm trước vấn đề khó khăn và phức
tạp là đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tài chính nơi họ gửi tiền.
Chi trả và hỗ trợ đầy đủ, kịp thời cho khách hàng khi các ngân hàng mất khả
năng thanh toán. Vai trò bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền của Bảo hiểm tiền
gửi được thể hiện rất rõ và được tạo lập trên cơ sở niềm tin của công chúng vào hệ
thống ngân hàng.
Bảo hiểm tiền gửi là chỗ dựa vô cùng quan trọng cho các ngân hàng trong việc
củng cố, duy trì và làm tăng lòng tin của công chúng và toàn xã hội trong việc mở
rộng hoạt động huy động vốn.
1.1.4.2 Tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng của quốc gia phát
triển
Thông qua hoạt động giám sát và kiểm tra nhằm phát hiện sớm rủi ro trên cơ
sở đó cảnh báo tới các ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi đã góp phần đảm bảo ổn định
hoạt động ngân hàng và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn
bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân hàng.
Các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm tiền gửi góp phần xây dựng một thị
trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình
độ phát triển khác nhau, tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới hoạt động ngân hàng.
Quy định rõ trách nhiệm và quyền của người gửi tiền, tổ chức huy động tiền
gửi và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp có ngân
hàng đổ bể.
8
1.1.4.3 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Với vai trò bảo vệ người gửi tiền, bảo hiểm tiền gửi tạo niềm tin trong công
chúng và toàn xã hội trong việc mở rộng huy động vốn, thu hút tối đa các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi. Việc thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi có thể làm tăng cường
dòng vốn chảy vào các tổ chức nhận tiền gửi, nhờ đó tạo nguồn cho hoạt động cho
vay và đầu tư. Do đó bảo hiểm tiền gửi góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách gián tiếp.
1.1.4.4 Giảm thiểu rủi ro rút tiền hàng loạt
Khi không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi, có một khả năng lớn có thể xảy ra là
người gửi tiền có thể rút tiền hàng loạt do những khó khăn – có thể là thực sự hoặc
chỉ là hiện tượng quan sát – tại tổ chức nhận tiền gửi đó. Khi hiện tượng rút tiền hàng
loạt xảy ra tại một tổ chức nó có thể kéo theo hiện tượng trên tại các tổ chức khác mà
không quan tâm đến tình trạng hoạt động thực tế của các tổ chức đó do người gửi tiền
không có khả năng phân biệt được một tổ chức hoạt động lành mạnh hay không. Khả
năng của hệ thống bảo hiểm tiền gửi trong việc ngăn chặn hoặc tránh hiện tượng rút
tiền hàng loạt phụ thuộc vào mức độ người gửi tiền nhận thấy mình được bảo vệ như
thế nào đối với những thiệt hại khi một tổ chức bị đổ vỡ. Điều này phụ thuộc vào hạn
mức chi trả, tốc độ chi trả bảo hiểm và mức độ tín nhiệm của hệ thống bảo hiểm sẽ
tác động đến mức độ tăng cường ổn định hệ thống tài chính. Hệ thống bảo hiểm tiền
gửi tự nó không thể đảm bảo ổn định hệ thống tài chính. Điều này đặc biệt đúng
trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hệ thống. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi sẽ hiệu
quả hơn nếu nó là bộ phận cấu thành của Mạng an toàn tài chính bao gồm các cơ
quan kiểm tra, giám sát và công cụ người cho vay cuối cùng.
1.1.4.5 Tạo ra một cơ chế chính thức trong việc xử lý các ngân hàng bị đổ
vỡ
Việc xây dựng hoặc cải cách hệ thống bảo hiểm tiền gửi có thể liên quan đến
nỗ lực của quốc gia trong việc xây dựng Luật và cơ chế xử lý các tổ chức bị đổ vỡ.
9
Việc xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi có thể liên hệ với thiết lập khung pháp lý
cho việc xử lý đổ vỡ ngân hàng của quốc gia.
1.1.4.6 Góp phần vào một hệ thống thanh toán theo trật tự
Bảo hiểm tiền gửi góp phần tăng cường ổn định tài chính thông qua việc đóng
góp vào sự hoạt động thuận lợi của hệ thống thanh toán. Thông qua việc tăng cường
niềm tin trong hệ thống, bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch
tiền gửi dễ dàng giữa các bên. Để hệ thống thanh toán hoạt động, người gửi tiền phải
tin chắc rằng tiền gửi của mình được an toàn như tiền mặt.
Bên cạnh đó, bảo hiểm tiền gửi có thể cung cấp một số hình thức hỗ trợ tài
chính tức thời, điều này có thể đảm bảo giao dịch thanh toán giữa các tổ chức gặp
vấn đề. Hình thức hỗ trợ này có thể giúp tránh sự gián đoạn trong nghiệp vụ chi trả
và dòng tiền thanh toán.
1.1.4.7 Giải quyết khủng hoảng tài chính
Hệ thống bảo hiểm tiền gửi thường được thiết lập khi một quốc gia đang trải
qua hoặc vừa trải qua một giai đoạn mất ổn định nghiêm trọng về tài chính. Khi vấn
đề trong khu vực tài chính xảy ra, bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ
chức duy trì ổn định đối với tiền gửi và là công cụ bảo đảm với người gửi tiền về độ
an toàn của tiền gửi của họ.
Hệ thống bảo hiểm tiền gửi được xây dựng nhằm đẩy lùi bất ổn hệ thống tài
chính trong ngắn hạn có thể dẫn đến các vấn đề trong dài hạn.
1.1.4.8 Thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực tài chính trong việc giảm thiểu
các rào cản cạnh tranh trong lĩnh vực nhận tiền gửi
Thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức mới tham gia vào hoạt
động nhận tiền gửi và giúp đỡ các tổ chức nhỏ cạnh tranh với các tổ chức lớn, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi có thể khuyến khích cạnh tranh. Khi không có tổ chức bảo
hiểm tiền gửi, người gửi tiền có xu hướng lựa chọn các tổ chức lớn, được biết đến
10
rộng rãi và được cho là ít có ít nguy cơ xảy ra rủi ro đổ vỡ. Hiện tượng này phản ánh
một số yếu tố. Thứ nhất, tổ chức lớn có danh mục đầu tư đa dạng hơn các tổ chức
nhỏ. Thứ hai, tổ chức lớn có thể nhận được bảo lãnh ngầm của Chính phủ do các tổ
chức này được xem là quá lớn để có thể đổ vỡ. Thứ ba, các tổ chức này thường có
lịch sử lâu đời và đã xây dựng được thương hiệu trong công chúng. Lợi ích của việc
khuyến khích việc gia nhập và cạnh tranh các tổ chức mới có thể nâng cao hiệu quả
kinh tế, làm giảm tỉ lệ lãi suất, tăng đầu tư và phát triển kinh tế. Việc thực hiện các
mục tiêu trên gặp khó khăn về khung pháp lý được xây dựng chỉ phản ánh các vấn đề
cụ thể liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi và không đủ toàn diện để góp phần
vào sự ổn định tổng thể của hệ thống tài chính.
1.1.4.9 Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông qua các quy định pháp lý và
cơ chế giám sát
Việc thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi có thể tạo động lực cho các nhà lập
pháp trong việc vượt qua các rào cản về chính trị nhằm thực hiện các cải cách cần
thiết cho việc duy trì ổn định hệ thống tài chính.
1.1.4.10 Phân bổ lại chi phí đổ vỡ
Tại các quốc gia không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi chính thức, chi phí bảo
vệ người gửi tiền thường do Chính phủ gánh chịu. Việc thiết lập hệ thống bảo hiểm
tiền gửi công khai có thể làm giảm bớt gánh nặng tài chính của Chính phủ thông qua
việc thực hiện chi trả trong giới hạn và cung cấp một cơ chế thông qua đó các tổ chức
lành mạnh sẽ trang trải toàn bộ hoặc một phần chi phí giải quyết đổ vỡ. Tuy nhiên,
khả năng đóng góp của các tổ chức lành mạnh phụ thuộc vào tình hình tài chính của
họ. Điều này đặt ra sự cần thiết đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc điều
chỉnh mức phí bảo hiểm tiền gửi nhằm phản ánh khả năng đóng góp từng tổ chức.
11
1.2 HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.2.1 Khái niệm giám sát từ xa
1.2.1.1 Khái niệm giám sát từ xa
Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu tiến hành phân tích đánh giá
thực trạng hoạt động của các ngân hàng trên cơ sở báo cáo tài chính, báo cáo thống
kê và các thông tin khác do ngân hàng gửi cho bảo hiểm tiền gửi và qua việc trao đổi,
thu thập thông tin từ các nguồn khác. Từ đó lập báo cáo và ra các văn bản khuyến
cáo đối với các ngân hàng nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các ngân hàng,
cảnh báo sớm, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, có tác dụng định hướng cho
thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
1.2.1.2 Hoạt động giám sát từ xa của bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động giám sát là chức năng quan trọng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi,
góp phần tác động lên tiến trình lành mạnh hóa hệ thống tài chính thông qua nghiệp
vụ giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ. Nhờ đó, tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiếp cận được
các mặt yếu kém trong hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi để đánh giá chính xác
những yếu tố rủi ro. Nói cách khác, giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo
hướng tích cực được tập trung vào kiểm tra những mặt yếu kém của hoạt động ngân
hàng. Đối tượng giám sát là tài sản xấu, nợ khó đòi, công tác quản lý có nhiều vấn đề.
Kết quả giám sát theo các chuẩn mực là cơ sở để tổ chức bảo hiểm tiền gửi áp dụng
giải pháp tác động tích cực tiếp theo như: để thu phí theo mức độ rủi ro, để xử lý tài
sản, nợ xấu, nợ khó đòi, thông qua nghiệp vụ mua bán nợ, hỗ trợ tài chính... Hơn
nữa, các nghiệp vụ này được thực hiện ngay cả trước khi tổ chức nhận tiền gửi bị phá
sản.
Ngày nay, hoạt động giám sát an toàn hệ thống đã làm thay đổi cơ bản diện mạo
và nội dung hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước,
so với các quỹ bảo hiểm tiền gửi chỉ thực hiện chức năng chi tiền mặt cho người gửi
12
tiền sau khi tổ chức nhận tiền gửi đóng cửa. Hoạt động giám sát quan trọng đến mức
nhiều nước gọi tổ này là cơ quan giám sát hoặc như một thành viên của hệ thống
giám sát an toàn tài chính quốc gia.
1.2.2 Đặc điểm giám sát từ xa
Giám sát từ xa của bảo hiểm tiền gửi về nguyên tắc cơ bản cũng như hoạt
động giám sát từ xa của các cơ quan thanh tra, giám sát khác. Để đạt được đầy đủ các
mục tiêu mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi đề ra, đặc biệt đối với quốc gia mà ở đó hệ
thống kiểm soát hoạt động ngân hàng còn hạn chế, môi trường pháp lý và kỷ cương
thị trường đang trong quá trình hình thành, hoạt động kiểm tra và giám sát hoạt động
ngân hàng của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tuân theo khuôn khổ pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi của từng quốc gia quy định. Môi trường pháp lý của từng quốc gia
khác nhau, quy định về hoạt động giám sát từ của bảo hiểm tiền gửi cũng có những
nét riêng biệt. Tuy nhiên nhìn chung hoạt động giám sát từ xa của bảo hiểm tiền gửi
có những đặc điểm sau:
1.2.2.1 Địa điểm tiến hành giám sát
Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, chứ không phải
tại trụ sở của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
1.2.2.2 Nguồn số liệu để giám sát
Giám sát từ xa sử dụng nguồn thông tin từ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi và các nguồn thông tin được thu thập khác. Thực hiện chế độ thông tin báo cáo
của bảo hiểm tiền gửi các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi định kỳ gửi báo cáo
theo quy định. Đây là nguồn số liệu chính phục vụ cho công tác giám sát từ xa.
Ngoài ra, giám sát từ xa còn sử dụng các nguồn thông tin khác được thu thập
như: thông tin do Ngân hàng nhà nước cung cấp, thông tin từ phương tiện thông tin
đại chúng.
13
1.2.2.3 Cách thức giám sát
Việc giám sát được thực hiện liên tục theo định kỳ tháng, quý, năm trên cơ sở
nguồn thông tin từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, của các cơ quan thanh tra
giám sát khác và các nguồn thông tin khác tự thu thập.
Hệ thống các chỉ tiêu phân tích, đánh giá dựa trên khuôn khổ CAMELS và hệ
thống các nguyên tắc của Hiệp ước Basel 1, Basel 2.
Xử lý thông tin, phân tích, đánh giá, đưa ra những nhận định về thực trạng của
từng tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và của cả hệ thống.
Các chương trình giám sát được thực hiện trên mạng máy tính, trên cơ sở phần
mềm giám sát xử lý thông tin.
1.2.2.4 Kết quả giám sát
Giám sát từ xa được kết hợp với kiểm tra tại chỗ chỉ ra những lĩnh vực và
những đơn vị cần kiểm tra;
Kết quả giám sát từ xa có tác dụng phát hiện, cảnh báo nguy cơ rủi ro có thể
xảy ra trong hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; có
tác dụng tư vấn và tham khảo trong việc nhận định tổng quan về hoạt động ngân hàng
đối với các cơ quan chức năng để từ đó đưa ra những nhận định phù hợp phục vụ cho
công tác quản lý.
1.2.3 Các phương pháp giám sát từ xa
Phương pháp giám sát từ xa phụ thuộc vào các yếu tố khuôn khổ luật pháp, hệ
thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo ở từng nước có vận
dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương pháp này. Các cơ quan giám sát
tại các quốc gia có hệ thống giám sát và ngân hàng phát triển thường sử dụng kết hợp
nhiều hệ thống, phương pháp để đánh giá, giám sát rủi ro, qua đó có điều kiện để
phát hiện ra dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình hoạt động.
Các hệ thống được sử dụng thường kết hợp những đánh giá định tính và những tính
toán định lượng. Việc lựa chọn tỉ trọng của nhân tố định tính và nhân tố định lượng
14
thay đổi rất khác nhau tùy theo từng quốc gia. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi ở các quốc
gia khác nhau, vận dụng các phương pháp giám sát khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản
gồm những nội dung sau:
1.2.3.1 Hệ thống xếp hạng
Hệ thống xếp hạng giám sát ngân hàng được dựa trên cơ sở kết quả kiểm tra
tại chỗ, cho phép cơ quan giám sát xác định được các tổ chức cần phải lưu ý theo kết
quả xếp hạng hàng năm.
Hệ thống xếp hạng được xây dựng theo thông lệ quốc tế và có vận dụng cho
phù hợp với thực trạng hệ thống tài chính ngân hàng của từng quốc gia.
Các hệ thống xếp hạng thường được áp dụng:
a) Hệ thống xếp hạng theo CAMELS
Hệ thống CAMELS được xây dựng và các cơ quan giám sát Mỹ sử dụng từ
những năm 1980. Hệ thống xếp hạng theo phương pháp CAMELS tính toán với các
tiêu chí Vốn, Chất lượng tài sản, Khả năng Quản lý, Thu nhập và Tính thanh khoản
để xếp hạng các ngân hàng theo mức từ 1đến 5 theo mức độ cần giám sát tăng dần.
Từ năm 1996, hệ thống này mới bổ sung thêm các tiêu chí về mức độ nhạy cảm với
rủi ro thị trường. Mô hình giám sát từ xa theo CAMELS hiện đang được nhiều nước
trên thế giới thực hiện, chứa đựng đầy đủ những nội dung cần thiết để tiến hành đánh
giá xếp hạng các ngân hàng. Các thành phần của CAMELS là: C = Capital adequacy
(sự đủ vốn); A = Assets quality (chất lượng tài sản có); M = Management capacity
(năng lực quản lý); E = Earnings (khả năng sinh lời); L = Liquydity (khả năng thanh
toán); S = Sensibility to market risk (sự nhạy cảm rủi ro thị trường), cụ thể:
- Mức đủ vốn (yếu tố C): Vốn ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn
không chỉ đơn thuần là vốn tự có của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng chỉ là
thành phần được đưa ra đầu tiên để giám sát sự đủ vốn của ngân hàng. Một ngân
hàng hoạt động trong môi trường kinh doanh bình đẳng, có đủ vốn là một lợi thế và
còn là nội dung bắt buộc. Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm bảo chống đỡ
15
với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để xác định, đo
lường, kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này. Các loại hình và mức độ rủi ro tác
động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định đến mức vốn cần duy trì thêm
trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có thể đề phòng những hậu quả xấu mà
những rủi ro này có thể có đối với mức vốn của ngân hàng.
- Chất lượng tài sản có (Yếu tố A): Tài sản có của ngân hàng được xem là có
chất lượng, khi ngân hàng quản lý được rủi ro, tránh được sự tập trung tín dụng, tỷ lệ
nợ bị phân loại trong tổng dư nợ ở mức chấp nhận được. Chất lượng tài sản có được
đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng của các nhóm tài sản không tính
cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ đảm bảo dư nợ, năng lực quản lý và
điều hành, việc xử lý và thu hồi những khoản nợ có vấn đề. Mức đảm bảo dự phòng
nợ và khả năng có thể xử lý và thu hồi các khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác
động tốt, ở một chừng mực nào đó, đến khả năng khắc phục những khó khăn có thể
xảy ra với các nhóm nợ. Việc đánh giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các
mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc
biệt, và tính hợp lý của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng.
- Năng lực quản lý (Yếu tố M): Giám sát về năng lực quản lý điều hành của
Ban điều hành như: trình độ năng lực của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc, trình
độ của hệ thống nhân viên, sự hoàn hảo của hệ thống thông tin quản lý… Năng lực
quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố được cho là cần thiết đối với
hoạt động của ngân hàng trong một môi trường an toàn và các hoạt động ngân hàng
được chấp nhận. Do vậy, năng lực quản lý được đánh giá dựa trên trình độ học vấn,
năng lực điều hành và lãnh đạo, các chính sách và quy trình quản lý rủi ro, khả năng
tuân thủ pháp luật và các quy định, khả năng lên kế hoạch và đối phó với những biến
động của môi trường và những kết quả từ sự thành công trong quản lý. Việc đánh giá
năng lực quản lý cũng cần xem xét đến những chất lượng của những hoạt động kinh
doanh và tất cả các chính sách cho vay, đầu tư và kinh doanh, cũng như sự tham gia
của Ban giám đốc và các cổ đông. Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi hoạt động của
ngân hàng, hoạt động quản lý có thể xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau:
16
rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, hoặc các giao dịch, danh tiếng,
chiến lược, khả năng tuân thủ, tính pháp lý và thanh khoản của ngân hàng.
- Khả năng sinh lời (Yếu tố E): Khả năng sinh lời được đánh giá dựa trên khả
năng xử lý với các khoản nợ mất vốn và khả năng đảm bảo mức vốn cần thiết, xu
hướng tăng trưởng của thu nhập, so sánh trong nhóm tương đồng, chất lượng và các
thành phần của thu nhập ròng, mức độ thu nhập của nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất.
Việc đánh giá cũng cần xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi trả cổ tức, với tốc độ tăng
trưởng lợi nhuận để lại và mức độ đảm bảo vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo dự
phòng mất nợ và đề phòng với những bất thường, với các giao dịch chứng khoán và
với các tác động của thuế cũng được xem xét khi đánh giá khả năng sinh lời.
- Khả năng thanh khoản (Yếu tố L): Mức độ thanh khoản được đánh giá theo
khả năng thanh toán nhanh chóng các khoản tiền gửi; tần suất và mức độ sử dụng
nguồn vốn đi vay của ngân hàng; năng lực chuyên môn liên quan đến cơ cấu tài sản
nợ; mức độ sẵn có của tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt và mức độ tiếp cận
với thị trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác. Mức độ thanh khoản của một ngân
hàng phải được đánh giá theo từng giai đoạn và từng thời điểm cụ thể. Cũng cần phải
xem xét đến hiệu quả nói chung của chiến lược quản lý tài sản có – tài sản nợ của
ngân hàng cũng như mức độ tuân thủ và mức độ đầy đủ của các chính sách về thanh
khoản của họ. Về bản chất, số lượng và sử dụng trước các cam kết về tín dụng và bảo
lãnh cũng là các yếu tố đuợc đưa vào xem xét.
- Sự nhạy cảm rủi ro thị trường (Yếu tố S): Mức độ nhạy cảm với rủi ro phản
ánh mức độ tại đó những thay đổi về lãi suất, tỉ giá hối đoái, giá tiêu dùng hoặc giá
vốn có thể ảnh hưởng đến thu nhập hoặc vốn cuă một ngân hàng. Khi đánh giá hạng
mục này xem xét cả các vấn đề sau: khả năng của Ban lãng đạo ngân hàng trong việc
xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thị trường; quy mô ngân hàng; bản
chất và mức độ phức tạp về các hoạt động kinh doanh của ngân hàng; và mức độ đầy
đủ về vốn và thu nhập liên quan đến mức độ rủi ro thị trường. Đối với nhiều ngân
hàng, các rủi ro thị trường chủ yếu xuất phát từ trạng thái đầu tư theo đúng kỳ hạn và
17
mức độ nhạy cảm với những thay đổi về lãi suất. Ở một số ngân hàng lớn hơn, các
hoạt động ở nước ngoài có thể là nguyên nhân chủ yếu về rủi ro thị trường và một số
khác thì các hoạt động kinh doanh ngoại hối lại là nguyên nhân chính về rủi ro thị
trường.
Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống ngân
hàng, đưa ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của toàn bộ
hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp hạng tổng thể
CAMELS. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc xếp hạng 6 yếu tố trên. Xếp
hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ chức có hệ thống tốt nhất, đảm bảo
chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền với một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là
mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ chức này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo
khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi hoạt động giám
sát cao nhất cho tổ chức này.
b) Các mô hình xếp hạng khác
Ngoài ra, có một số mô hình khác được sử dụng ở các cơ quan giám sát khác
nhau hoặc ở các quốc gia khác nhau như ORAP, PATROL nhưng về cơ bản, các mô
hình đó cũng dựa trên cơ sở các tiêu chí tương đối giống như mô hình CAMELS.
Phân tích từng ngân hàng bằng nhiều tiêu chí được chuẩn hóa (ORAP): ORAP
nhằm phát hiện từ gốc những yếu kém có thể có của các ng._.ân hàng, dựa trên việc
nghiên cứu toàn bộ những thành tố của rủi ro gắn với hoạt động và môi trường riêng
của từng ngân hàng và qua đó bổ sung cho việc tổ chức và tăng cường hoạt động
phòng ngừa. Phân tích được thực hiện bằng cách nghiên cứu các số liệu về an toàn và
được bổ sung thêm bằng việc đánh giá định lượng và định tính các yếu tố gây rủi ro
như phân tích hoạt động của ngân hàng, việc tuân thủ các hệ số an toàn, đánh giá
định tính và định lượng các cam kết, đánh giá khả năng sinh lời sau cùng, khả năng
kiềm chế rủi ro. Như vậy, việc phân tích từng ngân hàng được chuẩn hóa gồm nhiều
tiêu chí nêu trên nhằm mục đích xác định những yếu tố gây đổ vỡ, rủi ro cho một
18
ngân hàng và qua đó yêu cầu ngân hàng đó thực hiện những biện pháp điều chỉnh
trước khi có thể xảy ra những khó khăn.
1.2.3.2 Hệ thống phân tích tỉ lệ tài chính và nhóm tương đồng
Hệ thống này sử dụng các tỉ lệ và phân tích theo nhóm tương đồng để đánh giá
các chỉ tiêu với mục đích có thể nhận diện được những vấn đề hoặc các dấu hiệu rủi
ro của các ngân hàng để đưa ra cảnh báo sớm. Ở từng quốc gia, các cơ quan giám sát
sử dụng phương pháp phân tích này với số lượng các tỉ lệ tài chính khác nhau.
Hệ thống giám sát BAKIS được thực hiện vào năm 1997 ở cơ quan giám sát
và ngân hàng Trung ương Đức, sử dụng 47 tỉ lệ trong đó: 19 tỉ lệ về rủi ro tín dụng,
16 tỉ lệ về rủi ro thị trường, 2 tỉ lệ về khả năng thanh khoản, 10 tỉ lệ về khả năng sinh
lời để thực hiện giám sát hoạt động của ngân hàng. Các tỉ lệ này được phân tích theo
tháng, quý, năm để đánh giá khả năng phòng ngừa và chịu đựng rủi ro của từng ngân
hàng.
Hệ thống phát hiện nhanh rủi ro của Ủy ban ngân hàng tại Pháp thực hiện
phân chia các ngân hàng hay ngân hàng thành nhóm tín dụng tương đồng (GHE):
Việc lập nhóm các ngân hàng tương đồng về phương diện hoạt động và cơ cấu cho
thấy là thích hợp nhất để cho phép thực hiện việc phân tích, so sánh. Vì trên thực tế,
mỗi nhóm ngân hàng tương đồng được hình thành bởi các ngân hàng có những đặc
điểm chung về phương diện hoạt động, quy mô, tầm cỡ, điều này cho phép định vị
được một ngân hàng với các ngân hàng còn lại trong nhóm (tách xa so với số liệu
bình quân chung của nhóm). Việc phân chia các ngân hàng được căn cứ theo các tiêu
chí khách quan được rút ra từ các yếu tố của bảng cân đối kế toán và các báo cáo
khác cùng những số liệu định tính về ngân hàng và việc xác định loại hình ngân hàng
để phân chia vào nhóm ngân hàng tương đồng được dựa trên sự kết hợp giữa 2 yếu tố
là “khách hàng” và “sản phẩm” của ngân hàng.
19
1.2.3.3 Hệ thống đánh giá rủi ro
Phương pháp này cho phép các cơ quan giám sát đánh giá tổng hợp về tình
hình rủi ro của toàn bộ ngân hàng. Cụ thể, các khoản mục hoạt động của ngân hàng
hoặc nhóm ngân hàng sẽ được phân chia thành từng mục, từ đó phân tích tình hình
rủi ro, cấu trúc và kiểm soát của ngân hàng dựa trên cơ sở một số những yếu tố nhất
định. Trên cơ sở đó, mô hình sẽ đưa ra kết quả chấm điểm đối với từng ngân hàng
trong những khoảng thời gian nhất định. Sau đó, sử dụng trọng số để kết hợp các
phân tích định lượng và đánh giá định tính để đưa ra mức điểm cuối cùng.
1.2.3.4 Mô hình thống kê
Mô hình thống kê dự báo về tình hình hoạt động của các ngân hàng được sử
dụng phổ biến trong những năm gần đây vì những mô hình này có tác dụng cảnh báo
sớm cao. Các mô hình này thường sử dụng những kĩ thuật định lượng tiên tiến để dự
báo về tình hình hoạt động và mức độ rủi ro dựa trên những số liệu hiện tại, qua đó
cho phép các cơ quan giám sát có thể phân loại những ngân hàng có mức độ rủi ro,
nguy cơ đổ vỡ cao hoặc ngân hàng có rủi ro và nguy cơ đổ vỡ thấp. Phương pháp này
được áp dụng vào đầu những năm 90, xuất phát từ nguyên nhân có hàng loạt các
ngân hàng bị đổ vỡ ở Mỹ, chi phí để giải quyết những ngân hàng sau khi đổ vỡ là quá
lớn.
Phương pháp thống kê phân tích tổng thể (SAABA): đây là hệ thống trợ giúp
phân tích ngân hàng một cách tự động hóa nhằm phát hiện một cách nhanh nhất có
thể những yếu tố gây rủi ro. Sự độc đáo của hệ thống này chính là phần mềm tin học.
Toàn bộ những thông tin liên quan đến từng ngân hàng lấy từ các cơ sở dữ liệu khác
nhau được tái tạo lại dưới dạng tin học để có thể xử lý một cách tự động để có thể
xem xét, đánh giá những rủi ro khác nhau của ngân hàng. Những loại hình rủi ro khác
nhau được xử lý thích hợp với bản chất của chúng, những rủi ro mang tính định
lượng sẽ được tiếp cận qua đánh giá tài chính, những rủi ro định tính sẽ được xử lý
bằng hệ thống chuyên gia SAABA theo một phương pháp dàn dựng đặc thù với mỗi
ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng thông qua việc sử dụng phương pháp này người
20
sử dụng có thể nắm bắt được: Một bản phân tích tổng hợp về ngân hàng; nhiều phân
tích từng phần tương ứng với những khía cạnh chính của rủi ro ngân hàng; một bản
trình bày chi tiết về ngân hàng để người sử dụng có thể chọn lựa mức độ chi tiết
mong muốn (đi từ những yếu tố chính của rủi ro đến việc phân tích các số liệu kế
toán và tài chính).
1.3. KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI VỀ NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Hầu hết các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều quan tâm tới công tác
kiểm tra và giám sát. Tùy theo môi trường pháp lý và tính chất hoạt động mà công
tác giám sát ở Bảo hiểm tiền gửi mỗi nước có những điểm khác biệt. Tuy nhiên hầu
hết đều xây dựng các tiêu chí giám sát trên cơ sở khuôn khổ CAMEL
1.3.1 Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC):
FDIC là tổ chức có sự quan tâm chú ý đến công tác kiểm tra, giám sát các
ngân hàng nhất trong số các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới. Ngay từ khi mới
thành lập tổ chức này đã có hơn 4.000 ủy viên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
và cho tới nay con số này đã lên tới khoảng 8.000 người.
Nội dung kiểm tra, giám sát bao gồm:
- Kiểm tra, giám sát việc đảm bảo là thành viên tham gia bảo hiểm tiền gửi và
bổ sung vốn nhằm đảm bảo quy định về vốn trong hoạt động ngân hàng
- Kiểm tra, giám sát khả năng đảm bảo hoạt động lành mạnh và an toàn của
ngân hàng với bốn nội dung:
+ Xác định chất lượng tài sản hiện có
+ Phát hiện các hoạt động phát sinh có thể dẫn đến khó khăn tài chính
+ Thẩm định điều hành ngân hàng
+ Phát hiện các hoạt động không bình thường và có dấu hiệu vi phạm pháp
luật.
21
Hoạt động giám sát từ xa của FDIC cũng dựa trên cơ sở xây dựng một hệ
thống các chỉ tiêu đánh giá, phân loại và xếp hạng các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi. FDIC sử dụng hệ thống các chỉ tiêu xếp hạng theo CAMELS, theo đó giám sát
các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về các mặt như: mức đủ vốn, chất lượng tài
sản có, năng lực quản lý, khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản, sự nhạy cảm rủi
ro thị trường. Hệ thống xếp hạng đánh giá dựa trên các chỉ tiêu định tính và định
lượng. Các chỉ tiêu định lượng được cho điểm từng chỉ tiêu và từng hạng mục. Các
chỉ tiêu định tính nhận xét và đánh giá theo dạng bảng hỏi. FDIC yêu cầu các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm cung cấp thông tin phục vụ cho công
tác giám sát. Đồng thời FDIC cũng sử dụng kết quả giám sát của cơ quan giám sát
ngân hàng để có thêm cơ sở đánh giá thực trạng của các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi
1.3.2 Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC)
KDIC được xác định là bộ phận trong cơ cấu giám sát tài chính quốc gia.
KDIC sử dụng thông tin chủ yếu để giám sát từ số liệu và kết quả đánh giá của Ban
giám sát tài chính. Đây là Ban giám sát độc lập, tiến hành giám sát các tổ chức tài
chính và cung cấp kết quả cho các cơ quan quản lý khi có yêu cầu. Trên cơ sở đó,
KDIC có thể nghiên cứu, giám sát và kiểm tra, xây dựng hệ tống cảnh báo riêng đối
với hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính hiện thời của tổ chức tài chính được
bảo hiểm, qua đó dựa vào các tiêu chuẩn đã được quy định, KDIC có thể phát hiện
thấy tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Nội dung giám sát chủ yếu đánh giá về việc thực hiện nộp phí, việc đảm bảo
an toàn trong hoạt động ngân hàng và phân loại tổ chức tài chính được bảo hiểm.
Phương pháp giám sát dựa vào các tiêu chí đánh giá theo mô hình CAMELS.
Trên cơ sở kết quả giám sát KDIC có quyền yêu cầu các tổ chức tài chính
được bảo hiểm và Tổng công ty kiểm soát tài chính đệ trình các tài liệu liên quan đến
hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính hiện thời từ đó có sự đánh giá nhất định
22
về quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ của các tổ chức này và để phân loại
các tổ chức tài chính được bảo hiểm.
Trong trường hợp dựa trên kết quả phân tích và đánh giá, khi thấy cần thiết
phải bảo vệ người gửi tiền và duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính, KDIC có
quyền yêu cầu Chủ tịch Ban giám sát tài chính gửi bản tường trình kết quả về cuộc
kiểm tra giám sát hoặc chỉ đạo hướng dẫn các thành viên trong Ban giám sát tài chính
cùng tham gia kiểm tra giám sát tổ chức tài chính được bảo hiểm bằng nghiệp vụ cụ
thể.
Trong trường hợp cần thiết phải xác nhận lại nội dung dữ liệu báo cáo của các
tổ chức tài chính được bảo hiểm để phân loại rủi ro trong khả năng dễ xảy ra rủi ro
đối với các tổ chức này thì KDIC có quyền yêu cầu Chủ tịch Ban giám sát tài chính
tiến hành kiểm tra giám sát các tổ chức này.
1.3.3 Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan (CDIC)
Mặc dù triển khai chậm hơn nhiều nước trên thế giới song chính sách BHTG ở
Đài Loan đã khẳng định được vai trò to lớn trong kiểm soát rủi ro trong hoạt động
ngân hàng, đặc biệt có tác dụng kiểm soát hiện tượng khủng hoảng hệ thống ở quốc
gia này. Để đạt được kết quả nêu trên bên cạnh việc áp dụng tính phí theo mức độ rủi
ro và xây dựng thành công Hệ thống cảnh báo sớm tài chính quốc gia thì CDIC rất
coi trọng các hoạt động nghiệp vụ kiểm tra, giám sát. Các hoạt động này được tiến
hành bài bản, có hiệu quả cao, có đóng góp lớn trong bảo đảm an toàn và ổn định
hoạt động ngân hàng. Nội dung của nghiệp vụ kiểm tra giám sát bao gồm:
- Giám sát kiểm tra về phí bảo hiểm tiền gửi
- Điều tra điều kiện chấm dứt tư cách thành viên bảo hiểm tiền gửi
- Giám sát kiểm tra tài sản có và tài sản nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi có vấn đề.
CDIC rất coi trọng việc sử dụng thông tin phục vụ cho công tác giám sát, kiểm
tra. Theo đó nếu CDIC thấy cần thiết và sau khi được sự đồng ý của cơ quan chức
năng có tham khảo ý kiến của Ngân hàng trung ương Đài Loan, CDIC có thể kiểm tra
23
kết quả kinh doanh và tài khoản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc hướng
dẫn tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi chuẩn bị và nộp trong thời hạn quy định bảng
cân đối tài sản, báo cáo tài sản và các báo cáo khác. CDIC dựa trên những phát hiện
từ các cuộc kiểm tra hoặc các báo cáo nói trên, sẽ đề xuất những điều chính đối với tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong một thời gian quy định. Nếu trong thời gian đó
mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không tự điều chỉnh thì CDIC sẽ báo cáo vấn
đề này cho các cơ quan chức năng. Những thông tin kinh doanh tài chính quan trọng
của các ngân hàng sẽ phải được thông báo công khai hàng quý, nội dung, hình thức
và kiểu dáng của báo cáo sẽ được cơ quan có thẩm quyền quy định.
24
Kết luận chương I
Bảo hiểm tiền gửi nói chung và nghiệp vụ giám sát từ xa của bảo hiểm tiền
gửi nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích, đánh giá tình hình hoạt
động và cảnh báo sớm những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động của các ngân
hàng. Việc thành lập và phát triển các nghiệp vụ của bảo hiểm tiền gửi là tất yếu đối
với tất cả các quốc gia trên thế giới để góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
quốc gia.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ XA
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM (BHTGVN)
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
2.1.1.1 Cơ sở pháp lý
BHTGVN là tổ chức tài chính Nhà nước, được thành lập theo Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
BHTGVN được tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg
ngày 28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ. BHTGVN hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn, tự bù đắp chi phí, được miễn nộp các loại thuế theo
quy định của pháp luật. BHTGVN có vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng do Nhà nước cấp.
BHTGVN có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Thu phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo
quy định;
- Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi
mức bảo hiểm tối đa theo quy định;
- Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định của
Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Hỗ trợ cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng
chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt;
- Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị
phá sản;
26
- Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi;
- Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào
tạo và tư vấn về các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi;
- Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt
động của BHTGVN và của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
-Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
2.1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển
Từ khi ra đời và đi vào hoạt động đến nay các ngân hàng nói chung và hệ
thống ngân hàng thương mại nói riêng đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước nhất là việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư
để cho vay các thành phần kinh tế tạo công ăn việc làm, không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại
Việt Nam vẫn còn thấp và một số sản phẩm còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu không
được kiểm tra, giám sát kịp thời và thường xuyên, không có những chính sách thận
trọng và phù hợp thì có thể dẫn tới sự đổ vỡ dây truyền mang tính hệ thống, làm mất
lòng tin đối với người gửi tiền, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh tài chính quốc gia,
gây nên sự bất ổn đối với nền kinh tế đất nước, thậm chí còn là nguyên nhân của
khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới. Những cuộc khủng hoảng tài chính diễn
ra trong thời gian gần đây đã cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó có
vấn đề đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Trước tình hình đó,
ngày 11/9/1999 Chính phủ đã có Quyết định số 218/QĐ-TTg về việc thành lập tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Tháng 7/2000, BHTGVN chính thức khai trương đi
vào hoạt động.
Bước đầu đi vào hoạt động BHTGVN gặp không ít những khó khăn vướng
mắc, nhất là việc xây dựng các định chế và quy chế hoạt động cho bảo hiểm tiền gửi
sao cho phù hợp với thực tế hoạt động, do đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới tại Việt
Nam. Mặc dù là một tổ chức mới được thành lập với vô vàn những khó khăn ban
27
đầu, song cùng với nỗ lực của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên,
BHTGVN đã từng bước xác định được phương hướng nhiệm vụ của mình, khắc phục
khó khăn, dần tạo dựng được nền tảng phát triển. BHTGVN đã thành lập các Ban
nghiên cứu như Ban Nghiên cứu đề án giám sát từ xa, Ban Nghiên cứu phí theo mức
độ rủi ro, Ban Nghiên cứu Luật bảo hiểm tiền gửi, Ban nghiên cứu Vốn… giúp
nghiên cứu, xây dựng và phát triển các nghiệp vụ chủ yếu của bảo hiểm tiền gửi.
BHTGVN đã xây dựng được kênh thông tin báo cáo đối với các tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi và trao đổi thông tin với Ngân hàng nhà nước. BHTGVN thành lập
được 6 Chi nhánh khu vực trải đều trên toàn quốc với những chức năng và nhiệm vụ
cụ thể, đảm bảo thông suốt giúp BHTGVN triển khai và thực hiện tốt vai trò, chức
năng và nhiệm vụ của mình, đồng thời giúp quản lý tốt các đơn vị tham gia bảo hiểm
tiền gửi trên địa bàn từng Chi nhánh phụ trách.
Với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua đến nay có thể nói
BHTGVN đã có những đóng góp đáng kể và quan trọng trong tiến trình đổi mới đất
nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đồng thời cũng đã tự khẳng định được
mình, khẳng định được tính đúng đắn của một chủ trương, một quyết định ra đời tổ
chức tài chính mới không thể thiếu trong hệ thống các định chế tài chính của nền
kinh tế đất nước trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế giai
đoạn tiếp theo.
2.1.2 Cơ cấu và bộ máy tổ chức
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức:
BHTGVN được quản trị và điều hành bởi Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát
và Tổng giám đốc
- Hội đồng quản trị BHTGVN do Chính phủ bổ nhiệm, bao gồm 5 thành viên,
trong đó có 3 thành viên chuyên trách là Chủ tịch, một ủy viên kiêm Tổng giám đốc,
một ủy viên kiêm Trưởng Ban Kiểm soát; hai ủy viên kiêm nhiệm là Phó thống đốc
28
Ngân hàng Nhà nước và Thứ Trưởng Bộ Tài Chính. Hội đồng quản trị thực hiện chức
năng quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động hàng năm của BHTGVN.
- Ban kiểm soát có 3 thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm
nhiệm được thành lập để giúp Hội đồng quản trị thực hiện việc giám sát, kiểm tra
mọi hoạt động của BHTGVN trong điều hành hoạt động, chấp hành pháp luật và
Điều lệ của BHTGVN.
- Tổng giám đốc BHTGVN do Chính phủ bổ nhiệm. Tổng giám đốc là đại
diện pháp nhân của BHTGVN, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước
pháp luật về điều hành hoạt động của BHTGVN
- Văn phòng và các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ của BHTGVN có chức
năng tham mưu, giúp Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành
công việc.
2.1.2.2 Mạng lưới hoạt động:
BHTGVN gồm 6 chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực: Hà Nội, Đông Bắc Bộ
(trụ sở tại Hải Phòng), Bắc Trung Bộ ( trụ sở tại thành phố Vinh), Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên (trụ sở tại Nha Trang), Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Bằng Sông Cửu
Long (trụ sở tại Cần Thơ)
Trụ sở chính của BHTGVN tại Hà Nội, gồm 14 phòng, ban. Mỗi phòng, ban
thực hiện chức năng nhiệm vụ riêng.
2.1.3 Tình hình hoạt động
2.1.3.1 Khái quát về phí bảo hiểm tiền gửi
Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có
nghĩa vụ nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm tiền cho tiền gửi của
khách hàng. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi.
29
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi theo mức
0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng
Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư
nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 4 kỳ
trong 1 năm theo định kỳ hàng quý trên cơ sở số dư tiền gửi được bảo hiểm bình
quân của quý trước sát với quý thu phí bảo hiểm.
Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi vào tài
khoản của BHTGVN chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý nộp phí bảo
hiểm tiền gửi.
2.1.3.2 Các nghiệp vụ chủ yếu của BHTGVN
a) Nghiệp vụ giám sát từ xa
Nghiệp vụ giám sát từ xa là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của BHTGVN.
Giám sát từ xa được thực hiện trên cơ sở thông tin báo cáo từ các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi và các nguồn thông tin khác được thu thập. Nội dung của công tác
giám sát từ xa bao gồm:
- Xem xét, đánh giá tư cách tham gia bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi. Kiến nghị Ban điều hành để trình Hồi đồng quản trị về việc
chấp thuận bảo hiểm và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi;
- Tiếp nhận các báo cáo, các thông tin liên quan tới hoạt động của các tổ chức
tham gia bảo hiểm để làm cơ sở đánh giá về các tổ chức này;
- Nghiên cứu theo dõi các diễn biến kinh tế trong nước và nước ngoài có thể
gây ảnh hưởng hoạt động ngân hàng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi;
- Thực hiện và xây dựng cơ chế giám sát từ xa nhằm phát hiện và cảnh báo kịp
thời những khó khăn tài chính tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; trình Ban điều
30
hành khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp xử lý cần thiết;
- Liên lạc phối kết hợp thường xuyên với Ngân hàng Nhà nước để thu nhận
thông tin và phân tích đánh giá về các thông tin đó;
- Đánh giá các bản báo cáo thường niên của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi và theo dõi diễn biến có liên quan;
- Kiến nghị chấm dứt bảo hiểm tiền gửi đối với những tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi có vấn đề.
b) Nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ
Sau gần 8 năm đi vào hoạt động bảo hiểm tiền gửi đã thực hiện hàng nghìn
cuộc kiểm tra đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và đến nay có thể khẳng
định hiệu quả thu được từ hoạt động nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ của BHTGVN. Hoạt
động nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ được thực hiện theo các chức năng nhiệm vụ cụ thể
bao gồm:
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi, bao gồm: quy
định về công khai, minh bạch các chính sách về bảo hiểm tiền gửi; quy định về cung
cấp cho BHTGVN những thông tin về tổ chức nhận tiền gửi; quy định về tính và nộp
phí bảo hiểm tiền gửi;
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Việc kiểm tra các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng của
BHTGVN hiện nay mới chỉ được thực hiện đối với tổ chức nhận tiền gửi là các Quỹ
tín dụng nhân dân, chưa thực hiện đối với các tổ chức nhận tiền gửi là Ngân hàng
thương mại;
- Khuyến nghị và yêu cầu thực hiện các biện pháp phòng ngừa, các biện pháp
tăng cường năng lực và theo dõi các biện pháp triển khai;
- Kiểm tra khả năng thực hiện các giải pháp khôi phục các tổ chức đã bị đóng
cửa, khắc phục các khó khăn tạm thời của các tổ chức tham gia bảo hiểm;
31
- Tổng hợp những kiến nghị bổ sung cần sửa đổi các văn bản quản lý và điều
hành của Ngân hàng Nhà nước và BHTGVN đối với các ngân hàng trình Tổng Giám
đốc xem xét, chỉ đạo xử lý.
c) Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính
Là một trong những chức năng quan trọng của BHTGVN, hỗ trợ tài chính
được thực hiện trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất
khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi có thể hỗ trợ dưới các hình thức như cho vay hỗ trợ để chi trả tiền
gửi được bảo hiểm, bảo lãnh các khoản cho vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi
được bảo hiểm, mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản đảm bảo hoặc tổ
chức bảo hiểm tiền gửi chỉ tiến hành các biện pháp hỗ trợ sau khi xác định rằng việc
tiếp tục hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó có vai trò quan trọng
đối với sự bảo đảm an toàn của hệ thống và sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội.
Nghiệp vụ Hỗ trợ tài chính tại có chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Chịu trách nhiệm xây dựng và trình Tổng Giám đốc ban hành các văn bản về
quy trình nghiệp vụ, hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính;
- Tiếp nhận hồ sơ đề nghị cho vay hỗ trợ, bảo lãnh vay vốn, mua lại nợ từ tổ
chức tham gia bảo hiểm hoặc các chi nhánh BHTGVN để thẩm định hoặc tái thẩm
định, đưa ra các ý kiến đánh giá, đề xuất trình Tổng Giám đốc quyết định các phương
án hỗ trợ tài chính;
- Tham mưu cho Tổng Giám đốc trong việc quyết định các phương án hỗ trợ
tài chính đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Kiểm tra, đánh giá tình hình sử dụng nguồn vốn hỗ trợ tài chính của các tổ
chức tham gia bảo hiểm, tình hình quản lý tài sản bảo đảm cho khoản hỗ trợ tài chính
để đề xuất biện pháp xử lý kịp thời các diễn biến xấu có nguy cơ dẫn đến rủi ro cho
BHTGVN và an toàn của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Thực hiện chế độ thông tin báo cáo của BHTGVN về hoạt động hỗ trợ tài
chính;
32
- Kiểm tra tình hình thực hiện pháp của Nhà nước và các quy định của
BHTGVN về hoạt động hỗ trợ tài chính.
d) Nghiệp vụ xử lý nợ
Theo quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi,
BHTGVN trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi với số tiền bảo
hiểm đã chi trả. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phép chia giá trị tài sản theo thứ tự
thanh toán như đối với người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn
hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản. Tổ chức bảo hiểm
tiền gửi được quyền tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Nghiệp vụ xử lý nợ có các chức
năng nhiệm vụ cụ thể:
- Xem xét sổ sách kế toán của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm
dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản nhằm xác định các khoản
tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức đó;
- Xử lý, giải quyết các yêu cầu thanh toán và chi trả cho người gửi tiền;
- Theo dõi việc bán các tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đóng
cửa;
- Đại diện cho BHTGVN trước toà án với tư cách là bên tiếp nhận và thanh lý
tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động; theo dõi, phối
kết hợp với các bên liên quan giải quyết các thủ tục xử lý nợ và thanh lý các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động.
2.1.3.3 Các hoạt động khác
Cùng với một số các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu như nghiệp vụ Xử lý nợ,
nghiệp vụ kiểm tra tại chỗ, nghiệp vụ giám sát từ xa thì các mặt hoạt động nghiệp vụ
khác như công tác Kiểm soát nội bộ, công tác Tài chính - Kế toán, công tác Tổ chức,
công tác Thông tin tuyên truyền, Nghiên cứu tổng hợp, Công nghệ tin học… cũng
33
đóng vai trò hết sức cần thiết trong quá trình hoạt động và phát triển của BHTGVN.
Với các chức năng nhiệm vụ được giao các hoạt động này cũng đã phát huy có hiệu
quả, góp phần giúp BHTGVN triển khai và thực hiện tốt chiến lược phát triển cũng
như góp phần thực hiện hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
2.2 NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA CÁC TỔ CHỨC THAM GIA BẢO
HIỂM TIỀN GỬI CỦA BHTGVN
2.2.1 Cơ sở pháp lý
2.2.1.1 Quy định của Chính phủ
- Khoản 3, Điều 5, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9/11/1999 và
Khoản 3, Điều 7 Điều lệ về tổ chức và hoạt động của BHTGVN ban hành kèm theo
Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000 của thủ tướng Chính phủ có quy
định: Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định của
Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
- Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền
gửi và Thông tư 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 về việc hướng dẫn một số nội
dung tại Nghị định 89 có quy định:
+ Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm nộp cho tổ chức bảo
hiểm tiền gửi các báo cáo theo quy định của BHTGVN.
+ Trong quá trình giám sát và kiểm tra đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi, nếu phát hiện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định về an
toàn trong hoạt động ngân hàng, BHTGVN có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi phải có biện pháp khắc phục ngay tình trạng vi phạm đó, đồng thời báo
cáo ngay bằng văn bản với cho Ngân hàng Nhà nước để có biện pháp theo dõi, xử lý.
+ Trong trường hợp xét thấy hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
có nguy cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thoát lớn về tài sản hoặc có tác động
nghiêm trọng tới các ngân hàng khác thì BHTGVN báo cáo ngay bằng văn bản cho
34
Ngân hàng Nhà nước và đồng thời yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có
biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
2.2.1.2 Quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Quyết định 217/QĐ-BHTG-HĐQT ngày 19/8/2003 ban hành Quy chế giám
sát đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và Công văn 341/CV-BHTG7 ngày
25/6/2004 hướng dẫn thực hiện Quyết định 217 có quy định:
- Mục đích, yêu cầu công tác giám sát: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các ngân hàng, bảo đảm sự phát triển
an tòan, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn
kịp thời vi phạm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong họat động của các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
- Nội dung giám sát: Việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi; Việc chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân
hàng.
2.2.2 Mục đích của hoạt động giám sát
2.2.2.1 Đối với người gửi tiền
Hoạt động giám sát từ xa có tác động đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ
giữa tổ chức nhận tiền gửi với người gửi tiền. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ
chức nhận tiền gửi phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các đối tượng tham gia
thị trường. Thông qua hoạt động giám sát từ xa cơ quan giám sát sẽ cung cấp thông
tin chính xác, minh bạch về tình hình tài chính của tổ chức nhận tiền gửi để người gửi
tiền nắm được trước khi quyết định gửi tiền vào tổ chức nhận tiền gửi. Vì vậy, hoạt
động giám sát từ xa sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức nhận tiền
gửi trong việc nâng cao chất lượng hoạt động để thu hút người gửi tiền, hoạt động
giám sát từ xa đã gián tiếp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi.
35
2.2.2.2 Đối với hoạt động của ngân hàng
Trong quá trình hoạt động, có thể do khách quan hoặc chủ quan mà tổ chức
nhận tiền gửi có thể bỏ qua các quy định về an toàn trong hoạt động dẫn đến vi phạm
các chỉ tiêu an toàn. Để phát hiện được._.g của những thay đổi trên thị trường đối với hoạt động
của ngân hàng.
b) Môi trường làm việc:
Sự phân cấp quản lý đối với cán bộ giám sát là tương đối hợp lý, đảm bảo
được máy vi tính và các công cụ phần mềm hỗ trợ cho công tác giám sát. Tuy nhiên
môi trường làm việc còn chưa phát huy được hiệu quả của làm việc theo nhóm.
2.3 ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TẠI BẢO
HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
2.3.1 Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, BHTGVN đã tiến hành giám sát từ xa đối với tất cả các
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Thông qua kết quả giám sát từ xa nhằm phát
hiện, cảnh báo sớm những rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để kiến nghị
các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho
các hoạt động kiểm tra tại chỗ của BHTGVN. Trên cơ sở hệ thống thông tin, báo cáo
hiện hành, BHTGVN tiến hành phân tích và đánh giá các tổ chức tham gia Bảo hiểm
tiền gửi theo các tiêu chí giám sát an toàn phù hợp với thông lệ quốc tế như vốn, chất
lượng tài sản có, huy động vốn và cho vay, dự phòng rủi ro, kết quả kinh doanh và
các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng. Các kết quả giám sát từ xa cung cấp
nhiều thông tin cảnh báo và hỗ trợ cho các hoạt động kiểm tra tại chỗ được tiến hành
có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời không cản trở hoạt động bình thường của các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
BHTGVN đã ban hành được quy định về chế độ thông tin báo cáo đối với các
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đây là kênh thông tin chính thống, giúp cho công
tác giám sát từ xa có được nguồn số liệu để phân tích đánh giá được đầy đủ và hiệu
quả.
57
Việc giám sát từ xa đã căn cứ trên cơ sở các chuẩn mực về đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng; bước đầu đã thực hiện giám sát theo mô hình CAMELS
với các tiêu chí giám sát theo chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn theo nguyên tắc
của Ủy ban Basel, nhằm đánh giá nhanh chóng, chính xác tình hình hoạt động của hệ
thống ngân hàng, nhận diện được những rủi ro tiềm ẩn, có được những cảnh báo sớm,
giúp ngân hàng khắc phục nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động.
Cơ chế phân cấp quản lý tới các Chi nhánh tạo nên sự thống nhất trong toàn hệ
thống. Việc nhận định tình hình và phân tích, đánh giá đảm bảo chính xác và hiệu
quả hơn vì các ngân hàng thuộc địa bàn Chi nhánh quản lý.
Phần mềm quản lý thông tin đầu vào và phần mềm giám sát đã hỗ trợ tích cực
và có bước đầu có hiệu quả cho công tác giám sát, đảm bảo được việc tổng hợp số
liệu một cách chính xác, giảm thiểu việc nhặt số liệu một cách thủ công (thời gian
đầu thực hiện giám sát).
2.3.2 Những hạn chế
Trong quá trình hoạt động, nghiệp vụ giám sát từ xa đối với tổ chức nhận tiền
gửi của BHTGVN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập nhất là nguồn thông tin đầu vào,
phương pháp giám sát và phần mềm xử lý thông tin giám sát còn chưa đồng bộ.
Mặc dù bước đầu đã áp dụng các tiêu chí đánh giá theo mô hình CAMELS
song kết quả còn hạn chế. Chất lượng phân tích, đánh giá còn chưa chuyên sâu, mẫu
biểu giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu đánh giá một cách có hệ thống. Khả năng
đánh giá tổng quát diễn biến thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn
yếu. Công tác giám sát từ xa chưa đáp ứng được nhu cầu kịp thời nắm bắt thông tin
và những vấn đề nổi cộm trong hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, do
đó chưa phát huy được tác dụng cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro đối với các tổ
chức này.
Hệ thống ứng dụng phần mềm đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện,
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc quản lý thông tin, cập nhật dữ liệu
chuẩn mực hiện đại.
58
Chính vì vậy hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa chưa cao, gây khó khăn
cho việc nắm bắt và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi để
có cơ sở thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính khi cần thiết cũng như xếp loại chất
lượng hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi phục vụ cho việc thu phí theo mức độ rủi
ro.
2.3.3 Nguyên nhân
2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan:
- Chưa ban hành quy định thay thế cho Công văn 341 (Công văn hướng dẫn
thực hiện Quy chế giám sát) trong khi các văn bản quy định về đảm bảo an toàn và
phân loại nợ và các quy định khác về hoạt động ngân hàng của Ngân hàng nhà nước
đã được ban hành. Việc tiến hành giám sát theo các chuẩn mực mới chỉ dừng ở mức
thí điểm tại Trụ sở chính dẫn gây khó khăn cho công tác giám sát tại các Chi nhánh;
- Chưa có quy trình nghiệp vụ chính thức đối với công tác giám sát từ xa do đó
việc thực hiện giám sát còn chồng chéo giữa Trụ sở chính và Chi nhánh. Việc tổng
hợp báo cáo của các Chi nhánh chưa phát huy hiệu quả, mới chỉ mang tính chất tham
khảo.
- Cơ sở pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi còn thấp, chỉ ở cấp Nghị định,
chưa có luật Bảo hiểm tiền gửi. Do đó chưa có chế tài xử phạt đối với những vi phạm
về chế độ thông tin báo cáo;
- Trình độ của cán bộ giám sát còn chưa đồng bộ, còn thiếu cán bộ phân tích
chuyên sâu về diễn biến tình hình tài chính ngân hàng và tác động của những thay đổi
trên thị trường đối với hoạt động ngân hàng;
- Hệ thống phần mềm các phần mềm đã trợ giúp được cho việc tổng hợp, lưu trữ
thông tin song còn thiếu đồng bộ, chưa tích hợp thành một phần mềm thống nhất cho
công tác giám sát. Hệ thống mạng nội bộ còn chậm gây ảnh hưởng tới việc truy cập
để sử dụng các phần mềm quản lý;
59
- Chưa thực hiện cơ chế đánh giá, xếp loại chính xác khách hàng; hệ thống
thông tin khách hàng còn yếu kém và phân tán;
- Việc trao đổi thông tin giữa các phòng, ban còn thiếu thống nhất và chưa có
quy định cụ thể. Đặc biệt là việc phối hợp và sử dụng thông tin của giám sát và kiểm
tra.
2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan
- Nguồn thông tin đầu vào còn chậm và thiếu. Mặc dù đã có quy định về chế độ
thông tin báo cáo song việc thực hiện của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi còn
hạn chế; gây khó khăn cho cán bộ giám sát trong việc tập hợp thông tin để tính toán
các chỉ tiêu giám sát.
- Nhận thức về vai trò của bảo hiểm tiền gửi của ngân hàng và người gửi tiền
còn chưa cao. Do đó ý thức về việc thực hiện các quy định của bảo hiểm tiền gửi đối
với các ngân hàng còn thấp.
- Việc phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các
cơ quan thực hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn
trong quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo
- Các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng của Ngân hàng nhà nước đã
phần nào tiếp cận với thông lệ quốc tế song còn ở mức hạn chế.
60
Kết luận chương II
BHTGVN ra đời và hoạt động trong giai đoạn nền tài chính nước nhà đang
trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập với nền tài chính quốc tế. Dù còn non trẻ
nhưng BHTGVN đã chứng mình được sự ra đời của mình là một sự tất yếu. Cùng với
các nghiệp vụ khác, nghiệp vụ giám sát từ xa các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đã góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn của hoạt động ngân hàng, đồng thời có thể
phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn kịp thời những vi phạm pháp luật về BHTG
và an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tham gia BHTG, củng cố niềm
tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng và ổn định tình hình tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được không thể tránh khỏi những
hạn chế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan như: nền tảng pháp lý yếu,
nhận thức của người dân chưa cao, mối liên kết với các cơ quan khác trong hệ thống
giám sát còn lỏng lẻo…
61
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VIỆT NAM
3.1.1 Định hướng phát triển chung của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Chiến lược phát triển BHTGVN dựa trên 5 trụ cột chủ yếu:
3.1.2. Định hướng phát triển đối với hoạt động giám sát từ xa
3.1.2.1 Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ bảo hiểm tiền gửi giai đoạn
2007 – 2010 và định hướng đến năm 2020
Lấy hoạt động giám sát là hoạt động chủ yếu, sản phẩm đặc trưng của
BHTGVN để giám sát rủi ro đối với các tổ chức nhận tiền gửi, tiến tới thực hiện theo
chuẩn mực quốc tế CAMEL, BASEL 1 và BASEL 2, tối ưu hóa hệ số an toàn và hiệu
quả trong hoạt động, trên cơ sở đó mở rộng phạm vi, đối tượng bảo hiểm tiền gửi, đa
dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Mục tiêu giám sát của BHTGVN
62
đối với các tổ chức nhận tiền gửi chủ yếu nhằm cảnh báo sớm những rủi ro có thể
xảy đến đối với các tổ chức nhận tiền gửi để có những biện pháp xử lý kịp thời; đồng
thời cung cấp thông tin, kiến nghị, biện pháp giải quyết với các cơ quan chức năng.
3.1.2.2 Định hướng về hoạt động giám sát
Mô hình giám sát mới của BHTGVN phải đạt được các mục tiêu: i) thống nhất
chuẩn mực giám sát, ii) phân định chức năng và iii) hợp tác chia sẻ thông tin giữa các
cơ quan có chức năng giám sát, qua đó nâng cao hiệu quả công việc và tránh chồng
chéo khi thực hiện nhiệm vụ giám sát.
BHTGVN xây dựng các chuẩn mực giám sát theo mô hình CAMELS và các
tiêu chí tài chính theo khuyến nghị của Uỷ ban BASEL nhằm phân loại, đánh giá các
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở rủi ro.
BHTGVN xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám
sát từ xa. Hệ thống này giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin từ các kênh khác
nhau tạo dựng kho dữ liệu tập trung, từ đó tiến hành phân tích khai thác thông tin
theo mô hình tập trung các dữ liệu với các tiêu chí đánh giá về tình hình hoạt động
của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính theo các mặt liên quan như tín dụng, thanh
khoản, thị trường và hoạt động.
Dựa vào các số liệu phân tích, BHTGVN và các cơ quan giám sát có thể đánh
giá kịp thời và đưa ra các chính sách phù hợp cho các tổ chức được bảo hiểm tiền gửi
như cảnh báo, yêu cầu khắc phục, hỗ trợ tài chính, hoặc tiếp nhận xử lý nhằm đảm
bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia.
63
3.2 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO
HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM
3.2.1 Mục tiêu của các giải pháp:
Hoạt động giám sát từ xa thời gian qua vẫn còn có những hạn chế nhất định,
để khắc phục những hạn chế đó cần có những giải pháp hữu hiệu và khả thi. Những
giải pháp đó phải đáp ứng được các mục tiêu:
3.2.1.1 Đáp ứng được yêu cầu cung cấp đầy đủ, chính xác thường xuyên, liên tục
những thông tin về tình hình hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi
Hoạt động giám sát là chức năng quan trọng của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi.
Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế cho thấy hoạt động giám sát giống như những biện
pháp phòng ngừa khác, thường được chú trọng mỗi khi xảy ra những tình huống quá
xấu, song lại bị lơi lỏng dần cho đến khi xuất hiện một tình huống xấu khác. Sự phát
triển của lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường thường gắn liền
với sự gia tăng của những rủi ro với quy mô ngày càng lớn hơn, phức tạp và khó dự
đoán nên không thể coi nhẹ việc duy trì tính liên tục và thường xuyên của hoạt động
giám sát các tổ chức nhận tiền gửi. Đồng thời để đánh giá chính xác, toàn diện các
mặt hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi thì cơ quan giám sát phải có đầy đủ, kịp thời và
chính xác những thông tin cần thiết.
3.2.1.2. Đảm bảo phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh và sự phát
triển của tổ chức nhận tiền gửi
Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đều là các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực tiền tệ vì vậy các sản phẩm của họ cũng có sự khác biệt so với các sản phẩm
của các doanh nghiệp phi tài chính khác, các đối tượng kinh doanh, sản phẩm, dịch
vụ, cơ cấu vốn, cơ chế quản lý kinh doanh cũng có sự khác biệt. Bởi vậy, việc giám
sát phải đảm bảo cho hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi được diễn ra thông suốt, ổn
định, an toàn, lành mạnh và vững chắc là hết sức cần thiết. Xuất phát yêu cầu phù
64
hợp với đặc điểm của hoạt động kinh doanh và sự phát triển của tổ chức nhận tiền
gửi, các tiêu chí giám sát, quy trình giám sát phải được thiết kế dựa trên lợi ích của tổ
chức nhận tiền gửi, không chỉ vì lợi ích riêng của cơ quan giám sát, gây phiền hà,
tăng chi phí quá mức, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi nhưng
vẫn đảm bảo mục tiêu và yêu cầu của công tác giám sát.
3.2.1.3. Kết hợp tính đặc thù và tính quốc tế
Do đặc tính là một nước đang phát triển nên nhìn chung các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam về quy mô, tiềm lực tài chính, khả năng quản lý… còn
hạn chế, các sản phẩm dịch vụ còn tương đối ít, kém đa dạng, sản phẩm mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp chủ yếu là từ hoạt động cho vay và tiềm ẩn khá nhiều rủi ro.
Bên cạnh đó, xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa đang thúc đẩy các quốc gia chú trọng
hơn đến việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực giám sát ngân hàng.
Chính vì vậy, giám sát hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi phải hướng dần tới các
thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
3.2.1.4 Đảm bảo tính hệ thống
Giám sát hệ thống tổ chức nhận tiền gửi đòi hỏi phải có tính hệ thống, nghĩa là
cần có sự phối kết hợp một cách biện chứng và logic giữa những người thực hiện
giám sát, giữa những phương pháp giám sát và giữa những đối tượng được giám sát
nhằm tạo nên một chỉnh thể có mối liên hệ mật thiết với nhau, vừa không chồng
chéo, bỏ sót, đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát.
3.2.2. Hoàn thiện nội dung và phương pháp giám sát
3.2.2.1 Yêu cầu đối với các chỉ tiêu giám sát:
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa cần phải xây dựng được hệ
thống chỉ tiêu giám sát đảm bảo khoa học, hệ thống chỉ tiêu đó phải đáp ứng được
các yêu cầu sau:
65
- Hệ thống chỉ tiêu phải phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, được áp
dụng thống nhất cho tất cả các tổ chức nhận tiền gửi về tên gọi, yếu tố cấu thành và
phương pháp tính toán;
- Các chỉ tiêu phải có ý nghĩa trong phân tích, đánh giá một cách trung thực,
khách quan tình hình hoạt động và thực trạng tài chính cũng như vị thế của tổ chức
nhận tiền gửi trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế;
- Hệ thống chỉ tiêu phải thuận lợi vừa đáp ứng cho công tác thanh kiểm tra,
giám sát của các cơ quan chức năng vừa thuận lợi cho công tác kiểm tra và kiểm toán
nội bộ của tổ chức nhận tiền gửi. Hệ thống chỉ tiêu giám sát sẽ gián tiếp buộc các tổ
chức nhận tiền gửi nâng cao chất lượng của hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, giúp
lãnh đạo tổ chức nhận tiền gửi điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi
hoạt động nghiệp vụ của đơn vị mình.
- Hệ thống chỉ tiêu phải tính toán được trên cơ sở các báo cáo của tổ chức
nhận tiền gửi, được hình thành trong quá trình hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi.
- Hệ thống chỉ tiêu phải có tác dụng giúp tổ chức nhận tiền gửi phân tích trước
các quyết định khai thác vốn, lựa chọn lĩnh vực đầu tư, có biện pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro.
3.2.2.2 Giải pháp về nội dung và phương pháp giám sát:
Trên cơ sở các yêu cầu về chỉ tiêu giám sát nêu trên thì việc xây dựng các chỉ
tiêu giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân tích, đánh giá các tổ chức
nhận tiền gửi. Mô hình giám sát theo CAMELS hiện đang được rất nhiều quốc gia
thực hiện để xếp loại các tổ chức tài chính và mô hình này thực sự phát huy hiệu quả.
Các tiêu thức mà mô hình CAMELS đưa ra giúp đánh giá chi tiết về tổ chức tài chính
trên các mặt hoạt động và giúp phát hiện sớm rủi ro tiềm ẩn. Mô hình giám sát theo
CAMELS là phù hợp với BHTGVN trong bối cảnh hiện nay.
Phương pháp xếp hạng theo mô hình CAMELS giúp phân loại được các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi, từ đó có được những cảnh báo sớm nhất là đối với những
tổ chức xếp loại 5 (là những tổ chức yếu kém nhất và có xác suất phá sản rất cao).
66
Ngoài ra việc xếp hạng các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi còn giúp ích cho đề án
thu phí theo mức độ rủi ro mà sắp tới đây BHTGVN dự kiến ban hành.
Nội dung và phương pháp giám sát phải tham chiếu với các nguyên tắc của Ủy
ban Basel, đặc biệt là Bộ các nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân
hàng một cách có hiệu quả (Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết
cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả; Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và
cơ cấu; Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng; Các
nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát ngân hàng hiện nay; Các nguyên tắc thuộc
cụm chủ đề yêu cầu về thông tin; Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp
pháp của chuyên gia giám sát…)
Nội dung và phương pháp giám sát dựa trên mô hình CAMELS song phải
nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và các mức điểm xếp loại sao cho phù hợp
với tính chất hoạt động của các ngân hàng, tình hình tài chính tại Việt Nam cũng như
thực trạng số liệu đầu vào hiện có hoặc trong tương lai gần có thể có và chức năng,
nhiệm vụ của BHTGVN.
Quy trình giám sát phải tiến dần tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế là mô
hình CAMELS và các nguyên tắc của Ủy ban Basel. Quy trình giám sát phải có tác
dụng hướng dẫn chi tiết về nội dung, phương pháp, trình tự giám sát và xử lý sau
giám sát. Quy trình phải là cơ sở tạo nên sự thống nhất thực hiện trong toàn hệ thống
BHTGVN, từ Trụ sở chính đến các Chi nhánh khu vực.
Trong quá trình thực hiện giám sát cần tham chiếu đối với kết quả kiểm tra,
giám sát của Ngân hàng nhà nước để nâng cao chất lượng báo cáo giám sát.
Tài liệu yêu cầu người sử dụng đối với phần mềm giám sát phải được sửa đổi
cho phù hợp với Quy trình mới và là tài liệu tham chiếu để xây dựng phần mềm giám
sát phục vụ tốt cho việc tổng hợp số liệu, phân tích, đánh giá, cảnh báo rủi ro.
3.2.3. Giải pháp về con người
Để tiếp tục nâng cao chất lượng của hoạt động giám sát từ xa thì cần phải chú
trọng nội dung nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ giám sát, tập trung vào kỹ
67
năng quản trị rủi ro, công nghệ ngân hàng và dịch vụ tài chính mới, quản trị ngân
hàng hiện đại, các kỹ năng bổ trợ như phân tích tài chính, hoạt động ngân hàng
thương mại.
Tổ chức các khóa tập huấn nghiệp vụ giám sát từ xa cho cán bộ giám sát trong
toàn hệ thống. Các lớp tập huấn sẽ giúp cán bộ giám sát cập nhật thông tin và thống
nhất về cách thức tiến hành giám sát trong toàn hệ thống BHTGVN;.
Tổ chức các khóa đào tạo về phân tích kinh tế, quản trị rủi ro… Đây là những
kiến thức đòi hỏi cán bộ làm công tác giám sát phải cập nhật thường xuyên để nâng
cao hiệu quả trong việc phân tích, đánh giá, nhận định xác thực về tình hình hoạt
động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, phát hiện được những rủi ro tiềm
ẩn, trên cơ sở đó phát huy hiệu quả của cảnh báo sớm.
Đào tạo nâng cao kiến thức công nghệ thông tin giúp cán bộ giám sát sử dụng
thông thạo các ứng dụng của MS Windows và các phần mềm ứng dụng tạo thuận lợi
cho việc giám sát ngân hàng.
Bên cạnh đó việc sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực cũng là một giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả công tác giám sát. Đặc biệt là việc phân công những cán
bộ có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, có kinh nghiệm thực
tế làm việc tại các cơ quan giám sát hay tại các ngân hàng thương mại vào những vị
trí quan trọng, nhất là vị trí tổng hợp báo cáo, phân tích diễn biến tình hình hoạt động
của hệ thống ngân hàng.
Công tác tuyển dụng cán bộ có trình độ và kinh nghiệm về phân tích tài chính
làm việc tại bộ phận giám sát từ xa cũng giúp công tác giám sát có chất lượng.
Cơ chế lương, thưởng phù hợp với năng lực và khả năng đóng góp trong
chuyên môn của cán bộ giám sát sẽ khuyến khích cán bộ phát huy năng lực và gắn bó
với BHTGVN.
68
3.2.4. Giải pháp về công nghệ
3.2.4.1 Đối với phần mềm giám sát
Để phục vụ giám sát một cách linh hoạt và phần mềm giám sát đáp ứng các
yêu cầu như: chủ động khai thác các báo cáo theo yêu cầu; cung cấp số liệu báo cáo
theo các dạng mẫu biểu chi tiết, tổng hợp hoặc đồ thị; cho phép các mức khai thác dữ
liệu: tổng thể hoặc chi tiết; biến động theo thời gian, so sánh giữa các đối tượng báo
cáo; khai thác dữ liệu trực tiếp trên mạng dựa trên giao diện Web; có các công cụ hỗ
trợ quản lý người sử dụng, an toàn, bảo mật dữ liệu báo cáo theo thẩm quyền khai
thác; hỗ trợ giao diện với các phần mềm văn phòng của MS Windows…
Hiện tại phần mềm giám sát của BHTGVN chỉ đáp ứng một phần các yêu cầu
trên. Để nâng cao hiệu quả công tác giám sát thì nên thay thế phần mềm cũ đang sử
dụng bằng phần mềm mới với tính năng có thể xử lý tất cả các khâu từ khai thác,
chuẩn hóa số liệu đầu vào đến việc xử lý, phân tích và cho ra các mẫu biểu theo quy
định. Với yêu cầu đó, BHTGVN cần phải mua phần mềm giám sát từ bên ngoài (có
thể của nước ngoài), vì trình độ, năng lực cán bộ làm công tác tin học hiện nay của
BHTGVN chưa thể đáp ứng được.
3.2.4.2 Đối với phần cứng:
Trang bị đầy đủ máy tính (bao gồm cả máy chủ và máy PC) đáp ứng được yêu
cầu lưu trữ và phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa. Đối với máy chủ phải đảm bảo
lưu trữ được số liệu thời gian ít nhất là 05 năm, đồng thời phải có hệ thống máy tính
dự phòng để tránh rủi ro khi xảy ra sự cố. Cùng với việc trang bị đầy đủ số lượng
máy tính thì hệ thống máy tính của BHTGVN cần được kết nối với hệ thống máy tính
của tổ chức nhận tiền gửi để có thể tiếp nhận thông tin từ tổ chức nhận tiền gửi một
cách kịp thời, trước mắt thực hiện kết nối với tổ chức nhận tiền gửi là các ngân hàng
thương mại lớn.
69
3.2.4.3 Đối với hệ thống công nghệ thông tin của BHTGVN
Hệ thống xây dựng đồng bộ từ trung ương tới các chi nhánh. Hệ thống quản lý,
xử lý tập trung và tích hợp, có mối quan hệ kết nối chia sẻ thông tin với các cơ quan,
bộ, ngành, ngân hàng, chính quyền địa phương
Đảm bảo tính pháp lý bao gồm việc mua bản quyền sử dụng phần mềm, hệ điều
hành, cơ sở dữ liệu, các công cụ phát triển. Việc mua bản quyền các ứng dụng nêu
trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sử dụng, nâng cao hiệu quả của việc khai
thác. Đặc biệt là phần mềm phục vụ cho các công tác nghiệp vụ của BHTGVN.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ
3.3.1.1 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp lý cho BHTGVN
Xây dựng khung pháp lý phù hợp, đặc biệt là thông qua Luật Bảo hiểm tiền
gửi tạo điều kiện cho BHTGVN có một địa vị pháp lý ổn định, đủ nguồn lực để
BHTGVN triển khai có hiệu quả các sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu của thị trường
phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện cụ thể tại Việt Nam. Vì vậy, Chính phủ cần
chỉ đạo NHNN, các bộ ngành liên quan và BHTGVN sớm xây dựng dự thảo Luật
bảo hiểm tiền gửi để trình Quốc hội thông qua.
3.3.1.2 Chỉ đạo việc phối hợp trao đổi thông tin của các Bộ, ngành liên quan
Chính phủ cần chỉ đạo việc trao đổi thông tin giữa Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài
chính và BHTGVN nhằm tạo điều kiện cho BHTGVN nắm bắt được đầy đủ thông tin
phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ nói chung và hoạt động giám sát từ xa nói
riêng.
70
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.2.1 Cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của BHTGVN bằng các văn bản
hướng dẫn thực hiện
Để nâng cao vai trò của BHTGVN và đảm bảo tính pháp lý cao cho hoạt động
bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng nhà nước cần xây dựng các văn bản hướng dẫn thực
hiện đối với các quy định của Chính phủ. Các văn bản hướng dẫn sẽ giúp các ngân
hàng có cơ sở thực hiện các quy định về bảo hiểm tiền gửi.
3.3.2.2 Phối hợp trao đổi thông tin với BHTGVN
Ngân hàng nhà nước cần xác định rõ cơ chế, phương thức phối hợp với
BHTGVN trong việc quản lý, giám sát rủi ro, cảnh báo sớm và xử lý các vấn đề liên
quan tới tổ chức nhận tiền gửi và người gửi tiền để công tác giám sát hoạt động của
các ngân hàng nói chung và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nói riêng được đầy
đủ, toàn diện và chính xác. Các thông tin cần được trao đổi như: thông tin về các tổ
chức nhận tiền gửi yếu kém cần phải chấn chỉnh, khắc phục; danh sách tổ chức nhận
tiền gửi bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, kết quả xếp loại hoạt động đối với
tổ chức nhận tiền gửi…Việc phối hợp tạo điều kiện thuận lợi cho cả Ngân hàng nhà
nước và BHTGVN trong việc đưa ra những cảnh báo rủi ro cũng như việc theo dõi
tiến độ khắc phục tồn tại, các biện pháp xử lý khi cần thiết đối với tổ chức nhận tiền
gửi được kịp thời chính xác.
3.3.2.3 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động
giám sát
Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp lý về đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng, hệ thống tài khoản kế toán, chế độ kế toán và thống kê
phù hợp với thông lệ quốc tế. Các văn bản pháp lý này là thước đo cho hoạt động
giám sát vì thế các văn bản này phù hợp thì hoạt động giám sát mới phát huy hiệu
quả.
71
3.3.2.4 Trình dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi để Quốc hội thông qua
Luật bảo hiểm tiền gửi là khung pháp lý cao nhất đối với hoạt động bảo hiểm
tiền gửi. Hiện nay công tác giám sát mặc dù có những cảnh báo xong cơ chế xử phạt
đối với những vi phạm là chưa có dẫn đến giảm hiệu quả của công tác giám sát. Nhất
là đối với việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi còn nhiều bất cập mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là tính pháp lý
trong việc xử phạt đối với những vi phạm này của BHTGVN còn thấp. Chính vì vậy,
Ngân hàng nhà nước cần sớm trình Quốc hội thông qua Luật bảo hiểm tiền gửi
3.3.3 Kiến nghị đối với BHTGVN
3.3.3.1 Sửa đổi hướng dẫn thực hiện Quy chế giám sát cho phù hợp với các
văn bản pháp lý hiện hành
Hiện tại, hoạt động giám sát từ xa của BHTGVN đang được thực hiện theo Quy
chế giám sát số 217/QĐ-BHTG-HĐQT ngày 19/8/2003 của Hội đồng quản trị
BHTGVN. Tại Công văn 341 (Công văn hướng dẫn thực hiện Quy chế giám sát) mặc
dù một số chỉ tiêu giám sát được xây dựng gần với thông lệ quốc tế, nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý và cảnh báo rủi ro trong xu thế hội nhập quốc tế,
BHTGVN cần nghiên cứu để sớm ban hành Hướng dẫn mới thay thế Công văn 341 để
làm cơ sở cho hoạt động giám sát phát huy vai trò.
3.3.3.2 Xây dựng mô hình giám sát từ xa phù hợp
BHTGVN cần sớm xây dựng mô hình giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, cảnh
báo sớm dựa trên cơ sở rủi ro theo các tiêu chuẩn quốc tế, có sự phối hợp chặt chẽ
với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo mức độ tin cậy và hiệu quả của
công tác giám sát, kiểm tra. Hệ thống cảnh báo sớm dựa trên cơ sở rủi ro giúp phân
loại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
72
3.3.3.3 Đẩy mạnh công tác đào tạo và sử dụng cán bộ một cách hiệu quả
Cán bộ giám sát có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng tổng hợp và
phân tích số liệu, có khả năng đánh giá và nhận định tình hình hoạt động, phát hiện
rủi ro là nhân tố quan trọng đem lại hiệu quả cho hoạt động giám sát. BHTGVN cần
tăng cường công tác đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ để nâng cao chất lượng cán bộ
giám sát nhằm đáp ứng một cách tốt hơn những yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó
việc sử dụng cán bộ phù hợp, đúng người, đúng việc là cũng là giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác giám sát.
73
Kết luận
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với với kinh tế khu vực và kinh tế thế
giới. Đặc biệt là đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng một lĩnh vực với các
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, để đảm bảo phù hợp với quá trình hội nhập, điều đó
đặt ra rất nhiều đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách cơ bản. Một trong những
đòi hỏi đó là nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát từ xa, nhằm giúp cho công tác
cảnh báo và quản lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi đặc biệt là với
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được hiệu quả, góp phần duy trì sự ổn định của tổ chức
nhận tiền gửi, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Trên
cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã tập trung làm rõ
một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, từ những hoạt động chủ yếu và nội dung cơ bản của đảm bảo an
toàn trong hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, luận văn đã chỉ ra nhiều yếu tố tác
động đến sự an toàn trong hoạt động ngân hàng của tổ chức nhận tiền gửi. Qua đó
khẳng định sự cần thiết của hoạt động giám sát tổ chức nhận tiền gửi nói chung ngân
hàng thương mại nói riêng. Đồng thời trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt động
giám sát ngân hàng của một số nước, luận văn đã rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát từ xa đối với tổ chức
nhận tiền gửi với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Thứ hai, luận văn đã trình bày một số vấn đề cơ bản về thực trạng công tác
giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Chỉ ra những kết quả, hạn chế và
nguyên nhân của hạn chế, từ đó khẳng định sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát từ xa đối với tổ chức nhận tiền gửi.
Thứ ba, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về lý thuyết và thực trạng hoạt
động giám sát của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay, luận văn đã đưa ra một số
74
giải pháp theo hướng bổ sung, hoàn thiện, đổi mới hoạt động giám sát từ xa phù hợp
với điều kiện và tình hình thực tế của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, của các tổ chức
nhận tiền gửi trong bối cảnh hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam đang hội nhập
mạnh mẽ. Cùng với các giải pháp chủ yếu, luận văn cũng đề xuất một số kiến nghị
nhằm nâng cao tính khả thi trong việc triển khai thực hiện các giải pháp đã đưa ra.
Luận văn được trình bày với hy vọng đóng góp phần nào việc nghiên cứu
nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát từ xa của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam, góp phần đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của trong hoạt động tài chính
của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do giới hạn phạm vi nghiên
cứu, luận văn mới chỉ tập trung nghiên cứu một số giải pháp cơ bản nhất và do thời
gian và khả năng có hạn, vì vậy luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong những ý kiến tham gia bổ sung của các thầy cô để luận văn được
hoàn thiện hơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0252.pdf