Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM MỤC LỤC CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1. Khái quát về tỷ giá hối đoái 1.1. Khái niệm Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh v

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Chính tỷ giá là một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này. Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này thành những đơn vị tiền tệ nước khác. Cũng có thể hiểu, tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước; hay nói dễ hiểu hơn, tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng một đồng tiền khác. Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia. Ví dụ: Tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar Mỹ là 16517 VND/USD Giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ là 101.684 JPY/USD Giữa Dollar Mỹ và Euro là 1,3409 USD/Euro. (Theo số liệu Ngày 18/9/2008). 1.2. phân loại tỷ giá hối đoái. Trên thị trường ngoại hối có thể phân tỷ giá hối đoái thành một số loại như sau: + Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối: Tỷ giá giao nhận ngay và Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: + Căn cứ vào phương diện thanh toán: Tỷ giá tiền mặt và Tỷ giá chuyển khoản: + Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ: Tỷ giá mở cửa và Tỷ giá đóng cửa: + Căn cứ vào chế độ quản lý tỷ giá: Tỷ giá chính thức, Tỷ giá cố định và Tỷ giá thả nổi (thả nổi tự do và thả nổi có sự quản lý của nhà nước): + Căn cứ vào mối quan hệ tỷ giá với chỉ số lạm phát: Tỷ giá danh nghĩa và Tỷ giá thực tế: + Một số loại tỷ giá khác: - Tỷ giá chợ đen (hay tỷ giá hối đoái song song) - Tỷ giá trung bình - Tỷ giá hối đoái song phương. - Tỷ giá chéo - Tỷ giá hối đoái hiệu lực 2. Hệ thống chế độ tỷ giá hối đoái Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối; là tổng hợp tất cả điều kiện mà NHTW cho phép xác định tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì tỷ giá có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, các quốc gia trong quá trình phát triển cần phải lựa chọn một chế độ tỷ giá thích hợp. Hiện nay, hệ thống tiền tệ của thế giới có các chế độ tỷ giá hối đoái như sau: 2.1. Chế độ tỷ giá cố định (đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo) - Là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Trong chế độ tỷ giá cố định, tỷ giá được quyết định bởi NHTW. NHTW công bố mức tỷ giá chính thức và cam kết duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài theo giá công bố dù cung cầu ngoại tệ trên thị trường có thay đổi. Khi có sự biến động thị trường, muốn duy trì tỷ giá đã ấn định thì NHTW phải điều hòa lượng ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để đảm bảo cân bằng cung cầu. 2.2. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do (còn gọi là chế độ tỷ giá thị trường, chế độ tỷ giá linh họat) Là một chế độ trong đó tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW. Trong chế độ thả nổi hòan toàn, sụ biến động của tỷ giá là không có giới hạn và luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Chính phủ tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường, nghĩa là chính phủ có thể mua vào hoặc bán ra một đồng tiền nhất định để phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá hay để cố định tỷ giá. 2.3. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết Khác với chế độ tỷ giá thả nổi hòan toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết luôn tồn tại khi NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định, nhưng NHTW không nhằm cam kết duy trì một tỷ giá cố định hay mọi biên độ dao động hẹp xung quanh tỷ giá trung tâm. Chẳng hạn, NHTW không công bố và không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ nhất định so với ngày hôm trước. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết được xem đi là chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. 3. Vai trò của tỷ giá hối đoái Tỷ giá là một phạm trù kinh tế quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi nước, là công cụ để đo lường giá trị giữa các đồng tiền và do vậy có tác động như một công cụ cạnh tranh trong thương mại quốc tế, một công cụ quản lý kinh tế, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cả, tới mọi hoạt động kinh tế – xã hội của nước đó và các nước có liên quan. Cụ thể chúng ta có thể xác định vai trò của tỷ giá như sau: - Thứ nhất, so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau: Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong nước và trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các nước khác; hình thành nên tỉ lệ trao đổi giữa các đồng tiền khác nhau với nhau để thuận tiện cho các giao dịch quốc tế. - Thứ hai, vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu: Thông qua cơ chế tỷ giá, chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn. Tỷ giá có tác động to lớn đến thương mại quốc tế, xuất – nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của một nước với nước khác. Chúng ta thấy rằng, khi tỷ giá cao (với đồng nội tệ), tức là giá trị của đồng nội tệ giảm thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài sẽ trở nên rẻ hơn, còn hàng hoá của nước ngoài tại nước đó sẽ trở nên đắt hơn. Ngược lại khi tỷ giá thấp (với đồng nội tệ), tức là giá trị của nội tệ tăng lên thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài sẽ đắt hơn, còn hàng hoá của nước ngoài tại nước đó sẽ rẻ hơn. Như vậy, khi có sự thay đổi về tỷ giá làm giá trị đồng tiền của một nước giảm đi sẽ làm cho những nhà sản xuất trong nước đó thuận lợi hơn trong việc bán hàng của họ ở nước ngoài do đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh, kích thích xuất khẩu và gây khó khăn cho những nhà sản xuất nước ngoài khi bán hàng tại nước đó và chính vì vậy sẽ hạn chế nhập khẩu. Ngược lại khỉ tỷ giá thay đổi làm tăng giá đồng tiền của một nước sẽ hạn chế xuất khẩu và kích thích xuất khẩu. - Thứ ba, tỷ giá là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị trường, tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ. (Đó là biện pháp phá giá đồng tiền. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm này đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật.) - Thứ tư, tác động đến hoạt động đầu tư, Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước , vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển vốn bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn đầu tư này nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hóa trong nước thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Và ngược lại. - Thứ năm, do tỷ giá có tác động mạnh mẽ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ và sự cạnh tranh giữa các nước với nhau trên thị trường quốc tế nên chính phủ các nước đã lợi dụng tác động này của tỷ giá để điều tiết nền kinh tế hay nói cách khác tỷ giá được sử dụng với vai trò là một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. 4. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái 4.1. Phá giá tiền tệ Là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn sức mua thực tế của nó. Ví dụ tháng 12 năm 1971, chính phủ Mỹ chính thức phá giá đồng tiền đô la với mức 7,89%, tức là giá của 1 GBP tăng từ 2,40 USD (trước khi phá giá ) lên 2,605 USD, hay sức mua của một đô la giảm từ 0,416 GBP xuống 0,383 GBP. Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do vậy nó đã góp phần cải thiện cán cân thương mại, làm cho tỷ giá hối đoái bớt căng thẳng. 4.2. Nâng giá tiền tệ Là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ, cao hơn sức mua thực tế của nó. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ, nghĩa là, nó có tác dụng hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu do đó nó góp phần duy trì sự ổn định của tỉ giá đảm bảo tỉ giá không tụt xuống. Trong cuộc chiến tranh thương mại nhằm chiếm lĩnh thị trường bên ngoài, những quốc gia có nền kinh tế phát triển quá "nóng" muốn làm "lạnh" nền kinh tế đi thì có thể dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để giảm đầu tư vào trong nước và tăng cường chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. 4.3. Chính sách chiết khấu Là chính sách của NHTW dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của NH mình để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao tới mức nguy hiểm muốn làm cho tỷ giá hạ xuống thì ngân hàng trung ương nâng cao tỷ suất chiết khẩu lên, do đó lãi suất trên thj trường cũng tăng lên, kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó, tỷ giá hối đoái sẽ có xu hướng hạ xuống. Ngược lại khi muốn làm cho tỷ giá nâng lên thì ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu xuống. 4.4. Chính sách hối đoái Đây là chính sách mà NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại hối trên thị trường.Cụ thể: Khi tỷ giá lên cao, NHTW tăng cường bán ngoại hối ra thị trường làm cung ngoại hối trên thị trường tăng lên do đó làm giảm bớt căng thẳng về cung cầu ngoại hối trên thị trường và kéo tỷ giá tụt xuống. Khi tỉ giá giảm xuống , NHTW sẽ mua vào ngoại hối, tăng nhu cầu ngoại hối trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường dẫn tới tỉ giá hối đoái từ từ tăng lên. Một hình thức khác của chính sách hối đoái đó là việc thành lập quỹ bình ổn hối đoái. Nhà nước sẽ thành lập quỹ này dưới hình thức bằng ngoại tệ, vàng hoặc phát hành các loại trái phiếu ngắn hạn, chủ động mua vào bán ra ngoại tệ để kịp thời can thiệp làm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại hối trên thị trường, nhằm mục đích điều chỉnh tỉ giá. Song để thực hiện tốt biện pháp này thì vấn đề quan trọng ở đây là NHTW phải có dự trữ ngoại hối lớn, nếu cán cân thanh toán của một nước bị thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ số ngoại hối để thực hiện phương pháp này. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái - Cung cầu ngoại hối trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ giá hối đoái - Cán cân thanh toán quốc tế: nhân tố này ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường và tác động tới tỷ giá. Khi cán cân thanh toán bội thu sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá, đồng nội tệ tăng lên, ngược lại khi cán cân thanh toán bội chi sẽ làm cho đồng ngoại tệ lên giá và đồng nội tệ mất giá. - Lạm phát là sự tăng giá trên thị trường trong 1 quốc gia, lạm phát tăng lên sẽ làm cho sức mua của đồng nội tệ giảm đi. Theo thuyết cân bằng sức mua thì đồng tiền của nước có lạm phát cao sẽ bị giảm giá so với đồng tiền của nước có lạm phát thấp hơn. Yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả không đáng tin cậy. - Lãi suất có tác động rất lớn đến tỷ giá hối đoái. Nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất ngoại tệ, điều này sẽ thu hút những dòng vốn ngoại tệ, làm gia tăng sự chuyển hóa đồng ngoại tệ có xu hướng giảm và đồng nội tệ tăng lên. Ngược lại, nếu lãi suất đồng nội tệ thấp hơn lãi suất ngoại tệ thì sẽ làm cho đồng ngoại tệ tăng lên và đồng nội tệ mất giá. - Các yếu tố khác: + Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế. Khi thay đổi các chính sách, có thể dẫn đến tình trạng lạm phát, bội chi ngân sách. + Yếu tố tâm lý: được thể hiện bằng sự phán đoán của thị trường về các sự kiện kinh tế chính trị. Từ đó, người ta dự đoán sự phát triển của thị trường làm cho tỷ giá có thể tăng lên hoặc giảm xuống. + Uy tín của đồng tiền, thu nhập tương đối, đồng tiền nóng, giá dầu thế giới, yếu tố thời vụ, mối quan hệ giữa các loại tiền tệ v.v... Nhìn chung, tỷ giá hối đoái biến động tăng hoặc giảm là do tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm có ảnh hưởng không nhỏ tới dòng vốn ngoại tệ lưu chuyển giữa các nước tức tới hoạt động đầu tư và tín dụng quốc tế. Do đó, để có một mức tỷ giá phù hợp cho từng thời kỳ, chúng ta cần phải xác định được các yếu tố chủ quan, khách quan; trực tiếp và gián tiếp tác động lên tỷ giá. Trên cơ sở đó, mà đưa ra những quyết định chính sách đúng đắn trong việc điều hành tỷ giá nhằm đạt các mục tiêu kinh tế cụ thể. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quản lý ngoại hối và diễn biến tỷ giá ngày càng trở nên hết sức nhạy cảm, trở thành vấn đề thời sự đối với NHTW các nước. Những thay đổi của đồng Dollar Mỹ so với đồng Euro, đồng Yên Nhật Bản và đồng tiền chủ đạo khác trong thời gian qua trên thị trường ngoại hối quốc tế cho thấy rõ điều đó. Như vậy đòi hỏi chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá của các nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập, đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam cần phải không ngừng đổi mới và thích ứng để thúc đẩy xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân vãng lai, tăng cường dự trữ ngoại tệ và đảm bảo ổn định đồng tiền quốc gia. 1. Tình hình quản lý tỷ giá Việt Nam trong những năm qua. Từ trước đến nay VND không công bố nội dung vàng trong một đơn vị tiền tệ. Theo pháp lệnh ngân hàng tiêu chuẩn giá cả của nước ta là "đồng", kí hiệu là VND nên việc xác định Tỷ giá phải dựa trên cơ sở so sánh sức mua giữa đồng Việt Nam với tiền tệ các nước khác. 1.1. giai đoạn năm 1955-1989 Trong suốt thời kì từ 1955-1989, nói chung nền kinh tế nước ta nằm trong tình trạng thời chiến, tự cấp, tự cấp, tự túc, kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế chỉ huy, quan lieu bao cấp nặng nề. Quan hệ hàng hóa tiền tệ chỉ ở vị trí thứ yếu, thị trường trong nước phản ánh đậm nét một nền kinh tế lạc hậu, sức mua rất thấp và tự phát, phân hóa thành hai khu vực kinh tế là khu mậu dịch quốc doanh và khu vực thị trường tự do. Hiện tượng cửa quyền, hách dịch, chủ nghĩa giấy tờ nặng nề, nạn đầu cơ tích trữ, nạn khan hiếm hàng hóa luôn chi phối thị trường. Một lượng tiền phát hành được sử dụng để cấp phát và chủ yếu lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng, làm cho hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt nghiêm trọng, trong khi ngoài thị trường tự do nạn cho vay nặng lãi trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội VN suốt giai đoạn nền kinh tế vận động theo cơ chế bao cấp, mà đậm nét nhất là thời kì từ năm 1977-1989. Từ năm 1955 đến năm 1975, miền bắc đã thiết lập quan hệ kinh tế- thương mại với trên 40 nước, nhưng chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa. Dó đó, quan hệ tỷ giá của VND chủ yếu với SUR , còn các đồng tiền tự do chuyển đổi khác thì về cơ bản là không được xác lập chính thức. Bước sang năm 1977, các nước XHCN thỏa thuận thanh toán với nhau băng tiền RUP chuyển nhượng có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam. Đây là đồng tiền tập thể, chỉ tồn tại ở dạng ghi sổ, dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối. Bức tranh tổng thể nói trên chi phối trực tiếp đến quan hệ kinh tế nói chung và chính sách tỷ giá nó riêng trong suốt giai đoạn từ 1955-1989. Tỷ giá khu vực được chia thành hai khu vực, bao gồm: khu vực1: tỷ giá trong phe XHCN và khu vực 2: tỷ giá ngoài phe XHCN. Tóm lại, đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, quyết định các chính sách vi mô và vĩ mo theo một kế hoach quy mô tập trung toàn quốc. sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trườn, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của nhà nước về ngoại thương và ngoại hối, do đó tính độc quyền trong việc ban hành và ấn định tỷ giá. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố dịnh do nhà nước độc quyền xác định , không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, VN cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngaọi giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những hiệp định thanh toán được kí kết giữa các nước XHCN với nhau. Hậu quả của một cơ chế tỷ giá cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền VN được định giá quá cao so với đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa so với tỷ gía thị trường làm cho hoạt dộng xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương (lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn. Bảng tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do VND/USD Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do 1985 15 115 1986 81 425 1987 368 1270 1988 3000 5000 1989 3900 4750 1.2. Giai đoạn sau năm 1990 Việt Nam trong thời kì này đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, từ chế độ độc quyền ngoại hối chuyển sang chế độ quản lý thống nhất ngoại hối cho nên chế độ Tỷ giá hối đoái cần có sự thay đôỉ nhằm từng bước gắn liền với cơ chế kinh tế thị trường. Tỷ giá hối đoái đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách tài chính- tiền tệ quốc gia, nhà nước chủ trương chỉ áp dụng một loại Tỷ giá trong nền kinh tế. 1.2.1. giai đoạn thả nổi tỷ giá 1989-1993 Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây: Bảng 1: Tỷ giá và Lạm phát của Việt Nam qua các năm 1989 – 1993 NĂM TỶ GIÁ USD/VND Lạm phát Giá chính thức nhà nước Giá thị trường tự do Tăng/giảm(%) 1 2 3 4 5 1989 4.200 4.570 +8,80 +34,70 1990 6.650 7.550 +13,50 +67,50 1991 12.720 12.550 -0,02 +17,50 1992 10.720 10.550 -0,02 +17,50 1993 10.835 10.736 -0,01 +5,20 (Số liệu lấy từ tài liệu của Tập san Khoa học Ngân Hàng từ số 1.1994 đến số 12.1994 và từ số 1.1995 đến số 5.1995). Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống .Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với giáù của thị trường tự do. Điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn. Tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã: - Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá. - Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốt USD làm mất ổn định nền kinh tế. - Quản lý ngoại tệ của Chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn. - Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. → Vì vậy đến năm 1993, Nhà nước đã "cố định" tỷ giá mà chúng ta sẽ xem xét trong giai đoạn 1993-1996 . 1.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá : 1993-1996 Bảng 2: Tỷ giá và Lạm phát của Việt Nam qua các năm 1993 – 1996 Năm Tỷ giá USD/VND So sánh % năm trước Tốc độ lạm phát 1 2 3 4 1993 10.835 100% 5,2% 1994 11.050 +1,98% 14,4% 1995 11.040 0% 12,7% 1996 11.606 +0,18% 4,5% (Số liệu lấy từ Tập san Khoa Học Ngân Hàng tháng 7.1995 đến tháng 12.1995, và từ số 1.1996 đến tháng 12.1996 và từ tháng 1.1997 đến tháng 12.1997). Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiều, nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua bảng số liệu trên (bảng 2) chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong một thời gian khá dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua đối nội của VND, kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài(1993-1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu, đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây: Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (Đơn vị tính: triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh 1 2 3 4=3-2 1993 2.985 3.924 -939 1994 4.054 8.825 -1.771 1995 5.448,9 8.155,4 -2.706,5 1996 7.255 11.143 -3.888 (Số liệu lấy từ nguồn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn của UBND Thành Phố HCM qua các năm 1996-1997-1998). Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia. Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993-1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995, 3,8 tỷ USD 1996. 1.2.3. Giai đoạn thả nổi có điều tiết từ năm 1997-1999 Năm 1997, đặc biệt là vào nửa cuối năm, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam Á bùng nổ, buộc các nước này phải tiến hàng phá giá mạnh đồng nội tệ. So với giai đoạn trước đây, tỷ giá VND/USD trong thời kì khủng hoảng biến động khá phức tạp, có xu hướng tăng nhanh, đồng thời đột biến theo những cơn sốt giá ngọai tệ. tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh tăng đều liên tcụ, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch. Sau khi thị trường đã đi vào ổn định, ngày 25 tháng 2 năm 1999, NHNN đã công bố tỷ giá giao dịch bình quân lien ngan hàng thay cho việc công bố tỷ giá chính thức. tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh từ 12976 VND/USD lên 13885 VND/USD (tăng 7%), trên cơ sở đó giảm biên độ giao động xuống còn +0,1%. Trên cơ sở tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN thông báo, các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch không vượt quá 0,1% so với mức tỷ giá này. Điều này thực sự đã thay đổi về cơ chế quản lý điều hành tỷ giá, tạo quyền chủ động cho các NHTM tự quy định mức tỷ giá giữa VND với các ngoại tệ khác ngoài USD. Liên tục đến năm 2000, cùng với các biện pháp phát triển của ngoại tệ, với cơ chế điều hành tỷ giá tỷ giá mới, sức mua của VND được phản ánh tương đối khách quan so với ngoại tệ, tạo điều kiện chủ động hơn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảovai trò kiểm soát của nhà nước. Nhìn chung, tỷ giá thời kỳ 1997-1999 diễn biến phức tạp với xu hướng USD lên giá mạnh, nguyên nhân khiến USD lên giá gồm: - Xu thế lên giá chung của USD so với các ngoại tệ khác trên trường quốc tế. - Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ, đồng tiền của hầu hết các nước Đông Nam Á đều giảm mạnh so với đồng USD. - Tình hình cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng. - Cầu ngoại tệ tăng do xuất hiện nhu cầu ngoại tệ để thanh toán các L/C nhập hàng trả chậm. - Giá vàng trong nước trên thị trường thế giới có sự chênh lệch ngày càng lớn, dẫn đến tình trangh mua vét ngoại tệ để nhập vàng về bán trong nước. - Do tâm lý mất giá VND, nên xu hướng dịch chuyển từ VND sang USD để bảo toàn giá trị. 2. Những diễn biến quan trọng của tỷ giá hối đoái từ 2/1999 đến nay: Tháng 2 năm 1999, với sự ra đời của quyết định 64/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của VN có bước cải cách triệt để hơn. Từ tháng 2/1999 về trước, cơ chế điều tỷ giá ở VN là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch có lúc đến ( +,-)10%. Nhưng bắt đầu từ 25/2/1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân lien ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân lien ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó,từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên (+,-_ 0,25%. Đây là buớc cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu của thị trường, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Dưới cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết NHNN đã không chủ quan trực tiếp ấn định, không công bố tỷ giá chính thức, mà thay vào đó là chỉ “ thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Mà tỷ giá liên ngân hàng lại có do nhu cầu trên thị trường liên ngân hàng quyết định. Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh theo nguyên tắc: Tỷ giá kinh doanh = TGBQLNH(1+/- 0,0025) Suy ra: tỷ giá bán ra (max) =TGBQLNH(1+0,0025) Tỷ giá mua vào (min) = TGBQLNH (1- 0,0025) Ở đây, yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng TGBQLNH . Bên cạnh đó tỷ giá không được tự do biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường liên ngân hàng, mà thay vào đó sự biến động chỉ trong giới hạn (+/- 0,25%) so với tỷ giá giao dịch trước đó. Tỷ giá cố định trong suốt một ngày giao dịch , bất chấp những thay đổi đột biến trong quan hệ cung cầu ngoại tệ vượt ra ngoài biên độ dao động cho phép. Ngòai ra ngân hàng còn sử dụng một hệ thống các công cụ để tác động lên tỷ giá, như: trực tiếp mua vào bán ra trên thị trường ngoại hối, sử dụng biện pháp kết nối, tăng giảm lãi suất… Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết của Việt Nam hiện nay vẫn chưa có tính linh hoạt cao do các yếu tố sau: - Trước hết, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam còn rất sơ khai. Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quá nhỏ bé, ước gần khoảng gần 300 triệu USD/ tháng, chiếm khoảng 22% tổng doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối. Với tỷ trọng thấp như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam khác xa so với thị trường quốc tế, nơi mà thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng tới 85%. Do đó, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường, thậm chí có ngày không phát sinh giao dịch nào. - Thực tế cho thấy, do tình trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên, nên các NHTM phải áp dụng tỷ giá giao dịch kịch trần cho phép,(tức bằng TGBQLNH +0,25%) - Tỷ giá được công bố có giá trị trong suốt một nhgày làm việc. Như vậy, nếu có trong ngày có sự thay đổi lớn về cung cầu thì các NHTM không có đieùe kiện thay đổi tỷ giá cho phù hợp. - Trong thời gian đầu, NHNN chỉ quy định biên độ giao động một chiều( tối đa là +0,1%). Điều này tạo tâm lí cho các thành viên tham gia thị trường là tỷ giá VND chỉ có thể tăng, nên NHNN phải khống chế tăng, còn khả năng tỷ giá giảm là rất khó xảy ra, nên NHNN không cân quy định chiều giảm. Điêu này tạo tâm lý đầu cơ, ưa chuộng ngoại tệ vì nó chỉ có thể tăng. Một thực tế là, các NHTM luôn kinh doanh với tỷ giá kịch trần, do đó, nếu NHNN có quy định sàn tỷ giá thì cũng không có ý nghĩa thực tế. Tuy nhiên, để hạn chế tâm lí và để tỷ giá được linh hoạt hơn. NHNN đã quy định biên độ hai chiều, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch lên +/-0,25%. 3.Thực trạng diễn ra trong thời gian gần đây của tỷ giá trên thị trường Lạm phát đang là một vấn đề nóng bỏng hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Và như chúng ta thấy: Lạm phát - Tỷ giá hối đoái – Lãi suất: là một cái vòng luẩn quẩn đang bao lấy kinh tế Việt Nam. Việc Quốc hội Mỹ thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính nước này trị giá 700 tỷ USD, đồng thời với việc ngân hàng trung ương nhiều nước bơm hàng trăm tỷ USD để bình ổn thị trường tài chính khiến không ít người lo ngại thị trường ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Đã có những ý kiến cho rằng, trong bối cảnh thị trường ngoại tệ bấp bênh trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, Việt Nam nên phá giá VND để giảm thâm hụt cán cân thương mại, giảm áp lực phụ thuộc vào vốn nước ngoài. Nhưng ngược lại, cũng có ý kiến bảo vệ quan điểm nên để VND biến động theo cung cầu thị trường. Vậy Ngân hàng Nhà nước áp dụng những cơ chế điều hành, quản lý tỷ giá ra sao để bình ổn và phát triển kinh tế Việt Nam? * Theo các chuyên gia tài chính ngân hàng, mặc dù tỷ giá hối đoái về mặt nguyên tắc không dựa vào riêng một đồng tiền nào, mà dựa vào rổ tiền tệ, nhưng thực tế 80 - 90% cán cân thanh toán của VN bằng USD. Tình trạng USD hóa nền kinh tế đã và đang diễn ra, tuy mức độ USD hóa đã giảm xuống (từ 31% xuống 23% trong năm 2003). Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước, thanh toán thương mại quốc tế và vấn đề quản lý nợ nước ngoài, cũng như huy động đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam đều được xác định trên cơ sở USD. Hệ thống tiền tệ "cột chặt" vào đồng USD nên khó có thể giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của đồng USD. →Theo bối cảnh đó của nền kinh tế Việt Nam chúng ta sẽ đề cập nhiều hơn đến những vấn đề phát sinh từ tỷ giá và chính sách tỷ giá hối đoái giữa VND và USD. Điểm qua những giai đoạn tỷ giá không ổn định, tăng mạnh hoặc giảm mạnh, lãi suất VND và USD ngược chiều thì thị trường tiền tệ đối mặt với sự bất ổn. Đơn cử, năm 1997 - năm mà nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tiền tệ Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22159.doc
Tài liệu liên quan