MỤC LỤC
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KÊNH TIÊU THỤ THỊT LỢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM NÔNG SẢN THÁI BÌNH.
LỜI MỞ ĐẦU
Chăn nuôi là một ngành kinh tế quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nó không những đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng hàng ngày của mọi người dân trong xã hội mà còn là nguồn thu nhập quan trọng của hàng triệu người dân hiện nay. song với trên 80 triệu dân, chưa kể đến tăng dân số hàng năm, nguồn thực phẩm từ đàn gia súc gia cầm này cũng chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu người tiê
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện kênh tiêu thụ thịt lợn tại Công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u dùng hiện nay (24,5kg/người/năm). Đây là mức tiêu thụ thấp so với nhiều nước trên thế giới, mà chưa đề cập đến chất lượng của chúng.
Phát triển chăn nuôi bền vững, nhất là chăn nuôi lợn hàng hóa như thế nào trong hoàn cảnh cuộc sống của phần lớn các hộ nông dân còn chật vật khó khăn, đại bộ phận người dân chăn nuôi theo kinh nghiệm; thiếu kiến thức chuyên môn, ít quan tâm về thông tin thị trường, nếu có thì thiếu cụ thể; hiểu biết về sản xuất hàng hóa chưa trở thành tiềm thức; kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các vùng,... là những rào cản trong phát triển chăn nuôi lợn hàng hóa hiện nay.
* Lí do chọn đề tài:
Nghề chăn nuôi lợn ở nước ta là một trong những nghề rất cần thiết và ngày càng phát triển với quy mô lớn hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thịt cho nhân dân trong nước và xuất khẩu. Thực tế cho thấy, việc nuôi lợn trong các hộ nông dân đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân dân, tạo thêm thu nhập, bởi thế gần đây, lợn là vật nuôi rất phổ biến. Tuy nhiên, thịt lợn thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế, hợp vệ sinh là một vấn đề cần được quan tâm bởi nó liên quan thiết yếu đến người nông dân.Chăn nuôi lợn thịt là nghề truyền thống trông nông thôn Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng, với nguồn thức ăn và chất dinh dưỡng không thể thiếu của con người đòi hỏi nhu cầu thịt lợn rất cao ở mọi nơi trên thế giới. Trước thực trạng đó công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình đã nghiên cứu và tìm ra con đường đi cho người dân thái Bình để tiêu thụ thịt trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, thịt lợn thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế, hợp vệ sinh là một vấn đề cần được quan tâm bởi nó liên quan thiết yếu đến người nông dân. Nhằm đáp ứng yêu cầu thiết thực này, với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn- cô giáo Võ Thị Hòa Loan cùng các cô chú, anh chị trong công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình, em đã nghiên cứu đề tài “ Giải pháp hoàn thiện kênh tiêu thụ thịt lợn tại công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình" trong quá trình em thực tập tại công ty để có thể đem lại mục đích phát huy những thế mạnh của công ty và khắc phục những tồn tại yếu kém mà công ty đang vấp phải giúp công ty tăng doanh thu, đạt năng suất cao trong việc kinh doanh tiêu thụ và xuất khẩu, ngoài ra còn đảm bảo vệ sinh môi trường và giúp người nông dân có thu nhập cao.
* Mục tiêu chọn đề tài:
- Mục tiêu chung: Phân tích đánh giá thực trạng kênh tiêu thụ nhằm tìm ra một số giải pháp hoàn thiện việc chế biến bảo quản và xuất khẩu thịt lợn đông lạnh ra thị trường nước ngoài.
- Mục tiêu cụ thể: Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn về kênh tiêu thụ sản phẩm lợn thịt. Từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện nó tốt hơn.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế trong quá trình kinh tế thị trường hiện nay giữa nguồn thu mua và thị trường xuất khẩu của công ty.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian : tìm hiểu các tài liệu của công ty và quá trình thực tập từ 5/1/2009 tại công ty để đề xuất vấn đề cần nghiên cứu.
+ Về không gian: trong phạm vi công ty và có tham khảo tài liệu các sở tại và nhiều nguồn tại liệu khác.
Kết cấu nội dung nghiên cứu:
CHƯƠNG I. Lí luận chung về kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn.
CHƯƠNG II. Thực trạng chung về kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn của công ty cổ phần thực phẩm nông sản thái Bình.
CHƯƠNG III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện kênh tiêu thụ thịt lợn trong nước và xuất khẩu thị trường thế giới của công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình.
Vì thời gian thực tập ngắn và bản thân em còn bị hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý, chỉ đạo chân tình của Cô giáo để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Để làm được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Võ Thị Hoà Loan cùng các cô chú, anh chị trong công ty đã giúp đỡ chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Nguyễn Thị Thuỷ
CHƯƠNG I. Lí luận chung về kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn.
I. Cơ sở lí luận:
1.1. Bản chất kinh tế của thị trường tiêu thụ sản phẩm:
1.1.1 K/niệm:
- Kênh tiêu thụ là đường đi của sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng (hay người sử dụng) cuối cùng. Nó cũng được coi như dòng chuyển quyền sở hữu các hàng hóa khi chúng được mua bán qua các tổ chức và cá nhân khác nhau. Người sản xuất định nghĩa kênh tiêu thụ là hình thức di chuyển sản phẩm qua các trung gian khác nhau, người buôn bán quan niệm luồng quyền sở hữu như là mô tả cách tốt nhất kênh tiêu thụ.
- Kênh tiêu thụ là tập hợp các quan hệ với các tổ chức và cá nhân bên ngoài doanh nghiệp để tổ chức và quản lí các hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp trên thị trường.
Quản trị kênh tiêu thụ liên quan đến sử dụng khả năng quản lí trong nội bộ một tổ chức, điều này rất quan trọng vì nhiều vấn đề đặc biệt và quản lí của kênh được mô tả được xuất phát từ cấu trúc bên ngoài và giữa các tổ chức. Nói tổ chức quan hệ nghĩa là kênh tiêu thụ gồm các công ty hay những người tham gia vào quá trình đàm phán về việc đưa hàng hoá, sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Thông thường chỉ những công ty hay những tổ chức nào tham gia thực hiện các chức năng này mới là thành viên của kênh.
1.1.2. Lý luận về phát triển thị trường và kênh tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá thì thị trường là vấn đề quan trọng bậc nhất của các doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá trình trao đổi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong nông nghiệp. Vấn đề chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, làm chủ, chi phối thị trường là điều kiện bắt buộc trong ý chí và hành động của mọi doanh nghiệp, mọi người khi tham gia vào thị trường trao đổi và mua bán hàng hoá dịch vụ nông nghiệp. Có thị trường sẽ có tất cả, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá thì tất cả các tài sản, sản phẩm đang có chỉ là con số không tròn trĩnh.
Bước vào nghiệp chủ, điều quan tâm của mọi doanh nghiệp, doanh nhân là hai chữ thị trường, vì thị trường là mấu chốt của mọi vấn đề liên quan đến kinh doanh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp và doanh nhân đưa ra thị trường mà không được chấp nhận thì doanh nghiệp sẽ bị đào thải ra khỏi thương trường. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng ước mơ có được một thị trường rộng lớn, tự chi phối và làm chủ được thị trường, được khẳng định mình trong cơn lốc quay cuồng của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Doanh nghiệp không thể nói: sản phẩm của tôi có hình dáng, mẫu mã đẹp hấp dẫn về mầu sắc, cách trang trí lịch sự và trang nhã, giá bán cho người tiêu dùng rẻ thì tôi không cần lo đến vấn đề cạnh tranh, vấn đề thị trường và giành giật khách hàng với các doanh nghiệp khác. Vấn đề không phải chỉ ở chỗ hình thức, giá bán của sản phẩm mà vấn đề chính là ở chỗ thị trường có chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp hay không? Uy tín chất lượng của sản phẩm trong thị trường như thế nào? Việc tung sản phẩm của mỗi doanh nghiệp và doanh nhân ra thị trường là khâu then chốt và cự kỳ phức tạp, khó khăn của hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải dầy công phân tích các thời cơ của thị trường, nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để xác định chính đâu là thị trường trọng điểm, nhiều triển vọng với sản phẩm hàng hoá dịch vụ nông nghiệp của các doanh nghiệp đề ra những giải pháp, những hoạt động kinh doanh cần thiết có hiệu quả khi xâm nhập vào thị trường.
Trong những năm qua thực tiễn sản xuất, kinh doanh thương mại dịch vụ nông nghiệp hàng hoá chứng minh: chỉ vì coi thường vấn đề tìm hiểu và phân tích thị hiếu, nhu cầu của thị trường mà không ít các doanh nghiệp lựa chọn phương hướng kinh doanh không đúng, sản xuất ra sản phẩm không có thị trường tiêu thụ đã dẫn đến phá sản phải chuyển sang hướng kinh doanh khác, tốn kém tiền bạc của xã hội và nhân dân. Do đó, cần tìm hiểu và nghiên cứu kỹ những yếu tố cấu thành thị trường: Các chủ thể tham gia (người mua và người bán); Đối tượng trao đổi (mua bán); Các điều kiện để thực hiện quá trình trao đổi, khả năng thanh toán của người mua, thời gian và không gian của thị trường.
- Các yếu tố cấu thành thị trường: Cầu, cung và giá cả thị trường. Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng tạo nên cầu về hàng hoá. Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng tạo nên cung hàng hoá. Sự tương tác giữa cầu và cung của một loại hàng hoá ở một địa điểm và thời điểm cụ thể tạo nên giá cả thị trường. Có thể nghiên cứu các yếu tố của thị trường theo các quy mô khác nhau: Nghiên cứu tổng cầu, tổng cung và giá cả thị trường trên quy mô toàn nền kinh tế quốc dân, hoặc nghiên cứu cầu, cung một loại hàng hoá cụ thể trên một địa bàn xác định (ở một vùng, tỉnh). Đối với một doanh nghiệp thương mại dịch vụ có quy mô toàn quốc, có hoạt động xuất, nhập khẩu phải nghiên cứu tổng cầu cung cả trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
- Vai trò của thị trường trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá nông nghiệp. Trên thị trường người mua, người bán, người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hoá dịch vụ. Vai trò của thị trường đối với thương mại, dịch vụ nông nghiệp: Thị trường đảm bảo quá trình hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục, quyết định sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Thị trường thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu. Kích thích sản xuất ra sản phẩm mới, chất lượng cao. Thị trường là công cụ điều tiết của Nhà nước đến hoạt động thương mại và toàn nền kinh tế. Thị trường dự trữ hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng xã hội bảo đảm việc điều hoà cung cầu. Thị trường là một trong yếu tố chủ yếu thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài, môi trường kinh tế xã hội, là cầu nối giữa doanh nghiệp thương mại với bên ngoài, đó là khách hàng, doanh nghiệp khác, ngành khác. Thị trường phá vỡ ranh giới của nền sản xuất tự nhiên: tự cấp, tự túc. Phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng, giải phóng con người khỏi công việc nặng nhọc, giành nhiều thời gian nhàn rỗi. Thị trường hàng hoá dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn đến sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.2 Kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam đã có nhiều loại hàng nông sản phẩm đáp ứng thị trường trong nước và ngoài nước. Hàng nông sản của Việt Nam có nhiều loại do tính đa dạng và phức tạp về địa hình ở mỗi vùng, mỗi khu vực nông sản tiêu thụ ở nội địa của mỗi vùng, mỗi tỉnh cũng bị chèn ép bởi nông sản nước ngoài đưa vào và xuất khẩu cũng đang gặp sự cạnh tranh lớn. Nguyên nhân chủ yếu là chất lượng sản phẩm hàng hóa năng suất thấp, giá thành sản xuất cao, năng suất hàng hóa của ta chưa nhiều thường xảy ra ứ đọng, không tiêu thụ được, giá cả bấp bênh v.v... Công nghệ bảo quản, chế biến không đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Để tạo dựng vị thế trên thị trường trong nước và thế giới cần có nhiều giải pháp, các giải pháp này phải được giải quyết đồng bộ có lựa chọn, có mục tiêu, có bước đi vững chắc, trong đó lựa chọn kênh tiêu thụ nông sản phẩm trong thị trường tiêu thụ đóng vai trò rất quan trọng cần nghiên cứu giải quyết.
1.2.1 Vị trí của kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
- Kênh tiêu thụ sản phẩm nối liền giữa cung và cầu. Kênh nào càng an toàn vững chắc thì chuyển tải được càng nhiều hàng hóa phù hợp với kế hoạch kinh doanh, càng có tính chất quyết định trong quá trình bán hàng, đảm bảo tốt việc thu tiền, tạo điều kiện tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sự an toàn của các kênh tiêu thụ không như nhau. Việc chọn kênh tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh doanh.
- Chọn kênh tiêu thụ sản phẩm là chiến lược khách hàng. Vậy kênh nào giúp khách hàng yên tâm và thị trường tiêu thụ ổn định cũng như tăng thêm thị phần thì kênh đó thể hiện tính trung tâm của chiến lược khách hàng.
- Kênh tiêu thụ sản phẩm có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như giá cả, thương mại, sản phẩm nhất là sản phẩm mới. Giá cả biến động theo hướng có lợi thì tiêu thụ có quan hệ cùng chiều (quan hệ dương (+) và ngược lại là quan hệ âm (-)). Phương thức bán hàng phải phù hợp với từng thị trường. Tiêu thụ sản phẩm mới phải có cách xâm nhập thị trường, không đưa ngay vào kênh bền vững.
- Kênh tiêu thụ sản phẩm còn có vai trò đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chọn kênh tiêu thụ thích hợp sẽ giảm được chi phí tiêu thụ qua đó góp phần tăng lợi nhuận, thuận lợi cho cạnh tranh và tăng khối lượng bán ra trên thị trường.
- Kênh tiêu thụ sản phẩm đôi khi còn được con người sử dụng vào mục đích phi kinh tế, thông qua kênh tiêu thụ để nhằm mục đích chính trị và quân sự như cấm vận của Mỹ trước đây đối với Việt Nam và hiện nay đối với Cu Ba...
- Kênh tiêu thụ sản phẩm còn có tác dụng thu hút lao động và tạo việc làm. Kênh tiêu thụ hình thành sẽ tạo điều kiện cho giới trung gian phát triển qua đó mà thu hút lao động và tạo việc làm, tạo điều kiện chuyển một phần lao động nông nghiệp sang dịch vụ thực hiện phân công lại lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Sự ra đời kênh tiêu thụ sản phẩm còn có tác dụng thúc đẩy hệ thống thông tin phát triển, đóng góp vào sự hình thành hệ thống thông tin thị trường .
Kênh tiêu thụ sản phẩm là sản phẩm của yêu cầu trao đổi sản phẩm. Lúc đầu mới có trao đổi sản phẩm, kênh tiêu thụ còn đơn giản, khi sản xuất hàng hóa phát triển thì kênh tiêu thụ sản phẩm ngày càng đa dạng và là sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa. Nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu dịch vụ càng lớn và qua đó càng tạo nên sự đa dạng của kênh tiêu thụ sản phẩm, do vậy trong hoạt động kinh doanh phải tính đến kênh nào có hiệu quả.
Trong doanh nghiệp, các nông hộ thì tiêu thụ sản phẩm là hoạt động có định hướng cụ thể, trong đó kênh tiêu thụ có ảnh hưởng đến thu tiền và chu kỳ kinh doanh sau. Kênh tiêu thụ sản phẩm là vấn đề có tính chất kinh tế và khoa học, rất phức tạp và đa dạng đòi hỏi phải nghiên cứu, lựa chọn cho thích hợp với từng loại sản phẩm cụ thể và trong điều kiện nhất định.
1.2.2. Các loại kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
a) Phân loại kênh tiêu thụ theo tính chất tiếp xúc gồm có:
* Kênh trực tiếp là kênh không có trung gian, là cầu nối gắn liền với người sản xuất với người tiêu dùng. Kênh trực tiếp thường xảy ra ở kiểu sản xuất cổ truyền, ở miền núi, vùng dân tộc ít người, qui mô sản xuất nhỏ, người sản xuất gần người tiêu thụ (kênh tiêu thụ đến thẳng người sản xuất để mua hoặc người sản xuất phục vụ tận nhà) và sản phẩm tươi sống khó bảo quản.
+ Ưu điểm của kênh trực tiếp là sản phẩm nhanh đến tay người tiêu dùng, chủ động, đơn giản về thời gian và khách hàng, nhanh thu hồi vốn.
+ Nhược điểm của kênh tiêu thụ trực tiếp là:
- Khó khăn đối với sản xuất qui mô lớn như các trang trại hoặc các doanh nghiệp tư nhân 400 - 500 ha lúa ở Cà Mau, hoặc trang trại chăn nuôi bò sữa 12.000 - 16.000 con ở Mỹ khó khăn đối với những nơi sản xuất xa nơi tiêu thụ sản phẩm tập trung như từ ngoại thành vào nội thành phố lớn.
- Hạn chế đối với sản xuất hàng cao cấp vì sản xuất hàng cao cấp đòi hỏi phải phân loại và phân cấp sản phẩm và đòi hỏi công nghệ bao bì và đóng gói công phu không phù hợp với loại kênh này.
- Hạn chế phát triển thương mại và khó khăn cho phát triển phân công hiệp tác lao động xã hội vì không có điều kiện hình thành tầng lớp trung gian, không tạo ra sự phân công lao động mới trong nông nghiệp [ 10] .
* Kênh gián tiếp là kênh có trung gian tham gia. Trung gian là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các loại trung gian bao gồm: Người thu gom; Đại lý; Hợp tác xã tiêu thụ; Các cửa hàng, người bán lẻ; người bán buôn; Trung thị; Siêu thị; Đại siêu thị; Các công ty; Các tổng công ty; Các công ty và tổng công ty xuyên quốc gia.
Trung gian là cần thiết là quan trọng, song trung gian có tính hai mặt, cần phải phát huy tính tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nó.
+ Những tính tích cực của trung gian cần được phát huy:
- Phải sử dụng trung gian như là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng để đảm bảo hình thành mạng lưới phân phối ổn định, tiến bộ và hợp lý.
- Giúp cho ổn định giá cả, nhất là các mặt hàng chiến lược quan trọng như thóc gạo, những năm vừa qua đại lý Nhà nước đã góp phần ổn định giá cả thóc, gạo.
- Giúp phát triển ngành dịch vụ, đặc biệt trung gian Nhà nước đứng ra làm trung gian xuất nhập khẩu rất có lợi nếu thực hiện đúng chức năng yêu cầu.
+ Một số mặt tiêu cực của trung gian cần phải hạn chế:
- Qua nhiều trung gian làm cho giá mua tăng lên đối với người tiêu dùng, nếu không quản lý chặt chẽ người những này sẽ làm ảnh hưởng đến chính sách, chữ tín của những người sản xuất.
- Độc quyền của các trung gian lớn: phải hạn chế độc quyền của các trung gian lớn, phải cạnh tranh lành mạnh.
b) Phân loại kênh tiêu thụ theo cự ly gồm:
- Kênh cực ngắn: là kênh trực tiếp
- Kênh ngắn: phải qua một trung gian như một tổ chức bán lẻ hoặc quả một đại lý độc quyền nhãn hiệu.
- Kênh dài: là kênh qua nhiều trung gian như thu gom, bán buôn, dự trữ, bảo quản; hoặc qua tổ chức trung gian ở xa như ở nước ngoài (đối với sản phẩm xuất khẩu). Kinh tế càng phát triển kênh này càng phát triển và hình thành mạng lưới tiêu thụ rộng khắp trong nước và trên thế giới.
c) Phân loại kênh tiêu thụ theo cường độ tiêu thụ gồm có:
- Kênh không mạnh: là loại kênh mà lượng hàng hóa tiêu thụ không lớn lắm như sản phẩm mới, hàng cao cấp.
- Kênh mạnh: đặc điểm của kênh mạnh là có lượng hàng hóa tiêu thụ lớn, có quan hệ rộng khắp với mọi tổ chức trung gian, ví dụ kênh tiêu thụ sản phẩm thông thường như kênh rau xanh đến thành phố; kênh tiêu thụ sản phẩm độc quyền sản xuất hay có lợi thế so sánh như dầu khí...; hoặc loại sản phẩm có nhiều người sử dụng như quần áo, xe đạp...; hoặc sản phẩm cao cấp nhưng nhiều nước cần như máy bay.
d) Phân loại kênh tiêu thụ theo tính chất cạnh tranh gồm có:
- Kênh tiêu thụ mang tính cạnh tranh: là kênh tiêu thụ sản phẩm nhiều người sản xuất, nhiều người mua. Ví dụ lúa gạo trong nước. Kênh có tính cạnh tranh đòi hỏi phải cải tiến mạng lưới tiêu thụ, cải tiến chất lượng sản phẩm, cải tiến bao bì.
- Kênh độc quyền: sản phẩm được tiêu thụ qua một số ít trung gian, hoặc sản phẩm đó phải thông qua một loạt dịch vụ như: giống cây con mới, hộp đen của máy bay, điện tử, lương thực ít nước sản xuất như gạo.
e) Mục tiêu và các yếu tố chi phối việc lựa chọn kênh tiêu thụ
- Mục tiêu định lượng gồm: tối đa hóa lượng tiêu thụ, tối đa hóa doanh thu, tối thiểu hóa chi phí trung gian và tối thiểu hóa chi phí tiêu thụ.
- Mục tiêu chiến lược: đó là mục tiêu chiến lĩnh khách hàng, chiếm lĩnh thị trường.
- Các yếu tố chi phối việc lựa chọn kênh tiêu thụ: [ 1] .
+ Yếu tố thị trường:
+ Đặc điểm của sản phẩm:
+ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và sản phẩm cây liên quan đến kênh tiêu thụ sản phẩm.
+ Mức độ và tính chất phân phối sản phẩm:
+ Năng lực của tổ chức trung gian:
1.2.3. Những thành công và thách thức đối với thị trường, kênh tiêu thụ nông sản phẩm ở Việt Nam
Sản phẩm của Việt Nam rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nhưng trong những năm qua nhờ tổ chức tốt kênh tiêu thụ sản phẩm nên đã góp phần vào tăng trưởng nền kinh tế. Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm ở Việt Nam do Nhà nước tổ chức rất chặt chẽ và khép kín. Hệ thống kênh tiêu thụ như vậy có tác dụng cho kháng chiến và cho phân phối nhưng mặt khác đã làm sản xuất chậm phát triển, lưu thông chậm phát triển, giảm sức mua, từng vùng từng địa phương chỉ biết mình, không được tự do mua bán.
Đến nay nhờ có chính sách tự do hóa thương mại nên mọi người, mọi thành phần kinh tế đều đã được tự do tham gia vào các kênh tiêu thụ nông sản phẩm. Ngược lại với tình hình trước đây do Nhà nước tổ chức quản lý chặt chẽ thì hiện nay kênh tiêu thụ sản phẩm có đặc điểm chủ yếu là do tư nhân quản lý chi phối. Các kênh gián tiếp bước đầu phát triển khá như: kênh lương thực, thực phẩm cung cấp đi các nước, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong xuất khẩu. Mạng lưới tiêu thụ chưa đồng đều giữa các vùng. Vai trò kinh tế tập thể không rõ, doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh chưa tinh giản, Nhà nước điều tiết ít có hiệu quả, các tổ chức trung gian chưa được tổ chức quản lý chặt chẽ, thiếu nghiệp vụ, thiếu thông tin, thiếu cơ sở vật chất .
Chúng ta đã bước đầu khắc phục được tình trạng khủng hoảng về thị trường trong tiêu thụ nông sản, kinh tế nông nghiệp trong nước phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển thương nhân, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, xúc tiến thương mại, kích cầu, cải thiện môi trường đầu tư, cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống trong nông nghiệp nông thôn... đã góp phần làm phong phú và sống động hoạt động thương mại trên thị trường nông nghiệp nông thôn. Đặc biệt kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng tăng khá: năm 2002 tăng so với năm 2001 về thuỷ sản tăng (13,9%); gạo tăng (16,2%); cao su tăng (58,6%); hạt tiêu (18,4%) điều (39,5%); chè tăng (5,5%)...
Bên cạnh những kết đạt được thì thị trường trong nước còn ở trình độ thấp, thị trường nông thôn chưa phát triển chưa thiết lập được mối liên kết giữa ngưòi sản xuất và thương nhân, giữa thương mại nhà nước Trung ương và các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, giữa xuất khẩu và nhập khẩu... để tạo ra các kênh lưu thông hàng hoá hợp lý và ổn định từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Thị trường trong nước chưa thực sự làm cơ sở vững chắc để mở rộng và tham gia quá trình hội nhập với thị trường quốc tế. Khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng còn yếu. Thương nghiệp tư nhân tuy đông đảo (trên 20.000 doanh nghiệp và trên 1,5 triệu hộ kinh doanh thương mại cá thể) nhưng nhỏ bé, hoạt động kinh doanh và sử dụng nguồn lực hiệu quả thấp, chưa xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh đạt hiệu quả cao. Quy mô thị trường nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hoá nông sản Việt Nam, của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Các chính sách về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản còn nhiều bất cập. Nhà nước cần tạo môi trường hành lang pháp lý và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết quản lý thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô theo luật định và tích cực chuẩn bị cho các doanh nghiệp tham gia hội nhập một cách có hiệu quả nhất phù hợp với từng giai đoạn phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
1.3. Những định hướng chủ yếu của thị trường kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở của định hướng.
Các giải pháp phải xuất phát từ quan điểm phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các chính sách khác.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, xây dựng một nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuần cơ bản, phát huy lợi thế so sánh và khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của vùng, của ngành, chú trọng qui mô nhỏ và vừa, đầu tư chiều sâu để khai thác tốt đa năng lực sản xuất của công nghệ và từ nay cho đến năm 2010 đặc biệt quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cụ thể buôn bán một số nông sản phẩm mũi nhọn và lương thực do Nhà nước tổ chức là chủ yếu. Tiếp tục hoàn chính và đổi mới chính sách, cơ chế quản lý về lưu thông phân phối, xuất nhập khẩu, giá cả và đối ngoại. Khuyến khích nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh nâng dần giá một số mặt hàng cần thiết, tìm kiếm thị trường, đổi mới bộ máy quản lý Nhà nước và các tổ chức trung gian.
1.3.2. Một số biện pháp chủ yếu về thị trường, kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn.
Thứ nhất, phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam cân đối, ăn khớp, nhịp nhàng, tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn có hiệu quả. bằng cách thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau: "Tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của pháp luật, tự do lưu thông hàng hoá... Thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách. Bảo đảm mọi hoạt động của sản xuất, người tiêu dùng người mua, người bán thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật và được điều chỉnh bàng luật pháp. Xây dựng đồng bộ các chính sách vè thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, và đất dai,lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư... tạo hợp lục thúc đẩy phát triển thị trường. Tăng nguồn cung ứng hàng hoá cho thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô. Đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích phát triển của các loại thị trường phù hợp với từng vùng kinh tế của dất nước. Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước. Thực hiện đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh quốc tế, chủ dộng hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế" .
Thứ hai, thực hiện có hiệu quả các chức năng Marketing trong cơ chế thị trường:
- Phân tích thị trường, phân tích tiềm năng và từng loại nhu cầu tiêu dùng, phát triển dịch vụ, dự đoán khả năng phát triển.
- Huy động nguồn lực của doanh nghiệp, hợp tác xã, của nông hộ liên kết, chặt chẽ và cùng có lợi với các doanh nghiệp khác, các ngành, các vùng và các địa phương, chú ý khả năng thích nghi với thị trường.
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống tiêu thụ và phân phối sản phẩm, chú ý lựa chọn phát huy các kênh tiêu thụ, kênh mạnh, đầu tư cơ sở hạ tầng cho lưu thông, vận chuyển và bảo quản sản phẩm. Phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, phối hợp và lập kế hoạch sản xuất và tài chính, tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội của các kênh tiêu thụ sản phẩm .
Thứ ba, tăng số lượng và chủng loại các nông sản hàng hóa đồng thời gấp rút nâng cao chất lượng hàng hóa: Trước hết phải xác định chiến lược sản phẩm trong nông nghiệp và nông thôn, qui vùng sản xuất tập trung, chọn loại giống có chất lượng để sản xuất, chú trọng chế biến nông sản, chú ý bao bì.
Thứ tư, lựa chọn giá cả hợp lý: Nâng dần giá mua lương thực và một số hàng nông sản xuất khẩu khác để cả nông dân, Nhà nước và trung gian đều có lợi, hạn chế tư thương ép cấp, ép giá cùng với vấn đề quản lý có hiệu quả các cấp trung gian, nâng dần giá xuất khẩu lên bằng giá Quốc tế. Đổi mới quản lý vĩ mô về xuất khẩu: xem xét lại việc Nhà nước, chỉ định đầu mối xuất khẩu, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, chọn đầu mối tốt, bỏ việc độc quyền cấp cô ta xuất khẩu vì gây ra bất bình đẳng trong sản xuất và tiêu thụ. Dùng thuế quan để quản lý xuất khẩu chứ không dùng quota hoặc biện pháp hành chính. Các doanh nghiệp xuất khẩu được quyền chọn cơ quan kiểm tra chất lượng có xác định của Nhà nước. Các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia thị trường xuất khẩu nếu có giấy phép. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường từ trung ương đến cảng bến bãi, trung tâm thông tin nắm bắt thông tin giá cả hàng tuần, hàng ngày.
Thứ năm, tổ chức hệ thống doanh nghiệp Nhà nước về lưu thông tiêu thụ nông sản phẩm: ở vùng, tỉnh thừa thóc cho phép xây dựng công ty lương thực, công ty xuất khẩu của từng vùng, từng tỉnh nếu đủ điều kiện và gắn với quản lý của địa phương. Các doanh nghiệp phải kinh doanh đúng nghĩa với kinh tế thị trường, công ty lương thực phải hoạt động độc lập với quỹ dự trữ quốc gia
Thứ sáu, thực hiện tốt một số giải pháp nhằm phát triển thị trường kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ngành thương nghiệp phải củng cố mạng lưới thương nghiệp và dịch vụ, mở rộng quan hệ kinh tế với nông dân, đổi mới thương nghiệp quốc doanh theo hướng gắn lưu thông với sản xuất, xây dựng mạng lưới mua nông sản của nông dân, xây dựng các chợ, giảm việc buôn bán trên hè phố, lập các cơ sở chế biến nông sản thu hút nguyên liệu tại chỗ và của các tỉnh trong vùng.
Cụ thể để phát triển hệ thống thị trường kênh tiêu thụ nông sản theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nền nông nghiệp cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề:
+ Trước hết cần phải hình thành các nghề kinh doanh mới ở nông thôn như nghề lái xe vận chuyển, bao bì đóng gói, nghề thầu khoán và bán buôn. Để một số người có thể chuyển sang các nghề mới có hiệu quả Nhà nước phải hình thành hệ thống đào tạo chủ doanh nghiệp .
+ Bao bì đóng gói thuộc công nghệ sau thu hoạch. ở khâu này sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu sẽ được phân loại, phân cấp, đóng thùng hoặc đóng gói phù hợp với yêu cầu bảo quản của từng loại nông sản, làm tốt khâu này sẽ giảm được tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch và giữ được chất lượng sản phẩm. Nên tham khảo kinh nghiệm các nước trong khu vực để có chính sách khuyến khích hình thành và phát triển các loại trung gian như: Người thầu (contractors): mua hoa màu trên đồng và tự thu hoạch lấy. Người thu gom hoặc người bán buôn ở nông thôn: mua sản phẩm đã thu hoạch tại trang trại. Thương gia bán buôn: mua sản phẩm tại chợ làng. ủy ban bán đấu giá: bán đấu giá sản phẩm ở chợ bán buôn. Các nhà bán buôn thứ cấp: mua sản phẩm ở chợ bán buôn và vận chuyển sản phẩm bán cho người bán lẻ hoặc bán ở chợ bán buôn có giá bán cao hơn.
+ Cần mở các lớp huấn luyện về Marketing sản phẩm nông nghiệp cho nông dân. Bên cạnh việc tập huấn và chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ các tổ chức khuyến nông huyện cần đưa vào chương trình tập huấn cả nội dung về Marketing cho nông dân.
+ Cải tiến giá cả theo hướng tăng dần giá năng suất nhằm tăng thu nhập cho nông dân đồng thời khuyến khích các tổ chức trung gian phát triển. Đi đôi với cải tiến giá cả phải tăng sức mua của dân cư.
+ Hỗ trợ các tổ chức trung gian về vốn để đầu tư xây dựng kho dự trữ và bảo quản để hình thành chợ bán buôn qui mô và hiện đại.
+ Tăng cường xây dựng đườn._.g xá giao thông nông thôn để vận chuyển bằng cơ giới dễ dàng qua đó nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí vận chuyển và hấp dẫn các trung gian.
1.4. Đặc điểm kênh tiêu thụ:
Có nhà sản xuất, có thành viên trung gian và người tiêu dùng cuối cùng. Kênh tiêu thụ các sản phẩm khác nhau hoàn thành khác nhau về thời gian và luồng sản phẩm.
- Người sản xuất: Bao gồm nhiều loại thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, trong lĩnh vực nông nghiệp thì người sản xuất là người nông dân luôn tạo các sản phẩm nông nghiệp... mặc dù có sự khác nhau như vậy nhưng nhìn chung tất cả các doanh nghiệp sản xuất đều tồn tại nhằm cung cấp những sản phẩm để thoả mãn nhu cầu nhu cầu thị trường và mang lại lợi nhuận cho họ. Để nhu cầu thị trường được thoả mãn, sản phẩm của họ phải sẵn sàng cho các thị trường đó và người sản xuất phải thấy rằng sản phẩm của họ được tiêu thụ cho những thị trường dự định của họ theo những cách nào, tuy nhiên các sản phẩm cả lớn lẫn nhỏ không ở trong vị trí thuận lợi để phân phối sản phẩm của họ trực tiếp cho thị trường sử dụng cuối cùng, họ thiếu kinh nghiệm lẫn quy mô hiệu quả để thực hiện tất cả các công việc phân phối cần thiết cho sản phẩm của họ tới người sử dụng cuối cùng.
- Người trung gian: là các công ty cổ phần hay doanh nghiệp thương mại mua, sở hữu hàng hoá, dự trữ và quản lí vật chất sản phẩm với số lượng tương đối lớn và bán lại sản phẩm với số lượng lớn nhỏ cho người bán lẻ, các tổ chức nghề nghiệp hoặc cho người bán buôn khác. Họ tồn tại dưới một tên gọi khác nhà phân phối công nghiệp và có thể chế biến ra các sản phẩm khác để sản xuất xuất khẩu.
- Người tiêu dùng: đây là người có nhu cầu sử dụng sản phẩm cuối cùng sau khi đã qua sản xuất, chế biến từ người sản xuất và qua các thành viên trung gian để đến tay người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm mà mình yêu thích.
+ Khi sản phẩm xuất kho, qua các khâu lưu thông trong kênh tiêu thụ, hình dáng, kích thước và mẫu mã của sản phẩm có thể thay đổi hoặc không thay đổi tùy từng ngành hàng.
+ Giá trị sản phẩm mỗi thành viên phụ thuộc vào quy trình công nghệ phương pháp chế biến sản phẩm và nhu cầu người tiêu dùng.
1.5. Chức năng kênh tiêu thụ.
+ Vận chuyển sản phẩm.
+ Lưu kho dự trữ chế biến hàng đến khi có nhu cầu thị trường.
+ Tiêu chuẩn hóa và phân loại sản phẩm.
+ Cung cấp tài chính, cung cấp tiền mặt và tín dụng cần thiết cho sản xuất, vận tải, lưu kho, xúc tiến bán và mua sản phẩm.
+ Quản lí rủi ro, giải quyết sự không chắc chắn trong quá trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
+ Thông tin thị trường liên quan đến việc phân tích và phân phối các thông tin cần thiết cho việc lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra các hoạt động tiêu thụ.
II. Kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn:
2.1. Đặc điểm:
- Phần lớn lợn do nông hộ tạo ra nên tổ chức các khâu tiêu thụ trở lên phức tạp.
- Từ lợn thịt muốn trở thành sản phẩm hoàn chỉnh để tiêu thụ đến tay người tiêu dùng trong và ngoài nước phải qua hàng loạt khâu như thu mua, giết mổ, bảo quản và tiếp tục chế biến, vận chuyển.
- Trọng lượng lợn thịt sẽ bị hao hụt, chất lượng có thể bị xuống cấp trong quá trình vận chuyển và lưu trữ để chờ đợi giết mổ.
- Các vấn đề về : an toàn thực phẩm, giết mổ, chế biến, thời hạn tiêu thụ, bảo quản sản phẩm ở tất cả các khâu trong quá trình phân phối từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
- Tuy nhiên hình thức chăn nuôi vẫn mang tính quảng canh, phân tán, chưa có quy mô lớn để có thể áp dụng các kỹ thuật chăn nuôi hiện đại. Bên cạnh đó, người chăn nuôi lại thiếu thông tin, không nắm bắt được nhu cầu thị trường. Trong khi đó cả nước mới chỉ có 2 nhà máy chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, một ở Hải Phòng, một ở TP Hồ Chí Minh. Ngành chế biến thức ăn gia súc vẫn không tận dụng được nguyên liệu trong nước mà phải nhập khẩu, với giá cao hơn quốc tế 20 - 30
2.2. Các luồng sản phẩm:
- Luồng vận hành của sản phẩm: Thể hiện sự di chuyển sản phẩm qua trung gian tiêu thụ từ địa điểm nuôi đến địa điểm tiêu dùng.
- Luồng đàm phán: Biểu hiện sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên mua và bán, liên quan đến quyền sở hữu sản phẩm.
- Luồng chuyển quyền sở hữu: thể hiện sự di chuyển quyền sở hữu sản phẩm từ người nuôi đến thương lái, người giết mổ, chế biến, người buôn bán thịt và người tiêu dùng.
- Luồng thông tin: Cung cấp thông tin từ người chăn nuôi đến thành viên tiêu thụ về lượng, giá cả, địa điểm, chất lượng của lợn, thời gian có thể giao hàng... vai trò việc vận tải và thông tin liên lạc nổi bật.
- Luồng xúc tiến: nhằm làm cho người tiêu thụ hiểu được sản phẩm thịt lợn mà người chăn nuôi muốn bán.
III.Thực trạng tiêu thụ thịt lợn ở VN .
- Số đầu con: đến năm 2008, bình quân mỗi năm Việt Nam có tổng đàn lợn gần bằng 0,15% so với tổng đàn lợn của toàn thế giới và gần bằng 0,2 % so với tổng đàn lợn của các nước đang phát triển.
Hiện nay VN có hơn 21,2 triệu con (đứng thứ 8 trên thế giới), trong đó 2,8 triệu con lợn nái. Cơ cấu đàn lợn còn nhiều bất cập. Lợn đực và lợn nái ngoại còn quá ít (chỉ có 1,3% tổng đàn), còn lại chủ yếu là lợn Móng Cái, nái lai năng suất thấp. Tốc độ tăng trọng của lợn chậm, tỷ lệ mỡ cao. Ba mặt hàng thịt lợn xuất khẩu chính của VN là lợn sữa, lợn mảnh và lợn choai, trong đó sản phẩm lợn choai có tỷ lệ nạc cao từ 50 - 55% đã có nhiều thuận lợi hơn về thị trường và giá cả xuất khẩu. Thịt lợn mảnh thường xuất khẩu vào Liên bang Nga, tuy nhiên số lượng giảm dần do khó khăn về giá cả và phương thức thanh toán. Thịt lợn sữa và lợn choai được xuất khẩu sang Hồng Kông, Trung Quốc, Malaysia. Việc xuất khẩu thịt lợn nhìn chung còn ít về số lượng và bị cạnh tranh về giá cả gay gắt với thịt lợn của Brazil và Trung Quốc. Mặc dù ở gần thị trường lớn về thịt lợn (Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) nhưng thịt lợn VN vẫn chưa có sức cạnh tranh. Các cơ sở cung ứng con giống lợn ngoại, lợn tốt chưa đảm bảo yêu cầu của người chăn nuôi, tỷ lệ mỡ nhiều, năng suất thấp.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng khá về tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu... Tuy nhiên so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá khiêm tốn. Để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm thịt lợn xuất khẩu theo các tác giả thì có rất nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng giải quyết một cách triệt để như tăng cường sử dụng các giống mới, kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, mở rộng quy mô sản xuất, xúc tiến thị trường, phát triển công nghiệp chế biến, tạo thế chủ động về nguyên liệu phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi...
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành trồng trọt, đặc biệt là sự tăng trưởng nhanh về sản xuất lương thực, nghề chăn nuôi lợn ở nước ta đã phát triển khá tốt, số lượng tổng đàn và chất lượng đàn lợn đều tăng khá.
Năm 2000 tổng đàn lợn của cả nước là 20,2 triệu con, đến 01/10/2001, đạt 21,2 triệu con (tăng 5,94% so với năm 2000) và hiện nay đứng thứ 8 trên thế giới về số lượng đầu lợn (sau Trung Quốc, Mỹ, Braxin, Cộng hòa Liên bang Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Ba Lan). Trong tổng đàn lợn thì đàn lợn nái là 2,8 triệu con - chiếm 13,2%. Các tỉnh phía Bắc có 1,3 triệu con lợn nái - chiếm 46,4% số lợn nái cả nước. Tuy nhiên số lượng lợn nái ngoại còn quá ít, mới chiếm khoảng 1,3% tổng đàn lợn nái; còn lại chủ yếu là nái Móng Cái, nái Lai năng suất thấp. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2007 của cả nước đã đạt 1,5 triêu tấn, tăng gần 0,5 triệu tấn so với năm 2002 và chiếm khoảng 76% tổng sản lượng thịt hơi các loại. Nếu như tốc độ tăng trưởng đàn lợn từ năm 2002 đến năm 2007 bình quân là 5,0%/năm, thì tốc độ tăng trưởng thịt lợn hơi là 8,2%/năm. Điều đó chứng tỏ chất lượng đàn lợn và trọng lượng thịt hơi trên đầu lợn đã được quan tâm chú ý và tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, bình quân sản lượng thịt hơi các loại của nước ta còn quá thấp (năm 2000 là 23 kg/người, trong đó thịt lợn hơi là 17,6 kg) và so với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì vẫn còn thấp (Trung Quốc là 34,1 kg thịt xẻ/người, Đài Loan - 38 kg/người. Hồng Kông - 55 kg/người, Thái Lan - 30 kg/người...).
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn đã phát triển mạnh ở tất cả các vùng trong cả nước, tốc độ phát triển về số lượng đàn lợn cao nhất là vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (ĐNB), thứ đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Tỷ trọng về số đàn lợn cao nhất là ở ĐBSH (26,7%), Trung du miền núi phía Bắc (22%), thấp nhất là vùng Tây Nguyên (4,4%), tuy nhiên tỷ trọng về sản lượng thịt hơi sản xuất ra ở các vùng không tương ứng với cơ cấu số đầu lợn chăn nuôi ở các vùng đó. Điều đó chứng tỏ trình độ thâm canh ở các vùng rất khác nhau. ĐBSH, ĐNB và ĐBSCL là 3 vùng có trình độ chăn nuôi lợn cao nhất trong cả nước. Với tỷ trọng số đầu lợn là 26,7%, vùng ĐBSH đã sản xuất được gần 30% sản lượng thịt lợn toàn quốc, trọng lượng xuất chuồng bình quân đạt 80 kg/con. Tương tự như vậy, vùng ĐBSCL có tỷ trọng số đầu lợn là 14,7%, tỷ trọng sản lượng thịt sản xuất là 20,7% và trọng lượng lợn xuất chuồng đạt 97,9 kg/con.
Tình hình chăn nuôi lợn ở các tỉnh cũng có sự khác biệt. Hầu hết những tỉnh có số lượng đầu lợn nhiều phần lớn tập trung ở phía Bắc, bởi vì các tỉnh này vừa qua đã phát triển mạnh loại lợn sữa và lợn choai xuất khẩu. Các tỉnh có đàn lợn lớn nhất là: Hải Dương - 0,6 triệu con, Bắc Giang - 0,7 triệu con, Hà Tây - 0,9 triệu con, Thái Bình 0,7 triệu con, Thanh Hóa - 1,1 triệu con, Nghệ An - 0,8 triệu con, Đồng Nai - 0,6 triệu con. Các tỉnh còn lại đều có số lượng lợn nuôi dưới 400000 con mỗi tỉnh.
Năm 2007 Việt Nam đã xuất khẩu được 18200 tấn thịt lợn và năm 2008 là gần 19 ngàn tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 triệu USD. Ba mặt hàng thịt lợn xuất khẩu là lợn sữa, lợn mảnh và lợn choai, trong đó sản phẩm lợn choai có tỷ lệ nạc cao 50 - 55% đã có nhiều thuận lợi hơn về thị trường và giá cả xuất khẩu. Thịt lợn mảnh ta thường xuất khẩu vào thị trường Liên bang Nga, tuy nhiên số lượng giảm dần do khó khăn về giá cả và phương thức thanh toán. Thịt lợn sữa và thịt lợn choai ta xuất khẩu sang Hồng Kông, Trung Quốc và Malayxia. Việc xuất khẩu thịt lợn nhìn chung còn ít về số lượng và bị cạnh tranh về giá cả rất gay gắt với thịt lợn của Braxin và Trung Quốc. Mặc dù ở gần một số thị trường tiêu thụ chính như Trung Quốc, Nga, Hồng Kông, Nhật Bản... nhưng sản xuất và xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam vẫn chưa có được sức cạnh tranh bởi các nguyên nhân sau:
- Cơ cấu giống lợn của nước ta chủ yếu vẫn là lợn địa phương (chiếm trên 60%), năng suất thấp, tỷ lệ mỡ nhiều. Các cơ sở cung cấp giống lợn ngoại, lợn tốt chưa đảm bảo đủ nhu cầu của người sản xuất.
- Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng chưa thực sự đi vào sản xuất hàng hóa. Hình thức chăn nuôi chủ yếu là quảng canh và phân tán ở các hộ gia đình nên không có điều kiện để tăng mạnh quy mô sản xuất, áp dụng rộng rãi các loại giống mới và các kỹ thuật chăn nuôi hiện đại nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng thịt, tăng tỷ lệ nạc và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trình độ chăn nuôi lợn của người dân trong các vùng cũng chênh lệch nhau khá nhiều, năng suất chăn nuôi lợn ở các tỉnh ĐNB và ĐBSCL cao gấp 2 lần so với các tỉnh miền núi và Tây Nguyên.
- Tổ chức sản xuất và quản lý trong chăn nuôi còn yếu, quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm được đổi mới, chưa hình thành hội hay hiệp hội chăn nuôi khép kín từ sản xuất - chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.Việc nắm bắt thông tin thị trường còn chậm, do đó người chăn nuôi còn phải chịu nhiều rủi ro trong việc mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Công nghiệp chế biến thịt của nước ta hầu như chưa có gì. Cả nước mới chỉ cơ 2 nhà máy chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (1 ở Hải Phòng và 1 ở thành phố Hồ Chí Minh) nên không thể đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có dung lượng lớn và yêu cầu chất lượng cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
- Việc ký kết các hiệp định thú y và hiệp định công nhận kết quả kiểm dịch của nhau giữa Nhà nước ta và các nước chưa được tiến hành kịp thời, vấn đề hạn ngạch cho các doanh nghiệp, trợ cấp, trợ giá xuất khẩu... còn bất cập.
- Thức ăn thường chiếm 65-70% giá thành sản xuất 1 kg thịt lợn hơi. Nhưng nguồn nguyên liệu để chế biến thức ăn gia súc ở trong nước còn thiếu, hàng năm vẫn phải nhập khẩu nhiều loại và giá cả còn cao hơn quốc tế 20-30% nên việc sản xuất trong nước các loại thức ăn gia súc nói chung và cho chăn nuôi lợn nói riêng còn bị động, ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm thịt lợn.
Từ đó có thể thấy, muốn đẩy mạnh phát triển đàn lợn và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thịt lợn xuất khẩu, chúng ta cần nhanh chóng khắc phục triệt để những tồn tại nêu trên.
- Sản lượng: Đến năm 2008 mỗi năm Việt Nam sản xuất bình quân 0,06% sản lượng thịt lợn của toàn thế giới và đạt trên 0,9% các nước đang phát triển. Đàn lợn tương đối ổn định, đạt 26,7 triệu con, tăng 0,53%. Hiện nay, do giá thịt lợn hơi bán ra có xu hướng giảm và ở mức thấp, trong khi giá thịt thương phẩm vẫn còn ở mức cao, nên sức mua của người tiêu dùng còn hạn chế. Giá thức ăn cho chăn nuôi và con giống vẫn ở mức cao, nên quá trình phục hồi đàn lợn vẫn còn chậm.
Chăn nuôi lợn vẫn mang tính tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ, chủ yếu sản xuất phân tán trong các hộ nông dân; chưa hình thành được các trang trại nuôi lợn quy mô lớn và vùng sản xuất hàng hóa tập trung, nên sức cạnh tranh trong khu vực còn yếu, khó tham gia vào thị trường xuất khẩu. Nguyên nhân của những tồn tại này là:
- Thứ nhất, đa số các hộ chăn nuôi lợn thiếu thông tin thị trường, thiếu kiến thức về kỹ thuật chăn nuôi, thiếu sự chỉ đạo quy hoạch phát triển nên chưa mạnh dạn đầu tư vào các khâu chuồng trại, giống, thức ăn... Tỉnh cũng chưa có định hướng tổng thể phát triển chăn nuôi lợn nạc nên các địa phương thiếu các giải pháp đồng bộ và cụ thể để tạo thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
- Thứ hai, trên địa bàn cả nước có ít nhà máy chế biến thịt lợn xuất khẩu và cũng chưa có tổ chức kinh doanh lợn nạc thương phẩm để hỗ trợ nông dân bao tiêu sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi lợn chủ yếu vẫn là thị trường tại chỗ, việc xuất khẩu hoặc tiêu thụ sang các tỉnh khác còn hạn chế.
- Thứ ba, điều kiện đất đai cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn đến sản xuất. Do chưa quy hoạch được đất phát triển chăn nuôi, nên đa số các hộ chăn nuôi lợn nạc tại gia đình, trong khu dân cư, vừa không đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y, vừa gây ô nhiễm môi trường. Nhiều hộ chăn nuôi lợn nạc phải dừng ở quy mô nhỏ, chưa phát triển được thành kinh tế trang trại sản xuất hàng hóa.
- Thứ tư, cơ sở sản xuất giống lợn nạc chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất (vừa thiếu về số lượng, vừa không đảm bảo về chất lượng).
Để chăn nuôi lợn nạc phát triển, tạo chuyển biến căn bản về chất lượng sản phẩm và hiệu quả, tỉnh đã chủ trương từng bước chuyển chăn nuôi thủ công sang chăn nuôi công nghiệp với chuồng trại và trang thiết bị tiến tiến; áp dụng đồng bộ các kỹ thuật tiến bộ nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, bảo vệ môi trường; phát triển mạnh chăn nuôi lợn nạc theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô vừa và lớn gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ nay đến năm 2010 toàn tỉnh phấn đấu đạt các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2002
Năm 2005
Năm 2010
* Tổng đàn lợn
Con
443600
550000
765000
* Tổng đàn lợn nạc
Con
7312
137500
459000
- Tỷ lệ lợn nạc/tổng đàn lợn
%
1,6
25
60
- Thịt lợn hơi xuất chuồng
Tấn
43950
68000
95000
Trong đó: Lợn nạc
Tấn
1090
17000
55000
* Xây dựng nhà máy chế biến
Tấn
0
5000
15000
CHƯƠNG II. Thực trạng chung về kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn của công ty cổ phần thực phẩm nông sản thái Bình.
I. Quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình:
1.1. Quá trình hình thành công ty:
- Ngày 29/5/2003 UBND tỉnh quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp, ngày 9/7/2004 uỷ ban tỉnh có quyết định chuyển công ty thực phẩm nông sản thành công ty cổ phần thực phẩm nông sản, ngày 15/9/2004 Sở kế hoạch đầu tư Thái Bình cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Sở tài chính và cục thuế chốt số liệu đến 30/9/2004 và các khoản phải thanh toán với nhà nước.
- Quá trình thanh quyết toán thuế tiến hành từ tháng 9/2004 đến tháng 3/2005 mới hoàn thành biên bản thanh quyết toán thuế, quá trình thanh quyết toán cổ phần hoá tiến hành từ tháng 10/2004 đến tháng 2/2006 mới hoàn thành biên bản kiểm tra, để xác định với nhà nước tại DN đến thời điểm 30/9/2004 và các khoản phải thanh toán với nhà nước.
- Hơn 4 năm qua công ty vừa phải chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp vừa phải tiến hành sx kinh doanh và thanh toán thuế, tài chính. Với khối lượng công việc rất mới, rất nhiều khâu và phức tạp, đến nay mới cơ bản hoàn thành, còn phải tiếp tục thực hiện quyết định của uỷ ban nhân dân tỉnh và bàn giao doanh nghiệp.
- Thị trường lại diễn biến phức tạp: chi phí đầu vào ( điện, nước, vận chuyển, bao bì, BHXH..) liên tục tăng lên, trong khi giá xk biến động nhanh, cạnh tranh mua bán ngày càng quyết liệt.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên có 57 người là cổ đông tiếp tục làm việc và tuyển dụng thêm, có nhiệt tình , quyết tâm và kinh nghiệm, song nhận thức về cổ phần hoá, hoạt động theo cơ chế thị trường vẫn còn hạn chế. Trong khi đó vốn liếng rất hạn hẹp, ty chưa được vay ngân hàng, phải tự huy động để kinh doanh.
- Trong bối cảnh trên HĐQT, ban giám đốc, đảng uỷ và các tổ chức đoàn thể trong cty đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đề ra các chủ trương, giải pháp mới, lãnh đạo chỉ huy cán bộ, đảng viên, người lao động trong doanh nghiệp khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, giải quyết từng công việc lớn để vừa hoàn thành công tác hậu cổ phần hoá vừa tổ chức sx kdoanh dịch vụ, đạt một số kết quả bước đầu hết sức quan trọng để doanh nghiệp giữ được sự ổn định và có bước phát triển vững chắc trên nhiều mặt, tạo tiền đề cho những năm sau.
1.2. Quá trình phát triển của công ty:
- Công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình_tiền thân là công ty thực phẩm nông sản Thái Bình, một doanh nghiệp có hơn 50 năm gắn bó trong ngành thương mại Thái Bình với bao thành tích gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước, với mảnh đất và con người Thái Bình.Trong 4 năm chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, hoạt động theo luật doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thị trường của thời mở cửa, gia nhập sân chơi quốc tế đầy thách thức và cơ hội mới. đây thực sự là chặng đường mới trên con đường xây dựng và phát triển doanh nghiệp,yêu cầu của thị trường, của khách hàng trong và ngoài nước đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới toàn diện, triệt để và thực chất hơn, phải năng động và thích nghi nhanh hơn với nhịp thị trường sôi động và ngặt nghèo. Chỉ có như vậy mới khẳng định được vị trí của doanh nghiệp, của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, khẳng định được sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Hai năm đầu bước vào chặng đường mới, tuy chưa nhiều thời gian để kiểm định song bằng nỗ lực, quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ chủ chốt, sự nhiệt tình, gắn bó của những người lao động trong doanh nghiệp, với hàng loạt chủ trương, giải pháp mới cùng với sự ủng hộ của các khách hàng, của các nghành các cấp Công ty CP thực phẩm nông sản Thái Bình đã đạt được những kết quả khả quan tạo đà cho nhưng năm tới.
Trước hết là sự đổi mới về tư duy, nhận thức – lĩnh vực khó khăn nhất của những con người đã từng có thời gian làm việc khá dài theo luật doanh nghiệp của Nhà nước, nay phải chuyển sang làm theo Luật doanh nghiệp. Tính chủ động, tự giác, tinh thần trách nhiệm và ý thức làm chủ thực sự của mỗi CBCNV và người lao động trước đồng vốn của mình bỏ ra và trước yêu cầu khắt khe của thị trường, của khách hàng, của sự tồn tại hay không tồn tại của doanh nghiệp, đã được từng bước từng ngày thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của mỗi người. Đồng thời là sự chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý, điều hành.
1.3. Chức năng nhiệm vụ của công ty trong sản xuất kinh doanh.
Chức năng, nhiệm vụ của các cá nhân và phòng ban trong công ty:
* Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản trị của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến phương hướng mục tiêu của công ty (trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông), có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng quản trị, của giám đốc công ty.
* Ban kiểm soát: Ban kiểm soát của công ty gồm 3 thành viên, hoạt động độc lập theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình được quy định tại điều lệ của công ty và chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông về việc kiểm tra, giám sát, hoạt động của hội đồng quản trị và tổng giám đốc.
* Giám đốc: Là người do hội đồng quản trị đề cử, bổ nhiệm và phải đáp ứng đầy đủ điều kiện là đại diện theo pháp luật của công ty. Giám đốc là người chịu trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị, thực hiện nghĩa vụ và quyền hạn của mình phù hợp với các quyết định, điều lệ của công ty.
* Phó giám đốc: Là người giúp việc cho tổng giám đốc do hội đồng quản trị bổ nhiệm miễn nhiệm theo đề nghị của tổng giám đốc được tổng giám đốc phân công phụ trách quản lý, điều hành các hoạt động chuyên trách của công ty, giúp giám đốc xây dựng kế hoạch sản xuất tháng, quý, năm của công ty, cân đối nhiệm vụ, kế hoạch giao cho các phân xưởng, đội chỉ đạo sản xuất hàng ngày, tuần, tháng.
* Phòng tài chính kế toán: Có nhiệm vụ giúp giám đốc tổ chức chỉ đạo công tác kế toán và thống kê, đồng thời kiểm tra, kiểm soát công tác tài chính của công ty, có trách nhiệm quản lý vốn, quỹ, tài sản, bảo toàn và sử dụng vốn của công ty có hiệu quả, lập báo cáo quyết toán hàng quý, hàng năm lên cơ quan cấp trên, cơ quan thuế và các đối tượng khác.
* Phòng tổ chức-hành chính: Có nhiệm vụ về công tác tổ chức, công tác hành chính, bảo vệ, an ninh, y tế... cụ thể là phân công lao động, xây dựng các nội quy, quy chế, kỷ luật lao động...
* Phòng công nghệ cơ điện: Có nhiệm vụ về lĩnh vực quản lý kỹ thuật, máy móc điện như máy bảo quản đông lạnh và các thiết bị khác.
* Phòng kinh doanh tiếp thị: Tìm nguồn hàng, lập kế hoạch ký kết các hợp đồng kinh tế về cung cấp thực phẩm của công ty cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
* Phòng kinh tế-kế hoạch: Tham mưu cho giám đốc xây dựng chiến lược kinh doanh, kỹ thuật, tài chính, đời sống... lập các dự án, kế hoạch giá thành các sản phẩm trước khi đem ra tiêu thụ...
* Phòng KCS (kiểm tra chất lượng sản phẩm): Chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng sản phẩm, có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện quy định, pháp luật nhà nước, quyết định và chỉ thị của cơ quan cấp trên về kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm khi đem tiêu thụ trong và ngoài nước có độ an toàn vệ sinh thực phẩm.
* Phân xưởng sản xuất chế biến thực phẩm nông sản: Là một phân xưởng của công ty chuyên sản xuất và chế biến thịt lợn đông lanh và các sản phẩm nông sản khác.
Đội xe vận tải: Làm nhiệm vụ vận chuyển sản phẩm trước và sau khi chế biến đến nơi tiêu thụ theo các yêu cầu của bộ máy quản lí của công ty và theo đơn đặt hàng.
4 năm qua bộ máy công ty chú trọng việc đầu tư phát triển trên cả 2 lĩnh vực: Tăng cường cơ sở vật chất và xây dựng thương hiệu. Đến nay xí nghiệp Thực phẩm xuât khẩu Quang Bình Kiến Xương đã được nâng cấp, mở rộng gấp 2 lần so với ban đầu. Sản phẩm lợn sữa đông lạnh đã đạt huy chương vàng và dấu “chất lượng sản phẩm vì sức khoẻ cộng đồng”, giấy chứng nhận cơ sở “an toàn vệ sinh thực phẩm”, đạt tiêu chuẩn quốc tế HACCP. Năng lực sản xuất chế biến các sản phẩm đạt 1500 tấn/năm và sản phẩm này đã có mặt trên các thị trường Hồng Kông, Trung Quốc... các siêu thị METRO, ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Hệ thống các nhà hàng ăn uống 30/6 (Thành phố Thái Bình ) và cây nhãn ( Vũ Thư) đã được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu dịch vụ ăn uống, hội nghị, đám cưới được nhiều khách hàng tín nhiệm.
Hệ thống bán buôn bán lẻ hàng thực phẩm công nghệ được đầu tư kho hàng, phương tiện vận chuyển, nâng cấp các cửa hàng bán lẻ. Từ đó đã giữ vững thị phần bán buôn trong tỉnh và bán lẻ tại thành phố với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý. Tại thị trấn Thẫm Vũ Thư công ty đã đầu tư trung tâm thương mại, sẽ trở thành siêu thị trong một vài năm tới. Toàn bộ việc đầu tư trong hơn 4 năm qua đã tạo thêm năng lực để tăng doanh thu, hiệu quả và tạo ra thế lực mới cho doanh nghiệp. Ngay trong năm 2006 công ty được cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp chứng nhận “ sở hữu trí tuệ logo công ty” và tổ chức quốc tế Mĩ cấp chứng chỉ HACCP. Đó là những đầu tư chiến lược để doanh nghiệp bước vào thị trường thời hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết quả của những đổi mới trên đây đã là nền tảng để công ty đạt những chỉ tiêu kinh tế xã hội mang tính chất bước ngoặt trong 4 năm qua.
- Tổng doanh thu bình quân 70 tỷ/năm tăng 85% so với 4 năm trước cổ phần, trong cuối năm 2008 do khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ thị trường Mĩ kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng tác động đến thị trường tiêu thụ của công ty làm doanh thu giảm 5% so với cùng kì năm trước.
- Mặt hàng chủ yếu của công ty: Thịt lợn sữa đông lạnh bình quân 1500 tấn/năm, tăng 2 lần so với bình quân 4 năm trước cổ phần.
- Nộp ngân sách: bình quân 1,5 tỷ/năm tăng gấp 5 lần so với trước cổ phần.
- Thu nộp BHXH, y tế, kinh phí công đoàn : đạt 100% theo quy định.
- Trả cổ túc 100% theo nghị quyết đại hội cổ đông bình quân 170 triệu/năm.
- Thu nhập bình quân người lao động: 1,4 triệu/người/tháng tăng 50% so với trước cổ phần.
- Các quỹ xí nghiệp được hình thành, vốn điều lệ được bổ sung, tài sản doanh nghịêp được tăng cường, doanh nghiệp đã tham gia đóng góp các quỹ xã hội...
Phía trước là tương lai, tương lai bắt nguồn từ hiện tại. Để tiến nhanh, tiến vững chắc về phía trước trên con đường mới, công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình còn phải tiếp tục nỗ lực chủ động, tự tin và chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa để khắc phục những khó khăn, thách thức về vốn, về trình độ cán bộ quản lí điều hành, về cơ sở vật chất, công nghệ chế biến, chất lượng dịch vụ và nhất là những đòi hỏi khắt khe của thị trường và những cam kết của nước ta khi gia nhập WTO.
Công ty đã có một hành trình gần 50 năm, nay bước sang một hành trình mới, 4 năm qua mới là những bước khởi động. Nhưng tất cả hành trang ấy cùng với sự đổi mới của ngành thương mại VN, thương mại-du lịch Thái Bình, của môi trường KDSX ngày càng hoàn thiện và mở rộng, công ty cổ phần thực phẩm nông sản TB nhất định sẽ tồn tại và phát triển, vì lợi ích của nền kinh tế xã hội, của ngành thương mại, của doanh nghiệp và của mỗi cổ đông, mỗi cán bộ công nhân viên trong công ty.
Sau khi tách khỏi công ty thực phẩm nông sản Thái Bình, công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình đã đi vào hoạt động có những hiệu quả nhất định, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế nhất định cần có biện pháp khắc phục.
Công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình được cổ phần hoá từ tháng 10/2004 trên cơ sở Công ty thực phẩm nông sản Thái Bình, với chức năng thu mua chế biến xuất khẩu thực phẩm đông lạnh và kinh doanh dịch vụ ăn uống, thực phẩm công nghệ. Từ khi cổ phần hoá đến nay, bộ máy Công ty từng bước được kiện toàn và phát triển, doanh thu hàng năm không ngừng tăng lên đã góp phần tạo bước đột phá trong sản xuất kinh doanh: năm 2005 doanh thu đạt 64 tỷ đồng, đến năm 2007 đạt 71 tỷ đồng đem lại sự ổn định bền vững và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
khi cổ phần hoá, tổng tài sản và vốn của Công ty có 6,4 tỷ đồng trong đó vốn của Nhà nước là 1,9 tỷ, đến nay Công ty đã trả hết Nhà nước, 100% vốn do cổ đông đóng góp. Đó là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc của Công ty mà không phải đơn vị nào cũng đạt được. Trong bối cảnh chuyển đổi cố phần hoá, cũng đồng nghĩa với chuyển đổi toàn bộ hệ thống quản lý từ cơ chế quản lý nhà nước sang cơ chế quản lý Doanh nghiệp, việc phân cấp phân quyền, phân công trách nhiệm giữa công ty và các chi nhánh gắn liền với quyền lợi của từng bộ phận, cá nhân, do đó buộc mỗi người phải nâng cao trách nhiệm đối với công việc được giao.
Để các hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định và đi vào nền nếp, Công ty đã xây dựng kế hoạch phát triển doanh nghiệp, điều lệ và quy chế làm việc, đồng thời đầu tư mới 3,5 tỷ đồng vào xây dựng, mua sắm, trang thiết bị và hệ thống kho, nhà xưởng đối với 5 đơn vị trực thuộc: Xí nghiệp thực phẩm xuất khẩu Quang Bình, Nhà hàng ăn uống dịch vụ 30-6, Nhà hàng ăn uống thị trấn Vũ thư, Cửa hàng thực phẩm nông sản Thành phố và 1 chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Xác định công việc thu mua và chế biến xuất khẩu thịt lợn sữa đông lạnh là nhiệm vụ chủ đạo, chiếm khoảng 75% tổng doanh thu nên Công ty hết sức chú trọng phát triển Xí nghiệp thực phẩm xã Quang Bình. Hiện Xí nghiệp đã có hệ thống máy cấp đông công suất 7 tấn/ngày và 2 kho bảo quản lạnh dung tích 100 tấn thường xuyên trị giá hơn 2 tỷ đồng. Lợn sữa thu mua về đều được qua kiểm dịch sau đó mới đưa vào giết mổ, chế biến và qua các khâu bảo quản đông lạnh với quy trình sản xuất đảm bảo an toàn, đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế HACCP. Bình quân 3 năm từ sau cổ phần hoá, mỗi năm Công ty sản xuất và tiêu thụ 1.350 tấn thịt lợn sữa đông lạnh, tương đương với 2.700 tấn lợn hơi, khoảng 23 vạn con lợn sữa; tiêu thụ nội địa qua hệ thống phân phối Metro toàn quốc và xuất khẩu qua Trung Quốc, Hồng Kông, Malaisia... đem lại doanh thu bình quân 53 tỷ đồng/năm, góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho hàng vạn hộ gia đình ở nông thôn từ chăn nuôi lợn sữa.
Cùng với kinh doanh xuất khẩu thực phẩm, Công ty chú trọng đến kinh doanh đa năng, phát triển dịch vụ ăn uống giải khát và kinh doanh thực phẩm công nghệ. Năm 2007, Công ty đã tiêu thụ hơn 600 tấn bánh kẹo, 700 tấn đường, 100 ngàn chai rượu, 35 ngàn lít nước mắm, 100 tấn muối i-ốt từ mạng lưới đại lý trên toàn tỉnh, đạt doanh thu 18 tỷ đồng. Hai nhà hàng 30-6 (thành phố Thái Bình) và Cây nhãn (thị trấn Vũ thư) đã trở thành địa chỉ quen thuộc và tin cậy của nhiều người, doanh thu năm 2007 đạt 1,5 tỷ, tăng trưởng gấp 2 lần so với trước đây. Giải quyết việc làm ổn đ._. - Thị trường luôn luôn diễn biến phức tạp do tác động của chính sách giá cả, chính sách lương mới, chi phí đầu vào tăng, nguồn hàng và nhu cầu tiêu thụ, xuất khẩu có thời gian không ổn định đặc biệt là năm 2008 do khủng hoảng kinh tế thế giới khiến giá bán và xuất khẩu thịt lợn giảm so với những năm trước khoảng 50% , cạnh tranh quyết liệt hơn, ảnh hưởng bởi dịch bệnh nên sản xuất chế biến thịt lợn có thời gian phải dừng sản xuất.
- Tác động của WTO đến thị trường Việt Nam rất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến ngành hàng thực phẩm, phân phối bán lẻ nên sức cạnh tranh sẽ tăng lên.
1.3. Những tồn tại, yếu kém chủ yếu trong công ty .
- Vốn hạn hẹp, chưa được vay vốn ngân hàng, vay cán bộ công nhân viên không ổn định, luôn bị động.
- Cơ sở vật chất nhiều nơi xuống cấp, yêu cầu đầu tư lớn nhưng vốn đầu tư rất hạn chế.
- Công tác điều hành quản lí loại hình doanh nghiệp mới có nhiều vấn đề còn lúng túng chưa rõ ràng, trong khi chính sách chế độ chưa đầy đủ và luôn thay đổi. Môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập nhất là thủ tục hành chính phiền hà, khi làm việc gì liên qua đến đất đai đầu tư cơ sở vật chất, chính sách chế độ công nhân viên, rất tốn phí thời gian và công sức, tiền bạc mới giải quyết được.
- Một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh bị cạnh tranh gay gắt trong khi việc đổi mới cơ chế, phương thức và triển khai thực hiện vẫn còn chậm, một số cán bộ công nhân viên chưa thích ứng với cơ chế mới, đòi hỏi nhiều hơn những cống hiến, tư tưởng có lúc chưa vững vàng, đúng đắn.
- Một số điều kiện vật chất cho sản xuất kinh doanh còn thiếu, so với yêu cầu của khách hàng và sự phát triển của các doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái Bình còn nhiều bất cập cần được giải quyết.
II. Phương hướng và mục tiêu hoàn thiện việc xuất khẩu sản phẩm thịt lợn đông lạnh của công ty:
2.1. Định hướng chế biến tiêu thụ xuất khẩu thịt lợn của công ty:
+ Mục tiêu chung.
- Xây dựng và mở rộng cơ sở chế biến sản phẩm thịt lợn nói chung và lợn cấp đông nói riêng tạo cho công ty có sự ổn định trong sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động và tăng thu nhập cho công nhân viên trong công ty.
- Góp phần vào việc ổn định và phát triển chăn nuôi, xây dựng mối quan hệ của doanh nghiệp gắn bó với việc chăn nuôi của người dân tỉnh Thái Bình.
- Tạo nguồn hàng ổn định có chất lượng bảo đảm để chủ động và tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thịt lợn trong và ngoài nước.
+ Nội dung:
- Cấp đông tập trung, giết mổ sơ chế: cải tạo kho lạnh thành kho cấp đông lớn và bảo bảo quản thịt lợn đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, công suất 4000 tấn/ năm. Tập trung tiếp nhận các sản phẩm sơ chế từ các xưởng giết mổ thịt lợn ở cơ sở để hoàn chỉnh sản phẩm cấp đông và trung chuyển sản phẩm để tiêu thụ trong và ngoài nước.
- Quy mô đầu tư và công suất taị cơ sở chế biến: Nhà xưởng của công ty đã có 5 phòng lạnh chuyên dùng, một phòng máy, một phòng kho với tổng diện tích 800 m2 có hệ thống điện và bể chứa nước máy 250 m2 với tổng diện tích khu vực chế biến 1500 m2.
- Đầu tư và cải tạo nâng cấp lắp đặt thiết bị cấp đông và bảo quản lạnh .
2.2. Nâng cao Hiệu quả chế biến và xuất khẩu thịt lợn:
- Hiệu quả việc chế biến và xuất khẩu thịt lợn là hiệu quả kinh tế xã hội. Riêng về hiệu quả kinh tế của công ty theo bảng tính sau đã đạt lợi nhuận cao và đặt ra mục tiêu chất lượng cao thì chưa đẩy mạnh được xuất khẩu thịt lợn về giá lợn của ta còn cao hơn một số nước khác và phải đảm bảo lợi ích người chăn nuôi thể hiện ở giá thu mua ko thể thấp quá, nhất kà trong điều kiện công ty cũng cổ phần hoá được gần 5 năm với số đầu tư chưa cao, chi phí sản xuất chưa ổn định, cần có phương án 3 năm để hiệu quả kinh tế không bị lỗ, tỉ lệ lợi nhuận từ 0,3- 0,5% doanh số mặt hàng xuất khẩu hoặc tiêu thụ bình quân mặt hàng thịt lợn chế biến xuất khẩu.
III. Các giải pháp hoàn thiện kênh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn cho công ty.
3.1. Về thị trường.
Để nắm bắt và đưa sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường, công ty cần tiếp tục tổ chức các đoàn đi khảo sát, tìm hiểu kinh nghiệm sản xuất, phát hiện và tỉm kiếm thị trường tiêu thụ thịt lợn ở trong và ngoài nước. Đồng thời thường xuyên nghiên cứu nắm bắt thông tin thị trường, tìm kiếm đối tác làm ăn lâu dài, thậm chí phải mua các thông tin rất chi tiết về sản xuất, về các quy định của nước nhập khẩu; quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, thủ tục kiểm dịch, chế độ thuế các kênh lưu thông, tiêu thụ...
Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu thịt lợn, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, các đơn vị tiêu thụ lợn nạc thương phẩm ngoài mức hỗ trợ của Nhà nước, còn được hỗ trợ theo Điều 8 của Quyết định 108/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh.
3.2. Quy hoạch hệ thống chế biến:
Mở rộng quy mô giết mổ, chế biến thịt lợn. Năm 2008 công ty xuất khẩu được 3000 con lợn cho thị trường Hồng Kông. Do đó giá bán thịt lợn nạc còn thấp và chưa ổn định, chỉ cao hơn từ 1500 đến 2000 đ/kg so với lợn lai kinh tế nên thu nhập của người nuôi lợn nạc chưa cao. Dự báo trong thời gian tới nhu cầu thịt sẽ tăng cao. Để tránh ô nhiễm môi trường và thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y, cần quy hoạch các lò mổ tập trung. Các cơ sở giết mổ, chế biến thịt lợn phải được trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật đảm bảo theo yêu cầu của quy trình sản xuất, tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. Phải thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành của pháp luận về bảo vệ môi trường. Đồng thời công ty cần quy hoạch để đầu tư xây dựng hoặc mở rộng nhà máy giết mổ, chế biến thịt lợn với công suất 5-10 ngàn tấn/năm.
3.3. Về cơ chế chính sách.
Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển chăn nuôi lợn nạc trong các nông hộ có quy mô sản xuất khá, khuyến khích các hộ trong vùng quy hoạch phát triển chăn nuôi lợn góp vốn bằng đất để tạo thành các xí nghiệp hay trang trại chăn nuôi lợn nạc với quy mô lớn và các xí nghiệp giết mổ lợn tập trung.
3.3.1. Về hỗ trợ vốn:
Để công ty có điều kiện đầu tư chuồng trại và trang thiết bị hiện đại, công ty cần được hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng trong 3 năm của tỉnh để đầu tư xây dựng xí nghiệp và hỗ trợ kinh phí mua lợn ngoại giống ông bà. Trước mắt công ty cần vay vốn để mua giống lợn ông bà theo dự án đã được duyệt. Các tổ chức, cá nhân nuôi lợn nạc trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ theo Quyết định 108/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh, mua lợn nái ngoại thuần về nuôi sinh sản có trọng lượng từ 20kg/con và số lượng từ 5 con trở lên được hỗ trợ 200000 đồng/con; mua giống để chăn nuôi lợn nạc thương phẩm có số lượng từ 50 con giống trở lên được hỗ trợ 20% giá giống cho lần đầu.
- Cần vốn hỗ trợ cho vay đầu tư xây dựng cơ bản 5 tỷ của Tỉnh.
- Tranh thủ vốn của khách hàng lợn sữa chuyển trước để chủ động sản xuất và tiêu thụ , tuy vậy vẫn phải có vốn để sản xuất và dự trữ các chi phí khác cần thiết khi phát sinh.
- Phối hợp các đơn vị cung ứng nguyên liệu để có vốn thu mua chế biến lợn sơ chế trong thời gian gần 1 tuần / đợt. Vì vậy phải có vốn để đầu tư thanh toán trong khi chờ thanh toán của tổng công ty và lãi suất ngân hàng.
3.3.2. Giải pháp về chuyển giao công nghệ:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cán bộ cho Trung tâm khuyến nông, để công ty kết hợp với các trạm khuyến nông huyện, các hợp các xã, hiệp hội chăn nuôi đảm đương nhiệm vụ: Xây dựng mô hình, cung cấp cây giống, tập huấn và chuyển giao kỹ thuật tiến bộ về chăm sóc, vệ sinh thú y? đối với chăn nuôi lợn nạc cho các hộ nông dân. Hình thành quỹ bảo hiểm chăn nuôi lợn nạc: Để hỗ trợ rủi ro về giá hoặc dịch bệnh cho người sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi lợn nạc, sử dụng Bảo việt Thái Bình để xây dựng dự án hình thành quỹ bảo hiểm chăn nuôi lợn nái ngoại trên cơ sở người chăn nuôi và các nhà chế biến tiêu thụ thịt lợn đóng góp và có sự hỗ trợ ban đầu từ nguồn ngân sách của tỉnh.
3.4. Các giải pháp khác:
3.4.1. Về trình độ đầu tư và hình thức đầu tư:
- Đầu tư đến đâu sản xuất đến đó, chắc chắn mới đầu tư tiếp, không đầu tư tràn lan, đầu tư quy mô nhỏ, tận dụng triệt để cơ sở vật chất sẵn có, nhưng đảm bảo vệ sinh, môi trường được Cục thú y cấp giấy phép hoạt động, Sở y tế cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm và đăng kí chất lượng sản phẩm, Sở Khoa Học Công Nghệ cấp giấy chứng nhận môi trường .
- Máy móc thiết bị kết hợp các loại hiện đại, thiết bị đã qua sử dụng chất lượng còn đạt trên 80%, thiết bị ngoại và thiết bị nội để vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm(độ lạnh và chi phí sản xuất phù hợp yêu cầu) vừa tiết kiệmchi phí đầu tư và thu hồi vốn một cách nhanh nhất.
- Khi đã có điều kiện sẽ đầu tư từng bước hiện đại(đây là đặc trưng riêng của ngành chế biến thực phẩm thịt lợn đông lạnh).
3.4.2. Về cán bộ lao động:
Tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lí, chuyên môn, trong doanh nghiệp để bố trí vào các bộ máy quản lí , điều hành từng cơ sở sản xuất chế biến.
Thuê chuyên gia về lạnh, kí thuật chế biến, thú y, KSC, bảo đảm chất lượng sản phẩm đúng quy định. Không cho phép tuỳ tiện cẩu thả bất kì 1 kg nào về chất lượng, vệ sinh sản phẩm. Cần nghiên cứu đến đâu tuyển chọn đến đó nhưng có một lực lượng đào tạo bồi dưỡng tập huấn cơ bản hoặc ngắn hạn để có đủ số lượng người và bố trí vào các dây truyền.
- Lao động: sử dụng hết lao động ở trạm kinh doanh chế biến và các đơn vị trong công ty hiện có, thuê công nhân chế biến của xí nghiệp hải sản và tuyển mới công nhân chế biến có đủ sức khoẻ, có chuyên môn và có trách nhiệm.
3.4.3. Về cơ chế quản lí:
- Phần tiêu thụ và xuất khẩu do phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đảm nhiệm, hạch toán kế toán tại văn phòng công ty.
- Từng cơ sở sản xuất chế biến hạch toán kế toán, thực hiện các định mức khoán cho từng công việc cụ thể, chịu trách nhiệm về kết quả( chất lượng, cân đối tài chính, an toàn).
- Có nội quy, quy chế về quy trình chế biến, an toàn lao động, thiết bị , phòng chống cháy, điện và trang bị phòng hộ lao động với các cơ sở lạnh, chế biến và điện.
3.4.4. Về thị trường tiêu thụ:
- Tăng trang thiết bị và cán bộ cho khâu tiếp thị, nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho công ty.
- Giữ vững và phát triển quan hệ với Hồng Kông( lợn sữa), nghiên cứu và mở rộng thêm thị trường Trung quốc, Đài Loan.. bảo đảm chất lượng, giá cả, thị trường và thời gian theo hợp đồng đã kí. Xúc tiến mặt hàng mới( nạc, choai) với Hồng kông.
- Xây dựng quan hệ với tổng công ty chăn nuôi và xí nghiệp thực phẩm xuất khẩu để tiêu thụ và xuất khẩu thịt lợn mảnh.
- Mối quan hệ với các xí nghiệp chế biến khác, học tập kinh nghiệm, phối hợp trong những vấn đề cần thiết, giữ vững quan hệ với Hải quan, kiểm dịch và vận tải.
- Có cơ chế khen thưởng cho khách hàng tiêu thụ ổn định theo nghị quyết của Tỉnh.
* Giữ nghiêm ngặt các yếu tố bảo đảm chất lượng sản phẩm nước, điện, bao bì, môi trường, dịch bệnh, vệ sinh trang thiết bị xưởng và người lao động, vận tải, hành chính bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm với những thiết bị cần thiết, định kì kiểm tra một tháng và các cơ sở sản xuất.
IV. Căn cứ đề xuất các phương hướng để phát triển và mở rộng thị trường tiêu thị và thị trường xuất khẩu của công ty.
4.1. Biện pháp chính sách xuất khẩu thịt lợn:
Xuất khẩu thịt lợn ở Thái Bình còn gặp nhiều khó khăn về thị trường xuất khẩu, giá thành sản phẩm thịt lợn sản phẩm xuất khẩu nên số lượng còn ít. Song hoạt động này rất quan trọng, có mục tiêu và ý nghĩa to lớn kích thích chăn nuôi và chế biến thịt lợn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước đưa chất lượng thịt lợn xuất khẩu của Thái Bình đạt mức tiên tiến, là bước đột phá quan trọng mở rộng thị trường tiêu thụ sang nhiều nước trên thế giới chứ không bó hẹp ở thị trường Nga và Hồng Kông như hiện nay đồng thời có như vậy mới giữ được thị phần và mở rộng thị phần xuất khẩu thịt lợn của Thái Bình ở Nga và Hồng Kông.
- Tích cực và có quyết tâm cao tổ chức một số mũi nhọn trong sản xuất chăn nuôi, chế biến thịt lợn theo hướng bán công nghiệp và công nghiệp hiện đại, bảo đảm thịt lợn có chất lượng theo yêu cầu của thị trường, giá thành hạ, sức cạnh tranh cao.
4.1.1. Biện pháp:
Tổ chức hộ nông dân trong tỉnh duy trì và đẩy mạnh chăn nuôi kể cả lợn nái( nái nội, nái ngoại) dưới nhiều hình thức đa dạng hơn, mang tính sản xuất hàng hóa cao hơn, khuyến khích và phát triển hộ gia đình nuôi lợn với quy mô lớn từ 15 – 20 con/ lứa hoặc nhiều hơn và đổi mới một bước cách thức nuôi lợn như hiện nay ở các hộ nông dân.
Xây dựng một số trọng tâm, trọng điểm ở các huyện, HTX nông nghiệp, một số doanh nghiệp tư nhân và nhà nước chăn nuôi đàn lợn ngoại hướng nạc và lợn lai nhiều máu ngoại bao gồm lợn lái và lợn thịt. Tạo ra sản lượng lợn thịt ( gồm lợn F1, lợn ngoại hướng nạc và lợn lai nhiều máu ngoại), lợn sữa cao hơn, chất lượng hơn, giá thành hạ hơn phục vụ tốt cho thu mua, chế biến ra các sản phẩm xuất khẩu.
- Lợn sữa xuất khẩu sang Hồng Kông, Trung Quốc, Thái Lan( qua Lào).
- Lợn choai xuất sang thị trường Hồng Kông, Singapo.
- Lợn mảnh và Block xuất sang thị trường Nga.
- Thịt cấp đông xuất sang thị trường Malaixia và Singapo.
4.1.2. Chính sách đối với sản xuất, chế biến xuất khẩu thịt lợn:
- Cần có chính sách với các thành phần kinh tế tham gia sản xuất thịt lợn xuất khẩu, đầu tư từng bước cải tạo đàn lợn giống hiện có, đưa tỉ lệ lợn lai nhiều máu ngoại và lợn nái ngoại hướng nạc và chăn nuôi.
- Tạo điều kiện cho người chăn nuôi hướng nạc, lợn lai nhiều máu ngoại vay vốn để sản xuất chăn nuôi khuyến khích các hộ gia đình nuôi lợn với quy mô từ 15 – 20 con hoặc nhiều hơn.
- Cho các doanh nghiệp chế biến thịt xuất khẩu vay vốn với lãi suất thấp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất phát triển.
- Cấp một phần ngân sách làm kinh phí khuyến nông để chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật, tạo mô hình chăn nuôi, nguồn kinh phí này nên tập trung phần lớn cho các doanh nghiệp chế biến thịt lợn xuất khẩu để tạo vùng nguyên liệu kết hợp với thu mua chế biến xuất khẩu thịt lợn.
- Có chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu như: có chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Thái Bình về lĩnh vực chăn nuôi lợn, chế biến thức ăn gia súc, chế biến thịt lợn xuất khẩu.
4.2. Nghiên cứu Thị trường tiêu thụ thịt lợn và công tác thị trường:
4.2.1. Thị trường trong nước:
Ở nước ta tiêu thu chủ yếu là thịt lợn, chiếm khoảng 80% thịt hơi các loại, đây cũng là mức thấp so với nhiều nước trên thế giới chỉ bằng 20-30% mức tiêu thụ dùng ở một số nước có mức tiêu dùng cao về thịt lợn hiện nay.
Tiềm năng cho thị trường thịt lợn trong nước còn rất lớn vì nó mang tính phổ biến, phù hợp với các mức sống khác nhau từ thành thị đến nông thôn có thu nhập thấp. Nhưng vấn đề ở đây là cần nâng cao giá trị của sản phẩm thông qua công tác chế biến để đem lại thu nhập cao hơn cho người sản xuất và tăng cường phát triển đàn lợn, chất lượng thịt lợn cao hơn.
Đối với thị trường nội địa thì việc sản xuất chăn nuôi cần tập trung đáp ứng nhu cầu thị trường các đô thị, tỉnh, thành phố lớn- những nơi có mức thu nhập cao, sức tiêu thụ lớn. Nếu sản phẩm được chế biến có chất lượng cao sẽ mở ra hiệu quả kinh tế lớn đối với người sản xuất và người chăn nuôi.
- Củng cố hệ thống chợ trên địa bàn Tỉnh để chợ thật sự là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhân dân . Xây thêm một số chợ cho phù hợp với tình hình phân bố dân cư, xóa bỏ các chợ tạm, gây mất trật tự, ô nhiễm về sinh, môi trường , xây dựng và đưa mô hình quầy bán thịt đủ tiêu chuẩn vệ sinh vào các chợ nông thôn , ưu tiên các chợ trung tâm thành phố, huyện, thị trấn, vùng ven biển.
- Tạo điều kiện để công ty xuất khẩu thịt lợn đầu tư cho vùng nguyên liệu. Tăng cường vốn vay tín dụng ưu đãi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc xuất khẩu , nhất là hệ thống kho lạnh, cấp đông.
- Bán lợn sống đi Trung Quốc: công ty có vị trí nằm trên địa bàn tỉnh thuần nông, có vị trí địa lí khá thuận lợi cho việc vận chuyển lợn sống từ Thái Bình sang các tỉnh phía Nam Trung Quốc, thời gian vận chuyển ngắn, là điều kiện thuận lợi cho các thương nhân kinh doanh mặt hàng thực phẩm thịt lợn tươi sống. Song để tiêu thụ thịt lợn sữa sang Trung Quốc được ổn định, hiệu quả lâu dài, cân phải tổ chức lại các bãi, các tổ chức thu mua lợn tại Thái Bình để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá...
Về giá cơ quan quản lí nhà nước cần phải làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh thú y và tạo điều kiện cho vận chuyển hàng ra.
- Tăng cường quảng cáo giới thiệu nhất là khâu PA, marketting thương hiệu thịt lợn sữa đông lạnh, lợn choai, lợn mảnh vào các khu thành phố lớn như Thành Phố HCM, Hà Nội, Đà Nẵng.. khu công nghiệp, khu du lịch... để người tiêu dùng làm quen với sản phẩm thịt lợn của công ty.
4.2.2. Thị trường nước ngoài:
Trong những năm trước, quy mô sản xuất của Việt Nam còn nhỏ, chủng loại xuất khẩu ít, mới xuất khẩu thịt lợn mảnh đông lạnh sang thị trường Nga ( chiếm khoảng 95% khối lượng xuất khẩu) và thịt lợn sữa , lợn choai sang thị trường Hồng Kông. Năm 2008 xuất khẩu 6000 tấn, trong đó thị trường Nga chỉ có 2000 tấn còn lại 4000 tấn sang thị trường Hồng Kông, các thị trường chủ yếu của thịt lợn là các thị trường mới như Hồng Kông, Trung Quốc, Lào, Malaixia, Singapo).
Xu hướng thị trường toàn cầu hóa, khu vực gắn với tự do hóa thương mại đã trở thành xu thế tất yếu. Việt Nam là thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, mọi hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt nam tham gia vào thị trường khu vực chịu thuế suất từ 0- 5% và xóa bỏ hoàn toàn các rào cản phi thuế quan. Tuy nhiên khi tham gia vào thị trường AFTA chúng ta cũng có một số thuận lợi như hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường có khu vực chịu thuế suất thấp, trong đó có thịt lợn xuất khẩu.
Hiệp định Thương mại Việt Mỹ là tiền đề cho việc Việt Nam gia nhập WTO, khi là thành viên rồi thì hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có thịt lợn được phép xuất khẩu vào các nước thành viên với mức thuế ưu đãi thấp hơn hiện nay. Như vậy, việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới thì việc xuất khẩu thịt lợn sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn đan xen, trước mắt tận dụng cơ hội xuất khẩu thịt lợn như:
- Xuất khẩu thịt lợn mảnh, thịt lợn Block theo Hiệp định trả nợ trong kế hoạch cho Nga có sự giúp đỡ của Nhà nước và của Tỉnh Thái Bình.
- Đưa ra mặt hàng thịt lợn hướng nạc xuất khẩu vào nhóm các mặt hàng được hưởng kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường Nga:
Là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam nhiều năm trước đây nhưng những năm gần đây thường xuất khẩu theo hiệp định của Chính phủ. Từ khi Liên Bang đổ vỡ thì hàng hóa Việt Nam không đáp ứng nhu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng nên hầu như kim ngạch xuất khẩu bị ngưng lại. Thịt lợn mảnh của Thái Bình đã được xuất trực tiếp hoặc ủy thác qua ANIMEX vào Nga.
Trong thời gian gần đây, do tình hình kinh tế Nga có nhiều biến động lớn, giá cả và lạm phát tăng cao, nguồn thịt viện trợ vào xuất khẩu có khối lượng lớn, giá rẻ từ Mỹ, Tây âu và Trung Quốc vào Nga. Nhưng đây là khó khăn trước mắt vì lâu dài thị trường Nga vẫn có nhu cầu nhập khẩu thịt lợn với khối lượng lớn nhưng vấn đề là sản phẩm cần phải cải tiến nhiều về chất lượng ( tỉ lệ nạc), giá thành sản phẩm và biện pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc như:
- Vận dụng các phương tiện mua bán và thanh toán giứa Nga và Việt Nam về mặt hàng này mà hai bên có thể chấp nhận được, đảm bảo thuận tiện, an toàn và phát triển trong quan hệ mua bán, qua thân nhân ở Nga, đổi hàng qua các công ty ở Nga.
- Việc nhập khẩu thịt lợn vào Nga phải có giấy chứng nhận an toàn thực phẩm phù hợp với tiêu chuẩn của Liên Bang Nga. Tuy giữa Việt nam và Nga đã kí hiệp định Hợp tác trong lĩnh vực an toàn thú y nhưng trong thời gian qua, theo ý kiến của Nga, trước khi giao hàng lên tàu phải được chuyên gia thú y Nga kiểm tra chất lượng và xác nhận vào giấy an toàn chất lượng mới được giao hàng. Mọi chi phí kiểm tra chất lượng do người bán chịu trách nhiệm, tiến hành kiểm tra chất lượng trên là rất tốn kém. Để giảm bớt chi phí, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam tại thị trường Nga, cơ quan thú y Việt Nam cần thỏa thuận với cơ quan thú y của Nga thống nhất để cơ quan thú y Việt Nam kiểm tra chất lượng và cấp giây an toàn chất lượng.
b) Thị trường Hồng Kông:
Hồng Kông là thị trường nhập khẩu thường xuyên với khối lượng lớn từ nhiều nước trên thế giới, chủ yếu là Trung Quốc. Nhưng Hồng Kông là thị trường nhập khẩu thịt lợn gần ta và thịt lợn của Thái Bình đã được tiêu thụ ở thị trường này chủ yếu là thịt lợn sữa Đông lạnh. Do lợn sữa Thái Bình được sinh trên nền lợn Móng cái có mùi sữa đặc trưng nên được khách hàng ưa chuộng. Hiện tại các doanh nghiệp sản xuất chế biến thịt lợn sữa đông lạnh đang duy trì xuất khẩu vào thị trường Hồng Kông ở mức 2000 tấn / năm. Nếu có sự hỗ trợ của Tỉnh cho công ty xuất khẩu thịt lợn vào Hồng Kông thì sẽ tìm cách tăng dần sản lượng thịt lợn xuất khẩu vào Hồng Kông, xuất khẩu lợn choai hướng nạc vào Hồng Kông.
Hiện nay các doanh nghiệp Thái Bình xuất khẩu sang Hồng Kông theo phương pháp lựa chọn thương nhân Hồng Kông, bạn hàng quen, có quan hệ tốt và thường xuyên gắn bó, có ý định làm ăn lâu dài để đưa vào danh sách bạn hàng, không bán hàng cho người khác với cùng một điều kiện thương mại, trừ trường hợp không mua ưu đãi về giá khi họ tiêu thụ được khối lượng hàng lớn.
4.3. Xây dựng chiến lược kinh doanh tiêu thụ sản phẩm thịt lợn của công ty
- Công ty đã tập trung đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xây dựng thương hiệu VNG bao gồm thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt VNG, tích lũy lợi nhuận, tăng vốn và mở rộng lĩnh vực kinh doanh đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Xây dựng mô hình tổ chức quản lý chuyên nghiệp
- Thực hiện chương trình Marketing để quảng cáo, truyền thông,... về Nhà máy chế biến thực phẩm tại huyện Kiến Xương, cung cấp cho thị trường sản phẩm thịt sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn: GMP, HACCP, ISO, ...
- Nghiên cứu mở rộng thị trường trong toàn quốc và thị trường xuất khẩu.
- Thiết lập hệ thống các kênh phân phối và hệ thống thu mua nguyên liệu đầu vào, thông qua các kênh phân phối để tiêu thụ sản phẩm và kêu gọi nguồn lực.
- Xây dựng vùng nguyên liệu theo mô hình chăn nuôi khép kín theo tiêu chuẩn tại tỉnh Thái Bình và các vùng lân cận.
- Mở rộng, đa dạng các loại sản phẩm: pha lọc, chế biến (sản phẩm truyền thống: giò, chả, ruốc; sản phẩm đóng gói: xúc xích, giăm bông, hun khói, pate).
- Trang web VNG là kênh thông tin về thực phẩm an toàn giới thiệu đến người tiêu dùng để người tiêu dùng quen với sản phẩm mới (đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm)
4.4. Kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh thịt lợn cần mở rộng:
4.4.1.Công ty VNG .
Công ty sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm thịt lợn chất lượng cao thịt và mức độ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Cụ thể như sau:
- Tiêu chuẩn sản phẩm và cam kết giành cho khách hàng: "An toàn, bổ dưỡng"
- Về mặt chất lượng : lợn đưa vào giết mổ đảm bảo chất lượng đồng đều, tỷ lệ nạc cao từ 57% - 64%.
- Về kiểm soát đầu vào: lợn đưa vào chế biến và bảo quản là lợn siêu nạc, lợn lai các dòng máu ngoại đạt tiêu chuẩn không dịch bệnh, được nuôi trong trang trại theo chu trình khép kín, đúng tiêu chuẩn kỹ thuật được kiểm tra định kỳ, chất lượng đồng đều, có bác sỹ thú y kiểm tra để đảm bảo: lợn khoẻ mạnh, ăn các loại thức ăn sạch, đủ dinh dưỡng, không chứa kháng sinh, đảm bảo không dịch bệnh, không chứa các thành phần có khả năng di truyền sang người như: lao, nhiệt thán, xảy thai truyền nhiễm, xoắn khuẩn và các loại ký sinh trùng.
- Về mặt đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm: thịt sạch được xử lý trên dây chuyền công nghệ chế biến đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của quốc tế: tiêu chuẩn GMP, tiêu chuẩn HACCP, có bác sỹ thú ý kiểm tra, giết mổ theo kiểu treo móc.
4.4.2. Kế hoạch nguồn nhân lực
Hiện tại Công ty đang có Xí nghiệp giết mổ chế biến, bảo quản thực phẩm thịt lợn và văn phòng giao dịch với cơ cấu tổ chức của Công ty như sau:
Ban điều hành: 2 người
Phòng kinh doanh: 23 người
Phòng nghiên cứu phát triển: 2 người
Phòng kế toán, quỹ: 4 người
Phòng hành chính bảo vệ: 4 người
Bộ phận kiểm soát, giám sát: 2 người
Thủ kho: 1 người
Bộ phận sản xuất: 14 người
Hầu hết, đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty và nhà máy quản lý công việc rất tốt, các khâu chủ chốt đều có trình độ đại học và trung cấp, đáp ứng được yêu cầu chuyên môn vì những người này được phân công nhiệm vụ đúng theo chuyên ngành học trước đó.
Ngoài ra, công ty có chính sách thi đua khen thưởng hàng quý, năm cho các bộ phận, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hoặc có những ý kiến sáng tạo phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhằm khuyến khích sự cố gắng của nhân viên.
Công ty có kế hoạch đào tạo công nhân về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm bằng cách thuê các giảng viên, chuyên gia của các trường, trung tâm chuyên nghiệp để giảng dạy.
Cho các cán bộ đi tap huấn các lớp học về tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm như HACCP, ISO, GMP, ...
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất ngày một lớn Công ty sẽ tiến hành tuyển dụng nhân sự vào các vị trí sau:
Phòng kế hoạch và kinh doanh cần tuyển thêm 10 người có trình độ đại học hoặc trung cấp chuyên ngành kinh tế hoặc chăn nuôi thú y, am hiểu về lĩnh vực thực phẩm và kinh doanh thịt lợn để đảm nhiệm việc tìm kiếm thị trường, thu mua và giao nhận hàng hóa.
Phòng kỹ thuật và KCS sẽ tuyển thêm 1 người có trình độ đại học để quản lý tốt hơn về chất lượng sản phẩm sản xuất vì hiện nay yêu cầu về chất lượng sản phẩm của khách hàng ngày càng cao.
Đối với phòng kế toán tăng cường thêm 2 người có trình độ đại học chuyên ngành tài chính kế toán để phụ trách sản xuất và thủ quỹ.
Phần tuyển dụng Công ty sẽ thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để chọn lọc những người đạt tiêu chuẩn vào các vị trí cần tuyển.
4.4.3. Kế hoạch kênh phân phối .
- Kênh phân phối:Chiến lược phân phối của công ty được phân chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: phân phối trực tiếp đến các cửa hàng tại các chợ đầu mối, các siêu thị, khách sạn, nhà hàng,.... trang bị đầy đủ cho các quầy hàng.
- Giai đoạn 2: song song với việc phân phối trực tiếp công ty sẽ thiết lập các trung tâm phân phối và thông qua đó phân phối sản phẩm đến tất cả các thành phố trong cả nước và tiến tới xuất khẩu.
4.4.4. Kế hoạch về vốn lưu động, doanh thu và lợi nhuận
Với dây truyền công nghệ giết mổ hiện đại, sử dụng móc treo, sản phẩm được kiểm soát nguồn gốc từ đầu vào cho đến đầu ra, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn GMP và HACCP, đây là năm thứ hai nhà máy đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và thâm nhập thị trường với tổng số thịt cung cấp ra thị trường là 150 con.
4.4.5. Chiến lược Marketing
a) Sản phẩm:
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là thực phẩm nên chính sách của Công ty là cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm với giá cả phải chăng bằng việc khai thác nguồn lao động, áp dụng nâng cao năng suất lao động của máy móc thiết bị, cải tiến mẫu mã, công bố thông tin chất lượng.
b) Giá cả:
Mặc dù phải đầu tư lớn cho dây truyền công nghệ nhưng chiến lược về giá cả các sản phẩm đã được Công ty hoạch định là phải hoàn toàn cạnh tranh với thị trường hiện tại. Lấy sản xuất công nghiệp bù đắp các chi phí xây dựng hệ thống; lấy quản trị chuyên nghiệp để loại bỏ các lãng phí sản xuất; lấy sức mạnh tổng quan để tận dụng tối đa lợi thế cơ cấu sản phẩm; lấy an toàn vệ sinh thực phẩm để phục vụ khách hàng.
c) Thị trường:
Năm 2007 Công ty đã cung cấp sản phẩm tới các chợ đầu mối trên, nhà hàng, khách sạn, siêu thị và các trung tâm phân phối, từ các trung tâm phân phối tỏa đi các khách hàng cuối cùng. Một số khách hàng lớn có thể mua tại Nhà máy như các siêu thị, các nhà phân phối,....
d) Quảng bá và thâm nhập thị trường:
Công ty cung cấp sản phẩm là loại thực phẩm tiêu dùng hàng ngày, có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người tiêu dùng, do vậy xây dựng một thương hiệu với tiêu chí đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, sản phẩm có nguồn gốc, làm thay đổi thói quen tiêu dùng bằng cách: quảng cáo, truyền thông về thịt an toàn trên truyền hình, báo, hội chợ triển lãm, gửi thư ngỏ, phát tờ rơi tại các chợ truyền thống, xây dựng quầy hàng kiểu mẫu tại các chợ huyện Thái Thụy, Kiến xương và các chợ của Thành Phố, tiếp cận khách hàng thông qua ban quản lý chợ.
Phối hợp với các cơ quan chức năng như Bộ y tế, Cục thú y, Cục an toàn vệ sinh thực phẩm giới thiệu, quảng bá hình ảnh Nhà máy đồng thời đưa ra các quy chế quản lý trong giết mổ và chế biến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ đó dần dần thiết lập thị trường thịt sạch tại Thái Bình. Bên cạnh đó, xây dựng thông tin hệ thống khách hàng tiềm năng, tiếp cận trực tiếp thông qua các chính sách ưu đãi cho khách hàng. Quảng bá hình ảnh Nhà máy qua Website.
Đối với thị trường xuất khẩu như Nga và Hồng Kông,Trung Quốc, singapo... Công ty quảng bá hình ảnh, tìm kiếm khách hàng thông qua các Website, tham gia các hội chợ thực phẩm, làm chính sách Marketing với chính phủ, gửi tài liệu và hình ảnh của Nhà máy qua Phòng tham tán thương mại của Việt Nam tại các nước.
Kết luận và kiến nghị.
Đề tài giải pháp phát triển kênh tiêu thụ thịt lợn tại công ty cổ phần thực phẩm nông sản Thái bình phù hợp với chủ trương phát triển việc tiêu thụ và xuất khẩu thịt lợn của Tỉnh phát triển kinh tế Nhà nước, nông thôn, nhân dân và xác định vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế xã hội địa phương. Công ty cần có các kiến nghị lên tỉnh và các ngành hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện để công ty có thể thực hiện tốt các kênh thuận lợi cho việc phát triển mở rộng quy mô công ty, nâng cao đời sống công nhân viên và tăng doanh thu cho công ty.
- Nên thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu thịt lợn nhằm:
+ Chấn chỉnh lại tình trạng thu mua tại thị trường trong nước và tranh bán tại thị trường nước ngoài dẫn đến hiện tượng bán phá giá tại thị trường nước ngoài.
+ Khai thác hết nguồn nguyên liệu sẵn có của Thái Bình về lĩnh vực chăn nuôi chế biến và tiêu thụ lợn thịt.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22199.doc