LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ mới, với nhiều điều kiện phát triển rất thuận lợi, nhưng đồng thời cũng có những khó khăn và thách thức không nhỏ. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang từng bước thể hiện vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh chung ấy ngành giáo dục có vai trò hết sức quan trọng. Phát triển giáo dục - đào tạo được coi là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tiến
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho Giáo dục - Đào tạo tại tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy cùng với khoa học & công nghệ, giáo dục - đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là “Quốc sách hàng đầu”.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục – đào tạo, quán triệt đường lối của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua tỉnh Sơn La đã không ngừng tăng cường chi ngân sách đầu tư cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Nhờ có sự quan tâm đó mà sự nghiệp giáo dục của tỉnh đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy, ngân sách của tỉnh đang gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa khả năng hạn hẹp của ngân sách và nhu cầu phát triển ngày càng tăng của hệ thống giáo dục – đào tạo của tỉnh.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập tại Sở Tài chính Sơn La, em đã quyết định đi sâu nghiên cứu đến công tác chi thường xuyên và quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho giáo dục – đào tạo thông qua đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho Giáo dục – đào tạo tại tỉnh Sơn La” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung chính của Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo
Chương 2: Thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo tại tỉnh Sơn La
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo tại tỉnh Sơn La.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Bất, cùng các cô, chú, anh, chị ở Sở Tài chính và Sở giáo dục – đào tạo Sơn La đã tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
1.1 Chi thường xuyên NSNN
1.1.1 NSNN
1.1.1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò NSNN
a) Khái niệm
Ngân sách Nhà nước là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá tiền tệ trong các phương thức sản xuất của các cộng đồng. Nói cách khác sự ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
Cho đến nay, thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Thế nhưng, người ta vẫn chưa có sự nhất trí về khái niệm thế nào là Ngân sách Nhà nước? Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm Ngân sách Nhà nước mà phổ biến là:
Thứ nhất: NSNN là bản dự toán thu - chi tài chính của Nhà nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm) được Quốc hội thông qua để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Thứ hai: NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước.
Thứ ba: NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2002, có hiệu lực từ năm 2004 thì “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”
b) Bản chất của NSNN
Ngân sách nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ liên quan đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần tập hợp các khoản thu và các khoản chi mà còn ẩn chứa những mối quan hệ bên trong. Khi xét đến bản chất của Ngân sách nhà nước người ta thường nói đến bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước và xét trên phương diện pháp lý của Ngân sách nhà nước.
+ Về bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần bề ngoài là các khoản thu và các khoản chi mà bên trong nó ẩn chứa một mối quan hệ phức tạp. Để hình thành nên Ngân sách nhà nước nguồn thu chủ yếu là thu của các đối tượng và nhà nước chi tiêu ngân sách để thực hiện chức năng của mình. Khi nhà nước thu của đối tượng này sẽ làm cho thu nhập của đối tượng này giảm xuống, đồng thời khi nhà nước chi Ngân sách nhà nước thì thu nhập của đối tượng khác được tăng lên. Như vậy, quá trình này thể hiện rõ mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối thu nhập hay phân phối sản phẩm xã hội. Do đó, thực chất hay bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm xã hội, trong đó phải có sự có mặt của Nhà nước trong mối quan hệ này.
+ Xét trên phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đạo luật cơ bản và hết sức đặc biệt. Bởi vì tất cả các quá trình điều hành Ngân sách nhà nước đều thể hiện tính pháp lý rất cao, từ việc xây dựng dự toán cho đến việc thực hiện dự toán, được quy định rất chặt chẽ. Việc thực hiện xây dựng dự toán được tiến hành từ các đơn vị rất nhỏ, đơn vị cơ sở. Từ đó tổng hợp lại theo từng cấp từ thấp đến cao, hình thành nên ngân sách địa phương và ngân sách Trung ương, rồi từ đó tổng hợp thành Ngân sách nhà nước rồi trình Quốc hội. Tại Quốc hội, mọi người thảo luận, Quốc hội có quyền chất vấn các Bộ trưởng. Nếu Quốc hội thông qua thì mọi cá nhân tổ chức phải chấp hành, giống như trình tự ban hành một Bộ luật nào đó. Và nó là một đạo luật hết sức đặc biệt là ở chỗ: nó không có các điều luật cũng như các quy phạm điều khoản mà chỉ bao gồm các khoản thu, chi trong một năm, trên cơ sở đó phân phối hạn mức kinh phí.
c) Vai trò của NSNN
Ngân sách nhà nước có vai trò hết sức to lớn, nó ảnh hưởng đến toàn bộ sự hoạt động của Nhà nước cũng như ảnh hưởng đến các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng cũng như đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, vai trò của Ngân sách nhà nước là vô cùng quan trọng và nó được phân chia thành các vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất: Đảm bảo cung cấp nguồn kinh phí để duy trì sự hoạt động của hệ thống bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước và các hệ thống tổ chức đoàn thể, xã hội. Bất cứ một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển đều cần đến sự quản lý và để duy trì sự quản lý này thì phải có nguồn kinh phí duy trì sự hoạt động của tổ chức đó. Để duy trì hoạt động của doanh nghiệp thì phải có nguồn vốn của doanh nghiệp, còn đối với cơ quan Nhà nước để duy trì hoạt động của nó thì nguồn kinh phí do Ngân sách nhà nước cấp. Nguồn kinh phí này dùng để chi trả lương cũng như các chức năng nhiệm vụ mà các cơ quan nhà nước này được giao.
Thứ hai: Ngân sách nhà nước được sử dụng như một công cụ để tác động vào cơ cấu kinh tế, nhằm duy trì một cơ cấu kinh tế cân đối hợp lý. Trong xã hội nền kinh tế thị trường ngày càng có xu hướng mất ổn định, do nhiều nguyên nhân liên quan đến kinh tế, chính trị và xã hội. Chính vì vậy, việc duy trì một cơ cấu kinh tế ổn định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Để đảm bảo được điều này, Chính phủ có thể sử dụng Ngân sách nhà nước để chi tiêu, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển các ngành nghề khác nhau, đầu tư xây dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng, để từ đó phát triển những ngành nghề kém phát triển hoặc đang trên đà suy thoái, từ đó làm cân đối cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, để khuyến khích hay hạn chế một ngành nghề nào đó Chính phủ có thể sử dụng các biện pháp nhằm tăng thu hoặc giảm thuế, như vậy có thể khuyến khích hoặc kìm hãm sự phát triển của ngành đó, từ đó cơ cấu kinh tế sẽ được cân đối ổn định.
Thứ ba: Ngân sách nhà nước được sử dụng như một công cụ để duy trì sự ổn định của giá cả thị trường. Để duy trì sự ổn định của giá cả thị trường, chính phủ lập nên quỹ dự trữ. Quỹ dự trữ này có thể bao gồm hiện vật hoặc tiền và nguồn kinh phí để lập và duy trì quỹ được lấy từ Ngân sách nhà nước. Khi thị trường có biến động, giá cả các sản phẩm tăng lên ảnh hưởng đến lạm phát, gây khó khăn cho đời sống nhân dân, Chính phủ có thể bình ổn giá cả bằng cách tăng cung hàng hóa lấy từ dự trữ. Ngược lại, khi giá cả hàng hóa xuống thấp, người sản xuất không có lãi, có nguy cơ thu hẹp sản xuất, Chính phủ có thể tăng dự trữ để đẩy giá lên hoặc trợ giá cho người sản xuất, từ đó giá cả thị trường được ổn định.
Thứ tư: Ngân sách nhà nước còn được sử dụng như một công cụ để giải quyết các vấn đề xã hội. Để giảm bớt chênh lệch giàu nghèo Chính phủ áp thuế dành cho những người có thu nhập cao, đồng thời trợ cấp cho những người có thu nhập thấp. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội Chính phủ sử dụng Ngân sách của mình chi cho bộ máy an ninh - quốc phòng; tuyên truyền giáo dục người dân có ý thức chấp hành pháp luật; đào tạo nghề nghiệp cho cộng đồng nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Đồng thời khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường và tệ nạn xã hội.
1.1.1.2 Nội dung chi NSNN
Chi NSNN là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Chi NSNN phản ảnh mục tiêu hoạt động của ngân sách, đó là đảm bảo về mặt vật chất (tài chính) cho hoạt động của Nhà nước, với tư cách là chủ thể của NSNN trên hai phương diện: (1) Duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước; (2) Thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước phải gánh vác.
Chi NSNN bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau. Giai đoạn thứ nhất là phân phối (phân bổ) quỹ NSNN cho các đối tượng, mục tiêu khác nhau. Quá trình phân phối được thực hiện trên dự toán và trên thực tế (chấp hành Ngân sách Nhà nước), dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như chức năng, nhiệm vụ, quy mô hoạt động, đặc điểm tự nhiên, xã hội... thể hiện cụ thể dưới dạng định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi ngân sách. Giai đoạn tiếp theo là việc sử dụng phần quỹ ngân sách đã được phân phối của các đối tượng thụ hưởng (quá trình thực hiện chi tiêu trực tiếp các khoản tiền của NSNN). NSNN được sử dụng ở các khâu tài chính Nhà nước trực tiếp, gián tiếp và các khâu tài chính khác phi Nhà nước. Chi ngân sách kết thúc khi tiền đã thực sự được sử dụng cho các mục tiêu đã định.
Các khoản chi ngân sách nhà nước rất đa dạng và phong phú nên có nhiều cách phân loại chi NSNN khác nhau:
- Theo đối tượng trực tiếp sử dụng, chi NSNN bao gồm:
+ Chi cho nhân viên.
+ Các khoản chi về vật liệu và dịch vụ cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan An ninh - Quốc phòng.
+ Các khoản chi cho công tác xây dựng (đường xá, phúc lợi, công cộng ..)
+ Chi các khoản trợ cấp, các khoản trả lãi tiền vay.
+ Chi các khoản khác.
- Theo tính chất phát sinh các khoản chi, chi NSNN bao gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên.
+ Chi thường xuyên: là những khoản chi phát sinh tương đối đều đặn cả về mặt thời gian và quy mô các khoản chi. Nói cách khác là những khoản chi được lặp đi lặp lại tương đối ổn định theo những chu kỳ thời gian cho những đối tượng nhất định.
+ Chi không thường xuyên: là những khoản chi Ngân sách phát sinh không đều đặn, bất thường như chi đầu tư phát triển, viện trợ, trợ cấp thiên tai,... Trong đó, chi đầu tư phát triển được coi là phần chủ yếu của chi không thường xuyên.
- Theo mục đích sử dụng cuối cùng, chi NSNN được chia thành chi tích luỹ và chi tiêu dùng.
+ Chi tích luỹ: là các khoản chi mà hiệu quả của nó có tác dụng lâu dài. Các khoản chi này chủ yếu được sử dụng trong tương lai như: Chi đầu tư hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, chi nghiên cứu khoa học công nghệ, công trình công cộng, bảo vệ môi trường...
+ Chi tiêu dùng: là những khoản chi nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu trước mắt và hầu như được sử dụng hết sau khi đã chi như: chi cho bộ máy Nhà nước, an ninh, quốc phòng, văn hoá, xã hội... Cụ thể, đó là các khoản chi lương, các khoản có tính chất lương và chi hoạt động. Nhìn chung, chi tiêu dùng là những khoản chi có tính chất thường xuyên.
- Theo mục tiêu, chi NSNN được phân loại thành chi cho bộ máy Nhà nước và chi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
+ Chi cho bộ máy Nhà nước: bao gồm chi đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị cần thiết, chi trực tiếp cho đội ngũ cán bộ, công chức, chi phí thường xuyên để duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước (văn phòng phí, hội nghị, công tác phí...).
+ Chi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước: bao gồm chi cho an ninh - quốc phòng (những khoản chi duy trì hoạt động bình thường của các lực lượng an ninh - quốc phòng như chi đầu tư, chi mua sắm, chi hoạt động), chi phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đảm bảo xã hội. Chi phát triển kinh tế là những khoản đầu tư cơ sở hạ tầng quan trọng cho nền kinh tế như Giao thông, điện và chuyển tải điện, thông tin liên lạc, thuỷ lợi và cấp thoát nước, sự nghiệp nhà ở và một số nhiệm vụ khác như: Hỗ trợ các Đoàn thể chính trị - xã hội, đối ngoại...
- Với tư cách là quỹ tiền tệ để thanh toán cho các nhu cầu của Nhà nước và tài trợ cho các đối tượng khác nhau trong xã hội (Nhà nước với tư cách là người mua của thị trường), chi NSNN bao gồm:
+ Chi thanh toán: là chi trả cho việc Nhà nước được hưởng những hàng hoá, dịch vụ mà xã hội cung cấp cho Nhà nước. Chi thanh toán gắn với hai luồng đi lại: tiền và hàng hoá, dịch vụ.
+ Chi chuyển giao: là những khoản chi mang tích chất một chiều từ phía nhà nước như tài trợ, trợ cấp, cứu trợ...
1.1.2 Chi thường xuyên NSNN
1.1.2.1 Khái niệm
Chi thường xuyên: là những khoản chi phát sinh tương đối đều đặn cả về mặt thời gian và quy mô các khoản chi. Nói cách khác là những khoản chi được lặp đi lặp lại tương đối ổn định theo những chu kỳ thời gian cho những đối tượng nhất định.
Chi thường xuyên NSNN là các khoản chi gắn liền với việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng.
Về mặt bản chất, chi thường xuyên NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội.
1.1.2.2 Nội dung
Nội dung của chi thường xuyên rất đa dạng và phức tạp, sự phân loại ở các nước không giống nhau. Có nhiều cách phân loại chi thường xuyên.
- Xét theo từng lĩnh vực chi, chi thường xuyên được chia thành:
+ Chi cho các hoạt động sự nghiệp thuộc lĩnh vực văn xã:
Các loại hình đơn vị tham gia vào lĩnh vực này như: Giáo dục – đào tạo, y tế, văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao, thông tấn, báo chí, phát thanh - truyền hình,… một khi các đơn vị đó do Nhà nước thành lập và giao nhiệm vụ cho nó hoạt động.
+ Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế của Nhà nước:
Các đơn vị thuộc loại này có kết quả hoạt động không phục vụ riêng cho một ngành nào mà phục vụ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân như: sự nghiệp giao thông, nông nghiệp, thuỷ lợi, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khí tượng - thuỷ văn …
+ Chi cho các hoạt động quản lý nhà nước:
Khoản chi này phát sinh ở hầu hết các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Bởi với chức năng quản lý toàn diện mọi hoạt động kinh tế - xã hội nên bộ máy quản lý Nhà nước đã được thiết lập từ Trung ương đến địa phương và có ở mọi ngành kinh tế quốc dân.
+ Chi cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác được cấp kinh phí từ NSNN.
Được xếp vào các tổ chức này gồm có: Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức Chính trị - Đoàn thể - Xã hội như: Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu chiến binh, hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ.
+ Chi cho Quốc phòng – An ninh và trật tự, an toàn xã hội.
Chi này bao gồm: quân đội, công an, các đơn vị lực lượng vũ trang,…
+ Chi khác:
Ngoài các khoản chi lớn đã được sắp xếp vào 5 lĩnh vực trên, còn có một số các khoản chi khác cũng được xếp vào cơ cấu chi thường xuyên như: chi trợ giá theo chính sách Nhà nước, chi hỗ trợ quĩ Bảo hiểm Xã hội, phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước,…
- Theo nội dung kinh tế các khoản chi thường xuyên:
+ Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính - sự nghiệp.
Đây được coi là nội dung chi quan trọng đầu tiên có thể có được một trong ba yếu tố đầu vào của bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động. Thuộc các khoản chi con người của khu vực hành chính - sự nghiệp, bao gồm: tiền lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng, các khoản đóng góp theo tiền lương và các khoản thanh toán khác cho cá nhân. Ngoài ra còn có thể có học bổng cho học sinh, sinh viên,…
+ Các khoản chi về sự nghiệp chuyên môn:
Được tính vào chi nghiệp vụ chuyên môn phải là những khoản chi mà xét về nội dung kinh tế của nó phải thực sự phục vụ cho hoạt động này như: các chi phí về nguyên vật liệu; chi phí về năng lượng, nhiên liệu; chi phí cho nghiên cứu, hội thảo khoa học…
+ Các khoản chi mua sắm, sửa chữa:
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị hành chính - sự nghiệp còn được NSNN cấp kinh phí để mua sắm thêm các tài sản hay sửa chữa các tài sản đang trong quá trình sử dụng, nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu hoạt động và nâng cao hiệu suất sử dụng của các tài sản đó.
Ở nước ta hiện nay, các khoản chi được tính vào mục này là: các khoản chi để mua sắm thêm tài sản được hạch toán theo các mục: 144, 145 của mục lục NSNN. Các khoản chi để thực hiện sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn tài sản cố định được hạch toán theo các mục: 117, 118 của mục lục NSNN.
+ Các khoản chi khác:
Thuộc phạm vi các khoản chi khác nằm trong cơ cấu chi thường xuyên của NSNN là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn nhưng chưa được đề cập tới 3 nhóm mục trên.
1.1.2.3 Đặc điểm
Chi thường xuyên có ba đặc điểm lớn phân biệt với các khoản chi khác là:
Thứ nhất, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định khá rõ nét. Những chức năng vốn có của Nhà nước như: bạo lực, trấn áp và tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội đều đòi hỏi phải thực thi cho dù có sự thay đổi về thể chế chính trị. Đề đảm bảo cho Nhà nước có thể thực hiện được các chức năng đó, tất yếu phải cung cấp nguồn vốn từ NSNN cho nó. Mặt khác, tính ổn định của chi thường xuyên còn bắt nguồn từ tính ổn định trong từng hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận cụ thể thuộc guồng máy của Nhà nước phải thực hiện.
Thứ hai, xét theo cơ cấu chi NSNN ở từng niên độ và mục đích sử dụng cuối cùng của vốn cấp phát thì đại bộ phận các khoản chi thường xuyên của NSNN có hiệu lực trong khoảng thời gian ngắn và mang tính tiêu dùng xã hội. Nếu chi đầu tư phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong tương lai thì chi thường xuyên lại chủ yếu đáp ứng nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước về quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngay trong năm ngân sách.
Thứ ba, phạm vi, mức độ chi thường xuyên của NSNN gắn chặt với cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước trong việc cung ứng các hàng hoá công cộng. Với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, nên tất yếu quá trình phân phối và sử dụng vốn NSNN luôn hướng vào việc đảm bảo sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước đó. Nếu một khi bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả thì số chi thường xuyên cho nó giảm bớt và ngược lại. Hoặc quyết định của Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi và mức độ cung ứng các hàng hoá công cộng cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi thường xuyên của NSNN.
1.2 Vai trò chi NSNN cho GD – ĐT
1.2.1 Sự cần thiết của GD – ĐT
Giáo dục - đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con người. Giáo dục - đào tạo giúp chúng ta tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia công nghệ, những nhà quản lý giỏi, những con người lao động với hàm lượng trí tuệ ngày càng cao.
Đội ngũ lao động được trang bị các kiến thức khoa học, kỹ thuật có trình độ học vấn và chuyên môn, nghiệp vụ tốt sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Ngày nay các công ty xuyên quốc gia, các nhà tư bản ở các nước công nghiệp phát triển khi đầu tư ra nước ngoài, họ luôn có xu hướng áp dụng những công nghệ tiên tiến, có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó, họ không chỉ hướng vào những nước có nguồn nhân công rẻ, mà còn chú trọng hơn đến việc đầu tư vào những nơi có đội ngũ lao động được đào tạo tốt.
Các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục - đào tạo không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã trở thành sự nghiệp sống còn của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ sứ mạng của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo. Hồ Chủ Tịch đã từng nói "Muốn có Chủ nghĩa xã hội, thì phải có những con người Xã hội chủ nghĩa”. Bác Hồ coi giáo dục và đào tạo là công việc xây dựng con người lao động mới và là một chiến lược lâu dài "Vì hạnh phúc mười năm trồng cây, vì hạnh phúc trăm năm trồng người”.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta bằng những đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp đã đưa đất nước vượt qua nguy cơ khủng hoảng, đạt những thành tựu đáng kể. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khẳng định "Khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo phải xem là quốc sách hàng đầu”. Giờ đây, chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
Để đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì vai trò của giáo dục – đào tạo và khoa học - công nghệ lại càng có tính quyết định. Muốn nhanh chóng hiện đại hoá nền sản xuất cần phải nắm bắt được xu thế mới của công nghiệp hoá, hướng tới làm chủ những ngành sản xuất mũi nhọn, những công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. Hơn lúc nào hết chúng ta cần nhanh chóng tạo được một đội ngũ công nhân trí thức đông đảo. Vì vậy, việc phát triển giáo dục - đào tạo như thế nào để có được những con người lao động với chất lượng cao, phát triển toàn diện ngày càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Có thể nói giáo dục - đào tạo là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân trong thời gian qua. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục - đào tạo được coi là khâu đột phá cho những định hướng chiến lược về mục tiêu, giải pháp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho đến năm 2020.
1.2.2 Vai trò chi NSNN đối với GD - ĐT
Giáo dục – đào tạo giữ một vai trò to lớn trong cuộc sống, bởi vậy việc đầu tư để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục sao cho phát huy hết hiệu quả của nó là việc làm rất cần thiết. Trong đầu tư tài chính cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo thì NSNN đóng vai trò chủ đạo, thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất: Chi ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển giáo dục quốc dân theo đúng chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Trong việc thực hiện chi ngân sách cho giáo dục chúng ta phải thực hiện việc điều phối cơ cấu giáo dục, đảm bảo cho sự phát triển đồng đều trong cơ cấu giáo dục toàn ngành giữa các vùng trong cả nước. Các chương trình xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, cao tầng hoá trường học khu vực Sơn La, chính là việc Nhà nước đã thông qua chi NSNN để tác động vào hệ thống giáo dục quốc dân và làm cho nó vận động, phát triển theo đúng hướng đã đề ra. Mặt khác hệ thống trường công lập ở nước ta còn chiếm ưu thế do đó ngân sách nhà nước còn phải đảm bảo phần lớn trách nhiệm đầu tư cho giáo dục, còn các nguồn vốn khác chỉ mang tính chất hỗ trợ thêm.
Thứ hai: Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục – đào tạo là khoản tiền đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất, tạo ra cơ sở vật chất, mua sắm sửa chữa, trang bị đồ dùng dạy học. Đây là khoản chi rất cần thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Nếu chúng ta coi giáo viên là lực lượng lao động thì học sinh được coi như đối tượng lao động và cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng giảng dạy chính là công cụ lao động. Để tạo ra một quy mô sản xuất hoàn chỉnh, lực lượng lao động không thể thiếu được công cụ lao động. Con người có tri thức khoa học được coi là sản phẩm đặc biệt của quá trình sản xuất của nhà trường. Song con người ở đầu ra khác con người ở đầu vào ở tri thức khoa học do đã trải qua quá trình tác động của lực lượng sản xuất hết sức đặc biệt này. Nói tóm lại trong công tác giáo dục – đào tạo nếu không có cơ sở vật chất, không có đồ dùng giảng dạy thì chất lượng, quy mô của giáo dục sẽ không đảm bảo so với yêu cầu thực tế hiện nay.
Thứ ba: Đầu tư ngân sách nhà nước tạo điều kiện ban đầu để khuyến khích các tầng lớp nhân dân cùng đóng góp xây dựng trường học, tăng cường cơ sở vật chất để
phục vụ công tác giảng dạy của giáo viên và học sinh. Hệ thống các trường học được hình thành dựa vào nguồn vốn ngân sách nhà nước, còn việc duy trì phát triển nó sẽ có sự góp phần của các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoá giáo dục.
Thứ tư: Ngân sách nhà nước chính là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống cho đội ngũ cán bộ quản lý hành chính, các giáo viên trực tiếp giảng dạy của toàn ngành giáo dục. Để đảm bảo chất lượng giáo dục trước hết phải quan tâm đến đời sống của đội ngũ cán bộ giáo viên. Ngân sách nhà nước ngoài việc phải đảm bảo tiền lương hàng tháng cho cán bộ giáo viên còn phải dành một phần ưu đãi cho ngành giáo dục: Phụ cấp giảng dạy, phụ cấp dạy thêm giờ. Qua đây, chúng ta thấy việc đảm bảo đời sống vật chất cho cán bộ giáo viên làm công tác giảng dạy chính là việc bù đắp và tái sản xuất sức lao động của họ, thúc đẩy sự phát triển về quy mô cũng như chất lượng của giáo dục và để khuyến khích sự cống hiến của đội ngũ cán bộ giáo viên đối với sự nghiệp giáo dục – đào tạo.
Tóm lại, thông qua việc xem xét vai trò của chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục – đào tạo giúp ta thấy được tầm quan trọng của chi Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền giáo dục quốc dân. Ngân sách nhà nước vững mạnh kết hợp với chủ trương phát triển giáo dục đúng đắn sẽ thúc đẩy sự phát triển của hệ thống giáo dục. Tuy nhiên vai trò của nó chỉ thực sự đảm bảo phát huy khi có nội dung chi, cơ cấu chi phù hợp, công tác quản lý chi có hiệu quả.
1.3 Quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
1.3.1 Nội dung chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
Nội dung chi ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo gắn liền với cơ cấu, nhiệm vụ của ngành trong mỗi giai đoạn lịch sử và được xem xét ở các giác độ khác nhau.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của ngành giáo dục - đào tạo có thể chia nội dung chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo như sau:
- Chi Ngân sách cho hệ thống các trường học:
+ Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ thông.
+ Chi ngân sách cho các trường đại học, các học viện, các trường cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Chi cho các trường Đảng, đoàn thể.
- Chi Ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo như: Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục....
Theo cách phân loại chi NSNN theo yếu tố và phương thức quản lý các khoản chi cho giáo dục:
- Chi thường xuyên
- Chi xây dựng cơ bản tập trung
Đối với các khoản chi thường xuyên căn cứ vào đối tượng của việc sử dụng kinh phí NSNN có thể chia thành 4 nhóm mục chi sau:
1. Các khoản chi cho con người: Như chi lương, các khoản phụ cấp theo lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ nhân viên, chi học bổng và trợ cấp cho học sinh sinh viên, tiền công....
2. Chi về quản lý hành chính, chi về công tác phí, công vụ phí, điện nước, xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị về công tác quản lý.
3. Chi cho hoạt động chuyên môn: Chi mua tài liệu, đồ dùng giảng dạy và học tập, chi hội thảo, hội giảng, chi cho các lớp bồi dưỡng học sinh, bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề về chuyên môn.
4. Chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhỏ phục vụ cho hoạt động chuyên môn như: Mua sắm bàn ghế, bảng và các trang thiết bị khác, sửa chữa nhỏ trong trường...
Ngoài ra từ năm 1991 ngân sách Nhà nước còn chi tiêu cho các đơn vị thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học, chương trình công nghệ giáo dục... Hầu hết các khoản chi trên là những khoản chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn định và có thể định mức được. Do vậy, trong công tác quản lý các khoản chi này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các khoản mua sắm sửa chữa nhỏ không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào thực trạng nhà cửa trang thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và đặc biệt là khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu.
1.3.2 Nội dung quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD - ĐT
1.3.2.1 Xây dựng định mức chi
Trong quản lý các khoản chi thường xuyên cho NSNN, nhất thiết phải có định mức cho từng nhóm mục chi hay cho mỗi đối tượng cụ thể. Nhờ đó mà các ngành các cấp các đơn vị mới có căn cứ pháp lý để triển khai các công việc cụ thể thuộc quá trình quản lý chi thường xuyên của NSNN.
Định mức chi là cơ sở quan trọng để lập dự toán chi, cấp phát và quyết toán các khoản chi, đồng thời là chuẩn mực để phân bổ và kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước.
Định mức chi phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Các định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học, từ việc phân loại đối tượng đến trình tự, cách thức xây dựng định mức phải được tiến hành một cách chặt chẽ có cơ sở khoa học xác đáng. Nhờ đó mà các định mức chi đảm bảo được tính phù hợp với mỗi loại hình hoạt động, phù hợp với từng đơn vị.
Thứ hai: Các định mức chi phải có tính thực tiễn cao. Tức là nó phải phản ảnh mức độ phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí cho các hoạt động. Chỉ có như vậy định mức chi mới trở thành chuẩn mực cho cả quá trình quản lý kinh phí chi thường xuyên.
Thứ ba: Định mức chi phải đảm bảo thống nhất đối với từng khoản chi, với từng đối tượng thụ hưởng ngân sách cùng loại.
Thứ tư: Định ._.mức chi phải đảm bảo tính pháp lý cao.
Định mức chi thường xuyên của NSNN thường bao gồm hai loại.
- Định mức chi tiết: là loại định mức xác định dựa trên cơ cấu chi của ngân sách Nhà nước cho mỗi đơn vị được hình thành từ các mục chi nào, người ta tiến hành xây dựng định mức chi cho từng mục đó ví dụ như: Chi công tác phí, hội nghị, chi lương, học bổng...
- Định mức chi tổng hợp: Là loại định mức dùng để xác định nhu cầu chi từ ngân sách Nhà nước cho mỗi loại hình đơn vị thụ hưởng. Do vậy, với mỗi loại hình đơn vị khác nhau sẽ có đối tượng để tính định mức chi tổng hợp khác nhau.
Mỗi loại định mức chi đều có những ưu nhược điểm riêng của nó. Tuỳ theo mục đích quản lý mà có sự lựa chọn hoặc vận dụng kết hợp các loại định mức chi cho hợp lý. Đối với định mức chi tiết, ưu điểm của nó là tính chính xác và tính thực tiễn khá cao nên nó thường được sử dụng trong quá trình nghiên cứu ban hành các chế độ chi thường xuyên của NSNN. Ngoài ra, nó cũng còn được sử dụng trong quá trình thẩm định tính khả thi của các dự toán kinh phí và dự toán chi NSNN. Đối với định mức chi tổng hợp, ưu điểm của nó là có thể xác định được dự toán chi NSNN nhanh, nhưng ngược lại nó cũng bộc lộ một nhược điểm là tính chính xác không cao. Vì vậy, nó được lấy làm căn cứ để hướng dẫn cho các ngành, các cấp tiến hành xây dựng dự toán kinh phí. Đồng thời, nó cũng là một trong những cơ sở để cơ quan tài chính thẩm định dự toán kinh phí của các đơn vị trực thuộc.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, định mức chi tiết thường được áp dụng theo hệ thống định mức chi ngân sách Nhà nước áp dụng chung cho lĩnh vực hành chính sự nghiệp còn định mức chi tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong khâu phân bổ ngân sách giáo dục đào tạo cho các địa phương, các đơn vị. Định mức chi tổng hợp cho giáo dục đào tạo có thể được xác định theo đầu dân số hoặc đầu học sinh và theo từng thời kỳ có thay đổi cho phù hợp.
Hệ thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ quá trình lập, duyệt, phân bổ, chấp hành và kiểm tra, duyệt quyết toán NSNN chi cho giáo dục - đào tạo. Nếu có đầy đủ các loại định mức, tiêu chuẩn chi tiêu cũng như việc xác định số biên chế, giáo viên cần thiết được tính toán một cách có khoa học, phù hợp với khối lượng công việc do từng đơn vị đảm nhiệm thì nhu cầu chi NSNN sẽ được phản ánh chính xác, trung thực trong dự toán. Đồng thời, đó cũng là căn cứ để các cơ quan chức năng duyệt và kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành NSNN của các đơn vị. Ngược lại, nếu hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu không đầy đủ, không hoàn thiện thì bản thân các đơn vị sẽ thiếu những cơ sở để lập dự toán chi, các cơ quan quản lý không có căn cứ để duyệt dự toán, cơ quan Kho bạc Nhà nước không có căn cứ để kiểm soát chi, cơ quan thanh tra, kiểm toán không có căn cứ để kiểm tra và xác nhận tính chính xác, hợp lệ, hợp pháp của các khoản chi cũng như quyết toán chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách.
Qua đó có thể thấy rằng, trong quản lý chi NSNN cho giáo dục - đào tạo không những phải xây dựng được hệ thống định mức, chế độ chi tiêu một cách đầy đủ, có cơ sở khoa học mà còn phải đánh giá, phân tích tình hình thực tế nhằm xem xét tính phù hợp của hệ thống định mức hiện hành. Xu hướng chung, các loại hình hoạt động càng ngày càng phát triển nên làm nảy sinh các nhu cầu mới. Đặc biệt, trong điều kiện còn xảy ra mất giá tiền tệ càng dễ làm cho định mức chi dễ bị lạc hậu so với thực tiễn.
1.3.2.2 Lập dự toán chi thường xuyên
"Quản lý theo dự toán” là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý chi ngân sách Nhà nước. Khi lập dự toán chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo phải dựa trên những căn cứ sau:
Thứ nhất: Chủ trương của Đảng và Nhà nước về duy trì phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong từng thời kỳ. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo có sự cân đối với dự toán chi ngân sách cho các lĩnh vực khác.
Thứ hai: Phải dựa vào chỉ tiêu kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí của ngân sách trong kỳ như chỉ tiêu về số lượng trường, lớp, biên chế, số lượng giáo viên, học sinh, sinh viên...
Thứ ba: Căn cứ nhu cầu kinh phí, khả năng huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cũng như khả năng đáp ứng của NSNN trong kỳ kế hoạch để lập dự toán.
Thứ 4: Các chính sách, chế độ, định mức chi tiêu sử dụng kinh phí NSNN hiện hành và dự đoán những điều chỉnh hoặc thay đổi có thể xảy ra trong kỳ kế hoạch.
Thứ 5: Căn cứ vào kết quả phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí của năm trước.
Quy trình lập kế hoạch chi cho Giáo dục - đào tạo được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu - chi NSNN kỳ kế hoạch để xác định mức chi dự kiến phân bổ cho ngành giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở đó, hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí.
Bước 2: Các đơn vị cơ sở giáo dục căn cứ vào chỉ tiêu được giao (số kiểm tra) và văn bản hướng dẫn của cấp trên sẽ lập dự toán kinh phí của đơn vị mình để gửi lên đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Cơ quan tài chính xét duyệt tổng hợp dự toán chi Ngân sách cho giáo dục - đào tạo vào dự toán chi NSNN nói chung để trình cơ quan chính quyền và cơ quan quyền lực nhà nước xét duyệt.
Bước 3: Căn cứ vào dự toán chi đã được cơ quan quyền lực Nhà nước thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức phân bổ mức chi theo dự toán cho các đơn vị thuộc ngành giáo dục - đào tạo.
1.3.2.3 Chấp hành dự toán chi
Thực hiện kế hoạch chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo cần chú ý đến các yêu cầu cơ bản sau:
- Đảm bảo phân phối nguồn vốn một cách hợp lý, trên cơ sở dự toán chi đã xác định.
- Tiến hành cấp phát vốn, kinh phí một cách đầy đủ, kịp thời, tránh mọi sơ hở gây lãng phí, thất thoát vốn của nhà nước.
- Trong quá trình sử dụng các khoản chi ngân sách phải hết sức tiết kiệm, tuân thủ đúng chính sách, chế độ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi khoản chi.
Quá trình tổ chức điều hành cấp phát và sử dụng các khoản chi NSNN cho giáo dục - đào tạo cần dựa trên những căn cứ sau:
- Dựa vào định mức chi đã được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ có tính chất bao trùm đến việc cấp phát và sử dụng các khoản chi, bởi vì mức chi của từng chỉ tiêu là cụ thể hoá mức chi tổng hợp đã được cơ quan quyền lực Nhà nước phê duyệt.
- Dựa vào khả năng nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước có thể đáp ứng chi cho giáo dục - đào tạo. Trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước phải quán triệt quan điểm "lường thu mà chi”. Mức chi trong dự toán mới chỉ là con số dự kiến, khi thực hiện phải căn cứ vào điều kiện thực tế của năm kế hoạch rồi mới chuyển hoá chỉ tiêu dự kiến thành hiện thực.
- Dựa vào định mức, chế độ chỉ tiêu sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là những căn cứ có tính pháp lý bắt buộc quá trình cấp phát và sử dụng các khoản chi phải tuân thủ, là căn cứ để đánh giá tính hợp lệ, hợp pháp của việc cấp phát và sử dụng các khoản chi.
Các biện pháp cơ bản để tổ chức tốt công tác cấp phát và sử dụng các khoản chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo bao gồm:
- Cụ thể hoá dự toán chi tổng hợp cả năm thành dự toán chi hàng quý, tháng để làm căn cứ quản lý, cấp phát.
- Quy định rõ ràng trình tự cấp phát, trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cơ quan (Tài chính, Kho bạc, Giáo dục) trong quá trình cấp phát, sử dụng các khoản chi Ngân sách nhà nước.
Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh phí cho giáo dục - đào tạo, bàn bạc với cơ quan giáo dục điều chỉnh kịp thời dự toán chi trong phạm vi cho phép.
- Hướng dẫn các đơn vị cơ sở trong ngành giáo dục thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp. Hạch toán đầy đủ rõ ràng các khoản chi cho từng loại hoạt động.
- Thường xuyên kiểm tra tình hình nhận và sử dụng kinh phí ngân sách ở các đơn vị giáo dục, đảm bảo đúng dự toán, phù hợp với định mức chế độ chi Ngân sách Nhà nước hiện hành.
1.3.2.4 Quyết toán và kiểm toán các khoản chi
Mục đích chủ yếu của công việc này là tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi, từ đó rút ra những ưu, nhược điểm trong quản lý để có biện pháp khắc phục. Công việc cụ thể được tiến hành là kiểm tra, quyết toán các khoản chi. Trong quá trình kiểm tra, quyết toán các khoản chi phải chú ý đến các yêu cầu cơ bản sau:
Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo quy định.
- Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo tài chính phải tuân thủ theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục NSNN quy định.
- Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước đồng cấp và phải được cơ quan kiểm toán nhà nước kiểm toán.
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị không được để xẩy ra tình trạng quyết toán chi lớn hơn thu.
Khi các yêu cầu trên được tôn trọng đầy đủ thì công tác quyết toán các khoản chi NSNN cho giáo dục - đào tạo sẽ được tiến hành thuận lợi. Đồng thời, nó sẽ tạo cơ sở vững chắc cho việc phân tích đánh giá quá trình chấp hành dự toán một cách chính xác, trung thực và khách quan.
Trong điều kiện đó, "Ngành Giáo dục và đào tạo đã và đang phải giải quyết một bài toán khó là phải thoả mãn đồng thời yêu cầu tăng số lượng, đảm bảo chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp. Để giải được bài toán đó, hay nói cách khác, là để tạo ra sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh các chính sách tăng đầu tư cho giáo dục – đào tạo từ Ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục - đào tạo thì việc đổi mới và kiện toàn lại hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ đảm bảo sử dụng ngân sách nhà nước chủ động và có hiệu quả, tăng cường kiểm soát các khoản chi, kiên quyết chống lãng phí, thất thoát, nâng cao hiệu quả đầu tư là một trong những nhu cầu thiết yếu trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Vì vậy, có thể nói việc hoàn thiện công tác quản lý chi Ngân sách cho giáo dục - đào tạo là một đòi hỏi có tính tất yếu khách quan trên bình diện quốc gia cũng như đối với bất cứ một địa phương, đơn vị nào.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến các khoản chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
- Tổng sản phẩm quốc nội và phương thức phân phối tổng sản phẩm quốc nội:
Tổng sản phẩm quốc nôị (GDP) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị sản phẩm mới mà nền kinh tế sáng tạo ra trong một năm. Tổng sản phẩm quốc nội có ảnh hưởng tới số chi ngân sách cho Giáo dục - Đào tạo bởi vì:
Thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội cao chứng tỏ một nền sản xuất có hiệu quả, khi đó thu nhập trong dân lớn, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, khi đó người dân sẽ có điều kiện cho con cái ăn học, đóng góp kinh phí cho nhà trường; các công ty, xí nghiệp kinh doanh có lãi sẽ tài trợ cho giáo dục - đào tạo để nâng cao trình độ cho công nhân. Tổng sản phẩm quốc nội cao sẽ làm giàu các nguồn tài chính khác, qua đó tác động tới số chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo.
Thứ hai: Theo chế độ tài chính hiện hành, Nhà nước sẽ tham gia vào quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội để tạo nguồn thu cho NSNN. Nhà nước động viên một phần tổng sản phẩm quốc nội vào tay mình làm cơ sơ vật chất cho quá trình chi tiêu. Thông thưòng tỷ lệ điều tiết của Nhà nước có tính ổn định trong một thời gian dài cho nên khi GDP tăng sẽ làm tăng số thu NSNN, tạo cơ sở cho việc tăng chi ngân sách cho Giáo dục - đào tạo. Số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo không những chịu ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội mà còn chịu ảnh hưởng của phương thức phân phối tổng sản phẩm quốc nội: Nếu phương thức phân phối xác định tỷ lệ lớn cho Giáo dục - đào tạo thì giáo dục - đào tạo sẽ phát triển mạnh nhưng lại hạn chế khả năng chi cho các ngành khác và cho tích luỹ. Nếu phương thức phân phối xác định tăng nhiều cho các ngành khác mà giảm nhẹ khoản chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo sẽ làm giảm chất lượng Giáo dục - đào tạo.
- Tốc độ phát triển dân số, số lượng và cơ cấu dân số:
Tốc độ dân số tăng lên, dân số lớn sẽ làm giảm thu nhập quốc dân bình quân đầu người, giảm thu nhập bình quân của mỗi gia đình. Do đó, các gia đình khó có điều kiện cho con đi học, nguồn kinh phí đầu tư từ gia đình cũng giảm, gây ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo.
Trong trường hợp tốc độ tăng dân số nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm quốc nội, nghĩa là thu nhập bình quân đầu người tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu đào tạo, chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo sẽ tăng lên. Muốn đảm bảo cho Giáo dục - đào tạo phát triển được thì tốc độ tăng chi cho Giáo dục - đào tạo phải lớn hơn tốc độ gia tăng của học sinh đào tạo.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu đào tạo đã thực sự biến đổi tỷ lệ thuận với dân số. Ngân sách Nhà nước khó có thể đáp ứng được chu toàn. Trước tình hình đó việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình ngoài ý nghĩa giải quyết các vấn đề xã hội còn có tác dụng giảm nhẹ nhu cầu chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo.
- Thực trạng trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho Giáo dục - đào tạo.
Nhân tố này có ảnh hưởng đến các khoản chi có tính chất không thường xuyên của NSNN cho Giáo dục - đào tạo như khoản chi sửa chữa, mua sắm máy móc, thiết bị cho hoạt động giảng dạy. Khoản chi này không có định mức quản lý và được xác định tuỳ thuộc vào thực trạng của nhà trường.
- Phạm vi, mức độ các khoản dịch vụ không phải trả tiền do Nhà nước cung cấp cho học sinh:
Thực chất của nhân tố này nói đến phạm vi, mức độ các khoản được Nhà nước bao cấp phục vụ. Trước đó, với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp hầu hết mọi nhu cầu học hành, sinh hoạt của học sinh đều được Nhà nước bao cấp, do vậy số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo là rất lớn. Ngày nay khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phạm vi bao cấp của Nhà nước giảm, Nhà nước chỉ đảm bảo kinh phí để duy trì hoạt động của nhà trường, phần còn lại phải huy động qua chính sách thu học phí của học sinh. Do vậy, số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo đã giảm nhẹ và chỉ mang tính chất định hướng quản lý vĩ mô.
Trên đây là bốn nhân tố có tác động lớn tới số chi NSNN cho giáo dục - đào tạo xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội mang lại. Tuy nhiên, từ phần mình Giáo dục và đào tạo cũng tạo nên nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho giáo dục:
- Mạng lưới tổ chức hoạt động sự nghiệp Giáo dục - đào tạo:
Mạng lưới tổ chức hoạt động Giáo dục - đào tạo là hệ thống các trường đào tạo, cơ cấu tổ chức cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới khoản chi lương, phụ cấp lương, phúc lợi tập thể cũng như chi phí quản lý hành chính.
Tính hợp lý hay không hợp lý trong việc tổ chức mạng lưới giáo dục - đào tạo sẽ tác động mạnh tới số chi. Một mạng lưới giáo dục gọn nhẹ, bố trí trường lớp hợp lý, đảm bảo được chất lượng công tác quản lý, giảng dạy phần nào sẽ giảm chi cho NSNN và ngược lại trường lớp bố trí không hợp lý, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, biên chế giáo viên giảng dạy quá nhiều, không xếp đủ số giờ, số tiết tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước thì chi NSNN sẽ tăng lên, hiệu quả sử dụng NSNN sẽ giảm xuống. Vì vậy cần phải từng bước hợp lý hoá mạng lưới tổ chức, tinh giảm gọn nhẹ biên chế, nâng cao chất lượng giảng dạy, từng bước cải cách hành chính trong hệ thống Giáo dục - Đào tạo. Bên cạnh đó, ngành Tài chính cần có biện pháp quản lý số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo để khoản chi đó có tác dụng tích cực tới tổ chức mạng lưới Giáo dục - đào tạo.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo giúp chúng ta có cơ sở phân tích tính hợp lý về nội dung và mức độ chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo ở các năm, đồng thời từ những biến đổi của các hiện tượng kinh tế - xã hội mà thấy được sự cần thiết phải thay nội dung, mức độ chi cho phù hợp. Khi đó các nhân tố ảnh hưởng sẽ trở thành cơ sở khoa học để xác định số chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
2.1 Một số nét cơ bản về GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
2.1.1 Khái quát về tỉnh Sơn La
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
a) Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt nam, có diện tích tự nhiên 14.125 km2 chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 3 trong số 64 tỉnh thành phố trong cả nước. Toạ độ địa lý: 20039’ - 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ - 105002’ kinh độ Đông. Phía bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; phía đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía tây giáp với tỉnh Điện Biên; phía nam giáp với tỉnh Thanh Hoá và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; có chung đường biên giới Việt - Lào dài 250 km, có chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Sơn La có 11 đơn vị hành chính (01 thành phố, 10 huyện) với 12 dân tộc.
Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu rất phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm.
Những năm gần đây nhiệt độ không khí trung bình/năm có xu hướng tăng hơn 20 năm trước đây từ 0,50C - 0,60C; lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm. Do tình hình khô hạn kéo dài vào mùa đông nên khó tăng vụ trên diện tích canh tác, cộng với gió tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa mưa (tháng 3-4) đã gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của một số vùng trong tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét cũng là những nhân tố gây bất lợi cho sản xuất, đời sống. Trong thời gian tới khi có thuỷ điện Sơn La, hệ thống hồ dọc Sông Đà, đã được hình thành có thể tình hình khí hậu khô và nóng vào mùa khô sẽ được cải thiện theo hướng có lợi cho sản xuất và đời sống.
b) Về tài nguyên thiên nhiên
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có khả năng phát triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đất đai phù hợp với nhiều loại cây, có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng rừng kinh tế hàng hoá có giá trị cao. Rừng Sơn La có nhiều thực vật quý hiếm, có các khu đặc dụng có giá trị đối với nghiên cứu khoa học và phục vụ du lịch sinh thái trong tương lai. Hiện nay diện tích rừng của Sơn La là 480.057 ha, trong đó rừng tự nhiên là 439.592 ha, rừng
trồng 41.047 ha. Toàn tỉnh còn 651.980 ha đất chưa sử dụng (chiếm 46,4 % tổng diện tích tự nhiên), trong đó đất có khả năng phát triển nông, lâm nghiệp khoảng 500.000 ha (phần lớn dùng cho phát triển lâm nghiệp). Đây cũng là nguồn tài nguyên quý giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Khi xây dựng xong thuỷ điện Sơn La, sẽ có một phần rừng và đất rừng bị ngập (khoảng 2.451 ha), trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ. Nhiệm vụ quan trọng là phải tận thu gỗ trong lòng hồ nước khi nước ngập và sau đó trồng rừng phòng hộ dọc theo hai bên Sông Đà và toàn lưu vực để bảo vệ nguồn nước cho công trình thuỷ điện quan trọng này.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.412.500 ha, trong đó đất đang được sử dụng là 753.520 ha (chiếm 53,3% đất tự nhiên), so với cả nước tỷ lệ này là 97%, vùng Trung Du miền núi phía Bắc Bộ là 56,14%. Diện tích đất đang sử dụng sẽ có thay đổi khi thuỷ điện Sơn La hoàn thành vào năm 2012. Đến nay đất chưa sử dụng và sông suối trong toàn tỉnh còn rất lớn: 651.980 ha, chiếm 46,1% diện tích tự nhiên, trong đó có 598,434 ha là đất đồi núi không có rừng cần phải được khai thác để trồng rừng và khoanh nuôi, bảo vệ. Là một tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, hiện đang sử dụng bình quân đầu người 0,2 ha, trong đó cho sản xuất lương thực là 0,16 ha, riêng ruộng nước bình quân chỉ có 0,017 ha.
Sơn La có 35 suối lớn; 2 sông lớn là sông Đà dài 280 km với 32 phụ lưu và sông Mã dài 90 km với 17 phụ lưu; 7.900 ha mặt nước hồ Hoà Bình và 1.400 ha mặt nước ao hồ. Mật độ sông suối 1,8 Km/km2 nhưng phân bố không đều, sông suối có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh do địa hình núi cao, chia cắt sâu.
2.1.1.2 Tình hình kinh tế xã hội năm vừa qua
Năm 2009, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi như: khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, cũng như tình trạng suy giảm kinh tế trong nước, thiên tai, dịch bệnh... Bên cạnh đó, yêu cầu đẩy nhanh tiến độ công tác di chuyển dân tái định cư dự án thủy điện Sơn La đã tác động trực tiếp đến tình hình thực hiện hiện vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc, chiến sỹ các lực lượng vũ trang, các cấp, các ngành trong tỉnh, cùng với sự giúp đỡ kịp thời, có hiệu qủa của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh bạn, tỉnh Sơn La đã khắc phục khó khăn, vươn lên đạt được những kết qủa quan trọng: kinh tế tiếp tục phát triển, đạt chỉ tiêu đề ra; lĩnh vực phát triển cây cao su, công tác di dân tái định cư dự án thủy điện Sơn La được chỉ đạo quyết liệt và thu được những kết qủa quan trọng; thu ngân sách trên địa bàn vượt dự toán; thực hiện có kết qủa các biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội; các lĩnh vực xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống của các tầng lớp nhân dân cơ bản ổn định và từng bước được cải thiện. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí được chỉ đạo kiên quyết; các hoạt động đối ngoại được tăng cường và mở rộng, đặc biệt là quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh Bắc Lào. Kết qủa cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
a) Tình hình kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) ước đạt 3.874,12 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994), tăng 14,36% so với năm 2008. Trong đó: khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,57%; công nghiệp - xây dựng tăng 23,52%; dịch vụ tăng 19,35%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 43,37%; khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 22%; dịch vụ chiếm 34,64%.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2009 đạt 6.956,55 tỷ đồng, tăng 9% so với kế hoạch, giá trị thu nhập/ha đất canh tác đạt 15 triệu đồng.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 ước đạt 2406,7 tỷ đồng (theo giá hiện hành), tương đương với 1.143,9 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), bằng 99,9% kế hoạch. So với năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 22,8%, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có khối lượng sản xuất tăng mạnh như điện phát ra, điện thương phẩm, nước thương phẩm, sản phẩm sữa các loại, bê tông trộn sẵn, gạch nung các loại... Một số sản phẩm có khối lượng sản xuất giảm như đường các loại, đá các loại, quặng kim loại... Tỷ lệ hộ gia đình được dùng điện sinh hoạt 80,89%. Tỷ lệ hộ gia đình được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 74%. Tiếp tục củng cố và mở rộng phát triển các cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại huyện Phù Yên và Mai Sơn.
* Một số ngành dịch vụ: Tập trung phát triển các ngành dịch vụ cả về loại hình và quy mô; đồng thời, tạo điều kiện để phát triển, nâng cao chất lượng các loại dịch vụ hỗ trợ cho phát triển sản xuất kinh doanh như: tài chính ngân hàng, bảo hiểu, thiết kế, khoa học, công nghệ... Đồng thời, triển khai có hiệu qủa các chính sách về kích cầu đầu tư, tiêu dùng của Chính phủ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội cả năm 2009 đạt 6.352,5 tỷ đồng, tăng 2,5% so với kế hoạch, tăng 28,2% so với năm 2008.
* Về đầu tư, xây dựng: Tổng huy động vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đạt 13.722 tỷ đồng, tăng 36,42% so với năm 2008 và vượt 0,3% so với kế hoạch. Năm 2009, đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 35 dự án với số vốn đăng ký 5.680 tỷ đồng, chủ yếu thuộc lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản... Lũy kế đến
nay, đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 103 dự án với tổng số vốn đăng ký là 22.686 tỷ đồng. Tổng giá trị khối lượng thực hiện đạt 3.942 tỷ đồng, trong đó năm 2009 thực hiện 915 tỷ đồng.
* Về tài chính - tín dụng: Tổng thu ngân sách địa phương đạt 680 tỷ đồng, vượt 36% so với dự toán. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2009 đạt 4.065 tỷ đồng, vượt 32,9% so với dự toán, tăng 18,6% so với năm 2008. Chi ngân sách đảm bảo đúng dự toán, đáp ứng kịp thời các khoản chi thường xuyên, chi đột xuất, phát sinh; đảm bảo kinh phí thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chính sách bảo trợ xã hội theo tinh thần Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ. Chi ngân sách địa phương năm 2009 đạt 3.650 tỷ đồng, tăng 19,3% so với dự toán, tăng 19,7% so với năm 2008.
Hệ thống các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy mạnh huy động vốn, thực hiện kịp thời và đúng chế độ các chính sách tiền tệ theo tinh thần Nghị quyết 30/2008/NQ-CP. Đến 31/12/2009, huy động vốn tại địa phương đạt 2.995 tỷ đồng, tăng 27,4% so với 31/12/2008. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm đạt 1.700 tỷ đồng, tăng 36,5%; tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 1.200 tỷ đồng, tăng 21,2%; giấy tờ có giá đạt 95 tỷ đồng, bằng 82% so với năm trước. Doanh số cho vay đạt 8.500 tỷ đồng, tăng 30,5%. Doanh số thu nợ đạt 6.793 tỷ đồng, tăng 30,8%. Tổng dư nợ cho vay đạt 6.300 tỷ đồng, tăng 37,2%; trong đó, dư nợ ngắn hạn là 3.551 tỷ đồng, tăng 38,4% so với cùng kỳ; dư nợ trung, dài hạn là 2.592 tỷ đồng, tăng 54,6%; nợ xấu khoảng 95 tỷ đồng, chiếm 1,5% tổng dư nợ.
b) Tình hình văn hoá – xã hội
Hoạt động văn hoá, thể thao, thông tin và truyền thông có chuyển biến tích cực; thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, góp phần nâng cao đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân; tiếp tục xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng, xã, khối phố, gia đình văn hoá và công sở văn minh.
Phong trào thể dục thể thao được phát động rộng rãi và được mọi người tham gia, có 26% số dân luyện tập thể dục thể thao thường xuyên và 22% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao.
Về du lịch: tiếp tục đa dạng hóa các loại hình du lịch, các hình thức thu hút khách du lịch, gắn với các hoạt động văn hóa đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc. Nâng cao chất lượng phục vụ của hệ thống khách sạn, nhà hàng. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 2009, đón khoảng 338.000 lượt khách du lịch, doanh thu đạt 169 tỷ đồng, tăng 5,34% so với năm 2008.
Giáo dục đào tạo từng bước nâng cao chất lượng và đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa các ngành học, cấp học. Công tác phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục được quan tâm, công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục và xây dựng trường chuẩn quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh. Đội ngũ giáo viên chuẩn hoá ở các cấp học đạt tỷ lệ cao: mầm non 93,8%; tiểu học 98,3%; THCS 98,1%; THPT 95,4%. Cở sở vật chất trường học tiếp tục được tăng cường; có 7 trường mầm non, 20 trường tiểu học, 11 trường THCS và 1 trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
Lĩnh vực y tế: chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân được cải thiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị tiếp tục được tăng cường. Đội ngũ cán bộ y tế cấp xã, phường được củng cố; 100% xã, phường có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi; 68% số xã, phường thực hiện khám chữa bệnh cho nhân dân có bảo hiểm y tế; 70% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi bị suy dinh dưỡng 1,89%; tiêm chủng đầy đủ 7 loại vacxin cho trẻ em dưới 1 tuổi; làm tốt việc giám sát, quản lý và tư vấn chăm sóc hỗ trợ bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS.
Thực hiện chính sách xã hội, giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo: có bước chuyển biến tích cực, giảm trên 4% hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo hiện nay chỉ còn 27,54%. 100% xã, phường, thị trấn được công nhận là đơn vị thực hiện tốt chính sách đối với người có công. Giải quyết việc làm cho hơn 29100 người, trong đó xuất khẩu lao động là 5246 người. Công tác bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế triển khai đảm bảo chế độ, mở rộng đối tượng tham gia, nhất là các đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện.
2.1.2 Tình hình GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2009
2.1.2.1 Tình hình, kết quả triển khai nhiệm vụ năm 2009
a) Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuộc vận động "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo", cuộc vận động "Hai không" và thực hiện phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"
Toàn ngành tiếp tục đẩy mạnh thực hiện toàn diện việc "học tập" và "làm theo" tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xây dựng kế hoạch năm học 2009-2010 phát động phong trào thi đua trong toàn ngành lập thành tích hướng tới kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2010). Tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn cuộc vận động "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo". Trong năm học này, nâng cao chất lượng giáo dục các môn lý luận Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành động cụ thể của từng cá nhân, tập thể về thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua gắn với việc thực hiện nhiệm vụ năm học.
Về thực hiện cuộc vận động "Hai không": Năm học này các đơn vị giáo dục tập trung vào nhiệm vụ chống tiêu cực trong thi cử và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và tiến tới chấm dứt tình trạng học sinh ngồi sai lớp, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém và bỏ học. Từng đơn vị giáo dục tổ chức thảo luận, phân tích, xác định rõ nguyên nhân kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2009 đạt thấp, kết quả thi vào lớp 10 điểm thi đạt quá thấp, kết quả chất lượng giáo dục cấp THCS thấp, rút ra các bài học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp cho năm học 2009-2010.
b) Về đổi mới công tác quản lý giáo dục:
Sở Giáo dục – đào tạo đã chỉ đạo các đơn vị giáo dục triển khai áp dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học; tổ chức đánh giá giáo viên trung học và hiệu trưởng, giám đốc TTGDTX, chuẩn nghiệp vụ giáo viên TCCN theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tổ chức xây dựng Qui chế phối hợp các ngành, các huyện,._.về Đảng…
Thứ hai: Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo. Theo đó, chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên; không duy trì các trường đào tạo có chất lượng kém. Thực hiện phân cấp, tạo động lực và tính chủ động của các cơ sở giáo dục. Tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đối với các trường…
Thứ ba: Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Thứ tư: Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Theo đó, rà soát lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học; chuẩn bị kỹ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ chương trình giáo dục phổ thông mới theo hướng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả…
Thứ năm: Tăng nguồn lực cho giáo dục. Theo đó, miễn học phí cho học sinh, sinh viên gia đình chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh, sinh viên gia đình nghèo và hỗ trợ cho HS,SV các hộ có thu nhập thấp…
Thứ sáu: Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục.Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền…
Đặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội, trong các cộng đồng dân cư.
Thứ bảy: Tăng cương hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước.
3.1.2 Định hướng của tỉnh Sơn La
Toàn ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; gắn với 3 cuộc vận động và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Các huyện, thành phố tiếp tục rà soát theo chuẩn và có các biện pháp cụ thể duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học - xoá mù chữ; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên địa bàn.
Các cấp quản lý giáo dục tập trung đổi mới xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ năm học:
+ Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; kế hoạch tổ chức các phong trào thi đua trong năm học; đổi mới công tác chỉ đạo điều hành của Ban giám hiệu; công tác phối hợp giữa nhà trường với các tổ chức đoàn thể; kế hoạch cụ thể để khắc phục học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học.
+ Triển khai áp dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học; tổ chức đánh giá giáo viên trung học và Hiệu trưởng, Giám đốc TTGDTX, chuẩn nghiệp vụ giáo viên TCCN theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Tiếp tục tổ chức thanh tra định kỳ, đột xuất, thanh tra toàn diện, thanh tra chuyên môn, thanh tra chuyên đề ở các cấp học, đồng thời đẩy mạnh công tác tự kiểm tra đánh giá chất lượng.
+ Kiểm tra công tác mua sắm thiết bị dạy học và đánh giá chất lượng, công tác bảo quản, hiệu quả khai thác sử dụng thiết bị dạy học trong các cơ sở giáo dục; kiểm tra thực hiện chuyên môn, hồ sơ chuyên môn, các loại hồ sơ trường học.
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý giáo dục và trong dạy - học; thực hiện kết nối Internet đối với các trường đã có điện lưới.
Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục:
+ Khắc phục tình trạng thiếu phòng học, thiếu giáo viên ở một số bộ môn; đồng thời bố trí, sắp xếp giáo viên hợp lý để tiếp tục thực hiện kế hoạch phụ đạo học sinh yếu, kém trong các trường học.
+ Tiếp tục tổ chức kiểm tra, thi thử tốt nghiệp lớp 12 bằng các hình thức ra đề thi chung, tổ chức chấm chung trong toàn huyện hoặc chấm chéo giữa các trường trong các huyện, thành phố. Coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá, thi cử (kết quả đánh giá xếp loại học lực, kết quả thi giữa năm học, kết quả giữa các kỳ thi
khác nhau) để qua đó giáo viên điều chỉnh hoạt động giảng dạy và học tập, giúp học sinh biết tự đánh giá để định hướng vươn lên trong học tập.
+ Thường xuyên báo cáo và công khai chất lượng giáo dục của từng môn, từng khối lớp, từng trường để giáo viên, học sinh và nhân dân cùng theo dõi, giám sát tiến độ, kết quả quá trỉnh tổ chức thực hiện.
Hoàn thành Kế hoạch xây dựng các trường mầm non, phổ thông tỉnh Sơn La đạt chuẩn quốc gia, giai đoạn 2010-2015 để trình phiên họp UBND tỉnh. Trước mắt, tập trung các điều kiện hoàn thiện các tiêu chí và đề nghị kiểm tra công nhận cho các truờng đăng ký đạt chuẩn quốc gia năm học 2009-2010. Xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục 5 năm 2011-2015 và Kế hoạch năm học 2010-2011.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng "Trường học thân thiện, học sinh tích cực"; Các đơn vị, trường học tiếp tục đánh giá theo 5 nội dung của phong trào thi đua, cụ thể hoá các yêu cầu dạy tốt, học tốt; tập trung để giải quyết dứt điểm những yếu kém trong công tác chỉ đạo, triển khai ở năm học trước và phấn đấu để có: 100% các trường học có các công trình vệ sinh, đảm bảo thường xuyên sạch sẽ.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động quyên góp ủng hộ quần áo, sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh vùng khó khăn. Phấn đấu thực hiện được yêu cầu "3 đủ" đối với học sinh và không có học sinh bỏ học vì điều kiện gia đình gặp khó khăn.
3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
3.2.1 Tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên NSNN dành cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo tại các đơn vị tài chính các cấp
Trong công tác quản lý tài chính, việc áp dụng một quy trình quản lý chặt chẽ, phù hợp và khoa học sẽ góp phần tăng hiệu quả trong công tác quản lý: tránh thất thoát, sử dụng lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Quy trình lập dự toán cần hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ nhưng phải đảm bảo đúng theo quy định của luật Ngân sách nhà nước.
Hàng năm, Sở Tài chính phối hợp với Sở Giáo dục - đào tạo cần có hướng dẫn quy trình lập dự toán chung cho các đơn vị giáo dục - đào tạo; cần quy định rõ về thời gian, hướng dẫn mẫu biểu dự toán cụ thể đồng thời cần phải giao số kiểm tra kịp thời cho từng đơn vị dự toán.
Việc lập dự toán ở các đơn vị cơ sở phải căn cứ vào tình hình thực hiện năm trước để đảm bảo độ chính xác nhất định, tránh tình trạng dự toán các đơn vị lập nên quá cao, gây khó khăn cho công tác thẩm định, xét duyệt dự toán.
- Trong phân bổ ngân sách, bên cạnh việc xây dựng hệ thống định mức chi cho giáo dục - đào tạo, cần thiết phải công khai một cách rộng rãi các nguyên tắc, phương pháp phân bổ dự toán chi tiết cho các đơn vị thuộc huyện, ngành theo mục lục Ngân sách nhà nước, từng bước xác định hệ thống các nguyên tắc, phương pháp phân bổ chuẩn mực làm cơ sở cho việc phân khai dự toán chi tiết chi ngân sách cho các đơn vị dự toán.
- Trong cấp phát ngân sách, phải bám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, đơn vị và dự toán năm của các đơn vị để cấp phát, tránh tình trạng một số khoản kinh phí để dồn đến cuối năm mới cấp phát, gây khó khăn cho các đơn vị.
Để khắc phục những tồn tại trong phương thức cấp phát hiện nay, cần cải tiến quy trình cấp phát chi ngân sách cho Giáo dục - đào tạo theo hướng như sau:
+ Căn cứ vào dự toán NSNN đã được giao, các đơn vị sử dụng ngân sách phân bổ dự toán chi cho từng quý, đăng ký với KBNN, cơ quan tài chính để bố trí kinh phí thực hiện.
+ Căn cứ vào dự toán chi, yêu cầu tiến độ triển khai công việc và điều kiện chi ngân sách, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ra lệnh chuẩn chi gửi KBNN.
+ KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện thanh toán khi có đủ các điều kiện quy định của Luật theo phương thức thanh toán trực tiếp.
Quy trình trên phù hợp với tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Tuy nhiên đây là quy trình mới nên đòi hỏi nhiều yếu tố đồng bộ như: nâng cao chất lượng dự toán ngân sách, tăng cường dự trữ tài chính, ý thức tôn trọng kỷ luật của các đơn vị thụ hưởng và khả năng kiểm soát chi của KBNN. Vì vậy, trong thời gian tới khi chưa có đủ điều kiện để thực hiện đồng bộ các yêu cầu trên nhằm tăng cường tính chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách, cần phải cải tiến công tác cấp phát hạn mức ngân sách theo quý đang thực hiện hiện nay sang điều hành, cấp phát theo hạn mức 6 tháng. Khi công tác này đã đi vào ổn định sẽ tiến hành thực hiện điều hành theo dự toán được duyệt hàng năm.
- Đối với công tác quyết toán và kiểm toán các khoản chi:
Vấn đề đặt ra hiện nay là việc sử dụng kinh phí của NSNN thuộc quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN và thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên. Cơ quan tài chính không có điều kiện theo dõi, kiểm tra tình hình chi tiêu cụ thể ở từng đơn vị theo từng nội dung nghiệp vụ và từng chứng từ chi tiêu. Do đó, không đủ căn cứ để khẳng định tính đúng đắn của số liệu cũng như loại bỏ hết những sai phạm khi kiểm tra quyết toán.
Cải tiến công tác quyết toán chi ngân sách cho giáo dục đào tạo cần xác định rõ ràng thẩm quyền trách nhiệm xét duyệt quyết toán của cơ quan tài chính, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị giáo dục - đào tạo. Cụ thể là:
+ Thực hiện nguyên tắc người nào duyệt chi sai chế độ, sai dự toán được duyệt thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
+ Việc đánh giá thực hiện ngân sách không chỉ là chấp hành đúng chế độ, đúng tiêu chuẩn, mà còn phải đánh giá kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Do vậy, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị cấp trên, đơn vị được quyền giao dự toán chi ngân sách và nhiệm vụ cho đơn vị sử dụng ngân sách là thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, phê duyệt việc chi tiêu, sử dụng ngân sách gắn với kết quả thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn được giao.
+ Thể hiện đúng tính chất nhiệm vụ của cơ quan tài chính đảm nhận, đó là kiểm tra tính đúng đắn, hợp lệ nguồn tài chính, sử dụng tài chính - ngân sách và công tác thực hiện chế độ kế toán…
Để thực hiện tốt các nội dung trên, trong quá trình quyết toán ngân sách cho các đơn vị giáo dục đào tạo nhất thiết phải có sự phối hợp giữa cơ quan quản lý và cơ quan cấp phát, xoá bỏ tình trạng hiện nay là một số cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh đóng trên địa bàn huyện chỉ có một cơ quan duy nhất là Phòng Tài chính huyện duyệt quyết toán, bỏ qua vai trò quản lý của Sở giáo dục - đào tạo.
Bên cạnh đó, quá trình quyết toán phải kiên quyết xuất toán các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu và thu hồi giảm chi NSNN đối với các khoản chi sai chế độ này, khắc phục tình trạng cơ quan tài chính các cấp khi tiến hành quyết toán chi NSNN cho các đơn vị khi phát hiện các sai phạm có nêu kiến nghị xử lý nhưng lại không có biện pháp xử lý dứt điểm, để kéo dài không có thông báo duyệt y quyết toán cho các đơn vị.
3.2.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát ngân sách cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở KBNN
Với chức năng quản lý quỹ NSNN và là đơn vị được Nhà nước giao nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi NSNN. KBNN thực hiện kiểm soát chi khi thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN đã chuẩn chi, chính vì vậy để tránh sự chồng chéo về nội dung kiểm soát giữa cơ quan Tài chính và Kho bạc Nhà nước cần xác định rõ nội dung kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, có như vậy mới phân định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trong quá trình quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo.
Phạm vi kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước là kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý của hồ sơ, chứng từ mua bán; tính hợp pháp của các chữ ký của người chuẩn chi và kế toán trưởng đơn vị; số tiền chi trả có nằm trong dự toán được duyệt và có đúng mục lục ngân sách hay không và cuối cùng là việc tuân thủ các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu ngân sách Nhà nước hiện hành. Cơ quan Kho bạc Nhà nước trực tiếp chi tiền của ngân sách cho các đơn vị cần phải thực hiện kiểm tra các điều kiện và thực hiện cấp tiền theo lệnh của cơ quan tài chính. Cơ quan Kho bạc Nhà nước có thể đình chỉ việc chi tiêu trong trường hợp không đủ các điều kiện và sử dụng tiền được cấp không đúng quy định.
Ngoài việc kiểm tra, kiểm soát các nội dung nêu trên. Hiện nay, Kho bạc nhà nước các cấp cần quan tâm đến việc kiểm soát một cách chặt chẽ tồn quỹ tiền mặt tại các đơn vị sử dụng ngân sách, hạn chế khối lượng tiền mặt tồn dư tại các đơn vị quá lớn
Khi tăng cường kiểm tra của các cơ quan chức năng không có nghĩa là hạ thấp vai trò kiểm soát nội bộ của các cơ quan quản lý giáo dục mà kiểm soát nội bộ cũng phải thực hiện đều đặn, hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng, để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị dự toán.
3.2.3 Xây dựng cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh một cách hợp lý
Cơ cấu chi ngân sách cho Giáo dục - đào tạo một mặt phải đảm bảo cân đối nguồn tài chính phù hợp với cơ cấu giáo dục - đào tạo hiện có. Mặt khác thông qua cơ cấu chi ngân sách Nhà nước có tác dụng to lớn trong việc điều chỉnh cơ cấu giáo dục phát triển theo định hướng chung của Nhà nước. Chỉ có trên cơ sở một cơ cấu chi hợp lý mới tạo điều kiện cho việc quản lý đồng vốn đầu tư của NSNN cho giáo dục - đào tạo có hiệu quả.
Nội dung hoàn thiện cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo:
- Nâng dần tỷ trọng chi cho đào tạo trong tổng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo để xúc tiến loại hình này phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu về số lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh.
- Điều chỉnh lại cơ cấu chi ngân sách cho các phân ngành trong khối giáo dục một cách hợp lý hơn: quan tâm hơn đến việc đầu tư ngân sách cho giáo dục mầm non, nâng dần tỷ trọng chi cho khối THCS và THPT trong khối giáo dục một cách hợp lý, phù hợp với xu hướng tăng học sinh ở các cấp học này.
- Hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên:
Cơ cấu các nhóm mục chi trong chi tiêu thường xuyên hợp lý hay không có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các hoạt động thường xuyên diễn ra ở các cơ sở giáo dục - đào tạo, trong đó có những tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quy mô giáo dục như hoạt động chuyên môn, mua sắm trang thiết bị, củng cố cơ sở vật chất trường học.
Những năm vừa qua, do kinh phí ngân sách Nhà nước cấp còn hạn hẹp nên phần chi cho các hoạt động cần thiết tức thì như chi cho con người chiếm tỷ trọng phần lớn, phần chi cho hoạt động giảng dạy, học tập và chi cho mua sắm, sửa chữa chữa chưa được chú ý thích đáng.
Đứng trước yêu cầu nâng cao chất lượng quy mô giáo dục - đào tạo, cần thiết phải hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo. Việc hoàn thiện cơ cấu nhóm mục chi phải trên cơ sở xác định thứ tự ưu tiên của các nhóm mục chi một cách chuẩn xác để làm cơ sở cho việc lập, duyệt và chấp hành ngân sách, tạo điều kiện cho công tác thanh tra, kiểm tra chi tiêu và kiểm tra quyết toán được chính xác và phải đạt được các yêu cầu sau: Đáp ứng đủ mức chi thường xuyên cho con người; chi hoạt động giảng dạy phải đảm bảo ở mức hợp lý; giảm dần tỷ trọng chi quản lý ở mức vừa phải, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi hội nghị, tiếp khách trong chi quản lý...
Trong điều kiện nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn hạn hẹp hiện nay, theo em những năm tới, chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo cần phải đảm bảo được cơ cấu giữa chi lương/ngoài lương ở mức tối thiểu là 80/20, trong đó chi cho hoạt động giảng dạy đảm bảo ở mức tối thiểu theo quy định tại thông tư 30/TT-GD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý
Hàng năm vốn đầu tư cho giáo dục từ Ngân sách là rất lớn, bên cạnh đó còn có cả các nguồn vốn ngoài Ngân sách. Việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn đó như thế nào để đạt hiêụ quả cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục trong những năm tới là điều vô cùng quan trọng.
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách thì nhân tố giữ vai trò quyết định thuộc về con người. Chính trình độ năng lực, ý thức của người quản lý sẽ có ảnh hưởng trực tiếp. Vì vậy hàng năm phải tiến hành kiểm tra trình độ quản lý, trình độ kế toán của các cán bộ phòng tài chính, cán bộ trường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn, sử dụng đồng vốn cấp ra đúng mục đích. Bên cạnh đó phải tiến hành tổ chức các lớp học về kế toán hành chính sự nghiệp cho kế toán các trường bởi vì hầu hết kế toán các trường hiện nay đều mới ở trình độ trung cấp hoặc một số kế toán khác thì đang học đai học tại chức nên thường xuyên không đáp ứng được nhu cầu thực tế hiện nay khi mà các chính sách, chế độ kế toán mới ban hành. Việc kiểm tra trình độ quản lý, kế toán của các cán bộ phải tiến hành đều đặn, liên tục, một mặt giúp nắm vững được trình độ thực tế của đội ngũ cán bộ để từ đó có hướng đào tạo lại phù hợp, mặt khác qua những đợt kiểm tra thi mỗi cán bộ sẽ có ý thức phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong công tác đào tạo, tuyển chọn đội ngũ các cán bộ kế cận thì cần phải lựa chọn những người có đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, được đào tạo chính quy tránh tình trạng ưu tiên con em của các cán bộ trong ngành mà không đáp ứng được trình độ chuyên môn.
Trong quá trình tuyển dụng cần quan tâm đến trình độ thực tế chứ không chỉ là bằng cấp vì nhiều khi trình độ thực tế lại không tương xứng với trình độ đạt đựợc trên bằng cấp. Cùng với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thì cần đẩy mạnh công tác giáo dục về tư tưởng để làm trong sạch đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cùng với việc nâng cao ý thức trách nhiệm làm việc của mỗi cán bộ sẽ làm cho cả hệ thống bộ máy quản lý được vận hành tốt hơn; là điều kiện đảm bảo cho việc quản lý cấp phát kinh phí của ngành tài chính cũng như việc quản lý sử dụng các khoản chi trong thời gian tới đạt kết quả cao.
3.2.5 Các giải pháp hỗ trợ khác
a) Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học
Là những đơn vị dự toán ngân sách, trực tiếp sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các trường học phải quán triệt những yêu cầu được đặt ra trong việc quản lý tài chính như sau:
- Thực hiện hạch toán một cách đầy đủ, rõ ràng các nguồn vốn được hưởng: nguồn vốn Ngân sách cấp được hạch toán riêng với nguồn vốn ngoài Ngân sách. Từ đó sẽ thuận lợi cho cơ quan tài chính trong việc thanh, kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí, mặt khác các trường có kế hoạch quản lý, chi tiêu theo đúng quy định của nhà nước.
- Phải có hệ thống sổ sách ghi chép, bảng biểu phù hợp với quy mô của trường học và phù hợp với quy định chung của Bộ Tài chính, Sở tài chính, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý tài chính được chặt chẽ chính xác.
- Xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm của chủ tài khoản trong quản lý tài chính của đơn vị. Từ đó tạo điều kiện cho việc quản lý được thu về một mối, thiết lập được tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính.
b) Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân
Tổ chức tốt các biện pháp tuyên truyền về vai trò của giáo dục để nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý, cân đối lao động giữa các ngành nghề, kết hợp với đội ngũ lao động trí thức mới là động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Ngoài các hình thức tuyên truyền về vai trò của giáo dục còn để nhân dân nhận thức được rằng: sự nghiệp giáo dục không chỉ riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhân dân, xây dựng một nền giáo dục toàn dân, nhân dân có trách nhiệm cùng nhà nước xây dựng sự nghiệp giáo dục ngày càng vững mạnh.
3.3 Kiến nghị
Để có thể thực hiện tốt các giải pháp đã nêu, theo em cần phải có những điều kiện đảm bảo sau đây:
Thứ nhất: phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Chỉ có trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo và tầm quan trọng của công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục - đào tạo thì các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương mới chỉ đạo các ban, ngành địa phương tích cực quan tâm đến đầu tư ngân sách, quản lý ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo.
Thứ hai: về khuôn khổ pháp lý. Trung ương cần bổ sung sửa đổi các quy định trong quản lý tài chính, ngân sách từ luật NSNN đến các văn bản dưới luật đảm bảo phát huy tối đa tính chủ động sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Trong đó cần thiết phải quy định rõ và đơn giản hơn quy trình lập dự toán ngân sách, cải tiến quy trình chi ngân sách; quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan KBNN trong lĩnh vực NSNN, bổ sung các quy định trách nhiệm của cơ quan phê chuẩn, cơ quan thẩm định quyết toán đồng thời quy định rõ về phân công, phân cấp cho địa phương trong việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và ngân sách cấp dưới.
Thứ ba: phải đảm bảo cân đối được nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Trong điều kiện nguồn thu ngân sách của Sơn La còn hạn hẹp, chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo chủ yếu từ nguồn trợ cấp cân đối của Trung ương, khả năng chi trả nhờ có nguồn thu vượt dự toán của địa phương không đáng kể. Muốn đạt được một cơ cấu đầu tư chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo hợp lý, phải có một lượng ngân sách tăng lên nhất định. Vì vậy, ngoài việc tích cực tranh thủ sự quan tâm của các Bộ, ngành ở Trung ương, phải soát xét lại các chính sách đặc thù của địa phương đã ban hành trên cơ sở dự kiến để nguồn ngân sách có thể đáp ứng được, khắc phục tình trạng một số chính sách địa phương ban hành không có nguồn để bố trí.
Thứ tư: phải có các chính sách hợp lý giải quyết tình trạng thừa thiếu giáo viên hiện nay ở các cấp học hiện nay. Yếu tố này không những tác động đến cơ cấu chi ngân sách cho các cấp học mà còn ảnh hưởng đến các khâu khác của quá trình quản lý chi ngân sách. Sẽ không có một cơ cấu chi, quy trình phân bổ dự toán hợp lý nếu không giải quyết được tình trạng này. Vì vậy, song song với các chính sách sắp xếp lại đội ngũ giáo viên hiện có, cần có các quy định chặt chẽ từ khâu tuyển dụng.
Thứ năm: về con người và cơ sở vật chất. Cần củng cố tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài chính trong ngành giáo dục, cần phải bổ sung thêm lực lượng làm công tác quản lý tài chính cho Sở Giáo dục - đào tạo để có thể thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra việc sử dụng kinh phí tại các đơn vị cơ sở. Đổi mới khâu mua sắm, trang bị tài sản phục vụ công tác quản lý theo hướng ngày càng hiện đại hoá. Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, không chỉ đơn thuần là việc mua sắm tài sản, trang thiết bị đắt tiền mà thực chất của nó là cung cấp đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, phục vụ cho công tác quản lý. Vì vậy vẫn cần thiết phải dành một khoản kinh phí hợp lý cho công tác quản lý, ưu tiên tin học hoá việc quản lý cấp phát kinh phí.
KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học - công nghệ, thế kỷ đỉnh cao về trí tuệ, trong đó giáo dục – đào tạo luôn được coi là nền móng đối với chiến lược phát triển con người và chiếm một vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó, mặc dù kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn nhưng sự nghiệp giáo dục – đào tạo vẫn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng phát triển, thể hiện ở việc ngân sách hàng năm dành cho giáo dục - đào tạo ngày một tăng lên. (năm 2007 là 55.300 tỷ đồng; năm 2008 là 66.770 tỷ đồng).
Chi ngân sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên ngân sách nhà nước nói riêng cho giáo dục – đào tạo là một khoản chi lớn, vì vậy cần phải quản lý khoản chi này thật chặt chẽ và có hiệu quả. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài đã đi sâu và giải quyết được những vấn đề sau: i) Khái quát được những vấn đề về NSNN và chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo, qua đó tìm hiểu về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo; ii) Đưa ra được thực trạng về công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho giáo dục - đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La qua các năm 2007, 2008 và 2009. iii) Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bản tỉnh Sơn La.
Do khả năng và hiểu biết còn hạn chế cũng như chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến góp ý, sửa chữa của thầy, cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sở Tài chính Sơn La, Quyết toán chi Ngân sách nhà nước năm 2007, 2008 và 2009
- Sở Giáo dục – đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học 2008-2009; Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2009 - 2010
- Sở Tài chính và Sở giáo dục và đào tạo, Hướng dẫn liên ngành số 15/HDLN-STC-SGD&ĐT ngày 5 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn về việc phân cấp ngân sách sự nghiệp giáo dục.
- Luật Ngân sách nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2002, có hiệu lực năm 2004
- Vũ Cương, Kinh tế và tài chính công, NXB thống kê 2002
- Nguyễn Ngọc Hùng, Quản lý ngân sách nhà nước, Nxb thống kế 2006
- Vũ Thị Nhài, Quản lý tài chính công ở Việt Nam, Nxb tài chính 2007
- Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007
- Tạp chí cộng sản điện tử, số 24 (192) năm 2009, Định hướng phát triển giáo dục Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
- Bộ Tài chính, thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003 hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN.
- Luật giáo dục năm 2005
- Mục lục Ngân sách nhà nước
- Sở giáo dục và đào tạo, Báo cáo kết quả thực hiện chỉ tiêu thi đua về công tác kế hoạch, thống kê, tài chính, xây dựng cơ sở vật chất và sách, thiết bị trường học năm học 2008-2009
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2009.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Giáo dục và đào tạo, Báo cáo về tình hình thực hiện các nhiệm vụ năm 2009 của Sở Giáo dục và đào tạo Sơn La
- Web Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn
- Web Bộ Giáo dục – đào tạo: www.moet.gov.vn
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nội dung đầy đủ
NSNN
Ngân sách nhà nước
KBNN
Kho bạc nhà nước
GD – ĐT
Giáo dục – đào tạo
MSSC
Mua sắm sửa chữa
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
GDTX
Giáo dục thường xuyên
KTTH – HN
Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp
UBND
Ủy ban nhân dân
HĐND
Hội đồng nhân dân
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
2
1.1 Chi thường xuyên NSNN
2
1.1.1 NSNN
2
1.1.1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò NSNN
2
1.1.1.2 Nội dung chi NSNN
4
1.1.2 Chi thường xuyên NSNN
6
1.1.2.1 Khái niệm
6
1.1.2.2 Nội dung
7
1.1.2.3 Đặc điểm
8
1.2 Vai trò chi NSNN cho GD – ĐT
9
1.2.1 Sự cần thiết của GD – ĐT
9
1.2.2 Vai trò chi NSNN đối với GD - ĐT
10
1.3 Quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
12
1.3.1 Nội dung chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT
12
1.3.2 Nội dung quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD - ĐT
13
1.3.2.1 Xây dựng định mức chi
13
1.3.2.2 Lập dự toán chi thường xuyên
15
1.3.2.3 Chấp hành dự toán chi
16
1.3.2.4 Quyết toán và kiểm toán các khoản chi
17
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến các khoản chi thường xuyên NSNN cho GD - ĐT
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
21
2.1 Một số nét cơ bản về GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
21
2.1.1 Khái quát về tỉnh Sơn La
21
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
21
2.1.1.2 Tình hình kinh tế xã hội năm vừa qua
22
2.1.2 Tình hình GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2009
25
2.1.2.1 Tình hình, kết quả triển khai nhiệm vụ năm 2009
25
2.1.2.2 Công tác đào tạo
27
2.1.2.3 Cơ sở vật chất trang thiết bị
29
2.2. Thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
29
2.2.1 Nguồn vốn đầu tư cho GD – ĐT ở tỉnh Sơn La
29
2.2.2 Tình hình phân cấp chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
31
2.2.3 Chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT trên địa bàn tỉnh Sơn La
32
2.2.4 Thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh Sơn La
38
2.2.4.1 Áp dụng định mức chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tỉnh Sơn La
38
2.2.4.2 Lập và phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN cho giáo dục và đào tạo tỉnh Sơn La
40
2.2.4.3 Công tác điều hành, cấp phát NSNN cho giáo dục và đào tạo tại tỉnh Sơn La
41
2.2.4.4 Quyết toán và kiểm tra các khoản chi thường xuyên NSNN cho giáo dục - đào tạo tại tỉnh Sơn La
42
2.3 Đánh giá về công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho giáo dục – đào tạo trên địa bàn tỉnh Sơn La
43
2.3.1 Những kết quả đạt được
43
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
45
2.3.2.1 Những hạn chế
2.3.2.2 Nguyên nhân
45
49
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN CHO GD – ĐT TẠI TỈNH SƠN LA
51
3.1 Định hướng của tỉnh Sơn La cho vấn đề GD - ĐT
51
3.1.1 Định hướng chung của Nhà nước
51
3.1.2 Định hướng của tỉnh Sơn La
52
3.2 Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tỉnh Sơn La
53
3.2.1 Tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên NSNN dành cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo tại các đơn vị tài chính các cấp
53
3.2.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát ngân sách cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo ở KBNN
55
3.2.3 Xây dựng cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho GD – ĐT tại tỉnh một cách hợp lý
56
3.2.4 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý
57
3.2.5 Các giải pháp hỗ trợ khác
58
3.3 Kiến nghị
59
Kết luận
61
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25619.doc