Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thủ Đô

MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NHNo & PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triẻn nông thôn PGD : Phòng giao dịch HDQT : Hội đồng quản trị XDCB : Xây dưng cỏ bản LỜI NÓI ĐẦU Ngân hàng thương mại là một trung tâm tài chính có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông qua chức năng cung cấp tín dụng, nhận tiền gửi và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống một nghiệp vụ hỗ trợ và mang tính chất khá quan trọng trong hoạ

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thủ Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động kinh doanh của ngân hàng, nó giúp cho cán bộ tín dụng và ban lãnh đạo có quyết định đúng hơn đối với từng món vay, đó chính là nghiệp vụ thẩm định trong ngân hàng. Ngày nay, các ngân hàng có xu hướng mở rộng các loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, các mánh khóe trong xã hội ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, điều đó sẽ đem lại những rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính điều này càng khẳng định vai trò của thẩm định trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là công tác thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thủ Đô thành lập từ tháng 4 năm 2008, ngày từ khi thành lập Ngân hàng đã chú trọng đến công tác thẩm định. Các cán bộ tín dụng khi có dự án phải trực tiếp tiến hành thẩm định để từ đó đưa ra quyết định cho từng món vay và giúp Ban lãnh đạo có quyết định đúng trong việc cho vay, giúp cho Ngân hàng giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay. Bên cạnh những đóng góp của công tác thẩm định đối với hoạt động cho vay thì công tác thẩm định tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thủ Đô còn có phát sinh những tồn tại cần tháo gỡ. Chính điều này em chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thủ Đô ” làm chuyên đề tốt nghiệp. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sử dụng các phương pháp lý thuyết hệ thống duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, thống kê, tổng kết thực tiễn, phân tích… Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thẩm định ngân hàng là một nghiệp vụ rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và khá rộng vì trong ngân hàng thẩm định có thể diễn ra ở tất các khâu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vì vậy, để có thể đi sâu vào một nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thủ Đô Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 phần như sau: Chương 1: Lý thuyết chung về hoạt động thẩm định dự án đầu tư của ngân hang thương mại. Chương 2: Thực trạngcông tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hang nông nghiệp và phát triển nông thôn Thủ Đô. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thủ Đô. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐÀU TƯ CỦA NHTM 1.1 Tổng quan về NHTM 1.1.1 Khái niệm về NHTM Ngân hàng là loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thể hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại có các đặc trưng : + Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả. + Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu lợi nhuận. 1.1.2 Chức năng của NHTM * Trung gian tài chính NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiện thành dầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ cần bổ sung vốn: và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. * Tạo phương tiện thanh toán Toàn bộ hệ thống NHTM cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. * Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nayở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. 1.1.3 Các hoạt động cơ bản của NHTM Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ cơ bản : * Huy động vốn Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của ngân hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời trong nền kinh tế. Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút tiền gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh doanh và là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại. * Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán. - Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, việc quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý. - Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời. - Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng. * Hoạt động trung gian Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp… Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. 1.2 Tổng quan về dự án đầu tư 1.2.1 Khái niệm dự án đầu tư Dự án và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư. Khái niệm về dự án đầu tư hiện nay vẫn chưa có một định nghiã nào thật hoán chỉnh. Tuy nhiên, dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Theo luật đầu tư của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì dự án đầu tư được định nghĩa như sau: Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoản thời gian xác định. Ngân hàng thế giới xem xét dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đặt được những mục tiêu nhất định trong thời gian nhất định. Về mặt hình thức đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát tiển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau: - Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói riêng. - Các hoạt động của dự án: Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó. - Các nguồn lực: hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người…Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án, tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Tóm lại, dự án đầu tư là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dụng có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư. 1.2.2 Phân loại dự án đầu tư Để thuận tiện cho việc theo dõi quản lý và đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư cần tiến hành phân loại dự án đầu tư. Có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau: 1.2.2.1. Theo cơ cấu tái sản xuất Phân loại theo hình thức này dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Dự án đầu tư theo chiều rộng yêu cầu cần có vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Ngược lại, dự án đầu tư theo chiều sâu thì đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với dự án đầu tư theo chiều rộng. 1.2.2.2. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của dự án đầu tư Theo hình thức này có thể phân chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…Hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, còn các dự án đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. 1.2.2.3. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội Theo cách thức này thì dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có thể chia ra thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Nhìn trên giác độ xã hội thì loại dự án này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư này đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn (từ 5, 20 năm hoặc lâu hơn), với vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào, đầu ra, cơ chế chính sách…). Thực hiện loại dự án này cần phải chuẩn bị kỹ, cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, phải xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động của dự án đầu tư kết thúc. 1.2.2.4. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra Theo hình thức này có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn (như dự án đầu tư thương mại) và dự án đầu tư dài hạn (các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…) 1.2.2.5. Theo phân cấp quản lý Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị định 52/1999/NĐ - CP ngày 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ phân chia dự án thành 3 nhóm A, B, C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh (và thành phố trực thuộc trung ương) quyết định. 1.2.2.6. Theo nguồn vốn Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư có thể được phân chia thành: Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp). Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. 1.2.2.7. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh, theo vùng kinh tế của đất nước) Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng tỉnh, địa phương, vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Trong thực tế người ta có thể phân loại dự án đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế. 1.2.3 Cơ cấu dự án đầu tư Các loại dự án khác nhau thì có cơ cấu khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung một dự án đầu tư gồm các phần sau: Một là, chủ đầu tư dự án: Trong phần này giới thiệu chung về chủ dự án đầu tư, địa chỉ, người đại diện chức vụ. Giới thiệu về năng lực và khả năng thực hiện dự án của chủ đầu tư. Hai là, những căn cứ, cơ sở xác định sự cần thiết phải đầu tư: Ở phần này nêu ra cơ sở căn cứ pháp lý của dự án, nguồn gốc các tài liệu sử dụng. Phân tích các kết qủa điều tra về điều kiện tự nhiên tài nguyên, chính sách kinh tế chính trị xã hội liên quan đến việc phát triển ngành, các lợi ích của dự án sẽ đem lại cho vùng, lãnh thổ nơi thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời cũng đưa ra các mục tiêu của dự án đầu tư (tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, thay thế nhập khẩu...). Phân tích tình hình thị trường, đánh giá kết luận về nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu tương lai (khu vực, trong nước, ngoài nước nếu có dự kiến xuất khẩu) về cả số lượng, chất lượng, giá cả... các nguồn đáp ứng nhu cầu hiện tại. Dự báo mức độ gia tăng cung cấp cho tương lai, sự thiếu hụt so với nhu cầu thị trường. Các căn cứ về khả năng phát triển về năng lực sản xuất. Quy mô năng lực hiện tại của ngành và năng lực huy động. Đánh giá tình trạng hoạt động hiện tại và nhịp độ tăng trưởng tương lai... Dự báo số lượng, giá cả hàng hoá bán ra, khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất trong và ngoài nước, khả năng xâm nhập thị trường, hướng lựa chọn thị trường. Ba là, lựa chọn hình thức đầu tư, công suất Phân tích các điều kiện và lợi ích của việc huy động năng lực hiện tại, đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở đã có, so với đầu tư mới từ đó lựa chọn phương thức đầu tư. Phân tích các điều kiện, yếu tố để lựa chọn hình thức đầu tư (Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp quốc doanh...). Phân tích lựa chọn công suất thích hợp. Nêu các phương án và chọn công suất tối ưu, khả thi. Bốn là, chương trình sản xuất và các yêu cầu đáp ứng . Trong phần này nêu lên cơ cấu sản xuất: số lượng sản phẩm hàng năm, chất lượng giá cả. Số hàng bán dự kiến. Lượng lưu kho trung bình. Lịch trình sản xuất như thế nào (vận hành, chạy thử, chạy hết công suất ...). Bán thành phẩm, phế liệu. Các nhu cầu đầu vào và các giải pháp đảm bảo. Phải xác định được nhu cầu đầu vào cho từng loại sản phẩm và toàn bộ nhu cầu sản xuất hàng năm: Nhu cầu và đặc điểm nguyên vật liệu (vật liệu thô, các hoá phẩm, vật liệu đã qua chế biến, các sản phẩm nhập khẩu, vật liệu phụ...). Tình trạng cung ứng, yêu cầu dự trữ nguyên vật liệu. Chương trình cung cấp nguyên vật liệu sản xuất: các giải pháp về nguồn cung cấp (trong nước, nhập khẩu) phương thức cung ứng (quy hoạch sản xuất, mua theo hợp đồng, vận tải, nếu nhập khẩu cần xác định nguồn cung cấp hình thức nhập, điều kiện giao hàng, giá cả), phân tích các thuận lợi hạn chế, các ảnh hưởng bất lợi, hướng khắc phục. Lịch trình cung cấp, các chi phí cho từng lịch trình cung cấp. Các giải pháp đảm bảo kết cấu hạ tầng và phục vụ sản xuất. Các nhu cầu cung cấp điện, nước, hơi cho sản xuất, giao thông nội bộ và bên ngoài, kho bãi, thông tin, khả năng về nguồn, giải pháp cung cấp. Năm là, các phương án về khu vực địa điểm và địa điểm cụ thể (hoặc tuyến công trình). Mỗi dự án thường có ít nhất 2 phương án địa điểm. Phương án địa điểm phải thu thập đầy đủ các tài liệu điều tra cơ bản, tài liệu khảo sát đủ độ tin cậy. Sáu là, phần công nghệ kỹ thuật của dự án, bao gồm: (1) Công nghệ: Các phương án công nghệ sản xuất chủ yếu, quy trình sản xuất có thể chấp nhận, mô tả, phân tích, đánh giá mức độ hiện đại, tính thích hợp, kinh tế, những điểm ưu việt và hạn chế của công nghệ lựa chọn (thông qua so sánh một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như quy cách, chất lượng năng suất...). Nội dung chuyển giao công nghệ và sự cần thiết phải chuyển giao, phương thức thanh toán, điều kiện tiếp nhận. Những vấn đề môi trường sinh thái liên quan đến công nghệ, khả năng mức độ gây ô nhiễm hoặc làm biến đổi môi trường do việc hình thành công trình (nước, không khí, đất đai, tiếng ồn, phóng xạ, bụi do nguyên vật liệu...) và hậu quả có thể có. Đưa ra các giải pháp chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, các phương án xử lý chất thải... Các phương án trong lĩnh vực khác: Lựa chọn quy mô và phương án cung cấp nước, thoát nước cho dự án. Lựa chọn các phương án cung cấp điện, khí cho sản xuất.... (2) Thiết bị: Nêu các phương án về thiết bị. Danh mục thiết bị sản xuất chính, phụ, hỗ trợ, các phương tiện khác, phụ tùng thay thế, dụng cụ thiết bị văn phòng... Các phương án mua sắm thiết bị, so sánh, lựa chọn. Bẩy là, phần xây dựng và tổ chức thi công xây lắp. Về mặt xây dựng nêu được các phương án thi công xây dựng, xác định tiêu chuẩn cấp công trình, các giải pháp kiến trúc, phối cảnh, các phương án kết cấu của các hạng mục công trình, yêu cầu kỹ thuật, thiết bị xây lắp đáp ứng kết cấu được chọn. Các phương án xây dựng công trình bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khối lượng các hạng mục công trình, nhu cầu, điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng...Về mặt tổ chức thi công xây lắp và tổng tiến độ dự án: Nêu được các điều kiện tổ chức thi công, lựa chọn phương án thi công, các yêu cầu về thiết bị thi công... Tám là, tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động Xác định được nhu cầu nhân lực cách bố trí nhân lực, sơ đồ quản lý tổ chức sản xuất. Xác định các chi phí: Chi phí quản lý, chi phí nhân công, chi phí phân xưởng, chi phí hành chính, chi phí đào tạo, chi phí bảo hiểm... Chín là, phân tích tài chính – kinh tế. Đây là phần khá quan trọng đối với mội dự án đầu tư. Phần này phản ánh tính hiệu quả của dự án về mặt kinh tế. Khi phân tích tài chính của dự án: phải nêu được các chỉ tiêu thành phần vốn của dự án (vốn cố định, vốn lưu động, vốn dự phòng...). Nguồn vốn (vốn của đơn vị, vốn vay, ...). Các hình thức góp vốn, tiến độ thực hiện chi phí vốn... Tính toán hiệu quả tài chính của dự án: phải nêu ra được tổng chi phí dự án, doanh thu của dự án, lợi nhuận của dự án. Sau khi có các thông số lập biểu tính toán hiệu quả của dự án, tính điểm hoàn vốn, thời gian hoàn vốn, độ nhậy của dự án. Từ đó đưa ra các kết luận về mặt tài chính của dự án. Về mặt kinh tế - xã hội: dự án đã đem lại cho xã hội những lợi ích gì. Giá trị sản phẩm hàng hoá ra tăng. Tính đa dạng hoá sản phẩm của nền kinh tế, dự án đem lại việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp vào ngân sách quốc gia, thu hút nguồn ngoại tệ. Mười là, kết luận và kiến nghị Trong phần này, đưa ra các kết luận kiến nghị các chính sách và chế độ ưu đãi. 1.3 Hoạt động thẩm định dự án đầu tư của NHTM 1.3.1 Khái niệm thẩm định dự án đầu tư Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các dự án đầu tư và hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự án, người ta thường phân tích đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế xã hội… Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là “thẩm định dự án”. Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có khoa học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Đứng trên góc độ ngân hàng, thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét, phân tích một cách khách quan toàn diện, độc lập những nội dung cơ bản của dự án đầu tư đồng thời đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay đảm bảo hiệu qủa an toàn. 1.3.2 Vai trò của thẩm định dự án đầu tư Đối với chủ đầu tư: Ngân hàng với kinh nghiệm của mình trong thẩm định dự án đầu tư có thể tư vấn cho doanh nghiệp phương án đầu tư có hiệu quả mà bản thân doanh nghiệp do thiếu khả năng phân tích tổng hợp, thiếu thông tin không thể lựa chọn được. Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Thẩm định dự án đầu tư giúp các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và cả nước trên các mặt: mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Đối với nền kinh tế: Thẩm định dự án đầu tư giúp xác định được sự lợi hại của dự án khi đi vào hoạt động trên khía cạnh: cộng nghệ, vốn, ô nhiễm môi trường và các lợi ích kinh tế - xã hội khác. Nền kinh tế đang cần các dự án đầu tư phát triển phục vụ cho sự pháp triển đất nước song đó là các dự án có hiệu quả kinh tế xã hội và lợi ích nhiều mặt khác. Đầu tư kém hiệu quả, sai mục đích có thể đem đến những nguy hại. Hơn nữa với điều kiện hạn chế về vốn đầu tư của mình, ngân hàng đã giúp nền kinh tế có những dự án thực sự tốt, đem lại hiệu quả đầu tư như mong muốn. Đối với ngân hàng: Nếu ngân hàng làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn lẫn lãi đúng hạn, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh, an toàn và hiệu quả. Bởi vậy thẩm định dự án đầu tư là việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, thể hiện: (1) Rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế của phương án hoặc dự án vay vốn, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xẩy ra để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay một cách đúng đắn và chính xác nhất. (2) Tham gia góp ý cho chủ đầu tư về phương án sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc và lãi đúng hạn và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. (3) Xác định khả năng và ý muốn của người cho vay trong việc trả nợ vay (cả gốc lẫn lãi) phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng. (4) Là cơ sở để xác định mức rủi ro có thể chấp nhận, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. (5) Rút ra kinh nghiệm và bài học để thực hiện các dự án sau được tốt hơn. Vì vậy, trong công tác thẩm định dự án đầu tư, phải rất thận trọng để đem lại sự an toàn cần thiết cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời không bỏ lỡ cơ hội đầu tư có lãi, phục vụ khách hàng đầu tư có hiệu quả. 1.3.3 Nội dung của thẩm định dự án đầu tư Các cán bộ tín dụng của ngân hàng cần thẩm định các nội dung sau của dự án đầu tư: * Thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án Khi thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án thì cần phải xem xét xem dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương. Phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, địa phương có liên quan. Dự án có thuộc đối tượng sản xuất kinh doanh trong đăng ký kinh doanh không. Mỗi dự án bao giờ cũng có bộ hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý của dự án bao gồm các giấy phép, quyết định liên quan đến dự án mà chủ đầu tư đang thực hiện như: Báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy phép xây dựng hoặc giấy chứng nhận đầu tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê đất, các văn bản pháp lý khác có liên quan đến dự án đầu tư... * Thẩm định sự cần thiết của dự án Khi tiến hành thẩm định dự án, trước hết ngân hàng phải xem xét đến các mục tiêu, định hướng của dự án bởi vì dự án được thực hiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá, hoạt động xuất nhập khẩu trong nước, môi trường tự nhiên... Như vậy, cần phải thẩm định đánh giá xem xét dự án có thật sự cần thiết trong tình hình hiện nay không, có phù hợp với xu hướng phát triển ngành của vùng, đất nước không, có tuân thủ đúng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển của bộ ngành... Muốn vậy, ngân hàng cần đối chiếu mục tiêu và phương hướng phát triển của dự án với mục tiêu, định hướng chung của ngành, địa phương và những quyết định của nhà nước trong tương lai. Tuỳ theo từng dự án theo đuổi mục tiêu nào mà ngân hàng sẽ chú trọng đến mục tiêu đó. Song điều quan trọng là dự án đã đem lại lợi ích cho chủ đầu tư, ngân hàng và xã hội. * Thẩm định phương diện thị trường Thị trường là một nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Một dự án ngày càng có vị thế và chỗ đứng trên thị trường thì khả năng thu hồi vốn của ngân hàng ngày càng trở lên chắc chắn hơn. Thẩm định phương diện thị trường của dự án là để xác định các yếu tố: Thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ mà dự án sẽ mang lại tại thời điểm hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ mà dự án mang lại như thế nào. Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thuận lợi. Khả năng canh tranh của các sản phẩm cùng loại có sẵn hoặc các sản phẩm sẽ được sản xuất sau này. Thẩm định môi trường của dự án cán bộ thẩm định phải thẩm địch các nội dung sau: + Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ Đánh giá nhu cầu thị trường đối với loại sản phẩm của dự án là một vấn đề tối cần thiết với các nhà sản xuất. Nó có tính chất quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là một vấn đề rất phức tạm mang nặng tính lý thuyết, vận dụng vào thực tế gặp nhiều khó khăn. Do vậy việc dự đoán, dự báo thường sai lệch so với thực tế và được điều chỉnh trong quá trình thực hiện dự án. Để xác định được nhu cầu sản phẩm thì phải phân loại thị trường và để xác định được mức tiêu hao sản phẩm thì cần có các thông số để đo lường cụ thể như: khối lượng sản xuất trong năm, mức tồn kho cuối năm của sản phẩm, giá cả của sản phẩm...Các số liệu này có thể lấy từ các cơ quan thống kê hoặc tự doanh nghiệp điều tra. + Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai. Việc dự báo nhu cầu trong tương lai ngoài việc dựa vào nhu cầu và mức tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ thì cần phải xem xét thêm một số yếu tố: Tính đàn hồi của nhu cầu so với giá, tính đàn hồi của cầu so với thu nhập, các yếu tố khác ảnh hưởng đến nhu cầu, dự đoán nhu cầu cho một số các nhóm hàng tiêu biểu. + Vấn đề về tiếp thị và khuyến thị Việc xác định có nhu cầu của thị trường về sản phẩm của dự án mới chỉ cho phép giải quyết một số vấn đề về tiêu thụ sản phẩm còn làm thế nào để người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình thay vì sử dụng sản phẩm của các dự án khác lại thuộc về khâu tiếp thị và khuyến thị. Tiếp thị và khuyến thị có nghĩa là xác định bằng cách nào với chi phí bao nhiêu để có thể tiêu thụ được sản phẩm của dự án. Tiếp thị là đưa sản phẩm đến tận tay của người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Khi tiếp thị cần phải xem xét một số vấn đề: đối tượng khách hàng, cách thức phân phối sản phẩm, các chi phí để đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng. Mỗi một khách hàng có một cách tiếp cận và phân phối sản phẩm khác nhau. Khuyến thị là một bộ phận chủ chốt của tiếp thị. Mục tiêu của khuyến thị là làm sao người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình thay vì sử dụng sản phẩm cùng loại của các cơ sở khác. + Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm Có nhiều loại sản phẩm khác nhau sẽ đem đến nhiều loại hình lựa chọn khác nhau cho người tiêu dùng. Có những sản phẩm độc quyền nhưng cũng có những sản phẩm cho nhiều loại để thay thế. Bên cạnh đó cũng có nhiều nhà sản xuất cùng một loại sản phẩm. Chính vì vậy, để có thể tiêu thụ sản phẩm thuộc dự án của mình nhà đầu tư nói riêng và ngân hàng nói chung cũng cần phải xem xét đến tính cạnh tranh của sản phẩm mình sản xuất ra. Nhất là nếu sản phẩm của mình lại là loại sản phẩm có nhiều loại thay thế và có nhiều trên thị trường. Để xem xét được khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án người ta có thể áp dụng phương pháp điều tra mẫu hoặc so sánh sản phẩm của dự án với các sản phẩm cùng loại khác. Vấn đề giá và ưu thế về vốn của nhà đầu tư cũng là một vấn đề để kh._.ẳng định vị thế trên thị trường. Nhưng nhìn chung để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì cần phải nắm rõ được một số thông tin: danh sách các đối thủ cạnh tranh, quy mô sản xuất của các đối thủ, các mặt mạnh, mặt yếu của họ. Vị thế cạnh tranh của dự án xem dự án có chỗ đứng trên thị trường không. Đưa ra những điềm mạnh và điểm yếu của dự án tìm cách khắc phục các điểm yếu. * Thẩm định phương diện kỹ thuật Thẩm định về phương diện kỹ thuật khá phức tạp đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ hiểu biết nhất định về các khía cạnh kỹ thuật của dự án. Tuỳ từng dự án mà nội dung phân tích về phương diện kỹ thuật khác nhau. Không có mô hình nào có thể áp dụng chung trong việc phân tích phương diện kỹ thuật. Tuy nhiên, để phân tích đánh giá được kỹ thuật của dự án người ta thường đánh giá ở các khía cạnh như đặc tính của sản phẩm và đánh giá chất lượng, phương pháp và kỹ thuật sản xuất. Đặc tính và công suất của máy móc thiết bị, đặc tính và nhu cầu nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng, địa điểm xây dựng nhà máy, vấn đề về xử lý chất thải... Do đó, tuỳ theo từng dự án cụ thể mà có thể xem xét các kỹ thuật của dự án ở những góc độ khác nhau. Khi đánh giá về phương diện kỹ thuật của dự án cán bộ thẩm định đi vào các nội dung sau: - Đánh giá đặc tính và chất lượng của sản phẩm: Để thực hiện được việc đánh giá đặc tính của sản phẩm thì cần xem về mặt lý học, hoá học của sản phẩm. So sánh với các sản phẩm tương tự trong nước và ngoài nước. Các hình thức đóng gói bao bì, các công dụng và cách sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và chất thải... Xét về mặt chất lượng của sản phẩm thì cần có các phương pháp và phương tiện để kiểm tra sản phẩm. Xác định các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng sau khi đã xác định phương pháp kiểm tra. - Phương pháp và kỹ thuật sản xuất, công suất của máy móc thiết bị Để tạo ra sản phẩm có nhiều phương pháp và kỹ thuật sản xuất khác nhau. Mỗi một loại hình kỹ thuật sẽ cho ra sản phẩm và đặc tính chất lượng và giá thành khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu để lựa chọn ra được phương pháp và kỹ thuật sản xuất phù hợp với loại sản phẩm của dự án, phù hợp với điều kiện máy móc thiết bị, phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của dự án. Việc nghiên cứu kỹ thuật và phương pháp sản xuất cần đươc tiến hành theo các khía cạnh sau: Bản chất của kỹ thuật sản xuất, yêu cầu về tay nghề của người sử dụng, khả năng tiếp thu kỹ thuật, yêu cầu về nguyên vật liệu, năng lượng sử dụng. Khả năng chuyển sang sản xuất mặt hàng khác trong trường hợp mặt hàng cũ không còn nhu cầu hoặc chức năng không còn phù hợp nữa. Nhà cung cấp, cách thức cung cấp và quyền sở hữu công nghiệp, yêu cầu về vốn đầu tư và ngoại tệ. Đối với các sản phẩm đơn giản thì có kỹ thuật sản xuất đơn giản và ngược lại. Song đối với các sản phẩm phước tạp và đòi hỏi kỹ thuật cao thì khả năng lựa chọn công nghệ là ít. Sau khi nghiên cứu kỹ thuật – phương pháp sản xuất khác nhau thì cần phải lựa chọn một phương pháp sản xuất - kỹ thuật thích hợp nhất phù hợp với điều kiện thực tế hiện có của dự án mà vẫn đảm bảo đáp ứng được mọi yêu cầu về chất lượng, số lượng sản phẩm với chi phí hợp lý. Việc lựa chọn kỹ thuật công nghệ chú ý tránh lựa chọn các kỹ thuật quá mới mẻ hoặc đang thử nghiệm chưa có tính thực tế. Tuy nhiên cũng cần tránh việc lựa chọn các kỹ thuật quá lạc hậu không đem lại hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất. Để lựa chọn công nghệ cần chú ý đến việc áp dụng công nghệ ở đâu, khả năng về vốn và lao động thế nào, xu hướng lâu dài của công nghệ, khả năng vận hành và quản lý công nghệ có hiệu quả không.... Khi đã quyết định là sử dụng công nghệ nào thì việc lựa chọn máy móc thiết bị để sử dụng hiệu quả công nghệ đó cũng là vấn đề nhà đầu tư phải quan tâm. Khi lựa chọn máy móc thiết bị thì cần có một danh mục thiết bị máy móc như: máy móc thiết bị chính trực tiếp sản xuất, thiết bị phụ trợ, thiết bị vận chuyển, thiết bị bảo dưỡng thay thế... Sau khi đã lựa chọn máy móc thiết bị thì ta cần phải biết được công suất của máy thế nào có đủ để đáp ứng đúng như nhu cầu của dự án không. Để từ đó đưa ra quyết định cuối cùng về việc lựa chọn công nghệ và máy móc thiết bị cho dự án. - Thẩm định việc cung cấp các yếu tố đầu vào khác Để đánh giá việc cung cấp các yếu tố đầu vào cán bộ thẩm định phải kiểm tra việc tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu năng lượng, điện, nước...trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh mức tiêu hao thực tế, kinh nghiệm các doanh nghiệp đang hoạt động. Đối với nguyên vật liệu thời vụ cần tính toán mức dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu thường xuyên, tránh ứ đọng vốn. Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc khan hiếm cần xem xét khả năng cung ứng thực tế trong và ngoài nước qua các hợp đồng hoặc các văn bản cam kết của doanh nghiệp với các nhà cung cấp về số lượng quy cách, chất lượng, giá cả, điêu kiện giao hàng, thanh toán... Đối với các dự án khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản, phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, đánh giá phân tích về trữ lượng, hàm lượng chất lượng tài nguyên, giấy phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án hoạt động lâu dài. - Thẩm định về lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án Việc lựa chọn địa điểm đầu tư đúng cũng góp một phần vào sự thành công của dự án. Chính vì vậy việc lựa chọn địa điểm đầu tư cần phải được cân nhắc cẩn thận và đảm bảo các nguyên tắc: Địa điểm gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc gần nơi tiêu thụ chính. Gần nơi có giao thông thuận tiện (đường bộ, đường biển, đường sông...) có chi phí vận chuyển hợp lý để hạ giá thành sản phẩm. Tận dụng cơ sở hạ tầng có sẵn: đường sá, bến cảng, điện nước... Mặt bằng cần đủ rộng không những phù hợp với quy mô hiện tại mà còn dự phòng cho phát triển mở rộng trong tương lai, đặt yêu cầu về vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy chữa cháy... Địa điểm xây dựng phù hợp với quy hoạch chung của vùng, phải tuân thủ đúng các văn bản pháp luật về đất đai, xây dựng, giải phóng mặt bằng...Tất cả các vấn đề trên cần được khảo sát lựa chọn kỹ lưỡng để đưa ra một phương án tối ưu nhất. - Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện dự án Đây là một yếu tố quan trọng liên quan đến việc sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất, kế hoạch cho vay thu nợ của ngân hàng. Khi kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch thực hiện dự án thì cần xác định được thứ tự ưu tiên để tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm. Tránh tình trạng dàn đều tất cả các hạng mục cùng một lúc sẽ không có hiệu quả thậm chí có thể dẫn đến lãng phí về nguyên liệu, nhân công không cần thiết. *Thẩm định nội dung tổ chức, quản lý thực hiện vận hành dự án Trong phần này cán bộ thẩm định cần phải nắm được rõ mô hình thực hiện quản lý dự án của chủ đầu tư như thế nào. Cách thức quản lý ra sao, năng lực của chủ đầu tư. Nguồn lao động của dự án. Để từ đấy có thể tư vấn cho chủ đầu tư cách thức nào là hợp lý và phù hợp với dự án nhất. *Thẩm định tài chính của dự án Tài chính dự án là một phần nội dung quan trọng trong tổng thể của dự án. Bất kỳ một dự án nào dù là tiền khả thi hay khả thi thì cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của dự án. Đối với ngân hàng phân tích tình hình tài chính lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Chính vì vậy đây là một công việc mà các bộ thẩm định không thể bỏ qua trong thẩm định dự án đầu tư. Ngoài ra thông qua việc phân tích tài chính của dự án còn cho ta xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ cho dự án, tính toán thu chi lỗ lãi những lợi ích thiết thực mang lại cho nhà đầu tư và cả cộng đồng. Việc tính toán, phân tích tình hình tài chính của dự án được tiến hành theo nội dung sau: - Xác định vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ. - Tính toán các khoản thu, chi, lợi nhuận. - Xác định các chỉ tiêu hiệu quả và các vấn đề liên quan khác. * Xác định vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ: Đây là việc đầu tiên khi tiến hành phân tích tài chính của dự án. Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dựa án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết lập và đưa dự án vào hoạt động. Tổng mức vốn này được chia thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động ban đầu (chỉ tính cho 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên), vốn dự phòng. Vốn cố định bao gồm: chi phí chuẩn bị cho dự án, chi phí cho xây lắp và mua máy móc thiết bị. Vốn lưu động ban đầu gồm các chi phí để tạo ra các tài sản lưu động ban đầu (cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên) nhằm đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế, kỹ thuật đã dự tính. Nó bao gồm vốn sản xuất, vốn lưu động. Vốn dự phòng: là vốn mà chủ đầu tư phải để ra để dự phòng cho dự án. Thông thường nguồn vốn này sẽ được chủ đầu tư tính bằng 10% tổng vốn đầu tư. Sau khi xác định được tổng vốn đầu tư thì cần phải xem cơ cấu vốn tham gia vào dự án như thế nào. Vốn tự có của chủ dự án tham gia là bao nhiêu, vốn vay là bao nhiêu, các nguồn vốn huy động khác là bao nhiêu. Đối với một dự án nguồn vốn tham gia thường là từ nhiều nguồn khác nhau: có thể vốn đi vay từ trong nước, ngoài nước, vốn ngân sách, vốn liên doanh liên kết, vốn cổ phần và các nguồn vốn khác. Tuy nhiên, nhà đầu tư nói chung và ngân hàng cũng cần xem xét đến tính hợp lý cơ cấu của các nguồn vốn tham gia. Nếu nguồn vốn đi vay để thực hiện dự án quá lớn sẽ dấn đến chủ đầu tư gặp khó khăn tài chính vì gánh nặng về lãi suất. *Xác định các khoản thu chi, lợi nhuận. Sau khi đã xác định được rõ nguồn vốn đầu tư thì điều quan trọng là phải xác định được dòng tiền của dự án để đánh giá được tính khả thi của dự án. Để xác định được dòng tiền của dự án thì cần xác định được luồng tiền ra luồng tiền vào, xác định được lợi nhuận của dự án qua các năm. Dòng tiền ra của dự án là các khoản chi phí để thực hiện dự án bao gồm: chi phí đầu tư tài sản cố định, chi phí hoạt động, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí quản lý, chi phí bán hàng, chi phí lãi vay, thuế thu nhập phải nộp, các loại chi phí khác,… Dòng tiền vào của dự án là các khoản tiền chảy vào dự án: các nguồn vốn tài trợ, doanh thu hàng năm của dự án, giá trị thanh lý tài sản, vốn lưu động được giải phóng khi kết thúc dự án. Lợi nhuận của dự án là khoản tiền thu được hàng năm sau khi đã trừ đi tất cả các khoản chi phí. Dòng tiền ròng (thu nhập ròng) = Lợi nhuận sau thuế + khấu hao TSCĐ * Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án Chỉ tiêu 1: Giá trị hiện tại ròng (Net Present Value – NPV) Giá trị hiện tại ròng của dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của luồng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư. Để tính được giá trị hiện tại ròng ta phải quy giá trị dòng tiền về một năm gốc (thường là năm hiện tại của dự án) nhất định. Công thức tính: (1) Trong đó: NPV: Giá trị hiện tại ròng tại thời điểm ban đầu. CF0: Vốn đầu tư ban đầu CF1, CF2, ..., CFn: là các luồng tiền ròng dự tính trong tương lai i: là tỷ lệ chiết khấu n: số năm dòng đời của dự án Giá trị hiện tại ròng đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính của dự án đem lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro có thể của dự án. Khi NPV<0 dự án bị lỗ, phản ánh dự án không có hiệu quả, các khoản thu không đủ bù bắp được các khoản chi phí bỏ ra để thực hiện dự án. Khi NPV>0 dự án lãi, phản ánh dự án có hiệu quả, các khoản thu được từ dự án đủ để bù đắp các khoản chi phí bỏ ra để thực hiện dự án và có lãi. Khi NPV=0 điều đó có nghĩa là dự án thực hiện được chỉ đủ hoàn vốn mà không sinh ra lợi nhuận. Đây là điểm hoà vốn của dự án, các khoản thu từ dự án chỉ đủ bù đắp các khoản chi cho dự án. Đối với chủ đầu tư để có thể lựa chọn được một dự án khả thi thì họ bao giờ cũng quan tâm đến giá trị của NPV tại thời điểm hiện tại cao hay thấp. Dự án nào có NPV càng cao thì đồng nghĩa với hiệu qủa của dự án càng cao. Đó cũng là một trong những điều kiện đánh giá tính hiệu quả của dự án. Tính NPV cho biết quy mô về số tiền lãi ròng có thể thu được khi thực hiện dự án. Tuy nhiên chỉ tiêu này lại phụ thuộc nhiều vào lãi suất chiết khấu. Khi lãi suất tăng thì NPV nhỏ và ngược lại. Chỉ tiêu này rất nhạy cảm với sự tăng giảm của lãi suất. Chính vì vậy khi tính toán chỉ tiêu này cần phải xác định mức lãi suất thật chính xác phù hợp với điều kiện thực tế. Chỉ tiêu 2: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return – IRR) Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR là một chỉ tiêu được dùng phổ biến nhất hiện nay. IRR là mức lãi suất tối đa mà dự án chịu đựng được hay nói cách khác tại mức IRR đó dự án hoà vốn, các khoản thu từ dự án bằng các khoản chi của dự án. IRR của dự án là tỷ lệ lãi suất phải đủ trả cho các khoản vay trong suốt thời gian hoạt động của dự án để đảm bảo dự án không bị lỗ thì dự án mới được chấp nhận. Cách tính IRR Để xác định được IRR ta phải tính NPV tại hai mức lãi suất khác nhau. Tại mức lãi suất r1 thì tính được mức NPV1 >0 và tại mức r2 thì tính mức NPV2<0. Công thức tính IRR (2) IRR tìm được thường phải lớn hơn hoặc bằng lãi suất định mức (thường là lãi suất vay thực tế). Nếu IRR tìm được mà nhỏ hơn lãi suất vay thực tế thì dự án có thể coi như không hiệu quả vì dự án không chịu đựng được với mức lãi suất vay hiện tại. IRR tìm được càng lớn thì chứng tỏ dự án chịu đựng được với mức lãi suất khá cao. Tại mức lãi suất cho vay dự án có hiệu quả. Tính IRR có thể cho ta biết mức lãi suất tối đa mà dự án chịu đựng được hay chấp nhận được. Nhưng lại không cho biết quy mô cũng như độ lớn của dự án đầu tư. Chỉ tiêu 3: Thời gian hoàn vốn của dự án (Payback Period - PP): Thời gian hoàn vốn của một dự án đầu tư là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu hay chính là thời gian dự tính cần thiết để các luồng tiền ròng của dự án bù đắp được toàn bộ chi phí của nó. Công thức tính: (3) Trong đó: T: Thời gian hoàn vốn của dự án C: Vốn đầu tư ban đầu LR: Lãi ròng hàng năm KH: Khấu hao hàng năm Chú ý: - Công thức (3) áp dụng khi lãi ròng hàng năm là bằng nhau và khấu hao hàng năm cũng bằng nhau. - Nếu trong dự án có vay vốn để thực hiện, trong trường hợp lãi vay trả hàng năm bằng nhau thì mẫu số của công thức (3) cộng thêm phần lãi vay. - Nếu lãi ròng, khấu hao và lãi vay hàng năm không bằng nhau thì ta có thể tính thời gian hoàn vốn bằng cách lập bảng tính. - Nếu áp dụng giá trị đồng tiền theo thời gian thì ta cần phải tính các khoản chi phí, thu nhập đã chiết khấu để đưa về hiện tại. Kết quả tính toán phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu. Lãi suất này càng lớn thì số tiền bị chiết khấu đi càng nhiều do đó thời gian hoàn vốn càng dài. Chính vì vậy cần phải xem xét lựa chọn lãi suất chiết khấu sao cho hợp lý, thường lấy bằng lãi suất thu lợi tối thiểu có thể chấp nhận được. Việc tính toán thời gian hoàn vốn giúp nhà đầu tư cũng như ngân hàng biết được thời gian thu hồi vốn của dự án là bao lâu để phục vụ cho sự ra quyết định có đầu tư hay không. Tuy nhiên, chỉ tiêu này không cho biết thu nhập sau khi hoàn vốn có nhiều hay không. Có những dự án thời gian hoàn vốn dài nhưng lợi nhuận đem lại sau hoàn vốn lại cao thì cũng có thể là dự án tốt. Chỉ tiêu 4: Điểm hoà vốn của dự án: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu của dự án vừa đúng bằng tổng chi phí hoạt động. Điểm hoà vốn được biểu hiện bằng số đơn vị sản phẩm hoặc giá trị của doanh thu. Cách tính: Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán được. Gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn f: là chi phí cố định v: là chí phí biên đổi v.x: là tổng biến phí p: là đơn vị sản phẩm Ta có hệ phương trình sau: Doanh thu: yDT = px Chi phí: yCP = vx +f Tại điểm hoà vốn thì doanh thu bằng chi phí từ đó ta suy ra yDT = yCP px = vx0 + f Þ Sản lượng hoà vốn: Þ Doanh thu hòa vốn: Nếu điểm hoà vốn càng thấp tức x0 hoặc y0 càng nhỏ thì khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Thời gian phân tích hoà vốn thường được tính cho từng năm hoạt động, cho một năm đại diện nào đó hoặc cho cả thời gian hoạt động của dự án. Chỉ tiêu 5: Phân tích độ nhậy của dự án Một dự án thường có tuổi thọ dài nhưng các tính toán trong dự án lại dựa trên các giả định mà thực tế thường không đúng giả định, do đó dự án có thể không bền vững. Khi một yếu tố đầu vào thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các yếu tố đầu ra và đồng thời ảnh hưởng đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án (NPV, IRR...). Phân tích độ nhậy của dự án là kỹ thuật chỉ ra chính xác sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV, IRR...) khi có sự thay đổi các yếu tố đầu vào, đầu ra dự tính (chi phí nguyên vật liệu, giá bán sản phẩm...). * Thẩm định lợi ích kinh tế - xã hội Trên thực tế cho thấy không phải dự án nào có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, cần phải xem xét đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư có những tác động gì đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, có nghĩa là phải xem xét đến khía cạnh kinh tế - xã hội. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho dự án. Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của dự án đối với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường cải tạo môi sinh..., hoặc đo lường bằng cách tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức tăng thu ngoại tệ. Một dự án khi chứng minh được rằng sẽ đem lại cho xã hội một lợi ích lớn hơn cái giá mà xã hội phải trả thì dự án mới xứng đáng được hưởng những ưu đãi mà nền kinh tế dành cho nó. 1.3.4. Phương pháp thẩm định dự án Hiện nay có ba phương pháp thẩm định thường được sử dụng. * Phương pháp so sánh: Về thực chất, phương pháp so sánh là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng hoặc đang hoạt động. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc đánh giá hợp lý và chính xác các chỉ tiêu của dự án. Từ đó có thể rút ra kết luận đúng đắn về dự án để đưa ra quyết định đầu tư được xác định. Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu: Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do nhà nước quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được. Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia, quốc tế. Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi. Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, sản xuất đầu tư. Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu nhân công, tiền lương, chi phí quản lý ... của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật chính thức hoặc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế. Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư (ở mức trung bình tiên tiến). Các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với các hướng dẫn, chỉ đạo của nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại. Các chỉ tiêu trong trường hợp có dự án và chưa có dự án. Trong việc sử dụng phương pháp so sánh thì các chỉ tiêu dùng để so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và doanh nghiệp tránh khuynh hướng so sánh máy móc cứng nhắc. * Phương pháp thẩm định theo trình tự Theo phương pháp này, việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. - Thẩm định tổng quát: Là việc xem xét tổng quát các nội dung cần thẩm định của dự án, qua đó phát hiện các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý cần phải đi sâu xem xét. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô tầm quan trọng của dự án, vì xem xét tổng quát các nội dung của dự án, do đó ở giai đoạn này khó phát hiện các vấn đề cần phải bãi bỏ hoặc các sai sót của dự án cần bổ xung hoặc sửa đổi. Chỉ khi tiến hành thẩm định chi tiết, những vấn đề sai sót của dự án mới được phát hiện. - Thẩm định chi tiết: Được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định này được tiến hành với từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến phân tích hiệu quả tài chính và kinh tế - xã hội của dự án. Mỗi nội dung xem xét đều đưa ra những ý kiến đánh giá đồng ý hay cần phải sửa đổi thêm hoặc có thể chấp nhận được. Tuy nhiên mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án. Trong bước thẩm định chi tiết, kết luận rút ra nội dung trước có thể là điều kiện để tiếp tục nghiên cứu. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có thể bác bỏ dự án mà không cần đi vào thẩm định toàn bộ các chỉ tiêu tiếp theo. * Phương pháp thẩm định dự án được dựa trên việc phân tích độ nhạy cảm của dự án Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đối với dự án, như vượt chi phí đầu tư, sản lượng đạt thấp, giá các chi phí đầu vào tăng và giá tiêu thụ sản phẩm giảm, có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi ... Khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án. Mức độ sau lệch so với dự kiến của các bất trắc thường chọn từ 10% đến 20% và nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần phải xem lại khả năng phát sinh bất trắc để đề xuất các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hạn chế. Dùng phương pháp này sẽ có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng sẽ gặp không ít rủi ro và các điều kiện khách quan khác. 1.3.5 Nhân tố ảnh hưởng đến thẩm định dự án đầu tư 1.3.5.1. Nhân tố bên trong * Nhân tố con người Thẩm định dự án đầu tư là việc đưa ra quyết định đầu tư trên quan điểm cá nhân nhưng chất lượng thẩm định lại ảnh hưởng đến tài sản toàn Ngân hàng. Nếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm thì quyết định đầu tư tuy chỉ dựa trên quan điểm cá nhân cũng chính xác và hiệu quả hơn. Mặc khác, tư cách đạo đức tốt cũng là một điều kiện cần cho cán bộ thẩm định nhằm hạn chế rủi ro đạo đức ngân hàng. Nhân tố con người luôn chi phối mọi hoạt động trong quá trình thẩm định dự án từ khâu tiếp nhận hồ sơ xin vay, thu thập thông tin cho đến khi cho vay và thu nợ. Vì vậy, trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dự án. * Phương pháp thẩm định Các ngân hàng thường hay sử dụng phương pháp so sánh trong khi thẩm định. Một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính chủ yếu của dự án như khả năng thanh toán, thời gian thu hồi vốn, cơ cấu vốn, doanh lợi vốn tự có... sau khi đem phân tích và tính toán sẽ được đem so sánh. Vấn đề cốt lõi là khi áp dụng phương pháp này là ngân hàng căn cứ vào mức chuẩn nào để đánh giá về mặt tài chính của dự án. Trên thực tế, các chỉ số được đem ra làm chuẩn để so sánh là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của các dự án tương tự đã và đang được thực hiện. * Chất lượng thu thập thông tin Hiện nay, việc thu thập thông tin liên quan đến dự án đều do cán bộ thẩm định ngân hàng đảm nhiệm. Mọi nguồn thông tin ngân hàng có được phần lớn dựa vào các tài liệu mà người vay gửi đến. Đồng thời ngân hàng dựa vào nguồn thông tin đại chúng về doanh nghiệp mà các thông tin này không mang tính chất pháp lý, chỉ có ý nghĩa tham khảo khi phân tích, đánh giá. Bên cạnh đó, việc sàng lọc xử lý thông tin của ngân hàng nhiều khi không cẩn thận, Do vậy chưa phát hiện ra được những sai lệch, méo mó trong các báo cáo tài chính cũng như những điểm bất hợp lý trong các dự án đầu tư mà doanh nghiệp gửi đến. Vấn đề này dẫn đến việc tính toán thiếu chính xác mức hiệu quả dự án của các ngân hàng. * Công tác tổ chức điều hành Tổ chức điều hành là việc bố trí, sắp xếp, quy định trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân bộ phận tham gia thẩm định, trình tự tiến hành cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân, bộ phận đó trong việc thực hiện. Yếu tố này ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng thẩm định, nó có thể tạo điều kiện nâng cao chất lượng thẩm định song cũng có thể là một nhân tố kìm hãm từ bên trong nội bộ ngân hàng. 1.3.5.2. Nhân tố bên ngoài * Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đến vay vốn ngân hàng đều phải có phương án hoạt động sản xuất kinh doanh đã được soạn thảo kỹ lưỡng. Để có thể nhận được các khoản vay từ phía ngân hàng, không chỉ đòi hỏi dự án phải đạt hiệu cao, ít rủi ro tiềm ẩn mà còn cần doanh nghiệp phải có “lý lịch đẹp” cũng như tiềm lực tài chính vững mạnh trong quá khứ và hiện tại. Mọi yếu tố trên đều ảnh hưởng đến các số liệu, nội dung trong các báo cáo tài chính, thuyết minh giải trình dự án và những thông tin khác mà bản thân doanh nghiệp, dự án cung cấp là không đầy đủ, thiếu trung thực. * Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô Một lĩnh vực thông tin khác cũng hết sức quan trọng và cần thiết đối với công tác thẩm định là thông tin về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, ngành địa phương, thông tin về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, môi trường kinh doanh của dự án, thông tin mang tính pháp luật có liên quan đến công tác quản lý đầu tư dự án như luật đầu tư, thương mại, hợp đồng kinh tế, đất đai ..... * Các nhân tố khác Một dự án đầu tư thường có tuổi thọ dài, do đó các nhân tố môi trường bên ngoài như tình hình kinh tế, sức ép cạnh tranh trong ngành, các quy định của pháp luật cũng có những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng. Khi rủi ro bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh xảy ra, ngân hàng cũng không thể thu hồi vốn bởi loại rủi ro này cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới dự án và doanh nghiệp không thể chống đỡ được. Các quyết định, chính sách của Chính phủ cũng như các văn bản điều chỉnh lãi suất quy chế cho vay của Ngân hàng Trung ương cũng tác động đến chất lượng công tác thẩm định dự án. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỦ ĐÔ 2.1 Giới thiệu chung về chi nhánh NHNo & PTNT Thủ Đô 2.1.1 Bối cảnh ra đời NHNo & PTNT Chi nhánh Thủ Đô là một chi nhánh trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam có trụ sở tại 91 Phố Huế - Hai Bà Trưng – Hà Nội. Tiền thân của chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Thủ Đô là chi nhánh NHNo & PTNT Bùi Thị Xuân có trụ sở tại Số 40 Bùi Thị Xuân Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội phụ thuộc Chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hà Nội. Căn cứ vào quyết định số 146/HDQT-TCCB ngày 29/2/2008 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam điều chuyển Chi Nhánh NHNN & PTNT Bùi Thị Xuân phụ thuộc Chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hà Nội về phụ thuộc NHNo & PTNT Việt Nam, có con dấu, bảng cân đối tài khoản, được tổ chức và hoạt động theo quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam. Để thuận lợi hơn trong giao dịch, quảng bá thương hiệu Agribank, cũng như thu hút được nhiều khách hàng Chi nhánh NHNo & PTNT Bùi Thị Xuân trình NHNo & PTNT Việt Nam chuyển địa điểm giao dịch của Chi nhánh từ 40 Bùi Thị Xuân sang 91 Phố Huế nơi tập chung nhiều DNNN, Cổ phần, TNHH, Hộ sản suất , kinh doanh thương mại và đổi tên thành NHNo & PTNT Chi nhánh Thủ Đô và đi vào hoạt động và ngày 01/04/2008. Hiện nay Chi nhánh có 4 phòng giao dịch: PGD số 8 tại Mai Dịch-Cầu Giấy- Hà Nội; PGD số 9 tại Ngô Quyền – Hoàn Kiếm – Hà Nội; PGD Bùi Thi Xuân tại số 40 Bùi Thị Xuân- Hà Nội; PGD Hai Bà Trưng tại 126 Hai Bà Trưng – Hà Nội. Trong đó 2 PGD Bùi Thị Xuân và Hai Bà Trưng là 2 PGD mới được mở trong năm 2008, Các Phòng giao dịch và Chi nhánh đều đã đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả. 2.1.2 Chức năng nhiệm vụ của chi nhánh NHNo & PTNT Thủ Đô Theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước và điều lệ hoạt động của NHNo & PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT Thủ đô có những chức năng và nhiệm vụ như sau: * Phòng Kế hoạch và Kinh doanh có các chức năng và nhiệm vụ sau: - Chức năng: + Tham mưu cho Ban Giám đốc về: Chiến lược, Kế hoạch phát triển Kinh doanh, nghiên cứu áp dụng các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng tại Chi nhánh. + Trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ về Kế hoạch, huy động vốn, cấp tín dụng đối với khách hàng. - Nhiệm vụ: + Xây dựng Kế hoạch và tổ chức quyết toán kế hoạch quý, 6 tháng, năm của Chi nhánh. Tổng hợp xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch quý, năm. + Xây dựng chiến lược Khách hàng, Phân loại loại Khách hàng. Đề xuất các chính sách thu hút Khách hàng nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. + Tiếp nhận và thực hiện các chương trình dự án thuộc nguồn vốn trong nước. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, Ngành khác và các tổ chức kinh tế cá nhân trong nước. + Hướng dẫn, kiểm tra theo chuyên đề kế hoạch, huy động vốn, cấp tín dụng, thông tin phòng ngừa rủi ro với các đơn vị trực thuộc Chi nhánh. + Thống kê tổng hợp, báo cáo chuyên đề theo quy định hiện hành của NHNo&PTNT Việt Nam. * Phòng Kế toán - Chức năng: + Tham mưu cho Ban Giám đốc về: Quản lý, Tài chính, Kế toán, Ngân quỹ trong Chi nhánh. + Trực tiếp triển khai thực hiện các nghiệp vụ về Tài chính, Kế toán, Ngân qũy để quản lý và kiểm soát nguồn vốn và sử dụng vốn, quản lý Tài sản, Vật tư, thu nhập, chi phí xác định kết quả hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô. Trực tiếp quản lý và triển khai công tác tin học trong toàn Chi nhánh. - Nhiệm vụ: + Thực hiện chế độ hạch toán Kế toán, hạch toán Thống kê theo Pháp lệnh Kế toán Thống kê và quy định về hạch toán Kế toán của NHNo&PTNT Việt Nam. + Xây dựng, quyết toán kế hoạch Tài chính, kế hoạch tiền lương của Chi nhánh trình NHN0&PTNT Việt Nam phê duyệt. + Quản lý, giám sát và thực hiện tốt chế độ chi tiêu tại Chi nhánh. + Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong nước. + Tổ chức công tác thu, chi tiền mặt trực tiếp tại địa chỉ theo yêu cầu._.rình độ cán bộ được nâng cao. Hai là: Kỹ thuật thẩm định Công tác thẩm định được tiến hành trên cơ sở vận dụng những phương pháp tính khoa học với cách nhìn toàn diện về mọi mặt của dự án đầu tư: Thẩm định năng lực pháp lý, khả năng tài chính, khả năng quản lý của khách hàng cho đến thẩm định khía cạnh pháp lý, công nghệ, thị trường, kỹ thuật, tài chính dự án... Do vậy đã làm tăng lên độ tin cậy cho việc dự án đầu tư. Ba là: Về công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ: Trong năm qua Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô đã chú trọng đến công tác bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Cán bộ tín dụng được trau dồi thêm các kiến thức về thị trường tài chính, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển và các cơ chế, chính sách nhà nước. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Những hạn chế Bên cạnh nhưng kết quả đã dạt được trong công tác thẩm định thì công tác thẩm định cũng còn những tồn tại sau: Thứ nhất, hệ thống thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định. Cán bộ tín dụng chủ yếu dựa vào các nguồn tin cung cấp từ doanh nghiệp, nguồn do Ngân hàng điều tra mới chỉ dừng lại ở việc xem xét doanh nghiệp thông qua các kênh thông tin từ trung tâm thông tin của Ngân hàng Nhà nước (CIC), và từ các mối quan hệ của cán bộ tín dụng. Do đó nguồn thông tin về các nội dung như thị trường tiêu thụ, thị trường đầu vào, tác động môi trường... là thiếu hụt, chưa tìm được nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy. Chính vì thế, mặc dù nội dung đánh giá thị trường có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt trong môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh cao như hiện nay, nhưng trên thực tế việc đánh giá nó hoặc là còn mang tính hình thức, hoặc là còn thiếu cơ sở tin cậy. Nhưng cũng khẳng định rằng đây là khó khăn chung của nhiều ngân hàng thương mại bởi việc tiếp cận thông tin đôi khi rất tốn thời gian, không phù hợp với yêu cầu về thời gian đánh giá, mặt khác có những khía cạnh mà cán bộ tín dụng không đủ kiến thức để đánh giá do không phải ngành chuyên môn. Thứ hai, quy trình thẩm định cũng đã nêu lên được các nội dung cơ bản của thẩm định dự án đầu tư, các mặt để thẩm định khách hàng vay vốn. Song việc đề cập vẫn còn mang tính chất chung chung, chưa cụ thể vì Chi nhánh không thể tách rời thẩm định trung dài hạn với thẩm định dự án đầu tư. Cán bộ tín dụng khi áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc. Ví dụ như những trường hợp cho vay trung và dài hạn không phải là cho vay dự án đầu tư thì áp dụng như thế nào. Chính vì vậy Chi nhánh vẫn chưa xây dựng được một quy trình tổng thể cho các khoản vay. Việc thẩm định cho vay vẫn chưa theo một quy chuẩn chung, mà chỉ dựa vào kinh nghiệp của những người đi trước. Thứ ba, nội dung thẩm định dự án đầu tư. (1) Đánh giá khả năng tài chính doanh nghiệp: Trong đánh giá các chỉ tiêu tài chính, nhiều khi chỉ mang tính hình thức, không có sự so sánh ngang, thiếu cơ sở do không có các định mức ngành để so sánh. So với những cán bộ có kinh nghiệp thì còn có thể so sánh, đối chiếu với phương án, dự án khác mà đánh giá được tốt hay xấu với độ tin cậy có thể chấp nhận được. Nhưng với những cán bộ ít kinh nghiệm thì đây là vấn đề rất khó khăn và đôi khi ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyết định đầu tư. Hơn nữa, ngân hàng hầu như không có sự phân tích các báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích điểm hoà vốn. Đây là nội dung rất quan trọng khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Có thể thấy đây là sự thiếu sót trong quá trình phân tích đánh giá. (2) Khi thẩm định dự án đầu tư cán bộ tín dụng cũng đi các nội dung thẩm định song trên thực tế cán bộ tín dụng mới chỉ khai thác thông tin trên báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án mà chưa thật sự đi tìm hiểu và thị trường. Cán bộ tín dụng làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm song không đi chuyên sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành hẹp. (3) Về phân tích tài chính của dự án và độ nhậy của dự án: Cán bộ tín dụng đã lập các biểu bảng để tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án nhưng việc lập và tính toán các chỉ tiêu này không được phân tích sâu sắc triệt để. Mặt khác cán bộ tín dụng chưa phân tích được độ nhậy của dự án và chưa đi sâu phân tích được các rủi ro mà dự án sẽ gặp phải trong quá trình thực hiện. Cán bộ tín dụng xem xét hiệu quả dự án chủ yếu qua các chỉ số NPV và IRR mà không đánh giá hiệu quả của dự án dựa trên thực tế. Thứ tư, thẩm định giá trị tài sản đảm bảo. Để đánh giá giá trị tài sản thế chấp, ngân hàng cũng phải sử dụng kết quả của các dịch vụ. Phí này cũng do người vay trả. Như vậy, luồng thông tin cũng không chính xác, nếu có sự ràng buộc nào đó giữa người vay và người đáng giá hoặc sự hạn chế khoản chi phí này. Tương tự như việc định giá tài sản thế chấp là máy móc thiết bị, cán bộ tín dụng rất khó biết được mức khấu hao thực tế là bao nhiêu, hao mòn vô hình như thế nào, giá trị thị trường hiện tại của chúng, và đôi khi không đánh giá kế hoạch sử dụng bảo quản tài sản thế chấp. Điều này dẫn đến việc định giá tài sản thế chấp quá cao so với thực tế, dẫn đến cho vay quá tỷ lệ an toàn. 2.3.2.2. Những nguyên nhân của những hạn chế Những tồn tại trên đây của công tác thẩm định trong ngân hàng xuất phát từ nguyên nhân cụ thể: Từ phía Ngân hàng; từ khách hàng và những nguyên nhân khác. * Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng Thứ nhất, Việc thu thập và nắm bắt thông tin về doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đánh giá doanh nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở vật chất phục vụ cán bộ tín dụng tìm hiểu thông tin còn thiếu thốn như điều kiện đi lại của cán bộ đến các doanh ghiệp còn khó khăn, thông thường cán bộ tự lo về phương tiện đi lại khi đến cơ sở của doanh nghiệp để đánh giá. Hoặc những điều kiện cần thiết để cán bộ có thể tiếp cận được với các nguồn thông tin còn có nhiều khó khăn: như chưa có thiết bị thông tin trực tuyến về khách hàng giữa các ngân hàng, chưa có thiết bị để cập nhật các dữ liệu từ trung tâm thông tin thương mại, trung tâm phòng ngừa rủi ro. Thứ hai, Muốn đánh giá được như thế nào là doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, một phương án kinh doanh khả thi thì NHNo&PTNT Thủ Đô chưa có các thông tin hoặc thu thập các chỉ tiêu quy chuẩn của từng ngành, từng lĩnh vực kinh doanh để so sánh. Hiện nay, việc so sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp vẫn chỉ dựa vào kinh nghiệp của cán bộ tín dụng khi tham gia thẩm định. Bên cạnh đó Cán bộ tín dụng vẫn chưa hiểu hết được tầm quan trọng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ của khách hàng nên khi phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp thường bỏ qua mục này. Thứ ba, Trình độ của cán bộ tín dụng không đồng đều, sức ì của một số cán bộ trong Chi nhánh lớn. Bên cạnh đó việc sắp xếp cán bộ chưa hợp lý, không phù hợp với khả năng và năng lực của từng người đã làm giảm hiệu quả trong công tác thẩm định khách hàng. Chi nhánh chưa có sự phân công cán bộ tín dụng theo ngành nghề kinh tế. Cán bộ tín dụng làm chủ yếu theo kiểu đa năng, tích lũy được nhiều kinh nghiệm song không đi chuyên sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức cho chuyên ngành hẹp. Thứ tư, Việc không phân tách bộ phận thẩm định riêng thành một phòng độc lập mà gộp vào phòng tín dụng, cán bộ tín dụng vừa là người thẩm định vừa là người chịu trách nhiệm quản lý và cho vay gây nên một áp lực công việc đối với họ. Điều này ảnh hưởng đến thời gian thẩm định một món vay và sự hời hợt trong thẩm định. *Nguyên nhân từ phía khách hàng Bên cạnh những nguyên nhân từ phía ngân hàng ảnh hưởng đến công tác thẩm định ngân hàng thì những nguyên nhân từ phía khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thẩm định ngân hàng. Có thể nêu ra một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, thực tế hiện nay, cán bộ tín dụng đánh giá năng lực tài chính của khách hàng là dựa trên báo cáo tài chính của khách hàng cung cấp. Song số liệu trong các báo cáo này nhiều khi không chính xác. Hiện nay một doanh nghiệp có thể có tới ba dạng báo cáo tài chính, các báo cáo này số liệu hoàn toàn khác nhau. Chính điều này đã gây khó khăn trong việc thẩm định của cán bộ tín dụng. Mặt khác hầu hết các báo cáo tài chính của khách hàng khi gửi tới ngân hàng đều không có báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Điều này đã dẫn đến việc bỏ qua việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của cán bộ tín dụng. Hai là, có những dự án doanh nghiệp trình ngân hàng nhưng bản thân doanh nghiệp lại chưa đủ trình độ hiểu hết về chuyên môn, không nắm được đầy đủ các thông tin về thị trường nên việc xử lý thông tin thiếu chính xác dẫn đến quyết định sai làm trong kinh doanh hoặc khách hàng cố tình làm tốt dự án lên để ngân hàng cho vay. Kết quả là dự án khách hàng trình nên thiếu khách quan và tính thực tiễn. Ba là, trong sự hợp tác với ngân hàng khách hàng vẫn còn nhiều điều dấu Ngân hàng hoặc có thể nói sai với thực tế điều này ảnh hưởng đến kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng. * Các nguyên nhân khác Một là, quan hệ giữa các Ngân hàng thương mại chưa chặt chẽ, chưa có sự phối hợp trong hoạt động thẩm định, chia sẻ thông tin tín dụng. Vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, quản lý hỗ trợ của Ngân hàng nhà nước chưa tốt, các văn bản pháp lý về tín dụng còn chưa hoàn chỉnh lại hay thay đổi gây khó khăn cho ngân hàng. Thông tin tổng hợp từ Ngân hàng nhà nước chưa được cập nhật thường xuyên, các thông tin về phát triển ngành kinh tế, thông tin về các doanh nghiệp còn ít chưa hỗ trợ tích cực cho các Ngân hàng thương mại trong việc thu thập thông tin. Hai là, hiện nay chưa có một cơ quan chính thức nào đứng ra thực hiện đánh giá xếp loại doanh nghiệp. Ở một số nước, có những tổ chức được phép làm công việc này và bán những kết quả đánh giá. Như thế nó cho phép ngân hàng thu được thông tin chính xác và khách quan hơn. Ở nước ta, các ngân hàng tự xếp hạng doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí xếp hạng do Bộ tài chính quy định. Song các tiêu chí này còn chung chung mà chưa tính đến tình hình biến động của từng ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Do đó, thông tin tài chính ngân hàng thu thập được không có độ chính xác cao. Thứ ba, định hướng phát triển kinh tế ngành, địa phương hay của tổng công ty lớn chưa cụ thể hoặc chủ trương của các ngành hữu quan chưa thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định ở chỗ: về mặt tài chính thì đạt nhưng xét về mặt định hướng, kinh tế, xã hội thì không chắc chắn, có thể nơi doanh nghiệp hoạt động thì thiếu sản phẩm nhưng xét toàn ngành thì lại thừa, hoặc quy hoạch phát triển kinh tế không ổn định. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỦ ĐÔ 3.1. Định hướng hoàn thiện hoạt động thẩm định tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô. Để ngày một nâng cao chất lượng thẩm định và hoàn thiện trong công tác thẩm định dự án đầu tư Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô đề ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể như sau: - Nhận thức đúng vai trò, vị trí và nội dung của công tác thẩm định dự án. Thực hiện công tác này là một trong những yếu tố quyết định góp phần bảo vệ và nâng cao vị thế, uy tín cũng như sức mạnh của Ngân hàng. - Củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức thẩm định dự án: Phòng tín dụng của ngân hàng hiện tốt chức năng chỉ đạo, điều hành, kiểm tra hướng dẫn công tác thẩm định dự án. - Xây dựng quy chế hoạt động, quy định thực hiện, điều hành công tác thẩm định dự án. Phải xác định rõ mối quan hệ công tác giữa phòng tín dụng với các phòng khác, phối hợp phân công hợp lý giữa công tác thẩm định và quản lý tín dụng. - Quan tâm phát triển công tác đào tạo và trao đổi nghiệp vụ, tạo điều kiện cho cán bộ Ngân hàng nâng cao trình độ. Đào tạo nghiệp vụ thẩm định chuyên sau theo ngành nghề, lĩnh vực dựa trên đặc điểm thế mạnh của địa phương. - Công tác thẩm định dự án phải trở thành thế mạnh trong cạnh tranh và trong kinh doanh, coi đó là một yếu tố thu hút khách hàng, tạo uy tín cho Ngân hàng qua việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, lien tục, toàn diện, từ xem xét dự án, cho vay đến giải ngân, thu nợ, thu lãi. - Tăng cường công tác khoa học kỹ thuật thông tin: Tổ chức thu thập các thông tin, xử lý và quản lý thông tin nhằm cung cấp kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định dự án, đồng thời có kế hoạch báo cáo thông tin cần thiết để tư vấn cho lãnh đạo. 3.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin Nguồn thông tin là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của công tác thẩm định trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ là cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra nhận định chính xác về khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lý trong việc đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. - Để có những thông tin có chất lượng cao, ngoài những hồ sơ tài liệu mà ngân hàng nhận được từ khách hàng vay vốn, ngân hàng cần phỏng vấn trực tiếp một số người chủ chốt liên quan tới dự án và doanh nghiệp: Giám đốc, Kế toán trưởng, người phụ trách kỹ thuật... Mục đích chính của cuộc phỏng vấn để xác định tư cách của người đứng đầu và hiểu thêm về dự án. - Sử dụng triệt để nguồn thông tin từ các cơ quan thông tin đại chúng và truyền thông, các nguồn thông tin từ các kênh khác nhau (Các ngân hàng mà doanh nghiệp có quan hệ, các bạn hàng...). Nó cho phép đánh giá sơ bộ khách hàng về những mặt: lịch sử quan hệ của khách hàng, uy tín thanh toán...Để đảm bảo việc cung cấp thông tin có chất lượng cao cho hoạt động đánh giá doanh nghiệp, trong các trường hợp đặc biệt cần thiết, ngân hàng nên tính đến việc mua các thông tin. Ngân hàng trang thiết bị các thiết bị kết nối internet, thiết bị kết nối với trung tâm thông tin thương mại, thông tin phòng ngừa rủi ro để có những thông tin đầy đủ. - Tìm hiểu điều tra kỹ lưỡng thông tin về thị trường sản phẩm, kênh phân phối sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường các yếu tố đầu vào để xem xét các sản phẩm của phương án, dự án có phù hợp với nhu cầu của thị trường không, đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống, yếu tố đầu vào có được cung cấp ổn định phù hợp với yêu cầu của phương án không. - Cần phải tham khảo các thông tin về chủ trương chính sách của nhà nước, định hướng ửu tiên phát triển của địa phương nơi dự án sản xuất hay kinh doanh, những quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm... để đánh giá tính hợp lý, hợp pháp của dự án, đảm bảo dự án không gặp những trắc trở về các vấn đề trên. - Với các thông tin đã thu thập, xử lý cần có hoạt động sắp xếp lưu trữ hợp lý. Xây dựng quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng trên địa bàn và trong hệ thống. - Bên cạnh đó Ngân hàng có thể thuê các công ty kiểm toán xác định tính chính xác và trung thực của báo cáo tái chính. Tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án, từ đó xây dựng một chính xác tổng nhu cầu vốn đầu tư. 3.2.2. Hoàn thiện nội dung trong công các thẩm định -Thẩm định khách hàng vay vốn: Cán bộ tín dụng nên yêu cầu tất cả các doanh nghiệp khi quan hệ với ngân hàng đều phải có đủ hồ sơ pháp lý. Cung cấp các văn bản giấy tờ liên quan đến tính chất pháp lý của doanh nghiệp. Trên thực tế cán bộ tín dụng tại Chi nhánh vẫn còn chưa quan tâm đến việc này. Điều này sẽ dẫn đến rủi ro mang tính pháp lý cho ngân hàng. - Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng vay vốn: Khi đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng, Cán bộ tín dụng đã phân tích các chỉ số tài chình, các mối quan hệ của các khoản mục trong bản cân đối kế toán. Song lại chưa có sự so sánh các chỉ tiêu với ngành sản xuất tương ứng. Ngân hàng chưa thu thập được chỉ tiêu định mức của các ngành sản xuất, các lĩnh vực. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu cần phải nêu ra các nguyên nhân gây nên sự tăng giảm. Nếu không phân tích rõ nguyên nhân có thể ngân hàng sẽ bỏ qua cơ hội đầu tư hoặc sẽ đưa ra một kết luận không đúng. Yêu cầu khách hàng cung cấp báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Cán bộ tín dụng phải phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để biết nhu cầu thực tế của khách hàng vay là bao nhiêu, cơ cấu tài trợ như thế nào, tiền tạo ra trong quá trình hoạt động là bao nhiêu. - Đánh giá năng lực kinh doanh: Rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải có thể xuất phát từ năng lực kinh doanh, khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực kinh doanh của doanh nghiệp là khó khăn chung của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên không phải vì vậy mà ngân hàng được phép xem nhẹ và bỏ qua việc đánh giá. Cán bộ tín dụng cần phải gặp gỡ từng người trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo của doanh nghiệp để đánh giá năng lực của doanh nghiệp. * Về đánh giá phương án và dự án vay vốn: - Trong phân tích đánh giá dự án, cán bộ tín dụng cần xem xét phân tích đặc điểm của ngành xem dự án thuộc lĩnh vực ngành sản xuất kinh doanh nào từ đó nêu ra được điểm mạnh điểm yếu, cơ hội thách thức của doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh của dự án. Khi phân tích và nắm bắt được vẫn đề này cán bộ tín dụng sẽ hiểu hơn doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích thị trường nhu cầu thực tế của sản phẩm dự án, đánh giá được thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm dự án, tính canh tranh của sản phẩm... - Tính dòng tiền của dự án: Cán bộ tín dụng phải xây dựng được báo cáo lưu chuyển tiền tệ của dự án qua các năm. Trên cơ sở đó kiểm tra và đánh giá các khoản thu chi của dự án đồng thời biết được tính thực tế của kế hoạch trả nợ. - Phải tính toán điểm hoà vốn và độ nhậy của dự án dựa trên các giả định về sự biến động của thị trường. - Khả năng trả nợ của dự án: Điều quan trọng nhất và mục đích cuối cùng của cán bộ tín dụng là dự án có hiệu quả và thu hồi được vốn đầu tư. Để đánh giá được điều này cán bộ tín dụng phải đánh giá được khả năng của dự án trong tương lai. Ngoài các nguồn thu từ dự án chủ đầu tư (doanh nghiệp) còn có nguồn thu nào khác không để có thể trả nợ. 3.2.3. Tăng cường kiểm tra sau giải ngân Thực tế cho thấy cán bộ tín dụng tại Chi nhánh sau khi giải ngân rất ít khi đi kiểm tra sau, giám sát việc sử dụng vốn. Để khắc phục vấn đề này Cán bộ tín dụng sau khi giải ngân có thể định kỳ đi kiểm tra sau món vay, giúp đỡ phân tích chủ dự án đề ra những phương án thu hồi vốn nếu dự án, phương án không đem lại hiệu quả như mong muốn. 3.2.4. Nâng cao trình độ cán bộ Công tác đánh giá doanh nghiệp là một nghiệp vụ quan trọng của hoạt động tín dụng nên càng đòi hỏi cán bộ ngân hàng thực hiện công việc này phải có trình độ cao hơn các nghiệp vụ khác. Để nâng cao trình độ cán bộ tín dụng Chi nhánh cần có những biện pháp sau: - Liên tục bồi dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, sự tâm huyết của những cán bộ làm công tác tín dụng. - Ngân hàng thường xuyên có kế hoạch tổ chức cho cán bộ được đào tạo và đào tạo lại. Hướng dẫn, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, thường xuyên được trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, kinh tế, ngoại ngữ, tin học, chế độ, thể lệ của ngành, liên ngành, chủ trương đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và địa phương, tạo điều kiện cho họ tự nâng cao trình độ kiến thức và năng lực kinh nghiệm làm việc. Đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt buộc, đòi hỏi đội ngũ này phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính, phân tích dự án đầu tư và phương án kinh doanh, nắm bắt và hiểu rõ các quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Kiên quyết thực hiện và sắp xếp lại cán bộ không đáp ứng được các yêu cầu công việc. Trong quá trình học tập và bồi dưỡng phải gắn lý luận với thực tiễn để cán bộ tín dụng có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và có hiệu qủa khi giải quyết cho vay. - Thực hiện phân công công việc theo năng lực, kinh nghiệm của mỗi người. Chuyên môn hoá cán bộ theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể tạo sự chuyên sâu đối với từng ngành. - Ngân hàng cần có chính sánh thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để thu hút được đội ngũ này về làm việc cho ngân hàng, hoặc mới làm cố vấn, cộng tác viên trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Ngân hàng cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của từng cán bộ tín dụng đối với từng món vay. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể. Cần thiết có chế độ đãi ngộ, lương thưởng khác nhau đối với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau... Như vậy, sẽ kích thích được cán bộ tín dụng phấn đấu hoàn thành tốt công việc được giao. - Phân công cán bộ tín dụng giỏi có kinh nghiệm kèm cặp và hướng dẫn cán bộ tín dụng trẻ. Đây là một cách để có thể phổ cập và nâng cao trình độ của các cán bộ trong ngân hàng. - Hàng năm nên tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ và tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tổ chức các lớp tập huấn khi có sự thay đổi về luật pháp và các quy định trong ngành ngân hàng. 3.2.5. Nâng cao công nghệ phục vụ công tác thẩm định Hiện nay, điều kiện trang thiết bị và phương tiện tại Chi nhánh chưa phải là hiệu đại. Vì vậy trong thời gian tới Ngân hàng cần có một số giải pháp nhằm nâng cao công nghệ như sau: - Đầu tư chiều sâu vào các trang thiết bị thuộc hệ thống thu thập thông tin của ngân hàng: máy tính kết nối mạng internet, kết nối mạng nội bộ với các phòng và với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống. - Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công việc với số lượng phù hợp với điều kiện làm việc của từng cán bộ tín dụng. Nếu là trưởng phòng hoặc cán bộ tín dụng làm việc độc lập cần phải trang thiết bị máy tính các nhân. - Tìm hiểu khai thác những công nghệ, phần mềm mới: Phần mềm quản lý thông tin, phần mềm hỗ trợ thẩm định... trong lĩnh vực ngân hàng nhằm giảm bớt các công đoạn trong quá trình thực hiện đánh giá doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng. 3.3. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước Hệ thống chính sách Nhà nước có ảnh hưởng và chi phối tất cả lĩnh vực như kinh tế, xã hội chính trị… Một sự thay đổi nhỏ hay lớn trong chính sách của Nhà nước được các Bộ, ngành và chính quyền địa phương thiết lập thành những văn bản cụ thể ban hành xuống từng cơ quan, đơn vị. Về lĩnh vực ngân hàng, các hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế, tài chính – ngân hàng của Nhà nước. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động tín dụng không chỉ cần nỗ lực riêng của ngân hàng mà còn cần sự giúp đỡ và sự phối hợp của các cơ quan hữu quan khác. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tín dụng. Đây là một chính sách hết sức quan trọng trong lĩnh vực quản lý tài chính – ngân hàng của Nhà nước, nó tác động đến hoạt động tín dụng nói chung và ảnh hưởng đến công tác thẩm định nói riêng của ngân hàng. Nhà nước cần bổ sung hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách nhằm quản lý tốt hơn đối với hoạt động tín dụng để hoạt động tín dụng này thực sự lành mạnh và hiệu quả. Đồng thời với việc ban hành các văn bản, cơ chế về hoạt động tín dụng, nhà nước cũng cần tăng cường biện pháp thanh tra, giám sát đối với hoạt động này của ngân hàng. Nhà nước ủy quyền cho Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm trong việc lập các tổ chức thanh tra thường xuyên kiểm tra định kỳ các tổ chức tín dụng để theo dõi và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực tín dụng. Tuy nhiên, Nhà nước cũng không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phải để các ngân hàng được tự chủ trong vấn đề phát triển nghiệp vụ, nâng cao chất lượng kinh doanh. Mỗi quyết định đầu tư của ngân hàng phải dựa trên đánh giá của chính họ chứ không phải vì một sức ép nào đó. Quy định một hệ thống kế toán thống nhất và đồng bộ, thực hiện kiếm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhất là đối với các doanh nghiệp phi nhà nước. Trong khi đó công ty kiểm toán của Nhà nước còn non trẻ, đội ngũ cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm. Vì vậy Nhà nước cần ban hành những sác lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo, chế độ kế toán phải trung thực đầy đủ. Bên cạnh đó nhà nước cần phải ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của các doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, những tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán trước, trong và sau quá trình thẩm định của ngân hàng. Nhà nước cũng cần quy địng rõ các biện pháp chế tài, biện pháp xử lý nghiêm trong các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin sai, sử dụng đồng thời hai loại cân đối…để nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp vào khuôn khổ hoạt động và phát triển lành mạnh. Có như vậy cán bộ tín dụng mới có thể sử dụng được các thông tin chính xác trung thực để có thể đánh giá và phòng ngừa các rủi ro trong quá trình cho vay đối với doanh nghiệp. Bên cạnh các chế tài thì Nhà nước cũng cần mở rộng thêm các cơ quan kiểm toán có chất lượng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện kiểm toán có hiệu quả. Nhà nước cần tạo một môi trường pháp lý ổn định, đặc biệt là các quy chế pháp luật liên quan đến đầu tư, sản xuất kinh doanh, tài chính kế toán… Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm trong đầu tư kinh doanh, ngân hàng có cơ sở pháp lý vững chắc xử lý những vẫn đề liên quan đến thẩm định. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, hỗ trợ các Ngân hàng thương mại và nâng cao nghiệp vụ thẩm định đồng thời mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Ngân hàng Nhà nước có thể lập phòng hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án của các Ngân hàng thương mại. Phòng này có nhiệm vụ giúp đỡ các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng mới thành lập trong việc thẩm định, tổng hợp những kinh nghiệm và bài học của các ngân hàng trong và ngoài nước về công tác thẩm định. Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong việc thu thập thông tin. Ngân hàng nhà nước có thể tham mưu cho Chính phủ trong việc hỗ trợ khuyến khích sự ra đời của các công ty chuyên kinh doanh thông tin. Các tổ chức này thực hiện thu thập, xử lý đánh giá thông tin về các đơn vị hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế sau đó bán thông tin cho các đơn vị cần sử dụng. Do có chuyên môn hóa hoạt động, do tác động của quy luật cung cầu, những thông tin này sẽ có độ chính xác cao. 3.3.3. Kiến nghị đối với Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam Từ các chính sách của Nhà nước và Ngân hàng nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng một hệ thống quy trình đánh giá dự án mới rõ ràng, cụ thể hơn so với các văn bản hướng dẫn hiện hành. Quy trình mới với đầy đủ nội dung, cập nhật liên tục những thông tin, phương pháp tiên tiến trên thế giới. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, có kế hoạch bố trí, tuyển dụng những nhân viên làm công tác tín dụng trong toàn hệ thống và ngoài hệ thống, có kế hoạch hỗ trợ đào tạo các cán bộ làm công tác chuyên môn. Hàng năm tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ giữa các nhân viên để có thể nâng cao và củng cố kiến thức mới cho cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng có thể sang lọc ra được các cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của công tác tác nghiệp trong ngân hàng từ đó có hướng bố trí sắp xếp lại cán bộ cho hợp lý đúng khả năng và năng lực của từng cán bộ. Tóm lại, để có thể đạt được các mục tiêu đề ra và nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thì đòi hỏi phải có nỗ lực của các bộ phận trong Ngân hàng. Bên cạnh đó rất cần sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức, các ngành các cấp cùng thực hiện thì chất lượng thẩm định dự án sẽ được nâng cao. KẾT LUẬN Thời gian qua, NHNo&PTNT Thủ Đô đã tài trợ có hiệu quả cho nhiều dự án đầu tư, đồng thời góp vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và trên địa bàn nói chung. Đạt được kết quả đó là có phần quan trọng của công tác thẩm định. Song bên cạnh những kết qủa đạt được trong công tác thẩm định vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Trong phạm vi giới hạn về không gian và thời gian, địa điểm, chuyên đề đã đạt được những kết quả sau: 1. Hệ thống lại một số vấn đề lý luận về công tác thẩm định dự án đầu tư, phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án đầu tư. 2. Phân tích thực trạng công tác thẩm định tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô từ đó đánh giá các kết quả đã đạt được và nêu ra những mặt còn hạn chế và các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. 3. Từ những hạn chế trên đề xuất các giải pháp và những kiến nghị với các bộ ngành, Chính phủ và các bên liên quan nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô. Trong thời gian làm chuyên đề này, em được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú, anh, chị tại Chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô cùng với sự chỉ bảo hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của Cô giáo–Th.S Nguyễn Thị Thùy Dương. Vì vậy em đã hoàn thành chuyên đề này song không tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị và những người quan tâm đến vẫn đề này để em có thể hoàn thiện tốt hơn chuyên đề này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại Edward W.Reed & Edward K.Gill 2. Giáo trình Ngân hàng thương mại- Quản trị và nghiệp vụ của trường DHKT Quốc Dân Hà Nội, xuất bản năm 2002 3. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, trường DHKT Quốc Dân, xuất bản năm 2003 4. Giáo trình Thẩm định tái chính dự án của PGS.TS. Lưu Thị Huơng, xuất bản năm 2004 5. Các tạp chí Ngân hàng, Thời báo kinh tế, Thị trường tài chính tiền tệ 6. Các báo cáo kết quả kinh doanh, thẩm định của Chi nhánh NHNo Thủ Đô 7. Các luận văn tốt nghiệp các khoá trước ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21793.doc