Lời mở đầu
Theo thống kê ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tới trên 90% trong tổng số doanh nghiệp toàn quốc. Đây là một động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục cho nền kinh tế và là nơi tạo ra việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao độg cả ở nông thôn và thành thị. Góp khoảng 25% GDP, đóng góp 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Thực tiễn ngắn ngủi của quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam cũng như tại các nước khác cho thấy vai trò quan trọng của một số lĩnh vực như: tạo công ă
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển Doanh nghiệp vừa & nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n việc làm mới, phát triển những ngành công nghiệp hỗ trợ đối với những ngành công nghiệp mũi nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số ngành khác; góp phần cải thiện cán cân thanh toán nhờ xuất khẩu hàng hoá thành phẩm và thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các hàng hoá sản xuất trong nước. Mặt khác việc xoá đói giảm nghèo,CNH_HĐH nông nghiệp –nông thôn, giảm sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đón góp của DNVVN. Nhật Bản và các nước Châu á láng giềng khác đánh giá cao vai trò của DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế của họ; và xét theo quan điểm phát triển kinh tế thị trường thì tất cả các nước này đều phát triển các DNVVN ngay từ đầu.
Với các DNVVN ở Việt Nam do hoàn cảnh đặc thù và hoàn cảnh kinh tế xã hội riêng nên còn nhiều khó khăn phức tạp như thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường công nghệ, mặt bằng sản xuất, thủ tục hành chính rườm rà, sự đối xử không bình đẳng…Đặc biệt làđứng trước những khó khăn chung của nền kinh tế trong quá trình đổi mới và hội nhập vào nền kinh tế thế giới theo lộ trình AFTA và WTO thì khó khăn của họ ngày càng nhiều hơn. Trong bối cảnh này bên cạnh những nỗ lực tự thân của DNVVN một giải pháp tổng thể cho các DNVVN đang là một thách thức mà Việt Nam nhằm tận dụng tối đa những cơ hội cũng như khắc phục tối thiểu những khó khăn có thể. Muốn vậy, các chính sách và các biện pháp hỗ trợ cần phải thực hiện nhanh và kịp thời .Thực tế vấn đề về chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như thế nào,chúng ta cần làm gì để cho thành phần này phát huy tối đa khả năng của họ. .Đó chính là vấn đề chúng ta cần làm rõ khi nghiên cứu.
chương 1
Lý luận chung về DNVVN và vấn đề hội nhập
I. Khái niệm, tiêu thức phân loại, ưu thế của DNVVN
1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân vì mục đích lợi nhuận, có quy mô trong giới hạn nhất định tính theo tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân không phân biệt các thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và lao động thoả mãn những quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của nó. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Nghiên cứu tiêu thức phân loại ở các nước có thể nhận thấy một số tiêu thức chung phổ biến nhất thường gặp là: số lao động thường xuyên, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng.
Tiêu thức về số vốn lao động phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Vậy để phân biệt DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra hoặc kết hợp cả hai.
Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế giới có những đặc điểm chủ yếu sau:
ã Các nước dùng các tiêu thức khác nhau trong đó tiêu thức vốn và lao động được sử dụng nhiều nhất tiêu thức đầu ra thì ít hơn.
ã Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng khác biệt, có nước dùng một, có nước dùng hai tiêu thức để phân loại DNVVN.
ã Lượng hoá các tiêu thức này thành tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chínhh sách và khả năng trợ giúp cho các DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNVVN có thể rất lớn hoặc nhỏ tuỳ vào giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng trong nước.
ã Tuỳ từng thời kỳ các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn cho phù hợp với đường lối, chính sách chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia. Việt Nam hiện nay DNVVN gồm các loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh sau:
+ Các DNNN đăng ký theo luật DNNN;
+ Các CTCP, công ty TNHH và các DNTN đăng ký hoạt động theo Luật công ty, Luật DNTN, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
+ Các hợp tác xã đăng ký theo Luật Hợp tác xã (luật mới).
+ Cá nhân và nhóm sản xuất kinh doanh đăng ký theo nghị định 66-HĐBT.
Theo quy định của thủ tướng chính phủ tại công văn số 681/CP-KTN ngày 20/06/1998 xác định tiêu thức DNVVN trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ và có số lao động trên 200 người. Còn doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 và vốn dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp vừa có từ 30-200 lao động và vốn hết 1-5 tỷ. Với doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ trở xuống. Như vậy, tất cả mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức trên đều được coi là DNVVN.Việt Nam hiện nay có khoảng 93% là DNVVN.
1.2. Đặc điểm của DNVVN
Theo quy định của thủ tướng chính phủ trong công văn 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 về việc phân loại DNVVN Việt Nam đưa ra một số đặc điểm về doanh nghiệp là:
Thứ nhất: Giới hạn của DNVVN không quy định rõ. Trong điều kiện đặc thù của Việt Nam số hộ gia đình đăng ký kinh doanh rất nhiều, đây là một lực lượng khá đông. Nếu coi thành phần này thuộc DNVVN thì sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện chính sách ưu tiên vì các nguồn lực sẽ bị phân tán, dàn trải, tính hiệu quả sẽ không cao, chưa giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cũng không đủ khả năng để thực hiện các chính sách ưu tiên, kiểm soát đánh giá hỗ trợ cho tất cả các đối tượng này cùng một lúc
Thứ hai: Loại hình DN này thường gắn với công nghệ lạc hậu thủ công. Đây là sự khác biệt giữa DNVVN Việt Nam và nước ngoài. DNVVN ở nước ngoài công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện đại, chúng chỉ khác doanh nghiệp lớn về quy mô vốn đầu tư, số lao động. Do đó khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm tạo ra khá cao và là một bộ phận không thể tách rời của các doanh nghiệp lớn có liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn dưới dạng vệ tinh, cung cấp các bộ phận linh kiện, vật tư cho các doanh nghiệp lớn đó. Một số khác tồn tại độc lập thì lại có chất lượng cao và tập hợp lại thành một quần thể như những liên hiệp sản xuất khu vực có chất lượng sản phẩm cao. So với họ DNVVN Việt Nam phân tán hơn, khả năng liên kết với nhau và với doanh nghiệp lớn là rất kém.
Thứ ba: Nói đến DNVVN ở Việt Nam trước tiên chủ yếu nói đến các DN thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển của các thành phần kinh tế nước ta, đại bộ phận các DNVVN, theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy tính chất và đặc điểm của các khu vực này mang tính đại diện cho các DNVVN ở Việt Nam. Chẳng hạn các con số thống kê về tỷ trọng GDP đóng góp vào cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, số lao động, vốn, đặc điểm công nghệ máy móc sử dụng, trình độ quản lý, khả năng về vốn cho đến nay chủ yếu tổng kết cho khu vực ngoài quốc doanh chứ chưa có số liệu điều tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ các DNVVN ở Việt Nam. Các DNVVN chủ yếu bao gồm các loại hình DNTN, công ty TNHH, CTCP. Vị trí vai trò, tốc độ, xu hướng phát triển của mỗi loại rất khác nhauvà nhìn chung hầu hết các DN đều thiếu vốn, vốn vay được từ ngân hàng rất ít làm hạn chế quy mô của DN
1.3.Ưu thế và vai trò của DNVVN
Vai trò
Tỷ lệ ý kiến(%)
Góp phần tăng trưởng kinh tế
51. 7
Tạo việc làm, thu hút vốn, tăng thu nhập
88. 5
Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn
83. 9
Góp phần phát triển những nhàkinh doanh Việt Nam
62. 9
DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước kể cả những nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý đến hỗ trợ các DNVVN nhằm huy động tối đa nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Về số lượng loại hình này chiếm ưu thế tuyệt đối ở Nhật, ở Đức chiếm 99%, ở Việt Nam chiếm > 90%. DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế của mỗi nước. Nó là bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung thúc đẩy doanh nghiệp lớn phát triển.
DNVVN có những lợi thế như: sử dụng các yếu tố sản xuất hiệu quả hơn, thu hút khá nhiều người lao động, tận dụng và làm tăng tiết kiệm trong nước, phân phối thu nhập và hàng tiêu dùng cơ bản đồng thời phân chia các ngành nghề về mặt địa lý, thúc đẩy các mối liên kết kinh tế, có sự thích ứng về công nghệ.
Chính vì ưu thế đó DNVVN đóng góp đáng kể vào sự ổn định kinh tế của mỗi nước, cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể, thu hút lao động, tạo công ăn việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp, tạo nguồn thu nhập ổn định thường xuyên trong dân cư, tạo sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng, địa phương, khai thác tiềm năng tại chỗ, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng. Ngoài ra còn hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động, tạo môi trường lành mạnh thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sự tham gia của họ vào thị trường làm sản phẩm đa dạng, giá cả cạnh tranh, thị trường sôi động. Với Việt Nam vai trò của thành phần này lại càng quan trọng hơn bởi nước ta là một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp kém, trình độ tổ chức sản xuất, quản lý hạn chế, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, đất bình quân đầu người thấp khoảng 0,1ha/người nên tình trạng thừa lao động khá nghiêm trọng. Chênh lệch mức sống giữa ba miền Bắc Trung Nam ngày càng rõ rệt.Nhưng thực tế hiện nay cho thấy DNVVN chiếm vị thế khá cao, hàng năm tạo ra khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp, 24%GDP trong toàn quốc. Nếu căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng, tiềm năng phát triển để đạt được mục tiêu kinh tế-xã hội đề ra trong giai đoạn tới phụ thuộc vào phát triển DNVVN chứ không phải chỉ phụ thuộc vào các công trình, dự án lớn.
II. Lý luận chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Khái niệm về hội nhập
Hội nhập là sự liên kết các công ty hoặc các nền kinh tế với nhau. Hội nhập các công ty có hai hình thức: Hội nhập dọc khi các xí nghiệp, công ty sản xuất ra các sản phẩm ở các công đoạn khác nhau và nối tiếp nhau của một dây chuyền sản xuất hoặc một sản phẩm hoàn chỉnh. Hội nhập ngang khi sản phẩm của các công ty ở cùng một công đoạn sản xuất. Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập qua các hoạt động kinh tế mậu dịch và hợp tác trong chính sách và biện pháp kinh tế. Có những hình thức hội nhập sau:
1) Hội nhập theo thị trường: là sự hội nhập kinh tế khu vực thông qua hoặc thúc đẩy bằng các hoạt động kinh doanh. Điều này có thể xảy ra mà không cần đến một khuôn khổ hội nhập liên kết chính phủ.
2) Hội nhập theo chính sách: là sự hội nhập kinh tế khu vực được thúc đẩy thông qua một thoả thuận chính thức, thường là thông qua một thoả thuận thương mại khu vực ưu đãi. Tuỳ theo trình độ nông sâu có thể chia ra hội nhập sâu hoặc hội nhập nông. Hội nhập sâu là sự kết hợp các hệ thống chính sách quốc gia của hai hay nhiều nước mà theo truyền thống các hệ thống chính sách đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chính phủ quốc gia. Hệ thống chính sách này bao gồm chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn kỹ thuật, chính sách tài chính tiền tệ, các quy chế và giám sát các tổ chức tài chính, các vấn đề môi trường, việc mua sắm của chính phủ và một số chính sách khác. Cộng đồng châu Âu (EC) là khu vực tiến xa nhất trong quá trình hội nhập sâu. Gần đây họ đã thông qua việc thành lập một thị trường thống nhất và thực hiện các biện pháp đề ra trong Hiệp ước Maxterich. Ngoài ra NAFTA cũng là một ví dụ về hội nhập sâu hiện nay. Trái lại hội nhập nông thể hiện trong các hình thức hội nhập từ khu vực thương mại tự do. Trong hình thức hội nhập nông, mỗi nước thành viên vẫn tự do duy trì các chính sách của mình. Tuy vậy, hội nhập nông cũng có tác dụng thúc đẩy quá trình hợp tác hài hoà, cân đối chính sách.
Sau cuộc cách mạng công nghệ lần 3 (1913-1950) sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Biên giới quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt; các tổ chức kinh tế toàn cầu nối tiếp nhau ra đời như WTO, APEC, NAFTA… và gần đây nhất là khu vực đồng tiền chung châu Âu-EURO, tạo động lực chính thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trong hoàn cảnh đó, cùng với quá quyết định chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hoá quan hệ” , “là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” nên đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước và hầu hết các tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Với việc gia nhập PECC (1-1995), ASEAN (7-1995), ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU (7-1995), tham gia APEC (11-1998) và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Việt Nam đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như vậy thực chất toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là tự do hoá, là mở rộng thị trường lưu thông hàng hoá, chu chuyển vốn và kéo theo là qúa trình chuyển giao công nghệ, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các quốc gia trên phạm vi thế giới. ở thị trường chung đó, quốc gia nào có sản phẩm, hàng hoá dịch vụ, công nghệ thì trao đổi với các quốc gia khác với mục đích tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mang lại cả những cơ hội và thách thức lớn. Nhập cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ và công nghệ còn nhiều hạn chế, Việt Nam cần nỗ lực mạnh mẽ hơn để không lỡ chuyến tàu hội nhập vào thế kỉ XXI.
2.2. Tính tất yếu của hội nhập
Trong thập niên cuối cùng của thế kỉ XX này, quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập được đây mạnh cả về tốc độ, bề rộng lẫn chiều sâu. Xu hướng toàn cầu hoá và hội mà gắn liền với nó là tự do hoá thương mại, dịch vụ theo hướng giảm thuế suất để mở rộng thị trường, đẩy mạnh phân công hợp tác quốc tế, mở rộng đầu tư và chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, làm cho đông đảo người dân được hưởng những thành quả của khoa học công nghệ với giá rẻ nhất. Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hoá mang lại thời cơ, điều kiện thuận lợi để rút ngắn khoảng cách. Đó là mở thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, học tập công nghệ quản lý, tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá cũng đặt cho các nước đang phát triển những thách thức lớn đó là làm sao tìm được cho mình một vị trí, những lợi ích trong một sân chơi còn nhiều xa lạ mà mình lại ở vào thế bất lợi nhiều mặt. Tự do hoá thương mại và giảm mức thuế quan, một mặt không chỉ hạn chế mạnh mẽ một công cụ truyền thống của các nước đang phát triển nhằm bảo hộ các sản phẩm nội địa mà còn làm giảm sút ngân sách của các nước đó. Mặt khác nếu nước nào không chủ động phân tích tình hình và chuẩn bị các điều kiện cần thiết thì còn bị mất thị phần trong nước, giảm sút xuất khẩu dẫn đến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, gây mất ổn định cân đối vĩ mô nói chung.
Như vậy nếu không tham gia vào quá trình toàn cầu hóa sẽ đứng ngoài sự phát triển, còn tham gia vào thì sẽ phải vượt qua rất nhiều trở ngại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thiệt thòi lớn nhất là không tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, thua thiệt này còn lớn hơn những trở ngại phát sinh trong quá trình hội nhập. Vấn đề là nếu chủ động, khôn khéo, tìm cách thích hợp để tham gia vào quá trình này thì có thể tiết kiệm chi phí và giảm những mất mát có thể xảy ra.
2.3. Những thành công bước đầu
Tính từ những năm 1990 - bắt đầu thực hiện đối mới đất nước, hơn mười năm, công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang thu được những thành công bước đầu. Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với hơn 167 nước, mở rộng quan hệ thương mại với hơn 150 nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tập đoàn, các công ty thuộc 70 nước và vùng lãnh thổ; tranh thủ viện trợ phát triển của 45 nước và định chế tài chính quốc tế. Đồng thời với quá trình này, chúng ta đang tích cực tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đưa hội nhập quốc tế lên một bước cao hơn. Thành công quan trọng nhất của Việt Nam là đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng một môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ hội nhập, đất nước ta không những khắc phục được tình hình khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống XHCN tan rã mà còn mở rộng thị trường XNK.
Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2, 404 tỷ USD. Đến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 11,523 tỷ USD.
Tháng 12/1987 Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài. Đến nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với 2290 dự án, số vốn đăng ký trên 35,5 tỷ USD. Sản lượng của các DN đầu tư nước ngoài chiếm gần 35% giá trị sản lượng công nghiệp, tốc độ tăng trưởng 20%/năm thu hút gần 30 vạn lao động gián tiếp khác. Năm 1993 Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với các định chế tài chính quốc tế, nhờ đó nguồn ODA của IMF, WB, ADB đã khai thông và không ngừng tăng. Tổng mức cam kết cho đến thời điểm này lên đến trên 13,04 tỷ USD cuối năm 1999 số vốn đã giải ngân đạt gần 6 tỷ USD. Việc khai thông quan hệ với IMF và WB cũng đã tạo điều kiện cho Việt Nam giải quyết một bước quan trọng vấn đề nợ nước ngoài, giảm được 70% nợ từ năm 1993 về trước, góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã tạo cơ hội để Việt Nam tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh, từng bước đưa hoạt động của các DN và cả của nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là sau hơn 7 năm gia nhập ASEAN. Hợp tác tài chính được chính thức hoá tại Hội nghị bộ trưởng tài chính ASEAN lần thứ nhất tháng 3/1997. Thành công nổi bật của quá trình này là sự ra đời của cơ chế giám sát ASEAN, giúp các nước có khả năng quan sát và phân tích toàn bộ bức tranh kinh tế tổng hợp của khu vực, trao đổi chia sẻ các chính sách kinh tế vĩ mô, đồng thời khuyến nghị các chính sách hành động tập thể nhằm đạt được mục tiêu phát triển và tăng trưởng bền vững. Việc tham gia vào các hoạt động tài chính khu vực giúp Việt Nam có điều kiện trao đổi thông tin kinh nghiệm của các nước về chính sách tài chính tiền tệ. Đặt trong bối cảnh các nền kinh tế ngày càng liên kết như hiện nay, việc tham gia tích cực vào diễn đàn tài chính khu vực còn giúp cho Việt Nam gìn giữ sự an toàn, ổn định cho hệ thống tài chính của mình.
2.4. Trở ngại trên đường đua hội nhập
Hạn chế lớn nhất của Việt Nam là chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi hội nhập quốc tế. Chuyển sang nền kinh tế thị trường khi nền kinh tế còn yếu, tư tưởng bảo hộ mậu dịch vẫn còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đổi mới cơ chế quản lý và cải tiến còn nghệ diễn ra chậm chạp. Do đó nếu không kịp thời tìm biện pháp khắc phục Việt Nam sẽ bị thua thiệt thậm chí còn tụt hậu xa hơn. Một trong những thiếu sót đáng kể là cho đến nay Việt Nam chưa hiểu biết thật sâu, chưa nắm thật vững toàn bộ định chế của các khu vực toàn cầu, nhất là của WTO và các văn kiện quốc tế khác mà nước ta cần vận dụng khi gia nhập tổ chức này.
Việt Nam chưa hình thành kế hoạch tổng thể và dầi hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Thời gian qua chúng ta vừa tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế vừa triển khai nội dung cam kết để xác định phương hướng hành động nên thường xuyên bị động, đối phó với nhiều kiến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra. Không có đủ cơ sở để hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng chương trình quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Các hoạt động hợp tác thương mại quốc tế đang diễn ra theo cơ chế thị trường và tuân thủ các luật chơi của thể chế quốc tế và khu vực. Nhưng hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách của ta chưa hoàn chỉnh, đồng bộ gây khó khăn cho chúng ta khi đáp ứng các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng chưa nghiên cứu đề xuất các biện pháp cần thiết, những cách làm khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng những ưu đãi mà quốc tế dành cho các nước đang phát triển.
Ngoài ra, nhược điểm lớn nhất hiện nay là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ. Cán bộ làm nhiệm vụ về hội nhập quốc tế hiểu biết không đủ, ít kinh nghiệm, chưa đủ trình độ ngoại ngữ nhất là khi quy mô hợp tác được mở rộng. Một số cán bộ hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và hiểu thấu đáo thực tiễn đất nước, chưa nắm vững luật pháp quốc gia. Cán bộ DN ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật, kinh doanh. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được đào tạo đúng mức.
Thêm vào đó DNVN nói chung đặc biệt là DNVVN lại yếu về cả ba mặt sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh. DN nước ta hầu như quy mô nhỏ, yếu kém lại nằm quá lâu trong cơ chế bao cấp.Trong khi đó chúng ta chưa có được cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm thúc đẩy, khuyến khích DN gắn sự tồn tại và phát triển của mình với cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Thực tế vừa qua cho thấy DN nào chấp nhận cạnh tranh, tăng sức cải tiến trong quản lý, công nghệ thì không những đứng vững mà còn mở rộng hoạt động kinh doanh. Ngược lại DN nào trông chờ, ỷ vào sự bảo hộ của nhà nước, năng lực cạnh tranh rất yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, trở thành gánh nặng kìm hãm nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Trong hợp tác tài chính, tiền tệ nhiều lĩnh vực chưa được chú trọng như hợp tác về thuế và tài chính công. Ngoài ra cơ chế giám sát ASEAN, những lĩnh vực hợp tác khác mới chỉ bắt đầu được triển khai mà chưa có kết quả nghiên cứu cụ thể. Mặt khác tính chất của các hoạt động hợp tác chỉ là tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoặc tổ chức nghiên cứu chuyên đề mà không có một tác động hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế tạo động lực cao nhất cho các hoạt động hợp tác này. Về phía Việt Nam do trình độ yếu kém về nhận thức nên một số bộ ngành chưa chú trọng đến lĩnh vực hợp tác này, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà hoạch định chính sách trong nước với những bộ phận hội nhập.
III. Kinh nghiệm một số nước trong việc phát triển DNVVN
Nhìn chung DNVVN đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước đặc biệt là trong tiến trình hội nhập hiện nay. Nhận thức được vấn đề này một số nước đã có chính những chính sách khá táo bạo tạo điều kiện cho việc phát triển khu vực DNVVN. Chúng ta hãy xem xét một số kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này.
* Đài Loan
53 năm trở lại đây kinh tế Đài Loan phát triển nhanh chóng và thu được thành quả huy hoàng. Từ một xã hội nghèo khó lạc hậu, hiện nay trở thành một xã hội phồn vinh, đa nguyên hoá, được nhiều nước đang phát triển học tập kinh nghiệm.
Kinh tế Đài Loan gắn liền với sự phát triển của DNVVN. ở đây DNVVN tối thiểu phải có từ 5-10 công nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD (tương đương 5. 4 triệu NDT). DNVVN chiếm tỷ lệ cao và hoạt động nhiều trong ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Năm 2000 ở Đài Loan có hơn 100.000 DNVVN chiếm hơn 96% tổng số xí nghiệp và hơn 65% tổng số lao động trong khu vực chế tạo. Các xí nghiệp vừa và nhỏ hoạt động phổ biến trong các ngành công nghiệp dịch vụ, từ thủ công truyền thống đến công nghiệp có kỹ thuật cao. Trong mỗi sản phẩm công nghiệp, sản xuất của các loại DNVVN đều chiếm hơn 50% giá trị sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong thương mại, các xí nghiệp này chiếm trên 80%. Loại hình DN này đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm, phân phối thu nhập, góp phần dân chủ hoá nến kinh tế Đài Loan. Guồng máy hoạt động công nghiệp theo các DNVVN tỏ ra rất thành công trong việc tăng cường lực lượng kinh tế, làm trụ cột cho quá trình dân chủ hoá. Chế độ tư hữu hoá tài sản và hoàn cảnh tự do cạnh tranh của các DNVVN ở Đài Loan đã không dẫn đến tình trạng độc quyền sở hữu. Quyền tự chủ của người lao động được nâng cao.
Điểm mạnh của DNVVN ở Đài Loan là không có tình trạng độc quyền, có tính tự do hoá cao độ, họ phải tận dụng mọi cơ hội để phát triển tránh bị phá sản. Mỗi năm bình quân ở Đài Loan có khoảng 2-3% số DNVVN bị phá sản và cũng có khoảng 3%DNVVN hình thành. Sự phát triển của những ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không chỉ cho phép các DNVVN cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế trong một số ngành sản xuất. Do đặc điểm của DNVVN ở Đài Loan là mang tính gia tộc nên khi gặp khó khăn công nhân và chủ xí nghiệp dễ dàng đàm phán, hạ thấp tiền lương và nỗ lực vượt qua khó khăn. Hơn nữa họ cũng dễ dàng thay đổi mặt hàng kinh doanh khi thị trường bị cạnh tranh gay gắt hoặc bão hoà. Mặt khác họ lại kết hợp chặt chẽ với doanh nghiệp lớn để sản xuất các linh kiện, thiết bị cần thiết cho sản xuất ở các doanh nghiệp lớn nên họ có thể chủ động trong mọi tình huống.
Về chính sách phát triển DNVVN ở Đài Loan:
Các chính sách của chính quyền đặt mục tiêu chủ yếu là gia tăng khả năng sản xuất của các DNVVN và cải thiện các hỗ trợ về tài chính, sản xuất, quản lý kế toán, tiếp thị. Chính quyền xúc tiến tổ chức hệ thống nhà máy vệ tinh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện việc chuyên môn hoá đẩy nhanh phát triển công nghiệp nhờ sự hợp tác tốt giữa các DN hiện tại.
Hiện nay chính quyền Đài Loan duy trì một hệ thống các tổ chức công cộng và tư nhân sâu rộng được tổ chức phối hợp chặt chẽ với nhau để cung cấp hỗ trợ tập trung về quản lý, tài chính, công nghệ cho các DNVVN. Điều này tạo ra có hiệu quả vì mặt trái của cơ cấu quy mô nhỏ, truyền thống là sự khó khăn trong việc tiếp thu công nghệ, thông qua các tổ chức khác nhau và cố gắng thúc đẩy chuyển giao công nghệ qua quan hệ với công ty nước ngoài. Để tạo nguồn vốn, Đài Loan đã thành lập quỹ phát triển DNVVN để giúp các DN cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh hợp tác với nhau đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc đẩy DNVVN phát triển lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các DNVVN với lãi suất thấp hơn là lãi suất bình thường của ngân hàng, giúp DN phát triển theo đúng chuyên ngành. Quỹ này sử dụng nguồn lợi nhuận để bảo đảm tín dụng cho các trường hợp phát triển chuyên ngành, mức bảo hiểm cao nhất là 90% và chịu một nửa số rủi ro.
Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, về tầm vĩ mô Đài Loan theo đuổi chính sách xuất khẩu để cố gắng tạo một môi trường kinh doanh ổn định. Khuyến khích đầu tư từ nguồn vốn trong và ngoài nước. Trong lĩnh vực này vai trò của các công ty thương mại vừa và nhỏ được tăng cường mạnh mẽ vì đây là đầu mối để khu vực chế tạo của Đài Loan tiếp cận với thị trường bên ngoài.
* Nhật Bản
Từ năm 1981 tại Nhật Bản thành phần này đã chiếm tới 98% trong tổng số DNchiếm 81.4% lao động. Các DNVVN ở cả ba lĩnh vực sản xuất, thương mại dịch vụ chiếm 83.6% các cơ sở và chiếm 75.6% lao động. Số lượng các doanh nghiệp trên các lĩnh vực gia tăng rõ rệt, cao nhất là các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Nếu như năm 1957 các doanh nghiệp này thu hút 16.222.000 lao động chiếm gần 82.8% làm việc trong công nghiệp thì năm 1991 tạo việc làm cho 37.206.000 lao động chiếm 81.4% việc làm trong công nghiệp. Từ đó đến nay Nhật Bản đã duy trì được một cơ cấu ngành nghề khá cân đối.
Giải pháp khá quan trọng mà Nhật Bản đã và đang sử dụng là khuyến khích mở rộng đầu tư, đồng thời chính phủ và các hiệp hội đã dành những khoản kinh phí lớn cho trương trình hiện đại hoá các DNVVN. Từ những năm 60 Nhật Bản đã đầu tư 258 tỷ Yên cho khu vực DNVVN, năm 90 lên đến 243.375 tỷ yên song nguồn kinh phí của chính phủ chỉ chiếm 16.6%, còn lại là của hiệp hội ngân hàng. Nguồn tài chính trên tập trung trên 4 lĩnh vực chính:
1) Xúc tiến, hiện đại hoá các DNVVN
2) Hiện đại hoá các thể chế quản lý DNVVN
3) Các hoạt động tư vấn cho DNVVN
4) Các giải pháp tài chính cho DNVVN
Về tổ chức Nhật Bản thiết lập “ Hội đồng các DN nhỏ” đây là tổ chức tư vấn trực thuộc thủ tướng hoạt động chuyên cho các DNVVN.
* Singapo
Từ những năm 60, Chính phủ Singapo đã nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Khi cục dịch vụ công nghiệp nhẹ trong hội đồng phát triển kinh tế (EDB) được thành lập để giúp DNVVN hiện đại hoá và mở rộng hoạt động của mình. Bộ phận này sau đó được thay bằng bộ phận hoạt động địa phương thuộc phòng dịch vụ và đầu tư thuộc EDB năm 1973. Một số chương trình hỗ trợ tài chính cũng được thành lập trong đó có ý nghĩa nhất là trương trình tài chính cho các DNVVN do EDB cộng tác với ngân hàng phát triển Singapo thành lập. Mục tiêu của nó là khuyến khích phát triển hơn nữa và nâng cấp kỹ thuật cho loại hình doanh nghiệp này. Từ năm 1987 EDB kết hợp các chương trình khác nhau vào một số trương trình tổng thể: chương trình phát triển kinh tế. Một vài cơ quan khác trong chính phủ đã giúp đỡ các DNVVN gồm:Viện tiêu chuẩn và nghiên cứu công nghiệp Singapo (SISR), trung tâm chỉ đạo thuộc cục năng suất quốc gia giúp đỡ để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNVVN.
Singapo là một trong những nước nhận thức đầy đủ và sẵn sàng tham gia vào tiến trình hội nhập. Nguyên nhân là các doanh nhân được đào tạo đầy đủ, ngoài ra những trương trình nâng cấp những ngành nghề địa phương công nghệ cao có lợi thế được ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài nước. Singapo đã nhanh chóng tiếp thu được hệ thống quản lý tiên tiến, kiểm soát chất lượng chặt chẽ và đáp ứng yêu cầu thực hiện giao hàng nghiêm ngặt, điều này buộc các DNVVN thầu phụ phải đối mặt với thị trường cạnh tranh quốc tế.
Như vậy giải pháp phát triển các DNVVN của Sinhgapo đó là phải xây dựng một chính phủ mạnh,._. họ có vai trò là thúc đẩy tinh thần tự lực cánh sinh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hạ tầng cơ sở có hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng và thiết yếu. Điều phối là cần thiết về cả mặt thể chế và chính sách. Cần cố gắng nâng cao trình độ của các tổ chức nghiên cứu đào tạo và đặc biệt là phải hợp tác với các hãng lớn.
* Trung quốc
Từ năm 1996, tổng sản phẩm của các DNVVN trong các xí nghiệp hương trấn trở lên chiếm tỷ trọng 61. 85%, giải quyết công ăn việc làm cho 70.6% lao động. Hiện nay Trung Quốc đã có một lực lượng những nhà DNVVN rất năng động tự tin và sẵn sàng tham gia hội nhập. Nhìn chung để phát triển DNVVN Trung Quốc dựa vào 4 điểm chính sau:
+ Căn cứ vào quy mô kinh tế hợp lý để tổ chức sản xuất
+ Các DNVVN phải được đầu tư về kỹ thuật và kỹ năng quản trị hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng quản lý. Sẵn sàng đối phó với những thay đổi bất thường của tiến trình hội nhập
+ Các DNVVN cần phải linh hoạt để phù hợp với thị trường, tránh sự trùng lặp và dư thừa.
+ Các DN lớn vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sự phát triển của các DN này sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các DNVVN.
Trong tiến trình hội nhập hiện nay DNVVN của Trung Quốc chú trọng vào vấn đề mở rộng việc làm và tập trung vào khu vực dịch vụ.Trung Quốc đã và đang xúc tiến thành lập uỷ ban DNVVN. Đây chính là đầu mối để giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính quyền và doanh nghiệp có trách nhiệm chỉ đạo chính sách sản xuất, giúp đỡ bồi dưỡng nhân viên nhưng không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh như đầu tư, kinh doanh sản xuất, tiêu thụ của DNVVN. Với uỷ ban này, không cần thiết phải có một cơ cấu quản lý có tính toàn quốc mà tự các địa phương nếu thấy cần thiết thì thành lập cơ cấu quản lý các DNVVN địa phương nhưng đảm bảo nguyên tắc: tách chính quyền với doanh nghiệp .
Chương 2
Thực trạng phát triển DNVVN ở Việt Nam
I. Quá trình phát triển của DNVVN
Năm 1986 chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp được ra đời. Sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau được pháp luật thừa nhận. Luật công ty, luật DNTN, luật phá sản doanh nghiệp, nghị định 221/HĐBT, 222/HĐBT, được ban hành, cũng từ đó các hoạt động của cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô nhỏ và vừa đã ra đời. DNVVN lúc này tồn tại dưới nhiều hình thức kinh tế khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, DNTN, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng các DNVVN cũng tăng dần theo các năm. Nếu như năm 1990 có 333.370 cơ sở doanh nghiệp,thì năm 1991 là 376. 9 và 1992 là446. 771; năm1994 là 625.300 cơ sở doanh nghiệp, tăng bình quân 15-20% mỗi năm.Hiện nay, cả nước có khoảng 100.000 DNVVN trong đó khu vực nhà nước chiếm 10.71%, DNTN là 48.55%, kinh tế tập thể là 8.13%, công ty TNHH27.39%, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là 1.75%. Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là15%...Tuy nhiên so với nền kinh tế khu vực thì con số này vẫn còn khiêm tốn .Chẳng hạn với Đài Loan có tới một triệu DNVVN trên 23 triệu dân .Một nền kinh tế chỉ được coi là phát triển nếu tỷ lệ DNVVN là 1/20.
Nhìn chung DNVVN ở Việt Nam tồn tại và phát triển trong ba lĩnh vực:công nghiệp, thương mại- dịch vụ và nông thôn. Chúng ta sẽ xem xét sự phát triển của chúng trong ba lĩnh vực này.
1.1. Các DNVVN trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
Tính đến năm 1998, số lượng các DNVVN trong công nghiệp và xây dựng đã đạt 5.620 tăng 9.7% so với năm 1997 (có 5.122DN). Đó là chưa kể 1600 DNVVN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.Tính chung năm 1998 loại hình này chiếm 28% DNVVN ngoài quốc doanh, tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam (81%), đặc biệt là Thành phố HCM. Ngành tập trung của loại hình DN này là thực phẩm đồ uống, sản xuất và chế biến gỗ và ngành sản xuất phi kim loại. Xu hướng hiện nay cho thấy các DNVVN trong lĩnh vực đồ uống thực phẩm và sản xuất phi kim loại tăng trong khi sản xuất và chế biến gỗ giảm đáng kể, có thể do chính sách của Đảng và nhà nước hạn chế việc khai thác, xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ. Một điểm mới cho thấy hiện nay số lượng các DN may mặc tăng khá nhanh, hầu hết họ là những tổ chức gia công theo các hợp đồng gia công xuất khẩu hoặc cung cấp các nguyên liệu, bán thành phẩm cho các đơn vị may mặc lớn trong nền kinh tế. Đó chính là một hướng đi mới đầy sáng tạo của DNVVN Việt Nam ta.
Bảng phân loại doanh nghiệp sản xuất ngoài quốc doanh theo ngành
1995
1996
96/95
(% tăng)
1997
97/96 (% tăng)
1998 (% tăng)
98/97 (% tăng)
Tổng số
5006
5604
1,2
5122
1,1
5620
9,7
Thực phẩm và đồ uống
2662
2692
1,1
2843
5,6
3105
9,2
Dệt
121
122
0,8
103
-15,6
104
1,0
May mặc
190
192
1,1
274
42,7
220
-19,7
Da
46
47
2,2
74
57,4
65
-12,2
Gỗ
426
428
0,5
470
9,8
407
-13,4
Giấy
93
95
2,2
113
18,9
126
11,5
Hoá chất
58
58
0,0
125
115,5
100
-20
Cao su và nhựa
94
95
1,1
126
69,5
149
-7,5
Phi kim loại
647
654
1,1
687
5,0
657
4,4
Ngành khác
564
576
2,1
108
-91,2
544
409,7
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tháng 6/1999.
Các DNVVN đều tập trung trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ (46.2%) vì đây là ngành có mức doanh lợi hấp dẫn.Tuy nhiên do một số chính sách chưa thông suốt nên thành phần này vẫn chưa phát huy hết khả năng vốn có của mình như những quy định về vốn pháp định, chính sách tài chính doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế do thiếu vốn lại tập trung khá đông ở thành phố, trùng lặp ngành nghề, thiếu hợp tác kinh doanh, công tác quản lý lại chồng chéo không đồng nhất theo đầu mối ngành nghề. Bình quân một lao động trong ngành này tạo ra 236.7 triệu đồng doanh thu và 12.8% tiền lãi với toàn ngành thương mại trong cả nước. Đối với các DN quy mô vừa số liệu tương ứng và 148.8 triệu đồng doanh thu và 1.3 triệu đồng tiền lãi chỉ bằng 62.9% về doanh thu và 33.3% về tiền lãi so với toàn bộ ngành trong cả nước..
1.2. Về các DNVVN trong khu vực nông thôn.
Theo điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội, khoảng 64%số người quản lýDN nông thôn đã từng có kinh nghiệm sản xuất sản phẩm và dịch vụ tương tự trước khi thành lập DN. ở đây cũng có sự khác nhau rõ nét giữa những người quản lý DN hộ gia đình và DN tư nhân đã có kinh nghiệm trong khi đó tỷ lệ này hộ gia đình là 59%, kinh nghiệm này do họ thu được khi đi làm cho khu vực DN tư nhân hoặc trong các hợp tác xã nông nghiệp. ở loại hình doanh nghiệp này vốn bình quân ban đầu thấp về cả số tương đối lẫn tuyệt đối so với các loại khác. Với doanh nghiệp hộ gia đình, vốn bình quân là 921 USD, với các DN tư nhân là 2. 513 USD (Báo cáo của bộ lao động và thương binh xã hội. NXB khoa học và kỹ thuật HN- 1998. )
Theo số liệu điều tra cho thấy vốn của các DNVVN trong nông nghiệp miền Nam cao hơn miền Bắc. Mức thấp về vốn ban đầu không phản ánh những nhu cầu về vốn thấp và khác nhau, nhưng đó là kết quả của việc thiếu hỗ trợ về tín dụng. Trên 80% số DN được bộ lao động và thương binh xã hội khảo sát cho thấy chủ yếu họ dựa vào vốn tự có và vốn vay không lãi của bạn bè, họ hàng khi lập doanh nghiệp. Với doanh nghiệp hộ gia đình, con số này là 87% và với DNTN là 75%. Vốn tự có và vốn vay không trả lãi của chung các DNVVN khu vực nông thôn chiếm 90% vốn ban đầu. Nguồn vốn vay ngoài chủ yếu là vay tư nhân có trả lãi, khoảng 5.6% doanh nghiệp hộ gia đình và 19.4%DNTN huy động vốn bằng phương pháp này. Tuy nhiên mức đóng góp bình quân của loại nguồn vốn này trong tổng vốn ban đầu của một DNVVN khu vực nông thôn hầu như hoàn toàn dựa vào khả năng quy mô của các nguồn vốn tự có, có thể đầu tư mà không trông mong gì vào khoản dự kiến thu hồi hoặc mục tiêu yêu cầu vốn. Đối với nền kinh tế nói chung điều đó gây hậu quả nghiêm trọng, hơn nữa làm tăng chứ không giảm khác biệt về thu nhập và phân phối ở trong vùng cũng như trong từng hộ gia đình và toàn bộ cộng đồng ở nông thôn.
Trình độ lao động và lương của khu vực này tương đối thấp, 26.5%số lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 6 phổ thông trở lên, chỉ có 16. 6% lao động có trình độ lớp 10.Theo bộ lao động và thương binh xã hội điều tra thì có 8.1% số doanh nghiệp thuê lao động trả lương và trung bình số lao động làm thuê chỉ chiếm 6.1% tổmg lực lượng lao động.DNTN ở nông thôn cũng như vậy phụ thuộc phần lớn vào lao động hộ gia đình, chiếm 43.6% tổng lực lượng lao động. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là trong địa phương. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp nông thôn với khách hàng ít mật thiết hơn so với hệ thống các DNVVN trong nền kinh tế nói chung, họ ít sản xuất theo đơn đặt hàng và không có các hợp đồng phụ. Mặt khác khu vực này lại không có mối quan hệ với khu vực doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chỉ cung cấp dưới 10% đầu vào cho doanh nghiệp khu vực nông thôn và mua sản phẩm với tỷ lệ ít hơn 10%.
Trong sự phát triển của mình khó khăn về thị trường là một trong những vấn đề được đề cập nhiều nhất bên cạnh khó khăn về vốn. Điều này được thể hiện ở hai mặt:
Thứ nhất: Do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng các DNVVN ngành nghề nông thôn bị cạnh tranh mạnh mẽ. Vốn ít, công nghệ kém làm họ không thể cạnh tranh hữu hiệu.
Thứ hai: Sự chia cắt kinh tế qua nhiều thị trường địa phương làm hạn chế doanh nghiệp mở rộng ra các thị trường bên ngoài khu vực của mình. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả khi sản xuất ra sản phẩm vượt quá nhu cầu thị trường, địa phương.
Tóm lại: Nhiều nguyên nhân chúng ta phải đặc biệt chú ý tới DNVVN ở nông thôn. Các doanh nghiệp này đóng vai trò cực kỳ quan trọng như một phương tiện đa dạng hoá thị trường kinh tế và lao động nông thôn, là giải pháp tốt để giải quyết tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp, góp phần giảm bớt sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị về thu nhập và mức sống…Hơn nữa, sự phát triển năng động và sự đa dạng hoá kinh tế nông thôn là giải pháp hữu hiệu nhất để ngăn cản dòng người từ nông thôn ra thành thị, giảm mật độ tăng dân số cho khu vực đô thị. Thực tế hiện nay ở Việt Nam các DN ngành nghề nông thôn nhìn chung gặp nhiều hạn chế và chưa có được sự quan tâm đúng mức của nhà nước song lại phải gánh vác vai trò quan trọng trên.
II. Những hạn chế và vướng mắc trong chính sách phát triển DNVVN
Theo bà Phạm Chi Lan- Phó chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì trên thế giới ngay cả ở những nước tiên tiến nhất, nơi có những tập đoàn khổng lồ đang hoạt động thì đa số cũng là DNVVN. Chẳng hạn 70% doanh nghiệp ở Mỹ là DNVVN. Còn ở Đức, Nhật thì tỷ lệ này là lên tới 75-80%. Như vậy các nước dù phát triển cao đến mấy thì họ vẫn coi DNVVN là xương sống của nền kinh tế. Nhận thức rõ ràng rằng loại hình doanh ngiệp này có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nhưng chỉ một số nước phát triển là chú trọng đầu tư còn các nước đang phát triển chưa quan tâm đúng mức mà nước ta là một trong số đó.
2.1. Những vướng mắc và cản trở trong việc thành lập và đăng ký kinh doanh
Theo thống kê chưa đầy đủ của bộ kế hoạch và đầu tư mới chỉ tính đến ngày 30-4-1999 cả nước có trên 200 loại giấy phép hành nghề. Lệ phí giấy theo quy định bình quân khoảng 300-500 ngàn đồng nhưng thực tế người xin phép đầu tư phải chi thêm cho cơ quan giấy phép trực tiếp hoặc qua khâu trung gian, chi cao nhất gần 8 lần so với mức trên giấy tờ, mức cao nhất lên đến 9.5 triệu đồng. Thời hạn cấp giấy phép nhiều khi kéo dài từ 2-4 năm.
Nguyên nhân cơ bản do sự chuyên quyền tuỳ tiện của UBND trong việc ra quyết định thành lập và không ít những yêu cầu mơ hồ, không rõ ràng trong thủ tục thành lập. Chính sự không rõ ràng này làm cho việc ra quyết định không dựa trên một cơ sở hay hướng dẫn cụ thể nào nên người có trách nhiệm ở cấp dưới thường xuyên xin chỉ đạo từ cấp trên, khi đó cấp trên lại phải tiến hành bàn bạc trao đổi và thống nhất ý kiến với nhau khi ra quyết định. Nên việc duy nhất mà nhà đầu tư có thể làm là ngồi chờ hồi âm của các cơ quan có thẩm quyền.
Bảng Các thủ tục cần thiết khi xin giấy phép thành lập doanh nghiệp
STT
Giấy tờ chứng nhận, yêu cầu khác
Các cơ quan
1
Đơn xin thành lập
Nộp cho văn phòng UBND tỉnh, thành phố
2
Phương án kinh doanh
nt
3
Dự thảo điều lệ
nt
4
Giấy xác nhận hộ khẩu thường trú
Do UBND phường, xã nơi nhà đầu tư thường trú cấp
5
Giấy chứng nhận không phạm tội
Do UBND phường, xã nơi nhà đầu tư thường trú cấp
6
Giấy chứng nhận không mất trí
Do bệnh viện, bệnh xá địa phương cấp
7
Giấy xác nhận về trụ sở giao dịch
Do UBND phường, xã nơi sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh cấp
8
Giấy xác nhận tiền gửi ngân hàng của vốn bằng tiền mặt
Do ngân hàng cấp
9
Giấy xác nhận giá trị tài sản, hiện vật góp vốn
Do cơ quan công chứng cấp
10
Giấy chứng nhận công ty đáp ứng yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ đối với ngành nghề kinh doanh và việc phê chuẩn phương án kinh doanh
Do các phòng ban chuyên môn có liên quan đến lĩnh vực mà công ty dự định tiến hành của UBND tỉnh, thành phố cấp
Trước ngày 1-8-1998, thủ tục thành lập doanh nghiệp được tiến hành theo hướng dẫn của Nghị định 222/HĐBT ngày 23/7/1991. Theo đó, ngoài đơn nhà đầu tư phải làm đủ từ 8 đến 10 loại chứng nhận khác nhau trong mỗi giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh. Như vậy, để thành lập một doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xin ít nhất 20 loại giấy tờ và con dấu khác nhau. Đối với mỗi loại giấy chứng nhận, ít nhất họ phải đến cơ quan nhà nước hai lần, một lần để “xin” và một lần để “cho”. Thường thì họ phải đi lại nhiều lần để bổ sung các giấy tờ hay thông tin theo yêu cầu của người có thẩm quyền. Mà ở mỗi tỉnh thì nơi tổ chức nhận đơn và xét cấp giấy chứng nhận kinh doanh lại không giống nhau.
Ngày 1/8/1998 Thông tư liên bộ số 05/1998/TTLB-KH-ĐT-TB của Bộ kế hoạch- đầu tư và Bộ tư pháp quy định thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh doanh nghiệp và công ty, chính thức có hiệu lực. Đây là cố gắng lớn nhằm nới lỏng tối đa các thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh trong phạm vi điều chỉnh của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân theo hướng:
- Sở Kế hoạch và đầu tư được bổ nhiệm làm cơ quan đầu mối duy nhất điều phối thâu tóm toàn bộ quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh.
- Giảm bớt các giấy tờ và thủ tục liên đới.
- Các thủ tục và thời gian đối với việc xin thành lập doanh nghiệp đã phù hợp hơn. Các quy định mới đã xác định một trình tự rõ ràng và một thời gian hợp lý cho việc thành lập một công ty hay doanh nghiệp tư nhân.
- Nghiêm cấm các UBND ban hành các văn bản hướng dẫn thêm về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Đây là một cố gắng lớn được mọi người ủng hộ nhằm duy trì áp dụng một thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản hợp lý và thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Những chuyển biến mới mẻ trên đã làm giảm bớt đáng kể những gánh nặng cho nhà đầu tư và các viên chức nhà nước, đẩy nhanh quá trình thành lập doanh nghiệp. Song vẫn còn một số hạn chế:
- Các thủ tục thành lập được thực hiện ở cấp quá cao với quyền hạn lớn. Chẳng hạn các UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ xét duyệt thành lập các công ty và doanh nghiệp tư nhân. Song ở hầu hết các nước, nhiệm vụ này được giao cho nhân viên chuyên trách theo những thủ tục thông thường đã được quy định, tiến hành xem xét đơn và bảo đảm rằng các thông tin cần thiết đã được cung cấp đủ trong đó và sau đó tiến hành đăng ký thành lập cho công ty, trừ một số ít trường hợp cần có sự cho phép đặc biệt. Đương nhiên, các UBND cần phải giám sát sự thi hành đối với các văn phòng đăng ký kinh doanh chuyên ngành như đối với tất cả các cơ quan trực thuộc. Nếu giảm được lề thói cũ thì quá trình thành lập doanh nghiệp sẽ được đẩy nhanh một cách đáng kể.
- Giấy xác nhận trụ sở giao dịch chính.
Hầu hết các nước trên thế giới không yêu cầu xác nhận vấn đề này mà điạ chỉ giao dịch chỉ là một nội dung của đơn đăng ký kinh doanh và có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với hành vi cố tình cung cấp sai sự thật cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Đồng thời nếu có sự thay đổi địa chỉ giao dịch thì phải báo ngay cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Nguyên nhân cơ bản là do cơ quan thẩm quyền khó có khả năng kiểm soát được mà xét cho cùng việc kiểm tra tính trung thực của lời khai về trụ sở là các bạn hàng. Ngoài ra đây là thủ tục làm tăng chi phí và kéo dài thời gian cần thiết cho việc thành lập doanh nghiệp.
- Yêu cầu về số lượng sáng lập viên tối thiểu.
Ví dụ: thực tế hiện nay các công ty tư nhân chỉ là một chủ, còn các cổ đông là danh nghĩa. Vì vậy yêu cầu số cổ đông tối thiểu là 2 hay 7 chỉ hoàn toàn là một thủ tục trong quá trình thành lập mang tính hình thức, không có ý nghĩa gì.
Ngoài ra một số luật quan trọng nhưng chưa được ban hành như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền. Có luật ra đời chưa được bao lâu đã phải sửa đổi không dưới một lần như luật đầu tư nước ngoài, việc kiểm tra thi hành luật chưa tốt, không ít văn bản chồng chéo mâu thuẫn thậm chí triệt tiêu nhau, không phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế
2.2. Những vướng mắc và hạn chế trong quá trình phát triển các DNVVN
Vốn, tín dụng: Đây không chỉ là khó khăn của DNVVN của nước ta mà còn ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam á
Nước
Khó khăn về tài chính
Khó khăn về nguyên vật liệu
Khó khăn về lao động
Khó khăn về maketing thị trường
Khó khăn về khả năng cạnh tranh
Tổng số doanh nghiệp được khảo sát
Philipin
92
(57, 9%)
68
(42, 8%)
21
(73, 2%)
14
(8, 8%)
42
(26, 4%)
159 (100%)
Thái Lan
118
(58, 9%)
63
(28, 8%)
23
(10, 5%)
137
(62, 6%)
-
219 (100%)
Indonexia
78
(50, 3%)
36
(23, 2%)
26
(16, 8%)
63
(40, 6%)
97
(62, 6%)
155 (100%)
Nước
Thiếu lao động có tay nghề
Khó khăn về tương lai nghề nghiệp
Khó khăn về tiền lương tăng lên
Khó khăn do thái độ lao động
Khó khăn do năng suất lao động thấp
Khó khăn khác
Tổng số doanh nghiệp đưa ra khảo sát
Malaixia
24 (31,6%)
21 (26,6%)
21 (27,6%)
8 (10,5%)
18 (23,7%)
18 (3,4%)
76 (100%)
Thái Lan
14 (69,9%)
7 (11,5%)
4 (6,3%)
4 (6,3%)
-
-
70 (100%)
Indinexia
14
(20%)
20 (28,6%)
15 (21,4%)
19 (21,7%)
15 (21,4%)
17 (24,3%)
70 (100%)
(Nguồn: Báo cáo về các DNVVN ở các nước đang phát triển, IDE, Tokyo 1996) Báo KH-CNMT tháng 2-1999).
Để đáp ứng nhu cầu vốn của mình, các DNVVN vay từ các tổ chức phi tài chính, thông thường từ bạn bè, người thân với lãi suất vay không chính thức gấp từ 3 đến 4 lần lãi suất ngân hàng. Một phần do họ khó có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác những khoản vay bảo đảm hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là do:
- Thủ tục cho loại vay này rất phức tạp, chi phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này quá tốn kém đối với DNVVN. Bản thân ngân hàng cũng không muốn cho vay vì ngại quản lý.
- Những quy chế về ký quỹ và các dự án đầu tư quá cứng nhắc làm cho nhiều DNVVN không thể đáp ứng được khi muốn vay tín dụng từ các tổ chức tài chính. Trong khi các DNNN lại được miễn việc ký quỹ.
- Các phương thức định giá tài sản ký quỹ không rõ ràng và các quan chức của ngân hàng ra quyết định trong vấn đề này quá chuyên quyền độc đoán.
- Các DNVVN không thể nhận được sự hỗ trợ về việc thẩm định dự án, nghiên cứu khả thi dự án, chuẩn bị kế hoạch hoạt động hoặc hỗ trợ các nguồn tín dụng.
* Đất đai:
Đất đai cho các hoạt động của DNVVN còn thiếu và doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc họ không thể đạt được kết quả trong những hợp đồng thuê đất làm trụ sở nhà máy. Cụ thể:
+ Các thủ tục để được cấp quyền sử dụng đất không rõ ràng và thường không công nhận đối với các DNVVN. Đặc biệt trong trường hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhượng và cầm cố, quyền sử dụng đất để ký quỹ vẫn chưa được chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư năm 1997, người ta đã tìm ra chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân.
+ Do có nhiều khó khăn trong việc không có đất để sản xuất dẫn đến việc đất ở cũng được đem ra sử dụng cho mục đích sản xuất và kinh doanh.
+ Cũng do những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, nên còn tồn tại một thị trường đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và phi hợp pháp.
* Công nghệ
Theo đánh giá thì phần lớn công nghệ mà các DNVVN sử dụng là công nghệ lạc hậu, vấn đề chuyển giao công nghệ còn quá ít. Thống kê của nhóm sản xuất và phân phối (M&D) thuộc diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (nhóm tư vấn liên ngành về cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam ) cho thấy từ năm 1990 đến năm 2002 chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam được chấp thuận mà phần lớn lại là các công ty con nhập khẩu từ các công ty mẹ ở nước ngoài, quyền sở hữu thuộc về các công ty mẹ đó. Nguyên nhân:
a) Vốn đầu tư của DNVVN rất thấp so với DNNN, khó có thể vay được một khoản vốn trung và dài hạn cần thiết để đầu tư nâng cấp công nghệ.
b) Việc nhập khẩu máy móc thiết bị có thuế suất cao trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được miễn trừ .
c) Khó tiếp cận được với thị trường công nghệ vì thiếu thông tin về thị trường này.
d) Họ khó tiếp cận được những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh.
e) Một số nguyên tắc thủ tục hiện hành còn cứng nhắc làm cho việc chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào Việt Nam khó và tốn kém khiến cho đối tác ngần ngại chuyển giao.
Ví dụ: Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 về CGCN. Theo nghị định này quy định giá CGCN không vượt quá 5% “giá bán tịnh” của sản phẩm công nghệ đó. Mà giá bán tịnh định nghĩa là “tổng giá bán sản phẩm trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế triết khấu thương mại, chi phí vận chuyển cả bằng đường biển, bảo hiểm, quảng cáo, đóng gói. Chi phí đầy đủ cho việc mua bán các sản phẩm, bộ phận chi tiết từ mọi nguồn cung cấp”.
Theo định nghĩa này chi phí chuyển nhượng công nghệ là rất nhỏ. Trong khi quy định về CGCN cho cả nhãn hiệu hàng hoá, kể cả nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới thì nghị định 45/CP lại không phân biệt giữa việc bán đứt (chuyển giao) với hình thức sử dụng có giới hạn (li-xăng) khiến cho mọi trường hợp chủ sở hữu công nghệ đều mất quyền sở hữu về tay bên nhận sau 7 năm. Một khó khăn nữa cho việc CGCNlà chi phí sử dụng các giao dịch quốc tế như internet, điện thoại, điện tín ở Việt Nam còn cao hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực: Gấp 3.5 lần Singapo, 2 lần Thượng Hải, 2.5 lần Băng Cốc. Với những doanh nghiệp nhập khẩu những máy móc thiết bị đã qua sử dụng thì có những quy định hiện hành rập khuôn, cản trở rất nhiều cho doanh nghiệp .
* Sức cạnh tranh và tiếp cận thị trường thế giới
Các DNVVN rất khó tiếp cận được với cả thị trường trong nước và quốc tế do sức cạnh tranh thấp. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã đưa ra 8 nhân tố chính hình thành nên tính cạnh tranh của nền kinh tế của mỗi quốc gia đó là: Độ mở cửa, chính phủ, tài chính, kết cấu hạ tầng, công nghệ, quản trị, lao động, thể chế.Dựa vào 8 chỉ tiêu này, WEF đã đánh giá năng lực cạnh tranh của một số nền kinh tế quốc gia trên thế giới. Qua đó WEF đã đưa ra kết luận về khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
NĂM
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Khả năng cạnh tranh
49/53
39/53
48/53
49/59
62/80
65/80
Như vậy khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam tuy có tăng nhưng không đáng kể. Nguyên nhân là do khả năng tiếp cận thị trường còn yếu các doanh nhân Việt Nam chưa có mạng lưới khách hàng, chưa có kinh nghiệm thiết lập mạng lưới kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết của chủ DNVVN về thị trường nước ngoài và xu thế của nó về các nghiệp vụ ngoại thương, các quy định quốc tế của các nước khác và của cả nước ta liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu đáo. Hội nhập kinh tế quốc tế đang đến dần nhưng theo phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì có 16% tổng doanh nghiệp chưa biết gì về hội nhập, 24% chưa đủ thông tin về lịch trình giảm thuế AFTA, APEC; 34% không biết thông tin về hội nhập WTO, 50%không biết nội dung chính của hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Một thực tế là hiện nay nhiều chủ doanh nghiệp (đặc biệt là ở địa phương) sản xuất những mặt hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Vấn đề chi phí vận tải cảng, biển cao cũng là một yếu tố làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hệ thống cảng biển Việt Nam quá nhỏ chưa đồng bộ, năng lực bốc xếp cũng như tiếp cận tàu trọng tải lớn thấp không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển trong nước và quốc tế. Dọc chiều dài bờ biển nước ta có 91 cảng biển công suất khoảng 1triệu tấn/năm. Hiện nay duy nhất có cụm cảng Thị Vải-Vũng Tàu là có công suất 50. 000DWT song phí cảng biển lại khá cao so với các nước cùng khu vực. Những hạn chế đó nhiều khi làm mất đi những cơ hội gây ra những rủi ro không đáng có. Ngay cả những rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại. Số lượng chủ DNVVN có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh nhân nước ngoài không nhiều. Vấn đề bản quyền và quyền sở hữu trí tuệ khác chưa được thực hiện một cách nghiêm túc do đó hàng giả hàng nhái còn phổ biến mà hiện tại chúng ta chưa có luật cạnh tranh để điều tiết sự độc quyền mà các DNVVN đôi khi lại ở những thế yếu do độc quyền của một số doanh nghiệp lớn mà không bị cản trở bởi sự cạnh tranh.
* Thông tin.
Thông tin về các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng là rất rải rác gây những khó khăn trong quản lý việc phân bổ tín dụng và trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Việc tiếp nhận thông tin về các văn bản pháp luật thị trường tiến bộ công nghệ còn hạn chế do:
- Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp chưa được công khai hoá giống như các nước khác trong khu vực
- Khi đã hoàn tất việc đăng ký thành lập doanh nghiệp, không hề có yêu cầu báo cáo định kỳ cho các cơ quan chức năng. Vì vậy một công ty có thể đã ngừng hoạt động nhưng giấy phép kinh doanh vẫn còn giá trị trong một thời gian dài
- Việc chưa công khai hoá, tin học hoá những sổ đăng ký kinh doanh bao gồm những thông tin cơ bản về tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký thuộc mọi thành phần kinh tế gây khó khăn cho các doanh nghiệp trên thương trường muốn biết thông tin về các đối tác.
- Yêu cầu nắm được thông tin cơ bản chưa trở thành một phần thiết yếu trong hệ thống quản lý các doanh nghiệp
* Tình hình công nợ
Hiện nay nhiều DNVVN bán hàng trả chậm rất nhiều và khó thu hồi vốn.Tình trạng nợ nần, dây dưa khó đòi chiếm dụng vốn lẫn nhau lan rộng dây truyền giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các đại lý tiểu thương đang là một căn bệnh trầm kha ngày càng nghiêm trọng. Các DNVVN ngày nay đang đứng trước mối lo âu: Cần mở rộng hệ thống phân phối, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhưng nợ phải thu ngày càng cao và nợ khó đòi ngày càng lớn. Theo một cuộc khảo sát về tình hình tài chính của 300 doanh nghiệp ngoài quốc doanh của cục thuế thành phố HCM đã phát hiện nhiều con số ảo, có 250 doanh nghiệp báo cáo tình trạng tài chính có vốn điều lệ âm, thậm chí có doanh nghiệp trong số này âm hơn 30 lần mà vẫn hoạt động. Cũng theo cục thuế TP. CM qua đợt đăng ký lại các doanh nghiệp thì có đến 1170 doanh nghiệp không đến đăng ký thuộc dạng chờ giải thể hay cố tình không kê khai,750 doanh nghiệp được cấp giấy phép nhưng không rõ trụ sở ở đâu, còn hoạt động hay không. (Thời báo kinh tế số 45 ngày 5/6/1999).
Tóm lại có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thờ ơ của doanh nghiệp trước yêu cầu hội nhập. Về mặt tâm lí nhiều lãnh đạo doanh nghiệp bị rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do trình độ hạn chế, thiếu thông tin cũng như sự hiểu biết nên lúng túng trong việc chọn hướng đi cho doanh nghiệp
Trong khi vẫn biết rằng thời điểm hội nhập đang đến gần…Trong khi đó nhiều doanh nghiệp lại đứng trước những khó khăn khác nhau như thiếu vốn, mắc nợ,máy móc công nghệ sản xuất lạc hậu không đồng bộ, thếu thị trường..Mỗi doanh nghiệp đều có lí do để giải thích cho sự chậm chễ của mình trước yêu cầu hội nhập vào thị trường chung. Trong tương lai, khi Việt Nam chấp nhận gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, ngoài việc Việt Nam có nghĩa vụ tuân theo những nguyên tắc hệ thống của WTO nói chung, việc trở thành thành viên của WTO sẽ buộc Việt Nam phải tự do hoácác điều kện thương mại.Trong bối cảnh đó dnv sẽ ứng phó ra sao? Điều gì xảy ra khi hàng hoá tròg nước chỉ đạt chất lượng trung bình hoặc thấp mà già bán lại cao trong khi hàng bên ngoài chất lượng lại đảm bảo mà giá lại phải chăng.Vài năm để chuẩn bị hội nhập chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi với rất nhiều khó khăn phía trước.Thời thế đã và đang đặt ra cho dnv những sự lựa chọn khắc nghiệt tồn tại hay không tồn tại trước bối cảnh hội nhập hiện nay.
Vậy nhà nước ta đã và đang làm gì dể giúp đỡ thành phần kinh tế này.
3.Về tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô tới hoạt động của các DNVVN
3.1.Chính sách thương mại :
Chủ động xây dựng quan hệ, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, xây dựng nề kinh tế mở với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới đã và đang được Việt Nam áp dụng trong những năm qua. Các quy định về xuất nhập khẩu ngày càng nới lỏng, mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều khúc mắc gây cản trở tới quá trình này như : chỉ cho phép một số các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các đầu mối đối với một số mặt hàng, danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu hay thay đổi, thuế xuất nhập khẩu cao… Ngoài ra, những chính sách ưu tiên đặc thù nhằm hỗ trợ lâu dài cho hoạt động xuất nhập khẩu cho các DNVVN chưa có như : trợ giá xuất nhập khẩu, cấp tín dụng làm hàng xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ quốc tế.
3.2.Chính sách công nghiệp .
Chính sách bảo hộ hiện nay đã làm biến dạng thị trường trong nước. Đặc biệt việc đánh thuế cao vào mặt hàng nhập khẩu đã làm cho một số các DNVVN phải nhập nguyên liệu với giá cao từ đó sản xuất ra các sản phẩm có giá thành cao không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra các DNVVN hoạt động trong các ngành công nghiệp, công nhân tạo ra sản phẩm cho xuất khẩ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0292.doc