mở đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh để hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới. Đóng góp vào sự nghiệp phát triển đó, chúng ta không thể bỏ qua vai trò to lớn của các Ngân hàng thương mại với chức năng là trung gian chu chuyển vốn, là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nền kinh
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Doanh nghiệpV & N) tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, các Ngân hàng thương mại thường gặp rất nhiều rủi ro ảnh hưởng đến phương án sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi có sự tham gia cạnh tranh mạnh mẽ của các TCTD trong và ngoài nước. Các rủi ro này thường xảy ra dưới nhiều hình thức, gây nên những tổn thất và mất mát mà Ngân hàng phải gánh chịu. Một trong những biểu hiện của rủi ro gây nên tổn thất cho Ngân hàng đó là nợ tồn đọng (nợ xấu).
Liên tiếp trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ đổ bể tín dụng. Một trong những nguyên nhân chính của các vụ án này là do một số Ngân hàng thương mại đã không thực hiện đầy đủ cơ chế bảo đảm tiền vay, dẫn tới tình trạng đánh giá sai lệch giá trị bảo đảm. Bên cạnh đó, một số Ngân hàng còn nhiều sơ hở trong quản lý tài sản bảo đảm, dẫn đến tình trạng tài sản bảo đảm tiền vay dưới hình thức cầm cố chỉ tồn tại trên giấy tờ, còn tài sản đó vẫn do khách hàng nắm giữ và sử dụng không được pháp luật cho phép, thậm chí có TCTD còn cho vay có bảo đảm bằng cả những tài sản không đủ điều kiện quy định. Sau những tổn thất đó, các Ngân hàng lại ra sức thắt chặt các điều kiện cho vay của mình. Đối với hoạt động cho vay, cả việc nới lỏng lẫn thắt chặt quy định về bảo đảm tiền vay đều không có hiệu quả đối với Ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn vốn, lẫn việc nâng cao thu nhập từ hoạt động này. Vậy làm thế nào để có thể điều hành công tác bảo đảm tiền vay một cách có hiệu quả trên cả bình diện vĩ mô lẫn hoạt động của Ngân hàng thương mại?
Trong quá trình thực tập tại chi nhánh SGD I - NHCTVN em nhận thấy đã có nhiều vướng mắc cần quan tâm, xem xét và sớm tìm ra giải pháp để bảo đảm tiền vay thực sự là một dấu hiệu đánh giá độ an toàn cũng như khả năng định lợi của khoản cho vay ngay từ giai đoạn lựa chọn khách hàng vay. Do đó em đã lựa chọn đề tài bản luận văn tốt nghiệp của mình là:
“Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Doanh nghiệp vừa và nhỏ) tại SGD I – NHCTVN”.
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện bản luận văn này, em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ rất tận tình của các cô chú, anh chị cán bộ phòng Khách hàng 1 và phòng Tổng hợp tiếp thị SGD I cùng với sự hướng dẫn của Thầy giáo, PGS. TS Lê Văn Hưng, đến nay em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên cũng như thời gian thâm nhập thực tế chưa nhiều nên đề tài của em sẽ không tránh khỏi thiếu sót về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Em rất mong thầy cô có ý kiến nhận xét và chỉ bảo để em được tiếp tục hoàn thiện bản luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương i
Những vấn đề cơ bản về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1. Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Nguyên tắc cho vay của NHTM
Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng.
Nguyên tắc cho vay gồm 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kỳ hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nguyên tắc này còn là phương châm hoạt động của các NHTM. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này, các NHTM yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình thành từ vốn vay Ngân hàng, là tài sản của người đi vay hoặc còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
Các hình thức cho vay của NHTM
Nếu phân theo thời hạn: Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thời gian dưới 1 năm, cho vay trung hạn từ 1-5 năm và từ 5 năm trở nên là cho vay dài hạn.
- Nếu phân theo tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm các khoản cho vay cho phép Ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất( từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
- Nếu phân theo số lần vay: Cho vay từng lần và cho vay có hạn mức.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các TCTD khác. Việc cho vay này phải thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng và Quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc NHNN ban hành.
Ngoài ra, còn một số hình thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với các điều kiện hoạt động kinh doanh của từng TCTD và đặc điểm của khách hàng.
1.2.Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.2.1. Tín dụng ngoài quốc doanh đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong đó lực lượng quan trọng nhất là khu vực kinh tế tư nhân có thể được hiểu đơn giản là sở hữu tư nhân chứ không phải là sở hữu nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường sở hữu nhà nước và tư nhân cùng tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên việc phân vùng khu vực là tương đối khó. Theo quy định của luật pháp hiện hành, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh, HTX, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Các NHTM luôn tìm cho mình những cách khác nhau để mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh và cuối cùng là tăng lợi nhuận. Chính vì vậy khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời, các NHTM không ngần ngại lao vào thị trường các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Đây là khu vực kinh tế khá năng động, nhạy bén với thị trường, chịu khó tìm tòi, cải tiến công nghệ. Với một mạng lưới các doanh nghiệp vô cùng lớn từ thành thị đến nông thôn thì có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng, hứa hẹn đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn nếu biết tận dụng.
Tuy nhiên có thể nói đây là khu vực kinh tế khó kiếm soát, vốn tự có thấp, uy tín chưa cao chính vì vậy chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chính vì vậy đòi hỏi Ngân hàng cần phải sáng suốt tỉnh táo, khi cho vay ngoài quốc doanh để đảm bảo an toàn cho mình mà vẫn có lãi.
Sự phát triển của nền kinh tế ngoài quốc doanh, bên cạnh vai trò huy động vốn cho bản thân, chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, mà thông qua nó, thúc đẩy hệ thống Ngân hàng đổi mới và hoàn thiện các chính sách tín dụng, thanh toán và ngoại hối.
1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Như đã nói ở trên, đây là khu vực kinh tế thường có quy mô nhỏ, vốn tự có thấp. Chính vì vậy mà việc tiếp cận được với vốn vay của Ngân hàng sẽ giúp rất nhiều cho các doanh nghiệp này làm ăn hiệu quả hơn. Đôi khi để áp dụng một công nghệ, dây chuyền sản xuất mới để có thể theo kịp những đòi hỏi, những nhu cầu của thị trường thì cần phải có vốn. Nhất là khi nhu cầu về vốn đang trở nên bức bách thì tín dụng Ngân hàng chính là sự lựa chọn tốt nhất cho doanh nghiệp.
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng bổ xung kịp thời vốn lưu động và vốn cố định thiếu hụt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Tín dụng Ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn để có thể tiến hành cải tiến kỹ thuật hay đưa vào sản xuất những sản phẩm mới mà các đối thủ cạnh tranh chưa có. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tín dụng Ngân hàng sẽ thực hiện vai trò quan trọng là đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp mà các nguồn khác không thể hoặc đáp ứng không đủ. Điều đó giúp doanh nghiệp lăm ăn hiệu quả hơn, nâng cao uy tín trên thương trường.
Thứ hai, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn đi đầu trong việc tạo ra sản phẩm mới, thâm nhập vào những thị trường mới... Mà những điều này đòi hỏi phải có vốn và uy tín thì mới bảo đảm được sự thành công. Chính vì vậy đôi khi có được uy tín của một Ngân hàng bảo lãnh cho mình thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều. Các đối tác tin tưởng, các chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đầy đủ đó có thể là một phần của thành công. Khi tiếp cận với vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tạo được cho mình một uy tín nhất định trên thương trường. Trong quá trình hoạt động của mình thì các dịch vụ mà Ngân hàng mang lại sẽ tiện lợi và tiết kiệm cho doanh nghiệp rất nhiều.
Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng còn góp phần tạo môi trường kinh tế ổn định cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Do đó có thể nói tín dụng Ngân hàng sẽ góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp.
2. Bảo đảm tiền vay (BĐTV) trong hoạt động cho vay của NHTM
Khái niệm BĐTV
Bảo đảm tiền vay là việc Ngân hàng áp dụng mọi biện pháp đối với khách hàng để khoản vay có thể trở về với Ngân hàng một cách an toàn và có lợi. Như vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay của mình, Ngân hàng phải sử dụng nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện pháp được thực hiện khi lựa chọn khách hàng vay, các biện pháp Ngân hàng áp dụng trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay và các biện pháp được tiến hành trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn.
Khách hàng có thể đến với Ngân hàng do ý định vay vốn nảy sinh từ bản thân nhu cầu của họ hoặc do trong quá trình tiếp xúc, các cán bộ tín dụng đã thuyết phục được khách hàng nộp hồ sơ xin vay. Nhưng cho dù là khách hàng mà Ngân hàng lần đầu biết đến hay là do cán bộ tín dụng tìm hiểu, thì việc lựa chọn khách hàng vẫn là khâu không thể thiếu. Ngân hàng có thể đưa ra các tiêu chí để lựa chọn khách hàng như: năng lực của khách hàng (kể cả năng lực tài chính và phi tài chính), phương án sử dụng vốn vay, nguồn tài trợ và mức độ sẵn sàng bảo đảm cho các khoản vay (cả bằng tài sản và bằng dòng tiền trong tương lai). Những biệp pháp bảo đảm tiền vay trong giai đoạn này có thể bao gồm việc thẩm định khách hàng, thẩm định dự án vay vốn và xác định những yếu tố liên quan đến tài sản được sử dụng là tài sản bảo đảm (nếu có).
Thông thường, khi khoản vay được giải ngân, Ngân hàng không hoàn toàn để khách hàng tự do sử dụng vốn vay mà không có sự kiểm soát của nhân viên ngân hàng. Trong giai đoạn này, các biệp pháp mà Ngân hàng tiến hành để bảo đảm rằng các khoản cho vay của mình vẫn đang được sử dụng an toàn và sinh lợi là thường xuyên kiểm tra tiến độ sử dụng vốn vay. Phòng khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hay vốn vay được sử dụng không có khả năng sinh lời( tức là thấy được những dấu hiệu của rủi ro), Ngân hàng có thể đưa ra những biện pháp đưa khoản vay về đúng hướng mà Ngân hàng mong muốn.
Nợ quá hạn là yếu tố mà không một Ngân hàng nào mong muốn gánh chịu, thế nhưng như đã nói, rủi ro là yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, thậm chí nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Vì vậy, khi phát sinh nợ quá hạn, Ngân hàng cũng phải tiến hành những biệp pháp để thu hồi nợ, hạn chế những tổn thất do khoản vay đem lại, hay phần nào bảo đảm an toàn cho các khoản vay đó.
Như vậy, nói đến bảo đảm tiền vay là nói đến rất nhiều biện pháp, bảo đảm tiền vay tồn tại trong bất kỳ khâu nào trong quá trình cho vay, vì thế cho nên khi cung ứng một khoản vay, Ngân hàng không nên coi nhẹ bất kỳ một biện pháp nào để bảo đảm tiền vay. Phương châm kinh doanh của người Nhật có câu “ làm đúng ngay từ đầu” nghĩa là nếu ngay từ lúc bắt đầu kinh doanh (với Ngân hàng là một khoản vay), việc xác định đúng hướng, làm tốt những việc cần làm (với Ngân hàng là lựa chọn đối tượng cho vay) có thể giúp nhà kinh doanh hạn chế đến mức tối đa rủi ro có thể phát sinh. Và theo đó, khi có bất trắc xảy ra ngoài dự kiến thì họ vẫn có thể chủ động đối phó với tình huống mới chứ không phải quan tâm đến việc sửa chữa sai lầm nữa. Chính vì lẽ đó, những phần tiếp theo của đề tài này em sẽ chỉ tập trung vào các biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi cho vay.
Thực chất đó là những biệp pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản vay. Có quan điểm cho rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách hàng vay có tài sản hữu hình để đối ứng với món vay của mình. Song trên thực tế đã chứng minh một khoản vay nếu chỉ được đảm bảo bằng tài sản hữu hình thì đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lý do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản.
Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ là tài sản có giá trị thị trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn cả, uy tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng nhất trong thực hiện bảo đảm tiền vay.
Như vậy, “ bảo đảm tiền vay là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay đối với các tổ chức tín dụng khi cho vay. Khi cho vay vốn, để bảo đảm bên vay phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, các Tổ chức tín dụng được quyền yêu cầu người vay vốn phải cầm cố, thế chấp tài sản của mình hoặc người thứ ba bảo lãnh theo quy định của pháp luật.”
Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
+ TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp TCTD nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được Chính phủ xử lý.
+ Khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
+ TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
+ Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Các hình thức bảo đảm tiền vay
2.3.1. Hình thức bảo đảm bằng tài sản
Là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản đã cho khách hàng vay.
2.3.1.1. Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của Ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng trong thời gian cam kết( thường là thời gian nhận tài trợ).
Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
* Các tài sản cầm cố, thế chấp phải hội tụ đủ các điều kiện sau:
- Thuộc sở hữu của khách hàng vay
Được phép giao dịch
Không có tranh chấp
2.3.1.2. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo lãnh vay vốn của Ngân hàng là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thể hoàn trả được nợ cho bên nhận bảo lãnh. Để có thể được bảo lãnh, người bảo lãnh và người được bảo lãnh cần có quan hệ tín nhiệm với nhau.
Điều kiện tài sản được phép bảo lãnh cũng tương tự như đối với tài sản cầm cố, thế chấp.
TCTD có quyền lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản (gọi là bên bảo lãnh) để bảo lãnh cho khách hàng vay. Bên bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự đối với bên bảo lãnh là pháp nhân, có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự đối với bên bảo lãnh là cá nhân.
- Có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh.
2.3.1.3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính những khoản vay đó đối với TCTD. Thực chất đây cũng là hình thức bảo đảm bằng cầm cố hay thế chấp. Nhưng khác với hai hình trên là tài sản được hình thành từ vốn vay là tài sản chưa có thật, mà phải qua quá trình sử dụng vốn, tài sản đó được dần hình thành. Trong thời gian từ lúc ký hợp đồng tín dụng cho đến khi hình thành tài sản được tài trợ bằng vốn vay, hình thức bảo đảm đối với khoản tiền vay này là uy tín của khách hàng vay. Chỉ khi, tài sản được hình thành, những tài sản này mới bắt đầu trở thành hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Hình thức bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được các TCTD áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Việc cho vay này có thể dưới 3 dạng:
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
+ TCTD Nhà nước thực hiện cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tài chính.
+ TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội.
Sự cần thiết hoàn thiện bảo đảm đối với các khoản vay của Ngân hàng
2.4.1. Rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng dẫn đến phải có BĐTV
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi hoặc gốc hoặc cả hai. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng chủ yếu là : Chu kỳ suy thoái kinh tế; sự quản lý yếu kém; tình hình chính trị bất ổn định; sự đổ vỡ của đối tác; sản phẩm và công nghệ lạc hậu của doanh nghiệp; thiếu vốn; yếu tố cạnh tranh; sự bất ổn của dân chúng hay sự phản đối của dân chúng đối với công ty làm mất khả năng trả nợ của người đi vay.
Ngân hàng cũng không khác gì bất kỳ ngành kinh doanh nào, có thể gặp rủi ro, có thể mất tiền vốn. Hơn nữa Ngân hàng là một ngành nhạy cảm, hoạt động của Ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại hình rủi ro đặc biệt là rủi ro tín dụng.
Cho vay là hoạt động của Ngân hàng phải gánh chịu nhiều rủi ro nhất, bởi vì:
Thứ nhất, các chủ thể có quan hệ vay vốn Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Thị trường hiện nay đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh nhưng chính nó cũng làm cho các doanh nghiệp gặp phải nhiều yếu tố đe doạ. Môi trường kinh doanh nhạy cảm cao, sự không thích ứng lập tức sẽ phải tuân theo quy luật đào thải của thị trường. Tính cạnh tranh khốc liệt cùng nhiều mánh khoé tinh vi đã nhanh chóng đẩy nhiều doanh nghiệp đến bờ vực phá sản mà các doanh nghiệp lại luôn là đối tượng khách hàng hàng đầu của Ngân hàng. Những bất trắc mà các doanh nghiệp có thể gặp phải cũng chính là những rủi ro thường trực của Ngân hàng.
Thứ hai, các doanh nghiệp là khách hàng đôi khi lại là mối đe doạ cho chính Ngân hàng xét về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nhiều khách hàng vay vốn của Ngân hàng để sử dụng hoàn toàn khác mục đích khi họ trình bày mà do sự mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế, mở rộng thị trường, Ngân hàng không có khả năng quản lý chặt chẽ họ được. Trong trường hợp như vậy, rủi ro đến với Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, bản thân nhiều món vay của Ngân hàng có giá trị rất lớn, không như quan hệ vay mượn trong đời sống xã hội thông thường. Điều này lại bị giới hạn bởi năng lực quản lý hạn chế của cán bộ tín dụng làm cho nhiều trường hợp khách hàng sử dụng tiền vay vượt ra ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng. Chính vì quy mô của khoản vay mà có bất trắc xảy ra, các hoạt động “chữa cháy” của Ngân hàng tỏ ra ít có tác dụng, rủi ro do đó mà lớn hơn.
Thứ tư, các mối quan hệ nội tại và với bên ngoài đa dạng, phức tạp của Ngân hàng khiến cho Ngân hàng là một ngành kinh doanh nhạy cảm. Bất cứ “trục trặc” nào của nền kinh tế đều có thể tác động đến Ngân hàng mà thường là bắt nguồn từ hoạt động cho vay. Bởi vì mạng lưới khách hàng của Ngân hàng rất rộng lớn và nằm nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Chính vì vậy mà Ngân hàng sẽ phải hứng chịu nhiều rủi ro hơn.
Khi rủi ro xảy ra, Ngân hàng phải dùng vốn mà cụ thể là từ quỹ dự phòng bù đắp rủi ro để trang trải cho những khoản vốn bị thất thoát. Đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện được việc xoá sổ nào nữa và dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền và các khoản nợ đến hạn khác, lúc đó Ngân hàng sẽ phá sản. Mục tiêu cao nhất của NHTM là lợi nhuận nhưng bên cạnh đó còn phải hướng đến mục tiêu an toàn bởi vì “ lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn”. Ngân hàng luôn mong muốn các khoản cho vay ra thu về được cả vốn lẫn lãi. Bảo đảm tiền vay có nghĩa là bảo đảm an toàn cho các khoản tiền vay, thậm chí có thể nói là bảo đảm cho chính sự sống của Ngân hàng.
BĐTV là điều kiện để Ngân hàng ràng buộc khách hàng vào khoản vay
Quan hệ giữa người đi vay và khoản tiền vay là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn. Giả sử đặt trường hợp rằng một khách hàng vay vốn tìm đến Ngân hàng và được Ngân hàng chấp nhận vô điều kiện thì liệu trách nhiệm của khách hàng đó đối với vốn vay như thế nào? Khi khách hàng không bị một ràng buộc gì hay không phải chịu một trách nhiệm nào thì không thể chắc chắn người đi vay sẽ sử dụng tiền có hiệu quả và đúng mục đích. Bởi vậy, khi tiến hành cho vay đối với một số khách hàng không có độ tin cậy nhất định, NHTM thường bắt buộc người đi vay phải có một số tài sản đảm bảo để đến khi họ không có khả năng hoàn trả thì NHTM có quyền thu giữ và bán tài sản đó để thu hồi lại khoản tiền đã cho vay. Khi yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, Ngân hàng sẽ gắn được trách nhiệm của khách hàng vào khoản vay, khách hàng sẽ coi khoản vay như là tài sản của chính mình bởi nếu không trả được nợ, các tài sản đảm bảo sẽ thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng.
Tuy nhiên, đây chỉ là nguyên nhân thứ yếu và chỉ đúng trong một số trường hợp. Đối với khách hàng truyền thống, thường xuyên trả nợ đúng hạn, Ngân hàng có thể không yêu cầu phải có tài sản đảm bảo. Sự bảo đảm cho khách hàng chính là uy tín của họ đối với Ngân hàng.
Như vậy, bảo đảm tiền vay là một yêu cầu thiết yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM xét trên nhiều giác độ khác nhau, ở phía Ngân hàng, ở phía những nhà làm luật và cả ở phía khách hàng. Tuy nhiên ở trên mỗi giác độ thì yêu cầu thiết yếu đó lại khác nhau. Nếu là trên giác độ Ngân hàng thì bảo đảm tiền vay là biệp pháp Ngân hàng bảo đảm cho tiền của mình. Nếu đứng về phía Chính phủ và Ngân hàng Trung ương thì bảo đảm tiền vay tồn tại trong hành lang pháp luật mà các nhà làm luật tạo ra nhằm bảo vệ lợi ích của cả nền kinh tế. Còn đứng về phía khách hàng là các DNNQD, các tổ chức, cá nhân thì bảo đảm tiền vay là một “hàng rào” để tiếp cận với vốn vay Ngân hàng. Vậy cần phải thống nhất một cách hiểu về bảo đảm tiền vay để vừa thuận tiện trong việc cho vay của Ngân hàng lại vừa giúp khách hàng dễ tiếp cận với khoản vay.
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền vay
Quan niệm về chất lượng bảo đảm tiền vay
Chất lượng bảo đảm tiền vay được hiểu là hiệu quả của hàng loạt những công tác mà Ngân hàng tiến hành từ khi thẩm định dự án, các biện pháp trong quá trình sử dụng vốn của người vay và cả các biện pháp khi rủi ro xảy ra để bảo đảm rằng các khoản cho vay của Ngân hàng sẽ được trả đúng hạn và có lãi. Điều đó đảm bảo sự chắc chắn an toàn cho Ngân hàng khi kinh doanh trong một lĩnh vực rất nhạy cảm.
Chất lượng bảo đảm tiền vay có thể là tốt hay không tốt. Nếu chất lượng bảo đảm tiền vay là tốt thì đảm bảo cho Ngân hàng sẽ thu được gốc và lãi đúng hạn giúp Ngân hàng kinh doanh hiệu quả hơn, tăng lợi nhuận. Chất lượng bảo đảm tiền vay tốt biểu hiện Ngân hàng cẩn thận, có trách nhiệm cao trong hoạt động của mình, tất cả các khâu từ thẩm định, đánh giá, phân tích tài chính cho đến ước lượng trước được những biến động trong tương lai (chỉ là tương đối). Điều này cũng biểu hiện là Ngân hàng hiểu khách hàng và công việc của họ có trách nhiệm với các khoản cho vay của mình, chịu khó thâm nhập tìm hiểu kỹ thị trường, thu hồi được nợ cho vay, tránh được tình trạng thua lỗ, kể cả nguy cơ bị đổ vỡ, tránh gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
Và điều quan trọng là chất lượng bảo đảm tiền vay tốt thì Ngân hàng mới có tiền để trả nợ lãi cho những người gửi tiền, cho những tổ chức, đoàn thể, cho các khoản vay từ NHTW và các TCTD khác. Từ đó mới có thể tiếp tục thu hút huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình không ngừng phát triển. Chất lượng bảo đảm tiền vay tốt cũng vẫn đem lại cho Ngân hàng lãi cho dù khi khách hàng của họ gặp rủi ro.
Còn ngược lại chất lượng bảo đảm tiền vay không tốt sẽ không thể bảo đảm được sự an toàn cho chính Ngân hàng. Nếu khách hàng gặp rủi ro dù lớn hay bé cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng và điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay của Ngân hàng. Khi khoản cho vay không được trả đúng hạn thì Ngân hàng sẽ gặp rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nâng cao chất lượng bảo đảm tiền vay chính là việc tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động này, tìm giải pháp bình ổn thị trường giá cả, tăng thêm quyền tự chủ hơn nữa cho các NHTM, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui trong hoạt động Ngân hàng. Điều này càng thiết thực hơn nữa trong giai đoạn hiện nay khi ngành Ngân hàng đang nỗ lực để có một sự biến đổi vượt bậc, một bước cải cách trong toàn hệ thống nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên hội nhập khu vực và thế giới.
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm tiền vay
3.2.1. Môi trường pháp lý
Trước hết, sự ra đời của các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong việc lựa chọn các hình thức bảo đảm tiền vay cũng như việc lựa chọn các tài sản làm đảm bảo. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mà các văn bản quy định nới lỏng hay thắt chặt các điều kiện áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay đối với mỗi đối tượng vay vốn. Đồng thời, các yếu tố liên quan đến bảo đảm tiền vay như danh mục tài sản được sử dụng làm tài sản bảo đảm, việc xác định mức cho vay dựa trên giá trị của tài sản đó. ..cũng được đề cập đến trong các văn bản. Mặc dù, những quy định này không qua chi tiết, nhưng đó là định hướng mà Ngân hàng phải tuân thủ khi thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện công tác bảo đảm tiền vay, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều vướng mắc phát sinh do các quy định trong các văn bản không phù hợp với thực tế. Nhưng qua thời gian, các văn bản này được chỉnh sửa theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt áp lực cho Ngân hàng khi thực hiện bảo đảm tiền vay.
3.2.2. Quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn hình thức bảo đảm tiền vay. Trước khi cung ứng một khoản vay, Ngân hàng quan tâm đến việc liệu khách hàng có khả năng hoàn trả nợ thông qua việc sử dụng vốn vay không? Để trả lởi câu hỏi đó, Ngân hàng phải tiến hành các bước trong quy trình nghiệp vu. Quá trình này đòi hỏi ở Ngân hàng một chi phí giao dịch nhất định, và Ngân hàng luôn luôn muốn giảm thiểu những chi phí này. Vì lẽ đó, một quan hệ lâu năm hoặc uy tín của khách hàng sẽ là cơ sở để Ngân hàng quyết định hình thức bảo đảm tiền vay đối với khách hàng.
3.2.3. Những yếu tố liên quan đến bản thân Ngân hàng
Khả năng đánh giá khách hàng : Việc đánh giá khách hàng được thực hiện dựa trên khả năng thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng vay. Những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, về tư cách vay vốn của khách hàng, dự báo xu hướng sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ là nền tảng cho việc thẩm định khách hàng vay. Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay có bảo đảm bằng hình thức nào.
Khả năng đánh giá và theo dõi tài sản bảo đảm: Thông thường, các văn bản pháp luật thường quy định các tài sản mà khách hàng được phép sử dụng làm tài sản bảo đảm. Nhưng trong điều kiện cụ thể của từng Ngân hàng, họ có thể quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận những tài sản bảo đảm theo quy định. Việc chấp nhận một tài sản làm bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào khả năng định giá chính xác giá trị của tài sản cũng như khả năng quản lý và kiểm soát nó các tài sản đó.
Chiến lược cho vay của Ngân hàng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn tài sản bảo đảm của Ngân hàng. Trong mỗi thời kỳ, Ngân hàng đều có những chiến lược kinh doanh khác nhau như tập trung hơn vào các đối tượng khách hàng, hay mở rộng tín dụng hơn đối với những khách hàng khác. Những chiến lược này góp phần quy định loại hình tài sản nào được ưu tiên sử dụng.
3.2.4. Mức độ an toàn của các tài sản bảo đảm
Đây là lý do giải thích cho hiện tượng Ngân hàng ưa chuộng một số tài sản làm bảo đảm hơn những tài sản khác. Ngân hàng thường có những tiêu chí nhất định để đánh giá độ an toàn của tài sản đảm bảo như: dựa trên mức độ thuận lợi trong việc xác định quyền sở hữu của tài sản bảo đảm; sự tồn tại và hoạt động của thị trường tài sản đảm bảo; sự khác biệt trong khả năng thực thi quyền của người cho vay. Trong đó, sự phát triển của thị trường tài sản bảo đảm là yếu tố mà Ngân hàng quan t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0169.doc