Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đặt mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp hoá vào năm 2020. Quá trình công nghiệp hoá của VN trong bối cảnh phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới. Bên cạnh đó các nước trong khu vực như Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN đã đạt được những kết quả rất đáng ngưỡng mộ trong phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, chính sách thương mại quốc tế có một vị trí quan trọng trong việc h

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỗ trợ thực hiện chính sách công nghiệp và các chính sách khác. Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO nên các vấn đề về tính minh bạch, chủ động của chính sách thương mại quốc tế của VN được đặt ra, đặc biệt là sự phối hợp giữa Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thương mại, Bộ Tài Chính, Bộ Công nghiệp với các bộ ngành, hiệp hội, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần đuợc tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; cơ sở thực tiễn khi đàm phán ASEAN mở rộng, ký kết hiệp định song phương ; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách ; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Với những lý do nêu trên, việc xem xét chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn, góp phần đưa VN hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020. Nội dung đề tài của em gồm 3 phần: Phần 1: Cơ sở lý luận về chính sách thương mại quốc tế Phần 2: Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay Phần 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập hiện nay Phần I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế - Thương mại quốc tế được hiểu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia. Tổ chức thương mại thế giới WTO xem xét thương mại quốc tế bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ. - Chính sách thương mại quốc tế là “những chính sách mà chính phủ thông qua về thương mại quốc tế ”. Theo Trung tâm kinh tế quốc tế của Úc (CEI), hệ thống các chính sách thương mại quốc tế bao gồm các quy định về thương mại, chính sách về xuất khẩu, hệ thống thuế và các chính sách hỗ trợ khác. + Các quy định về thương mại bao gồm hệ thống các quy định liên quan đến thương mại (hệ thống pháp quy); hệ thống giấy phép, chính sách đối với doanh nghiệp trong và ngoài nước(kiểm soát doanh nghiệp); việc kiểm soát hàng hóa theo các quy định cấm xuất, cấm nhập… + Chính sách xuất nhập khẩu của một nước có thể là khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu và cũng có thể là hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu tùy theo các giai đoạn và mặt hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, các chính phủ áp dụng các biện pháp như miễn thuế, hoàn thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu…Để hạn chế xuất khẩu, các chính phủ có thể áp dụng lệnh cấm xuất, hệ thống giấy phép, các quy định liểm soát khối lượng hay quy định về cơ quan xuất khẩu và các quy định về thuế đối với xuất khẩu. +Các chính sách hỗ trợ khác được áp dụng như các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư bằng các khoản đầu tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, bảo đảm tín dụng xuất khẩu và cho phép khấu hao nhanh, hoạt động hỗ trợ từ các tổ chức xúc tiến thương mại… Trong đề án này, chính sách thương mại quốc tế bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong mỗi thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. 2. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra nước ngoài nhằm tăng nhanh quy mô xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh trên thi trường thế giới. - Bảo vệ thị trường trong nước trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. 3. Các hình thức của chính sách thương mại quốc tế Chính sách thương mại quốc tế được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: chính sách mậu dịch tự do và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai hình thức này được biểu hiện dưới các hình thức cụ thể khác nhau trong từng thời kỳ phát triển của mỗi quốc gia. 3.1. Chính sách mậu dịch tự do - Đây là một hình thức của chính sách thương mại quốc tế, trong đó Chính phủ nước chủ nhà không phân biệt hàng hóa nước ngoài với hàng hóa nội địa trên thi trường nước mình, do đó không thực hiện các biện pháp cản trở hàng hóa nước ngoài xâm nhập thị trường nước mình. Đặc điểm chính sách mậu dịch tự do: + Thúc đẩy việc mở rộng xuất khẩu qua việc bãi bỏ thuê xuất khẩu hoặc thực hiện các biện pháp khuyến khích khác. + Mở rộng thị trường nội địa cho hàng hóa nước ngoài tự do xâm nhập thông qua việc xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. + Chính sách mậu dịch tự do thường được thực hiện sau khi các hàng hóa của quốc gia đó có đủ sức cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa ngoại nhập. Điều kiện để tự do hoá thương mại: Để phát huy lợi thế so sánh khi thực hiện tư do hoá thương mại, cần phải đảm bảo các điều kiện tối thiểu sau: + Đảm bảo sự ổn định vĩ mô, nhất là ổn định chính trị, kinh tế, tạo không khí hợp tác hoà bình hữu nghị và thuận lợi cho các hoạt động hợp tác kinh doanh + Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp một cách đồng bộ nhất quán, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại + Cải cách và nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan chính phủ, nhất là các cơ quan có liên quan đến hoạt động ngoại thương. + Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội trước hết là những trung tâm giao lưu kinh tế và cửa ngõ thông thương với thị trường thế giới như hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc, điện nước, và các dịch vụ thiết yếu... đạt trình độ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh năng động và hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư quốc tế. + Đào tạo và xây dựng một nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu phát triển, nhất là giới kinh doanh, doanh nghiệp trên lĩnh vực thương mại quốc tế, có đủ chuyên môn và bản lĩnh để làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài. - Cần thiết phải tự do hoá thương mại theo trình tự: Tự do hoá thương mại là việc cần phải làm đối với tất cả các nước trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại cần phải được thực hiện theo những bước đi phù hợp, nhất là đối với các nước đang phát triển. Nếu không chú trọng đến trình tự tự do hoá, các nước này có thể phải gánh chịu những bài học đắt giá. Việc xác định lộ trình tự do hoá thương mại cần dựa vào đặc điểm, điều kiện, và nội lực của mỗi nước. 3.2. Chính sách bảo hộ mậu dịch - Đây là chính sách thương mại quốc tế, trong đó Chính phủ của một quốc gia áp dụng các biện pháp để cản trở và điều chỉnh dòng vận động của hàng hóa nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước. Đặc điểm của chính sách bảo hộ mậu dịch: + Hạn chế nhập khẩu hàng hóa nước ngoài thông qua các hàng rào thuế quan và phi thuế quan tương đối dày đặc. + Chính sách bảo hộ mậu dịch thường được thực hiện trước chính sách mậu dịch tự do nhằm bảo vệ cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp có đủ thời gian để chuẩn bị cho sự cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, một số nước có xu hướng đòi các nước khác thực hiện chính sách mậu dịch tự do đối với hàng hóa của họ, song thực tế hầu hết các quốc gia vẫn bằng cách này hay cách khác thực hiện việc bảo hộ hàng hóa do nước mình sản xuất ra. 4. Các nguyên tắc của chính sách thương mại quốc tế 4.1 Nguyên tắc tương hỗ Đó là việc giành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng giữa các bên trong quan hệ kinh tế buôn bán trên cơ sở tương xứng nhau. Trên thực tế những ưu đãi và nhân nhượng theo nguyên tắc này có thể mang tính chất hình thức hoặc thực tế. Nó phụ thuộc vào so sánh lực lượng của các bên tham gia và việc áp dụng nguyên tắc này thường gây bất lợi cho bên yếu hơn và mang tính chất phân biệt đối xử với nước thứ 3. Ngày nay, việc áp dụng nguyên tác này đang dần bị thu hẹp. 4.2 Nguyên tắc ngang bằng dân tộc (Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia ) Các bên tham gia cam kết dành cho hàng hoá, công dân hoặc công ty của nước ngoài những ưu đãi và quyền lợi dành cho hàng hoá, công dân hoặc công ty nước mình. Nguyên tắc này có thể được áp dụng 1 cách tự định là không nhất thiết bao giờ cũng mang tính chất phân biệt đối xử. Nguyên tắc này thường được áp dụng trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá, quyền lợi kinh tế của các cá nhân và doanh nghiệp, hoạt động vận tải biển... Thực tế cho thấy các nước phát triển bao giờ cũng chiếm vị trí thuận lợi hơn các nước kém phát triển. Do đó tính chất ngang bằng trên thực tế có thể chỉ là hình thức. 4.3 Nguyên tắc "nước được ưu đãi nhất" (Nguyên tắc tối huệ quốc ) Các bên tham gia sẽ dành cho nhau những điều kiện ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã đang và sẽ dành cho các nước khác. Cụ thể có 2 trường hợp: - Tất cả những ưu đãi và miễn giảm mà một bên tham gia đã đang hoặc sẽ dành cho bất kỳ một nước thứ ba nào thì cũng được dành cho bên tham gia kia hưởng một cách không điều kiện. - Hàng hoá di chuyển từ một bên tham gia này đưa vào lãnh thổ của bên tham gia kia sẽ không chịu thuế quan và các phí tổn cao hơn hoặc những thủ tục phiền toái hơn những thuế và thủ tục đã đang và sẽ được áp dụng đối với hàng hoá nhập vào từ nước thứ ba. 5. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế 5.1 Công cụ thuế quan - Thuế quan là công cụ kinh tế thông qua đó Nhà nước có thể khuyến khích hoặc hạn chế lượng hàng hóa xuất, nhập hoặc quá cảnh tùy theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. - Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan được chia thành thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu và thuế quan quá cảnh. Trong đó, thuế quan nhập khẩu có vị trí quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. + Thuế quan nhập khẩu là thuế đánh vào hàng nhập khẩu, được áp dụng phổ biến trên thế giới. Áp dụng thuế quan nhập khẩu có mặt tích cực và tiêu cực nhất định. Về mặt tích cực: * Tạo nguồn thu quan trọng cho Nhà nước * Điều chỉnh hàng hóa từ thị trường nước ngoài vào trong nước. * Bảo vệ thị trường nội địa Về mặt tiêu cực: * Làm thiệt hại lợi ích của nhà sản xuất và người tiêu dùng. * Làm cho một số doanh nghiệp sản xuất kém hiệu quả. *Về lâu dài nó gây phản ứng xấu: buôn lậu, tạo thị trường sản xuất kém hiệu quả. + Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng xuất khẩu. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Theo phương pháp đánh thuế, thuế quan bao gồm: + Thuế quan tính theo đơn vị vật chất của hàng hóa, là loại thuế đơn giản nhất đánh vào một đơn vị hàng hóa. P1 = P0 + Ts Trong đó P0 và P1 là giá cả hàng hóa trước và sau khi đánh thuế, Ts là mức thuế đánh vào một đơn vị hàng hóa. + Thuế đánh theo giá trị hàng hóa: P1 =P0(1+ t) Trong đó t là mức % theo giá trị hàng. - Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được chia thành thuế tài chính và thuế bảo hộ + thuế tài chính là loại thuế mà vai trò của nó nhằm làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước + Thuế bảo hộ là loại thuế mà vai trò của nó nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. - Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập: Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên. 5.2 Hạn ngạch Hạn ngạch (Quota) là việc hạn chế số lượng đối với một loại hàng hóa xuất và nhập khẩu nào đó thông qua hình thức cấp giấy phép. Tính chất riêng biệt của giấy phép cũng như những thủ tục cấp giấy phép của Chính phủ cũng đóng vai trò khuyến khích hoặc hạn chế xuất(nhập) khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu được áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với các mặt hàng quý, thiết yếu. Hạn ngạch có tác dụng giống như thuế, nghĩa là nó hạn chế tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, nếu dùng hạn ngạch thì Chính phủ sẽ không có nguồn thu như thuế. Hiện nay tình hình này có sự thay đổi, ở một số quốc gia phát triển đã tổ chức hình thức bán đấu giá hạn ngạch. Hạn ngạch dễ dẫn đến độc quyền kinh doanh và các tiêu cực trong việc tìm cơ hội để có được hạn ngạch. 5.3 Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật Tiêu chuẩn kỹ thuật là một yêu cầu khách quan đối với các loại hàng hóa và dịch vụ nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Nội dung của nó là những quy trình về vệ sinh thực phẩm , vệ sinh phòng dịch, tiêu chuẩn đo lường, quy định về an toàn lao động, bao bì đóng gói cũng như các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái, quy định về tỷ lệ nguyên vật liệu nhất định trong nước để sản xuất một loại hàng hóa nào đó… Những quy định này là đòi hỏi khách quan của xã hội ngày càng phát triển. Song, ngày nay, nó được các nước phát triển áp dụng để ngăn chặn hàng hóa của nước ngoài vào nước mình một cách khéo léo. Chính vì vậy, nó còn có một tên khác là công cụ siêu bảo hộ. 5.4 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Đây là công cụ trong việc thực hiện chính sách thương mại quốc tế. Các quốc gia áp dụng công cụ này đòi hỏi quốc gia xuất nhập khẩu phải hạn chế số lượng hàng hóa xuất khẩu phải hạn chế số lượng hàng hóa xuất khẩu của họ một cách “ tự nguyện” nếu không sẽ bị áp dụng các biện pháp trả đũa. 5.5. Cấm hẳn nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số loại hàng hóa nào đó Đây là công cụ bảo hộ mậu dịch tuyệt đối bằng biện pháp hành chính để loại hoàn toàn đối thủ cạnh tranh trên thị trường nội địa.Việc áp dụng công cụ “cấm”về ngắn hạn có thể có những ưu thế nhất định: như ngăn chặn được những hàng hóa có hại cho an ninh quốc gia và an toàn xã hội (như thuốc phiện, vũ khí, văn hóa phẩm đồi trụy…) tràn vào trong nước cũng như những sản phẩm xuất khẩu làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia ( xuất khẩu công nghệ cao,xuất khẩu gỗ tròn…) Công cụ này cũng có hạn chế nhất định, trước hết Chính phủ không thu được gì và cấm nên không có thuế nhập, xuất. Đồng thời là mảnh đất cho nạn buôn lậu vì lợi nhuận cao. Đối với người sản xuất kinh doanh, ban đầu có lợi nhưng về lâu dài được che chắn bằng biện pháp hành chính nên sản phẩm không có sức cạnh tranh. Vì vậy, trong điều kiện kinh tế mở, rất khó duy trì nghiêm túc biện pháp cấm và sự trả giá của biện pháp này cũng cao.Đồng thời còn có sức ép của các quốc gia và tổ chức quốc tế. 5.6 Trợ cấp xuất khẩu Đây là công cụ mà chính phủ áp dụng đối với các hàng hóa được khuyến khích xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu được thông qua hai hình thức + Trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà sản xuất trong nước có hàng hóa xuất khẩu. + Cho vay ưu đãi với các bạn hàng nước ngoài để mua sản phẩm của mình. Trợ cấp xuất khẩu có tác động đến sản xuất và đời sống xã hội: + Giảm cung trên thị trường nội địa, dẫn đến người tiêu dùng bị thiệt + Chi phí xã hội dòng tăng lên do sản xuất them sản phẩm xuất khẩu kém hiệu quả. Ngoài các công cụ cơ bản trên, để thực hiện chính sách thương mại quốc tế,Chính phủ các nước còn áp dụng các công cụ khác như bán phá giá hàng hóa, bán phá giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nước mình 5.7 Bán phá giá hàng hoá Bán phá giá hàng hoá là xuất khẩu hàng hoá theo giá cả thấp hơn giá cả sản xuất hoặc theo giá rẻ mạt nhằm mục đích đánh bại đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và cuối cùng đạt được lợi nhuận tối đa. Điều kiện bán phá giá 1 loại hàng hoá nào đó là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại. Nguồn bù vào những tổn thất do bán giá rẻ gồm: 1) Lợi nhuận thu được do bán giá cao ở thị trường trong nước; 2) Trợ cấp xuất khẩu của Nhà nước; 3) Lợi nhuận thu được sau khi đã chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Đặc điểm của bán giá hiện nay là phần lớn do chính phủ tiến hành và tổn thất do Ngân sách của chính phủ gánh chịu. 5.8 Bán phá giá hối đoái - Bán phá giá hối đoái thể hiện ở việc xuất khẩu hàng hoá với giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thêm thu được từ sự mất giá của đồng tiền (sự đánh sụt giá đồng tiền của nước đó so với đồng tiền của nước khác). Khác với bán phá giá hàng hoá, trong phá giá hối đoái, giá bán không thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường nước ngoài có thể cao hơn giá của thị trường nội địa và bán phá giá hối đoái xảy ra với tất cả hàng hoá một cách tự động. - Cơ chế hoạt động của bán phá giá hối đoái là lúc đầu đồng tiền mất giá trong nước, sau đó dần dần phá giá đồng tiền trong nước đối với ngoại tệ (mất giá so với ngoại tệ), sức mua của đồng tiền trong nước cao hơn ở thị trường nước ngoài do đồng tiền mất giá đối ngoại cao hơn mất giá đối nội. Trong thời điểm đó các doanh nghiệp sản xuất thanh toán nguyên liệu, tiền lương.... với số lượng đơn vị tiền tệ được ấn định trước khi phá giá đồng tiền. Đồng thời trong xuất khẩu thành phẩm, với số ngoại tệ thu được số lợi nhuận ngoại ngạch nhiều hơn bình thường. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể bán hàng của mình trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh bằng cách thu hẹp phần lợi nhuận ngoại ngạch. - Bán phá giá hối đoái có thể tiếp tục cho đến khi mất giá trong nước tăng bằng mất giá đối ngoại của đồng tiền. Đồng thời tiền của nước mà hàng hoá xuất sang không bị phá giá hoặc phá giá ở mức thấp. - Bán phá giá hối đoái chỉ có thể xảy ra trong môi trường: 1) Mất giá đối ngoại của đồng tiền phải cao hơn mất giá đối nội; 2) Các nước nhập khẩu hàng hoá của nước có đồng tiền không đồng thời phá giá đồng tiền của mình, hoặc phá giá ở mức thấp hơn; 3) Các nước không dùng những biên pháp chống phá giá hoặc không áp dụng bán phá giá hối đoái. Phần II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP HIỆN NAY I. Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam 1. Các nguyên tắc trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam hiện nay Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ Chức Thương Mại Thế giới WTO. Đây là một bước ngoặt quan trọng, một mốc lịch sử trong các chính sách thương mại cũng như đối với sự phát triển về kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trong phạm vi đề án, em chỉ nghiên cứu các nguyên tắc trong chính sách thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO. Giống như các thành viên khác, Việt Nam phải tuân thủ các điều lệ và nguyên tắc chung của WTO. Các nguyên tắc cơ bản của WTO: 1.1 Thương mại không phân biệt đối xử: Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): "Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước. 1.2. Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán): Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...). Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện. 1.3. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch: Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO mà Việt Nam và các nước thành viên phải tuân thủ. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu Việt Nam và các nước thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán. 1.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn: Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc các biện pháp bảo hộ khác. Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá... 1.5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất: Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên. Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.Việt Nam cũng là một trong những nước đang phát triển được hưởng các ưu đãi này của WTO. 2.Việt Nam hướng đến tự do hóa thương mại Ở giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa được xem là quá trình hình thành một không gian kinh tế, tài chính và thông tin toàn cầu thống nhất. Mục đích của toàn cầu hóa là xóa dần các rào cản quốc gia trước hết là về kinh tế, tạo sự chuyển động tự do cho các dòng chảy thông tin, vốn, hàng hóa và dịch vụ. Do đó, có thể thấy một trong những trụ cột cơ bản của toàn cầu hóa là tiến trình tự do hóa thương mại. Làn sóng tự do hóa thương mại đang diễn ra sôi động chưa từng có trên thế giới. Và Việt Nam không nằm ngoài làn sóng đó trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Việt Nam tham gia đàm phán hiệp định thương mại tự do(FTA). FTA(Free Trade Agreement) là hình thái mậu dịch tự do, có thể áp dụng hình thái này với hợp tác song phương, đa phương, không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và tự do hóa đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều nội dung khác. Tính đến nay, Việt Nam chưa ký kết và triển khai FTA riêng với nước nào. Tuy nhiên, Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 3 hiệp định FTAs là Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA). Việt Nam và ASEAN hiện đã kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP). Các Hiệp đinh Thương mại Tự do ASEAN-Australia-New Zealand (AANZFTA) và ASEAN-Ấn Độ (AIFTA) hiện đã kết thúc đàm phán và dự kiến sẽ được ký vào cuối năm 2008. Riêng Hiệp định Khu vực Thương mại Tự do ASEAN – EU hiện đang tiếp tục đàm phán. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hiệp định FTA song phương đầu tiên của Việt Nam và đang xem xét đàm phán một FTA song phương với Chi-lê. Dưới đây xin khái quát lại những mốc thời gian quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, bao gồm cả việc tham gia đàm phán FTA trong khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN với các nước ngoài khối: Năm 1986: Việt Nam bắt đầu chính sách Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, thiết lập nền tảng cho quá trình cải tổ kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1994: Việt Nam đệ đơn xin gia nhập GATT và năm 1995 tái khẳng định quyết tâm đàm phán gia nhập WTO. Năm 1995: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Năm 1996: Việt Nam tham gia Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực Chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA của ASEAN. Năm 1996 cũng là năm Việt Nam trở thành thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM). Năm 1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) Năm 2002: Cùng ASEAN khởi động đàm phán ACFTA với Trung Quốc. Năm 2003: Chương trình Thu hoạch sớm (Early Harvest) trong khuôn khổ ACFTA chính thức được triển khai. Năm 2003: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Ấn Độ (AIFTA) và Nhật Bản (AJFTA) Năm 2004: Cùng ASEAN bắt đầu đàm phán FTAs với Hàn Quốc (AKFTA), Australia và New Zealand (AANZ FTA). Năm 2006: Được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Năm 2007: Cùng ASEAN khởi động đàm phán FTA với EU và khởi động đàm phán FTA song phương với Nhật Bản. Năm 2008: khởi động đàm phán FTA song phương với Chi-lê. Việc Việt Nam gia nhập WTO chính là sự tiếp nối thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đó, tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - AFTA; tháng 12/2001, Hiệp định thươ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5983.doc