Giải pháp hoàn thiện chiến lược Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi nhánh Công ty cổ phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên

Lời nói đầu Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa hoc kỹ thuật, các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày càng phát triển hơn. Sự phát triển của ngành giao thông vận tải đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của xã hội loài người. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển vượt bậc đó thì tình hình tai nạn giao thông có chiều hướng ngày càng tăng và mức độ tổn thất ngày càng lớn, đôi khi có tính chất thảm hoạ. Để bù đắp những tổn thất về người và t

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chiến lược Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi nhánh Công ty cổ phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài sản do những rủi ro bất ngờ đó gây ra cho chủ phương tiện và người tham gia giao thông, bảo hiểm xe cơ giới là một trong những biện pháp hữu hiệu hiện nay. Tham gia bảo hiểm xe cơ giới là góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho chủ phương tiện và người tham gia giao thông. Nhưng do tính trừu tượng và vô hình của bảo hiểm mà người dân hiểu biết về bảo hiểm còn hạn chế. Tỷ lệ các xe cơ giới tham gia bảo hiểm còn thấp. Đứng chân trên địa bàn Hưng Yên từ năm 2003 Chi Nhánh Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên (Chi Nhánh PJICO Hưng Yên) thuộc Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex (PJICO) đã thấy được những thuận lợi và khó khăn trong khâu tuyên truyền, giới thiệu cho chủ phương tiện hiểu được bản chất của bảo hiểm xe cơ giới để có thể tự nguyện tham gia. Chi nhánh đã đề ra chính sách, sách lược, chiến lược Marketing để dành thị trường còn nhiều tiềm năng này. Tôi là sinh viên chuyên ngành kinh tế bảo hiểm đang thực tập tại Chi nhánh PJICO Hưng Yên. Trong thời gian thực tâp, được tìm hiểu thực tế về chi nhánh, thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Hưng Yên. Tôi mạnh dạn chọn đề tài: “ Một số giải pháp hoàn thiện chiến lược Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi Nhánh Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên”. Đề tài có ba chương chính, bao gồm: Chương I: Khái quát chung về nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. Chương II: Thực trạng triển khai hoạt dộng marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi Nhánh Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chiến lược marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi Nhánh PJICO Hưng Yên. Nội dung của đề tài đi sâu vào chính sách Marketing nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. Đây là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm chính của Chi Nhánh. Nội Dung Chương I: Khái quát chung về nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. I . Khái quát chung về nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới 1. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới Xe cơ giới có thể được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm: ôtô, môtô, xe máy. Để đối phó với những rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thất cho mình, các chủ xe cơ giới (bao gồm các cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu hay bất kỳ người nào được phép sử dụng xe cơ giới, kinh doanh vận chuyển hành khách bằng xe cơ giới) thường tham gia một số loại hình bảo hiểm sau: - Bảo hiểm vật chất xe - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự - Bảo hiểm tai nạn lái phu xe và người ngồi trên xe - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá chở trên xe. a. Sự cần thiết. Bảo hiểm xe cơ giới là rất cần thiết đối với con người. Sự cần thiết này xuất phát từ chính đặc điểm của xe cơ giới và loại hình bảo hiểm đặc biệt này. + Số lượng đầu xe tham gia giao thông ngày càng đông, đặc biệt nước ta là nước đang phát triển, số lượng xe càng tăng nhanh, nhất là các loại xe môtô và xe máy. Mặt khác điều kiện địa hình giao thông đường bộ nước ta còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa được đảm bảo, cùng với nó là sự thiếu cẩn trọng của người điều khiển phương tiện. Vì vậy tai nạn giao thông ngày cang gia tăng và hậu quả ngày càng trầm trọng. + Xe cơ giới là loại xe có tính cơ động cao, tính việt dã tốt và nó tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển cho nên xác suất rủi ro đã lớn lại càng lớn hơn. + Xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu, địa hình, thời tiết, cơ sở giao thông, ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân. b. Tác dụng Bảo hiểm xe cơ giới còn có tác dụng to lớn trong đời sống xã hội, các tác dụng đó là: + Tích cực ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông. Khi chủ phương tiện tham gia bảo hiểm xe cơ giới tại các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Trên cơ sở kinh doanh bảo hiểm, các công ty thường trích một phần phí thu được nhằm đề phòng hạn chế tổn thất, giảm được chi phí bồi thường, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Một số biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông như: Trích quỹ xây dựng đường lánh nạn, các biển chỉ đường, biển báo nguy hiểm và một số rào chắn an toàn .... Bên cạnh đó tham gia bảo hiểm xe cơ giới góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc phòng tránh tai nạn giao thông. Khi người dân hiểu được vai trò đặc biệt quan trọng của bảo hiểm sẽ tích cực có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về an toàn giao thông, nâng cao tinh thân trách nhiệm của chủ phương tiện. + Bảo hiểm xe cơ giới còn góp phần ổn định tài chính khắc phục khó khăn đột xuất cho các chủ xe. Khi tham gia giao thông, không may xe cơ giới của mình gây thiệt hại cho chính chủ xe và người thứ ba tham gia giao thông. Nhà bảo hiểm sẽ đứng ra bồi thường thiệt hại cho chủ xe, ngoài ra còn bồi thường thiệt hại phát sinh cho người thứ ba do xe cơ giới của minh gây ra trên cơ sở chủ phương tiện tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất xe. Bảo hiểm xe cơ giới còn góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi xe cơ giới của họ là xe kinh doanh, chuyên chở vận tải, hành khách. Đối với các loại xe này nguy cơ rủi ro họ gặp phải là rất lớn vì thời gian tham gia giao thông nhiều, hơn nữa khi gặp rủi ro thì thiệt hại mà họ phải gánh chịu là rất lớn không thể lường hết được. Bảo hiểm gánh bớt tổn thất này cho họ giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, kinh doanh. + Triển khai bảo hiểm xe cơ giới góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe với các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Khi tai nạn xảy ra chủ xe rất hoang mang lo sợ, các nạn nhân thì phải gánh chịu hậu quả thiệt hại về người và tài sản, đặc biệt là than nhân của các nạn nhân rất giận dữ. Tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm là trung gian giải quyết vụ tai nạn một cách thoả đáng, đảm bảo công bằng cho cả hai bên, tránh được mâu thuẫn không đáng có. + Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới góp phần tăng thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiiểm của chủ phương tiện cho chiếc xe của mình. Phần phí này được dùng để bồi thường cho chủ xe khi gặp phải rủi ro, nộp ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế. Phần còn lại các doanh nghiệp bảo hiểm thường mang đầu tư, hơn nữa phí bảo hiểm thì được thu ngay từ đầu, nhưng thời điểm bồi thường thì được xác định trong tương lai. Do vậy lượng tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp bảo hiểm là rất lớn, phần vốn này được đem đầu tư trỏ lại nền kinh tế. Hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm là đầu tư vào bất động sản, ngân hàng, cổ phiếu , trái phiếu, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. + Ở Việt Nam hiện nay các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới là phổ biến nhất có tỷ trọng doanh thu cao đối với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Bởi vậy nếu công ty không chú ý nâng cao trình độ của cán bộ, nhân viên, đại lý, trình độ luật pháp, đặc biệt là không chú ý tới tuyên truyển quảng cáo và thực hiện marketing tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của công ty. 2. Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới 2.1. Bảo hiểm vật chất 2.1.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. a. Đối tượng bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe cơ giới còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Cụ thể đối với xe môtô các loại người ta tiến hành bảo hiểm vật chất thân xe, đối với xe ôtô các loại bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ và cũng có thể bảo hiểm tổng thành của chiếc xe. Căn cứ vào công dụng kinh tế kỹ thuật xe ôtô được chia thành các tổng thành sau: - Tổng thành động cơ: Xi lanh, phit tông, két nước, máy phát điện, hệ thống treo, trục khuỷu, trục cam. - Tổng thành thân vỏ xe: Sắt xi, thân vỏ xe, hệ thống điện, nội thất, kính gương đèn. - Hộp số: vỏ hộp số, bánh răng số. - Hệ thống lái: Bóp lái, ba ngang ba dọc, vô lăng. - Trục trước (dí) - Trục sau (cầu chuyển động) - Lốp: lốp và bánh xe. Tuy nhiên có loại xe còn có tổng thành thứ tám gọi là tổng thành chuyên dùng như: xe cẩu, xe cứu thương, cứu hoả. b. Phạm vi bảo hiểm : Trong trường hợp bảo hiểm vật chất xe, phạm vi bảo hiểm bao gồm các rủi ro sau: - Tai nạn do đâm va, lật đổ - Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá - Mất cắp toàn bộ xe - Tai nạn rủi ro bất ngờ khác gây nên Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe các chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: - Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm - Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất - Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của nhà bảo hiểm Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm là không vượt quá số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Các trường hợp loại trừ : nhà bảo hiểm cũng không chịu bồi thường thiệt hại vật chất xe trong các trường hợp sau: - Lái xe vi phạm trật tự an toàn giao thông, luật an toàn giao thông đường bộ - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe - Thiệt hại do chiến tranh, nội chiến đình công - Những thiệt hại gián tiếp như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu. 2.1.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm Giá trị bảo hiểm: là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Tuy nhiên, giá xe trên thị trường bảo hiểm luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe. - Loại xe - Năm sản xuất - Mức độ mới, cũ của xe - Thể tích làm việc của xi lanh. Số tiền bảo hiểm : chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn, hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên việc tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bao nhiêu là cơ sở để xác định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Phí bảo hiểm : là số tiền mà chủ xe phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận. Phí bảo hiểm được ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố sau : Loại xe, tình hình tổn thất của những năm trước đó, các chi phí liên quan, khu vực giữ và để xe, mục đích sử dụng xe, tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Phí bảo hiểm được đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau : P = f + d P - phí thu mỗi đầu xe d - phụ phí f - phí thuần Phí thuần được xác định như sau : Si - số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i. Ti - Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i. Ci - Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i. Phần phụ phí bao gồm các chi phí như chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý… phần phụ phí này thường tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường. Giảm phí bảo hiểm : Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm. Đây là biện pháp phổ biến nhất trong bảo hiểm xe cơ giới. Biểu phí đặc biệt : Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số lượng xe tham gia nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính biểu phí được đề cập đến ở trên, chỉ khác là dựa trên số liệu về bản thân khách hàng này. Hoàn phí bảo hiểm : Có nhiều trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó. Trong trường hợp này công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. 2.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự 2.2.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. a. Đối tượng bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới kể cả lái xe là người nước ngoài sử dụng xe cơ giới trên lãnh thổ Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới gồm: - Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do xe cơ giới gây ra thiệt hại về người và tài sản đối với ngưòi thứ ba. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách. Người thứ ba là những người bị thiệt hại về thân thể tài sản do việc sử dụng xe cơ giới gây ra, trừ những trường hợp sau: + Lái xe, phụ xe trên chính chiếc xe đó + Người trên xe và hành khách trên xe + Những người lái xe, chủ xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái. + Tài sản, tư trang, hành lý của người nêu trên Hành khách là những người được chở trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách thuộc các hình thức quy định trong bộ luật dân sự. Như vậy đối tượng bảo hiểm không được xác định trước, chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một nghiệp vụ bảo hiểm được thực hiện dưới hình thức bắt buộc theo luật định cơ sở hình thành trách nhiệm dân sự bắt buộc bao gồm: + Xe phải có lỗi + Người thứ ba, hành khách trên xe phải có thiệt hại thực tế + Nguyên nhân của vụ tai nạn phải gắn liền với hậu quả của nó. Sở dĩ nghiệp vụ này được quy định dưới hình thức bắt buộc vì: + Nó liên quan đến rất nhiều bộ luật quốc gia + Thực hiện bắt buộc là nhằm đảm bảo tính công bằng trong xã hội, đảm bảo quyền lợi cho người dân. + Nâng cao tinh thần trách nhiệm của chủ xe và lái xe, ý thức tham gia giao thông của người dân b. Phạm vi bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, hành khách Công ty bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm: Thiệt hại về tính mạng tình trạng sức khoẻ Thiệt hại về hàng hóa, tài sản Các chi phí cần thiết để ngăn ngừa hạn chế thiệt hại, các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm Những thiệt hại về tính mạng tình trạng sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy đinh của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ - Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận và kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, lái xe không có bằng, không đủ tuổi - Thiệt hại do chiến tranh, bạo động - Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận khác Ngoài ra, công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt… 2.2.2. Phí bảo hiểm * Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo đầu phương tiện của mình. Mặt khác các phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khhác nhau nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện hoặc nhóm phưong tiện. Phí bảo hiểm được tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện( thường tính theo năm) là: P = J + d Trong đó: P Phí bảo hiểm/ đầu phương tiện f Phí thuần d phụ phí (được quy định là một tỷ lệ % nhất định so với tổng phí bảo hiểm). * Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự tai nạn hành khách. Phí bảo hiểm được tính theo đầu người trên mỗi lượt vận chuyển. Mặt khác, đối với quãng đường vận chuyển khác nhau thì mức phí cũng khác nhau. Phí bảo hiểm này được tính luôn vào cước phí vận chuyển mà hành khách phải trả. Thông thường các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm căn cứ vào, quãng đường vận chuyển, xác suất rủi ro, số lượng vé bán ra. Do vậy mức phí tính trên mỗi người thường là rất thấp. Chủ phương tiện kinh doanh vận tải hành khách phải nộp mức phí này theo sự thoả thuận với nhà bảo hiểm. 2.3. Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe 2.3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm: là những lái xe, phụ xe và người ngồi trên chính chiếc xe đó bị tai nạn gây thiệt hại cho chính những người nói trên. Phạm vi bảo hiểm: + Tai nạn người ngồi trên xe: thiệt hại về thân thể do tai nạn khi đang ở trên xe, lên xuống xe trong quá trình xe tham gia giao thông. + Tai nạn lái phụ xe: thiệt hại về thân thể do tai nạn liên quan trực tiếp đến việc sử dụng chiếc xe đó. 2.3.2. Phí bảo hiểm Đối với loại hình bảo hiểm này các công ty bảo hiểm thường khống chế hạn mức trách nhiệm, khống chế số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với số tiền bảo hiểm. Để xác định được một tỷ lệ phần trăm cho phù hợp các công ty bảo hiểm phải dựa vào số lượng lái phụ xe, người ngồi trên xe tham gia bảo hiểm, số liệu thống kê về tình hình tai nạn bồi thường của một số năm trước đó. 2.4. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đôi với hàng hoá chở trên xe 2.4.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm Đối tượng được bảo hiểm: là hàng hoá chở trên xe cơ giới theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và chủ hàng hoá. Phạm vi bảo hiểm : Công ty bảo hiểm nhận trách nhiệm bồi thường cho phần thiệt hại về hàng hoá chở trên xe cơ giới trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe các chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: + Ngăn ngừa, giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá + Bảo quản, lưu kho, lưu bãi, xếp dỡ hàng hoá trong quá trình vận chuyển do hậu quả của tai nạn. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không vượt quá mức trách nhiệm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Đối với một số loại hàng hoá đặc biệt, các công ty bảo hiểm chỉ nhận trách nhiệm bảo hiểm khi có hợp đồng thoả thuận riêng, các hàng hoá đó gồm: -Vàng Bạc, đá quý (dạng nguyên thuỷ hoặc đã tinh chế) - Đồ cổ, tranh nghệ thuật quý hiếm. - Tiền, các loại ấn chỉ, hoá đơn có giá trị như tiền - Thi hài, hài cốt - Chất phóng xạ 2.4.2. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm là giá trị hàng hoá được tính tại thời điểm trước khi đưa hàng lên xe và không vượt quá giá trị thực tế trên thị trường tại nơi đưa hàng lên xe vào thời điểm xảy ra thiệt hại. Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá chở trên xe các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức miễn thường có khấu trừ. Như vậy giúp cho chủ phương tiện vận chuyển có ý thức bảo quản hàng hoá chở trên xe. 2.4.3. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm so với số tiền bảo hiểm. Đối với mỗi loại hàng hoá khác nhau, các công ty bảo hiểm đưa ra các tỷ lệ phí khác nhau tuỳ theo mức độ rủi ro của loại hàng hoá. Những hàng hoá cồng kềnh, dễ vỡ, hỏng thường mức phí cao hơn, hàng hoá gọn nhẹ dễ bảo quản tỷ lệ phí thấp hơn. 3. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. 3.1. Quyền lợi và trách nhiệm của bên tham gia bảo hiểm. Quyền lợi: Khi tham gia bảo hiểm, chủ xe có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện cam kết trong hợp đồng bảo hiểm, hoạt động dịch vụ chăm sóc khách hàng. Khi có tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành bồi thường đầy đủ, hợp lệ. Trách nhiệm bảo hiểm: Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe phải thông báo đầy đủ và trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Khi tai nạn xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm. - Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn, báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết. Trong vòng năm ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, chủ xe cơ giới phải gửi ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm thông báo tai nạn. - Không được di chuyển, tháo dỡ, hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại cho ngườivà tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. - Bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm trong phạm vi số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp đã bồi thường kèm theo toàn bộ chứng từ cần thiết liên quan. - Chủ xe cơ giới phải trung thực trong việc thu thập và cung cấp tài liệu, chứng từ trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm xác minh tính chân thực của các tài liệu chứng từ đó. - Khi tai nạn xảy ra chủ xe phải lập một hồ sơ yêu cầu bồi thường gồm các giấy tờ sau: + Thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới (theo mẫu do doanh nghiệp cấp). + Bản sao có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc của nhân viên công ty các giấy tờ sau: giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy phép lái xe, đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường hợp lệ. + Bản sao kết luận điều tra tai nạn của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông, biên bản giải quyết tai nạn giao thông. + Biển bản hoà giải. + Bản án hoặc quyết định có hiệu lực của toà án nếu có. + Các tài liệu liên quan trách nhiệm của người thứ ba. + Biển bản giám định thiệt hại + Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn. Về người: các chứng từ y tế xác định tình trạng thương tích của nan nhân như: giấy ra viện, sổ y bạ, giấy chứng thương, bản đọc X quang, phim chụp, giấy chứng tử (trường hợp bị chết). Về tài sản: các chứng từ hợp lệ xác định chi phí hợp lý, sửa chữa khắc phục xe. 3.2. Quyền lợi và trách nhiệm của bên bảo hiểm. Quyền lợi: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu chủ xe, lái xe phải tuân thủ các quy định đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Khi tai nạn xảy ra nếu không thuộc phạm vi bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường và giải thích rõ ràng cho người tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bảo hiểm: - Giải thích cho chủ xe, lái xe về các điều kiện điều khoản bảo hiểm, quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia bảo hiểm. - Giải thích bằng văn bản lý do từ chối bồi thường. - Phối hợp chặt chẽ với chủ xe và cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn. - Đối với vụ tai nạn nghiêm trọng, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phối hợp giải quyết ngay từ ban đầu và khi xác định trách nhiệm thuộc phạm vi bảo hiểm có thể tạm ứng ngay một phần chi phí cần thiết nhằm khắc phục hậu quả tai nạn. - Việc tiến hành giám định bồi thường sẽ do doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành với sự chứng kiến của chủ xe, lái xe, bên thứ ba, hoặc người đại diện hợp pháp của các bên có liên quan để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại do tai nạn gây ra.Trường hợp chủ xe cơ giới không thống nhất về nguyên nhân và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp xác định, hai bên sẽ thoả thuận chọn giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp thực hiện việc giám định. Quy trình giám định và bồi thường như sau: Xem xe bị tai nạn có thuộc phạm vi bảo hiểm không. Xác định mức độ lỗi của xe và mức độ thiệt hại thực tế của các bên. Lập biên bản giám định có đầy đủ chữ ký của các bên, căn cứ vào biên bản giám định nhà bảo hiểm xét bồi thường. Số ảnh chụp sơ bộ thiệt hại vụ tai nạn. Giải quyết bồi thường: Bảo hiểm vật chất xe: - Bồi thường tổn thất thiệt hại thực tế được xác định là giá trị thiệt hại thực tế của các bộ phận ngay trước khi khi bị tổn thất. - Trường hợp xe tham gia bảo hiểm toàn bộ xe: + Tổn thất bộ phận: Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế x Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế: bồi thường theo giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tai nạn. Bồi thường toàn bộ chi phí sơn lại xe nếu trên 50% diện tích bị hỏng. + Tổn thất toàn bộ thực tế hoặc ước tính: trường hợp xe bị tai nạn được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 75% giá trị thiệt hại thực tế của xe. Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm. Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe, bồi thường bằng giá trị thực tế của xe khi xảy ra tai nạn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Số tiền bồi thường = Chi phí thiệt hại thực tế x mức độ lỗi của chủ xe. Tài sản: Chi phí thiệt hại thực tế bao gồm các chi phí hợp lý khắc phục tài sản hư hỏng trở lại trạng thái ban đầu như trước khi xảy ra tai nạn bao gồm: Chi phí sửa chữa, chi phí thay thế bộ phận, Đối với tài sản thiệt hại là hàng hoá: giá trị thiệt hại bao gồm các chi phí, bảo quản, xếp dỡ,lưu kho, lưu bãi do hậu quả tai nạn, giảm giá trị hàng hoá, chi phí khắc phục, chi phí giám định thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Về người: Chi phí thiệt hại thực tế bao gồm các chi phí cho việc cứu chữa, thuốc men, viện phí căn cứ vào chứng từ hoá đơn hợp lý, hợp lệ, chi phí mai táng, chăm sóc, thu nhập bị mất. Xác định mức độ lỗi căn cứ vào hồ sơ công an hoặc quyết định của toàn án để phân lỗi cho các bên. Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe. - Trường hợp người được bảo hiểm chết do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, chi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. - Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm Số tiền chi trả = Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm x số tiền bảo hiểm. Tỷ lệ trả tiền bảo hiểm được xác định dựa vào bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm được bộ tài chính phê chuẩn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. Bồi thường chi phí thực tế, cần thiết và hợp lý của chủ xe đối với hàng hoá của chủ hàng theo quy định của bộ luật dân sự khi xe bị tai nạn chủ xe phải bồi thường cho chủ hàng. số tiền bồi thường bao gồm các mục sau: - Chi phí ngăn ngừa giảm nhẹ tổn thất. - Chi phí bảo quản, xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi hàng hoá do hậu quả của vụ tai nạn. - Chi phí giám định tổn thất. - Giá trị hàng hoá bị tổn thất. Tổng số các chi phí trên không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm cho hàng hoá chuyên chở trên xe. Chương II: Chiến lược Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới 1. Khái quát về Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới 1.1. Khái niệm về Marketing Cho đến nay nhiều người vẫn lầm tưởng marketing với việc bán hàng, chào hàng (tiếp thị) và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Vì vậy họ quan niệm marketing chẳng qua là hệ thống các biện pháp mà người bán hàng sẽ sử dụng nhằm bán được hàng và thu tiền về. Nhưng thực ra tiêu thu chỉ là một trong những khâu của hoạt động marketing của doanh nghiệp, mà hơn thế nữa nó không phải là khâu quan trọng nhất. Theo quan điểm của marketing hiện đại thì marketing được hiểu là : Marketing là quá trình làm việc với thị trường nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Nền tảng của hoạt động marketing là những việc như tạo hệ thống giao dịch, tổ chức phân phối, xác định giá cả, triển khai dịch vụ. Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của con người, hoặc marketing là một dạng hoạt động của con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Một khái niệm nữa cần được đề cập đến ở đây là chiến lược marketing. Chiến lược marketing là một luận điểm logic, hợp lý làm căn cứ chỉ đạo một đơn vị tổ chức tính toán cách giải quyết những nhiệm vụ marketing của mình. Nó bao gồm những chiến lược cụ thể đối với thị trường mục tiêu, đối với phức hệ marketing và mức chi phí cho marketing. Đối với các thị trường mục tiêu, chiến lược marketing phải xác định chính xác phần thị trường mà công ty cần tập trung nỗ lực của mình vào đó. Những phần thì trường này khác nhau về các chỉ tiêu, mức độ ưa thích, phản ứng đáp lại và số thu nhập. Công ty sẽ họat động rất khôn ngoan, nếu tập trung nỗ lực và công sức vào những phần thị trường mà có thể phục vụ tốt nhất xét theo giác độ cạnh tranh. Còn đối với phức hệ marketing (marketing – mix) những người quản lý trình bày khái quát chiến lược cụ thể đối với từng phần tử của hệ thống marketing như: giá cả, sản phẩm, phân phối, quảng cáo, kích thích tiêu thụ. Đồng thời cần lập luận từng chiến lược theo quan điểm nó đã tính đến nguy cơ, khả năng và những vấn đề then chốt đã được trình bày ở các phần trên như thế nào. Để xác định ngân sách cần thiết để triển khai các chiến lược trên hay đó chính là xác định chi phí cho marketing. Mọi doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp dịch vụ khi tiến hành kinh doanh trên thị trường đều muốn làm chủ và chi phối thị trường. Để đạt được điều đó doanh nghiệp có thể tiến hành nhiều biện pháp, trong đó chiến lược marketing có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. 2.2. Vai trò của marketing trong kinh doanh bảo hiểm Marketing là hoạt động của con người hướng vào việc thoả mãn các nhu cần và mong muốn của con người qua các quá trình trao đổi. Marketing giúp công ty bảo hiểm tập trung vào thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng để nhà bảo hiểm có thể đạt mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng. Thông qua việc hiểu m._.ong muốn và sở thích của thị trường mục tiêu, để biết nhu cầu của thị trường thông qua việc thu thập, điều tra, nghiên cứu nhu cầu của nhóm khách hàng. Từ đó giúp công ty bảo hiểm có thể sử dụng các nguồn lực và khả năng của mình để biến khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng thành khách hàng lâu dài của doanh nghiệp Marketing giúp các công ty bảo hiểm khai thác khách hàng một cách hiệu quả nhất. Mỗi cán bộ bảo hiểm là người bán hàng, thường xuyên tiếp xúc gặp gỡ khách hàng. Vì vậy người cán bộ có hiểu biết, vận dụng marketing một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt vào hoạt động của mình thì mới thu hút được khách hàng, làm cho khách hàng tin tưởng vào công ty và tiến hành mua sản phẩm của công ty. Marketing phát triển sẽ tạo ra môi trường cho các công ty bảo hiểm thâm nhập vào thị trường, cạnh tranh tồn tại và phát triển Đứng vững trên thị trường. Chiến lược marketing giúp cho công ty bảo hiểm có những sách lược cụ thể để giải quyết những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn thông qua tuyên truyền, quảng cáo, khuếch trương. 2. Các chiến lược marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới 2.1. Chiến lược sản phẩm Sản phẩm bảo hiểm là sự cam kết của người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. Do đây là một sản phẩm đặc biệt nên trong nền kinh tế thị trường, chiến lược sản phẩm là hết sức quan trọng, nó là điều kiện sống còn của doanh nghiệp. Để sản phẩm có thể tồn tại và phát triển doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn đưa ra quyết định về nhãn hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm tòi thiết kế sản phẩm mới. 2.1.1.Quyết định về nhãn hiệu Quyết định về nhãn hiệu cho sản phẩm là một trong những quyết định quan trong khi soạn thảo chiến lược marketing. Do đặc điểm quan trọng của sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm vô hình, khó hình dung đối với khách hàng, cho nên việc gắn nhãn hiệu sẽ làm cho sản phẩm trở lên hữu hình hơn. Mặt khác sản phẩm bảo hiểm không được bảo hộ bản quyền, dễ sao chép, bắt chước, vì vậy thông qua nhãn hiệu sản phẩm khách hàng mới phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm này với sản phẩm của doanh nghiệp khác. Cùng với nó các sản phẩm bảo hiểm mà các doanh nghiệp đang triển khai ngày càng đa dạng, không còn là một sản phẩm truyền thống mà là sự kết hợp phức tạp tạo nên một tên gọi rõ ràng cho sản phẩm, điều này không chỉ giúp khách hàng phân biệt được mà còn có tác dụng xúc tiến bán hàng. Chính vì vậy, nó giúp doanh nghiệp bảo hiểm tạo dựng hình ảnh cho riêng mình, tăng sự hiểu biết về doanh nghiệp trong dân chúng. Nhãn hiệu của sản phẩm bảo hiểm xe cơ hết sức đơn giản thường có tên công ty, biểu tượng của công ty, tên sản phẩm (tên sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới là giấy chứng nhận bảo hiểm ôtô – xe máy), câu khẩu hiệu. Giấy chứng nhận bảo hiểm xe cơ giới thường thiết kế nhỏ gọn phù hợp cho việc mang theo khi điều khiển phương tiện. 2.1.2.Thiết kế sản phẩm mới Hiện nay các sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới khá hoàn chỉnh bao gồm các sản phẩm bảo hiểm vật chất, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. Do vậy việc tìm tòi thiết kế sản phẩm mới là rất khó. Vì vậy để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, việc thiết kể sản phẩm mới thường chỉ là việc thay đổi kiểu dáng giấy chứng nhận bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, bổ xung điều kiện mới. Tuy vậy thiết kế sản phẩm mới thì doanh nghiệp phải tuân thủ các bước sau: *Giai đoạn 1: hình thành và sàng lọc ý tưởng Đây là nền tảng cho quá trình phát triển sản phẩm mới. Chính vì vậy, trong giai đoạn này doanh nghiệp có nhiệm vụ theo dõi thị trường để tìm kiếm ý tưởng sản phẩm mới phù hợp mục tiêu của doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường. Việc tìm hiểu ý tưởng sản phẩm mới có thể có từ nhiều nguồn khác nhau như đội ngũ đại lý bán hàng có thể báo động cho doanh nghiệp khi họ nhận thấy các đối thủ cạnh tranh đã tung sản phẩm có đặc tính mới ra thị trường. Một số doanh nghiệp có thể nhờ hội đồng tư vấn hay đại lý thông tin cho họ về thách thức của thị trường và biện pháp vượt qua thách thức đó. Sau khi có ý tưởng về sản phẩm mới, doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng đội ngũ cán bộ chủ chốt để phân tích ý tưởng đó. Trong nhiểu trường hợp, những kiến nghị về sản phẩm mới có thể sửa đổi để áp dụng nhằm hồi sinh một sản phẩm đang kinh doanh kém. Sau các chuyên gia xác định được ý tưởng họ sẽ tiến hành đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với mục tiêu của doanh nghiệp để quyết định xem có nên tiếp tục phát triển sản phẩm nữa hay không. *Giai đoạn 2: Đánh giá thị trường tiềm năng của sản phẩm Ý tưởng sản phẩm còn lại sau quá trình sàng lọc sẽ được chuyển qua giai đoạn đánh giá thị trường tiềm năng của sản phẩm. Tuỳ theo cấp độ đổi mới của sản phẩm mà số lượng các nghiên cứu thực hiện trong giai đoạn này là nhiều hay ít. Nếu quá trình nghiên cứu chỉ ra rằng sản phẩm có một thị trường tiềm năng dồi dào thì ý tưởng sản phẩm mới tiếp tục được xem xét, đánh giá. *Giai đoạn 3: Thiết kế kỹ thuật Đây là giai đoạn thiết kế các đặc trưng cơ bản của sản phẩm, đưa ra các giả định để tính phí, công thức tính phí, phương pháp và công thức xác định quỹ dự phòng. Tất cả các điều kiện này phải phù hợp quy định của pháp luật hiện hành, đảm bảo chặt chẽ, đầy đủ và phù hợp với tập quán bảo hiểm trên thế giới, đồng thời phải dễ hiểu, phù hợp công chúng. Giai đoạn này đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bộ phận trong doanh nghiệp. *Giai đoạn 4: Xin cấp giấy phép Khi hình thành sản phẩm daonh nghiệp phải đệ trình sản phẩm nên Bộ tài chính thông qua. Cơ quan này thường yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các thông tin về sản phẩm như: tên gọi, nhãn hiệu, đăc trưng, biểu phí, hình thức triển khai để họ có thể kiểm soát được sản phẩm, thị trường. Sau khi đệ trình, sản phẩm sẽ được bổ sung và được chấp thuận tung ra thị trường. Song song với việc đệ trình sản phẩm, doanh nghiệp thực hiện yêu cầu của công tác phân phối sản phẩm gồm: việc đào tạo nhân sự và cung cấp các phương tiện giao tiếp khuếch trương sản phẩm cho toàn bộ hệ thống phân phối. *Giai đoạn5: Bán thử nghiệm sản phẩm Doanh nghiệp bảo hiểm đưa sản phẩm ra thị trường, trong giai đoạn này doanh nghiệp sẽ thực hiện việc quảng cáo và các biện pháp xúc tiến bán trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội nghị khách để giới thiệu sản phẩm mới với khách hàng, môi giới và các kênh phân phối khác *Giai đoạn 6: Theo dõi, đánh giá và hoàn thiện sản phẩm Khi sản phẩm được đưa ra thị trường, doanh nghiệp cần tiến hành theo dõi một cách thương xuyên nhằm xác định mức độ đáp ứng của sản phẩm trước nhu cầu của thị trường, ảnh hưởng của sản phẩm mới đến các sản phẩm cũ. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tiến hành đánh giá về sản phâm trước khi tung ra bán đại trà 2.1.3 Chu kỳ sống của sản phẩm. Khi đem bán sản phẩm của mình trên thị trường, doanh nghiệp nào cũng mong muốn nó được bán chạy và tồn tại lâu dài, số lượng bán luôn đạt ở mức cao. Nhưng đó chỉ là kỳ vọng bởi hoàn cảnh môi trường và thị trường luôn biến đổi, do đó sự thích ứng của sản phẩm với nhu cầu thị trường cũng biến đổi theo. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và doanh số tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm bảo hiểm cũng như các sản phẩm khác cũng có vòng đời hay một chu kỳ sống nhất định. Chu kỳ sống của sản phẩm là khoảng thời gian tính từ khi nghiên cứu, tạo ra sản phẩm, đưa ra thị trường đến khi sản phẩm bị loại bỏ. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường quy định bắt buộc, do vậy chu kỳ sống thường là rất dài. Đối với bảo hiểm vật chất và tai nạn người ngồi, để duy trì sự phát triển của sản phẩm doanh nghiệp phải phát triển được lượng khách hàng tiềm năng, giữ chân khách hàng truyền thống để mở rộng thị trường cho doanh nghiệp. Chu kỳ sống của sản phẩm gồm các giai đoạn sau: *Giai đoạn 1 giai đoạn tung sản phẩm ra thị trường (giai đoạn giới thiệu ) Đây là giai đoạn mở đầu của việc đưa sản phẩm ra bán chính thức trên thị trường. Hoạt động marketing của giai đoạn này là tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường tiến đến chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy mức tiêu thụ trong giai đoạn này, thường tăng chậm chạp. Doanh nghiệp thường chịu lỗ hoặc lãi rất ít do mức chi phí bỏ ra rất lớn. *Giai đoạn 2 Giai đoạn phát triển Đây là giai đoạn sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường, có uy tín và năng lực cạnh tranh. Nhiệm vụ marketing trong giai đoạn này là khuếch trương uy tín của sản phẩm để có sách lược mở rộng thị trường. Trong giai đoạn này mức tiêu thụ tăng mạnh, số lượng hợp đồng khai thác nhiều. Trên thị trường xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, lợi nhuận tăng. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường mong muốn kéo dài giai đoạn này. *Giai đoạn 3 Giai đoạn bão hoà Đây là giai đoạn thị trường có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thị trường, số lượng hợp đồng khai thác bắt đầu giảm. Do đó nhiệm vụ của marketing là phải tăng cường các biện pháp như giảm phí, tăng tỷ lệ hoa hồng, có chiến lược quảng cáo phù hợp, giữ chân khách hàng nhằm duy trì và thúc đẩy việc bán bảo hiểm *Giai đoạn 4 Giai đoạn suy thoái Là giai đoạn sản phẩm bảo hiểm bắt đầu lạc hậu so với nhu cầu, việc bán sản phẩm trở lên khó khăn hơn. Nhiệm vụ marketing là khôi phục lòng tin khách hàng, khai thác thị trường mới Nghiên cứu chu kỳ sổng của sản phẩm giúp doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực tiếp thị một cách hiệu quả hơn. Một chiến lược marketing tốt giúp doanh nghiệp kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và cuối cùng làm tăng lợi nhuận mà một sản phẩm đem laị cho doanh nghiệp bảo hiểm trong toàn bộ thời gian tồn tại của nó. 2.1.4.Quyết định về dịch vụ Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có thể sao chép, dễ bắt chước mà không được bảo hộ bản quyền nên việc phân biệt sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm này với doanh nghiệp bảo hiếm khác là chất lượng sản phẩm. Nếu chất lượng sản phẩm công nghiệp được đánh giá qua chất lượng nguyên vật liệu, tính hiện đại của dây truyền công nghệ thì chất lượng của sản phẩm bảo hiểm được đánh giá qua hoạt động dịch vụ đối với từng sản phẩm. Phong cách phục vụ, mức độ nhiệt tình của người bán bảo hiểm có ảnh hưởng lớn đến thái độ của khách hàng với doanh nghiệp bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro, tổ chức giám định kịp thời, chính xác, thoả đáng, nhanh chóng thì hình ảnh doanh nghiệp mới ăn sâu vào tâm thức khách hàng với sự tín nhiệm và tin tưởng tuyệt đối. 2.2.Chiến lược giá Việc xác định mức giá cho sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong marketing hỗn hợp. Bởi vì giá cả sản phẩm bảo hiểm sẽ có tác động đến số lượng hợp đồng khai thác, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp, giá cả cũng có tác động đến thị phần và vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. 2.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng quyết định về giá Trong kinh bảo hiểm thì giá cả sản phẩm bảo hiểm chính là phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định dựa trên cơ sở các yếu tố cấu thành phí. Nó bao gồm hai phần phí thuần và phụ phí. Vấn đề quan trọng khi xác định mức phí là làm sao để có mức phí thấp nhất, điều đó có nghĩa phải nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm. Đối với sản phẩm bảo hiểm các yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm thường gồm: - Xác suất rủi ro được bảo hiểm - Điều kiện bảo hiểm - Thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm - Chi phí bồi thường - Chi phí quản lý, chi phí hỗ trợ sản phẩm mới, chi quảng cáo, chi đề phòng hạn chế tổn thất - Quan hệ cung cầu trên thị trường 2.2.2. Xác định mức giá bán Việc xác định giá cả sản phẩm bảo hiểm là rất phức tạp. Doanh nghiệp bảo hiểm cần hết sức thận trọng trong việc quản lý các biến cố giá cả. Chỉ một sự tăng lên hay giảm đi rất nhỏ của biến cố giá cả so với mức giá của đối thủ cạnh tranh cũng biến động lớn về doanh thu. Bộ phận định phí của doanh nghiệp có nhiệm vụ xác định mức phí đầy đủ gồm các chi phí về bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất, quản lý, hoa hồng. Chức năng chủ yếu của bộ phận marketing trong chiến lược này là thu thập ý kiến của nhiều bộ phận có nhiều liên quan trong doanh nghiệp, phối hợp với bộ phận tiêu thụ và định phí để giải quyết mâu thuẫn giữa phí cạnh tranh cho các thị trường mục tiêu và phí đầy đủ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. 2.2.3. Các kiểu chiến lược giá Chiến lược giá là những chỉ dẫn chung mà doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nhằm đạt các mục tiêu đặt ra. Chiến lược giá giúp doanh nghiệp thích ứng một cách nhanh chóng với những thay đổi của thị trường, khai thác tối đa những cơ hội xuất hiện và phản ứng kịp thời với những thủ đoạn cạnh tranh về giá. Thông thường đối với doanh nghiệp bảo hiểm chiến lược giá thường nhằm vào hai mục tiêu Mục tiêu tăng khối lượng sản phẩm và doanh thu. Để đạt mục tiêu này doanh nghiệp thường sử dụng chiến lược giá thấp (đặt mức phí thấp). Mục tiêu tăng lợi nhuận: đặt mức phí sao cho có thể đạt mức lợi nhuận cao (Hiệu quả kinh doanh cao) Song dù thực hiện như thế nào thì giá cả sản phẩm bảo hiểm phải tuân thủ tính pháp lý của nhà nước về quản lý phí bảo hiểm. Những quy định về quản lý giá phải đảm bảo yêu cầu về tài chính của doanh nghiệp dồng thời phải đảm bảo lợi thế cạnh tranh. Căn cứ vào mục tiêu trên mà tuỳ trường hợp doanh nghiệp có thể có các kiểu chiến lược giá sau: - Chiến lược giá hướng theo chi phí: Chiến lược sử dụng các khoản chi phí làm cơ sở định giá sản phẩm. Nội dung của chiến lược này là đưa ra mức giá trang trải được tất cả các chi phí mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bỏ ra, ngoài ra còn mang lại một khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thông thường chiến lược này chỉ áp dụng khi trên thị trường doanh nghiệp là người dẫn đầu hoặc độc quyền, khi doanh nghiệp có một lượng khách hàng trung thành - Chiến lược giá hướng theo cạnh tranh:Đây là chiến lược dựa trên các mức giá do đối thủ cạnh tranh đưa ra và cho phép doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng việc định giá để xác định vị trí trên thị trường. Tuỳ thuộc vào mục tiêu kinh doanh hay mục tiêu định giá mà doanh nghiệp có thể định giá cho sản phẩm bằng, cao hơn hay thấp hơn mức giá thị trường. Trong chiến lược định giá này nếu doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu định giá là đương đầu với cạnh tranh thì có thể đưa ra bằng mức phí trung bình của các doanh nghiệp cạnh tranh gần nhất với doanh nghiệp cho cùng loại sản phẩm cụ thể. Còn nếu doanh nghiệp có mục tiêu định giá là đánh bại cạnh tranh thì có thể đưa ra mức phí thấp nhất trong số các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các sản phẩm cùng loại. - Chiến lược định giá theo hướng khách hàng:Trong chiến lược này doanh nghiệp bảo hiểm có thể đưa ra các mức giá mà người phân phối hoặc người sở hữu đơn bảo hiểm có thể chấp nhận được. Cụ thể đối với nhà phân phối khi định giá và thiết kế sản phẩm sẽ tập trung vào yếu tố thù lao tức là mức giá được thiết lập sao cho sản phẩm có mức hoa hồng cao hơn các doanh nghiệp khác. 2.3. Chiến lược phân phối Phân phối sản phẩm bảo hiểm là việc đưa đến cho khách hàng những dịch vụ bảo hiểm mà họ có nhu cầu với thể loại, chất lượng, ở địa điểm và thời gian mong muốn. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, việc phân phối sản phẩm được thực hiện xuyên xuốt trong cả quá trình từ việc lựa chọn kênh phân phối, mạng lưới trung gian đến việc đưa sản phẩm vào các kênh và điều hành bảo sản phẩm. Kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và các cá nhân làm việc độc lập và phụ thuộc lẫn nhau tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Bảo hiểm là một ngành dịch vụ vì vậy việc lựa chọn kênh phân phối càng quan trọng nhằm đảm bảo thuận tiện lợi ích tối đa cho người tiêu dùng. Chính vì vậy trong quá trình bán bảo hiểm xe cơ giới cùng với các sản phẩm bảo hiểm khác mà doanh nghiệp đang triển khai, doanh nghiệp bảo hiểm chọn cho mình hai kênh phân phối chính đó là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp: - Kênh phân phối trực tiếp: các doanh nghiệp bảo hiểm bán trực tiếp các sản phẩm bảo hiểm cho người mua bảo hiểm. - Kênh phân phối gián tiếp: Các doanh nghiệp bảo hiểm bán các sản phẩm bảo hiểm thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức trung gian mà doanh nghiệp bảo hiểm thường sử dụng gồm: + Hệ thống đại lý chuyên nghiệp: là các cá nhân được doanh nghiệp uỷ quyền nhằm thực hiện việc chào bán sản phẩm. Các đại lý chuyên nghiệp được công ty đứng ra ký hợp đồng đại lý. Ngoài thu nhập từ hoa hồng đại lý còn được hưởng lương từ doanh nghiệp theo doanh thu của họ + Môi giới là tổ chức trung gian đại diện cho khách hàng tìm kiếm các doanh nghiệp phù hợp để tham gia. Đối tượng khách hàng là những doanh nghiệp lớn số lượng đầu xe nhiều họ thường thông qua hình thức môi giới nhằm đảm bảo lợi ích của mình. + Các mạng lưới phân phối kết hợp là hệ thống phân phối dựa trên các lĩnh vực khác như ngân hàng, bưu điện, cơ quan tài chính … Nhiệm vụ của marketing trong giai đoạn này là xem xét có bao nhiêu nhà phân phối, họ sẽ được bố trí ở đâu, tại những khu vực nào và mức kiểm soát mà doanh nghiệp muốn thực hiện đối với hệ thống phân phối đó. Ngoài ra bộ phận marketing còn có nhiệm vụ nghiên cứu khả năng phát triển thêm các phương pháp khác. Nghiên cứu này cần phải phân tích đánh giá các yếu tố liên quan tới việc hình thành, duy trì và phát triển các hệ thống phân phối khác, cũng như xem xét mâu thuẫn có thể phát sinh giữa các hệ thống phân phối này với hệ thống hiện thời 2.4. Chiến lược xúc tiến hỗn hợp Chiến lược xúc tiến hỗn hợp bao gồm mọi hành động và giải pháp mà doanh nghiệp bảo hiểm đề ra nhằm thực hiện các chiến lược, chiến thuật, khuếch trương với mục đích đẩy mạnh việc bán bảo hiểm và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, các hoạt động này được xem như không thể thiếu đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tăng hiệu quả cho các chính sách marketing. Trên thị trường hiện nay sự đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm ở mức độ khác nhau, lý do là có nhiêu nghiệp vụ mới được triển khai mà khách hàng ít biết tới. Trước tình hình đó, hoạt động của doanh nghiệp là nhằm giới thiệu về doanh nghiệp bảo hiểm, thông báo thay đổi phí, giới thiệu điểm bán, khuyến khích mua sản phẩm. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu bảo hiểm cũng tăng, sự tăng lên không phải với số lượng và chất lượng dịch vụ bảo hiểm cung ứng mà còn việc thoả mãn tâm lý thị hiếu của người mua và khi thúc đẩy hoạt động khuếch trương sẽ làm rõ ý nghĩa và tác dụng của bảo hiểm, thoả mãn tâm lý của người được bảo hiểm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong xúc tiến bán, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến bán bao gồm các hoạt động giải thích và truyền đi các thông tin về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm kích thích tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín của doanh nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường tức là doanh nghiệp khuếch trương về sản phẩm, doanh nghiệp. Đối với từng sản phẩn mà doanh nghiệp có các hình thức khuếch trương khác nhau: + Đối với sản phẩm bảo hiểm bắt buộc: khuếch trương về sản phẩm phải thuyết phục khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp, thông tin phải tập trung vào các ưu thế của sản phẩm đã tung ra thị trường so với đối thủ cạnh tranh về giá cả, kênh phân phối, chất lượng dịch vụ, các dịch vụ kèm theo. + Đối với sản phẩm bảo hiểm tự nguyện: khuếch trương có tác dụng gợi mở nhu cầu của khách hàng sau đó nói đến sự thích đáng của sản phẩm để đáp ứng nhu cầu. Khuếch trương về doanh nghiệp : tên doanh nghiệp, địa điểm, kênh phân phối, phương thức phục vụ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Có bốn phương pháp được sử dụng trong chiến lược xúc tiến hỗn hợp là quảng cáo, bán hàng cá nhân , xúc tiến bán, tuyên trưyền. 2.4.1. Quảng cáo Quảng cáo là những hình thức truyền thông không trực tiếp, phi cá nhân được thực hiện qua các phương tiện truyên tin phải trả tiền và chủ thể quảng cáo phải chịu chi phí Quảng cáo là phương tiện truyền tin khá phổ biến, là phương tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh thông tin với các đối thủ cạnh tranh làm tăng sức thuyết phục với khách hàng, vì nó có thể tiếp cận số lượng lớn khách hàng tiềm năng. Để có thể sử dụng phương pháp quảng cáo trước tiên cần xác định mục tiêu quảng cáo. Thông thường mục tiêu quảng cáo của doanh nghiệp bảo hiểm về xe cơ giới thường hướng vào các vấn đề sau: Giới thiệu sản phẩm hiện có của doanh nghiệp Thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp Nhắc nhở khách hàng về sự hiện diện của doanh nghiệp Sau khi xác định mục tiêu cho quảng cáo doanh nghiệp cần căn cứ vào đó để xác định ngân sách cho quảng cáo và nội dung truyền đạt. Thông thường nội dung quảng cáo gồm: Giới thiệu lợi ích của việc tham gia bảo hiểm Tên gọi các sản phẩm, quy tắc bảo hiểm Những ưu đãi mà khách hàng nhận được khi tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp Giới thiệu cách thức để khách hàng liên hệ như địa chỉ, số điện thoại, số fax Tiếp đó doanh nghiệp cần quyết định lựa chọn phương tiện quảng cáo để có thể truyền đạt nội dung cần quảng cáo, thông thường các phương tiện truyền thông được sử dụng để quảng cáo gồm báo, tạp chí, radio, tivi, pano áp phích, tờ rơi, tờ bướm… 2.4.2. Xúc tiến bán Đây là hoạt động truyền thông trong đó sử dụng nhiều phương tiện tác động trực tiếp tạo lợi ích vật chất bổ xung cho khách hàng. Chúng thu hút sự chú ý và thường xuyên cung cấp thông tin để dẫn khách hàng tới sử dụng sản phẩm. Chúng khuyến khích việc mua sản phẩm nhờ đưa ra các lợi ích phụ thêm do mua hàng hoá của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sử dụng biện pháp xúc tiến bán để có được phản ứng đáp lại của người mua sớm hơn. Chính vì vậy các doanh nghiệp thường căn cứ vào mục tiêu, nội dung của hoạt động xúc tiến để có thể lựa chọn phương tiện xúc tiến bán: - Nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy người tiêu dùng bao gồm phiếu thưởng, quà tặng, hàng mẫu, gói hàng chung - Nhóm công cụ tạo thúc đẩy hoạt động của trung gian trong kênh phân phối bao gồm: tài trợ về tài chính khi mua hàng, tặng lô hàng cho các nhà buôn khi họ mua hàng với khối lượng lớn. - Hội nghị khách hàng, hội chợ triển lãm. - Các cuộc thi và các trò chơi Các hoạt động xúc tiến bán thường đem lại hiệu quả ngay. Nó chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn, nếu sử dụng không đúng sẽ phản tác dụng. 2.4.3. Tuyên truyền Tuyên truyền là việc sử dụng những biện pháp truyền thông đại chúng, truyền tin không mất tiền về hình ảnh doanh nghiệp và các sản phẩm tới khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng nhằm đạt những mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Nội dung của tuyên truyền Tuyên truyển cho sản phẩm Tuyên truyền hợp tác Vận động hành lang Tuyên truyền về xử lý một số vụ việc bất lợi cho doanh nghiệp Để nội dung đạt kết quả cao, doanh nghiệp cần nắm vững các quyết định và ra quyết định kịp thời. những quyết định cơ bản trong tuyên truyền bao gồm Xác định mục tiêu Thiết kế thông điệp và chọn công cụ tuyên truyền, thông điệp trong tuyên truyền thông thường là những câu chuyện hay, bài viết lý thú nói về sản phẩm hay công ty. Công cụ thường là tivi, báo, tạp chí… Thực hiện tuyên truyền Đánh giá tuyên truyền 2.4.4. Bán hàng cá nhân Bán hàng cá nhân bao gồm những mối quan hệ giữa người bán với khách hàng hiện tại và tiềm năng. Tầm quan trọng của bán hàng cá nhân phụ thuộc vào bản chất sản phẩm, như cầu người tiêu dùng. Về cơ bản quá trình bản hàng bao gồm Thăm dò đánh giá tiền tiếp xúc Tiếp xúc Giới thiệu và chứng minh Xử lý những từ chối Kết thúc Theo dõi Đối với hoạt động bảo hiểm xe cơ giới bán hàng cá nhân giữ một vị trí quan trọng, hiện nay việc bán các sản phẩm bảo hiểm một phần rất lớn dựa trên mối quen biết sẵn có, sự giới thiệu của bạn bè người thân về người bán bảo hiểm. Vì vậy hoạt động này không cần mức chi phí nhưng hiệu quả đạt được lại khá tốt. Tóm lại, một chiến lược marketing cạnh tranh sẽ được xác định trên nền tảng cơ sở chúng ta vừa nghiên cứu. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu ai đó nghĩ rằng một doanh nghiệp sẽ thắng lợi trong cạnh tranh khi áp dụng tất cả các lĩnh vực của toàn bộ chiến lược. Bởi vì ngoài việc phải chi ra một khoản chi phí khổng lồ mà hiệu quả lại không cao. Nếu doanh nghiệp đó biết sử dụng một cách linh hoạt các công cụ biết dồn nỗ lực vào các mục tiêu ưu tiên thì sẽ đạt được các mục đích đề ra trong từng giai đoạn. 3. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả của chiến lược marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. Mục tiêu của chiến lược marketing là nhằm giúp doanh nghiệp đạt được kết quả kinh doanh tốt, hiệu quả cao. Chiến lược marketing giúp doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm. Khi triển khai chiến lược marketing một cách hiệu quả là công cụ hữu hiệu nâng cao kết quả kinh doanh. Kết quả kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới của doanh nghiệp thể hiện qua hai chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới khoản thu của doanh nghiệp là phí bảo hiểm. Doanh nghiệp thu được phí nhiều thì doanh thu càng cao. Tuy nhiên do đặc thù của ngành bảo hiểm, doanh thu đạt được cao nhưng chưa chắc lợi nhuận cao vì khi thu được phí bảo hiểm doanh nghiệp chưa xác định được khoản chi (đặc biệt là chi bồi thường) Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa doanh thu phí bảo hiểm và các chi phí bỏ ra. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm , lợi nhuận có được từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính. Chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra là chi bồi thường, chi hoa hồng, chi quản lý, lập quỹ dự phòng. Doanh nghiệp thực hiện tốt chiến lược marketing sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm giảm đáng kể các khoản chi này, nhất là chi bồi thường, chi quản lý. Lợi nhuận BHXCG = Doanh thu BHXCG – Chi phí kinh doanh BHXCG Hiệu quả chiến lược marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới thể hiện qua lợi nhuận mà chiến lược đem lại trên tổng doanh thu hoặc chi phí chi ra cho chiến lược này. Chi phí marketing bao gồm chi hoa hồng, chi quảng cáo, chi hỗ trợ, chi phí phân phối sản phẩm…. Tuy nhiên việc tính toán chỉ tiêu này không phải dễ dàng do chúng ta không thể tách bạch được lợi nhuận từ chiến lược marketing và lợi nhuận chung của toàn Chi Nhánh. Vì vậy đối với chỉ tiêu này ta có thể tính hiệu quả của chiến lược dựa trên cơ sở lợi nhuận bảo hiểm xe cơ giới trên tổng doanh thu hoặc chi phí của nghiệp vụ này. H = trong đó H- hiệu quả kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. L - lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. D- doanh thu kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới. Chương II. Thực trạng triển khai hoạt động Marketing trong kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Chi Nhánh Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên I.Khái quát chung về chi nhánh PJICO Hưng Yên 1.Quá trình hình thành và phát triển Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex (tên giao dịch là PJICO) là một doanh nghiệp Nhà Nước trực thuộc Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam. Công ty gồm 7 cổ đông sáng lập là: Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam Tổng Công ty Thép Việt Nam Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Công ty Tái Bảo Hiếm Quốc Gia Việt Nam Công ty Vật Tư và Thiết Bị Toàn Bộ Công ty Điện Tử Hà Nội Công ty trách nhiệm hữu hạn An Toàn. Trong đó Tổng Công ty Xăng Dầu Việt Nam là cổ đông sáng lập và chi phối hoạt động của Công ty. Được thành lập theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06- TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ tài chính.Giấy phép thành lập số 1873/GP- UB ngày 08/6/1995 của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh số 060256 ngày 18/6/1995 của sở Kế Hoạch - Đầu Tư Thành phố Hà Nội Lĩnh vực kinh doanh: Bảo hiểm phi nhân thọ, nhận và nhượng tái bảo hiểm, hoạt động đầu tư vốn, kinh doanh tài chính, phát triển nhà và các hoạt độn liên quan đến bất động sản Từ 8 cán bộ công nhân viên ban đầu tại trụ sở hà nôi đến nay, Công ty đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ trên 1000 nhân viên, với 48 chi nhánh và một trung tâm cứu hộ hoạt động tại tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Đảm nhận một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Chi Nhánh Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Hưng Yên (Chi Nhánh PJICO Hưng Yên) là một trong chi nhánh trực thuộc PJICO. Chi Nhánh PJICO Hưng Yên được thành lập năm 2003, ban đầu là văn phòng đại diện. Năm 2004 trên cơ sở kết quả hoạt động năm 2003 và yêu cầu phát triển, cho nên văn phòng đại diện được nâng lên Chi Nhánh PJICO Hưng Yên, nhằm đáp ứng một yêu cầu mới. Chi Nhánh Hoạt động như một công ty nhưng phụ thuộc vào PJICO, được phép kinh doanh tất cả sản phẩm bảo hiểm mà PJICO đang triển khai như: Tiến hành kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, nhượng tái bảo hiểm, các hoạt động đầu tư tài chính. Hoạt động kinh doanh của Chi Nhánh PJICO Hưng Yên được PJICO quản lý, giám sát, và phải tuân thủ mọi quy định mà PJICO đưa ra và quy định của thị trường bảo hiểm Hưng Yên. Tuy môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nhưng Hưng Yên là một thị trường tiềm năng mà Chi Nhánh PJICO Hưng Yên cần hướng tới. Trước đó chỉ có Bảo Việt, Bảo Minh tham gia thị trường, Chi Nhánh PJICO Hưng Yên mới tham gia thị trường đã gây được uy tín lớn đến đông đảo khách hàng không những trong tỉnh mà ngay cả các tỉnh phụ cận bởi chất lượng dịch vụ, cán bộ công nhân viên có chuyên môn, nhiệt tình năng nổ sáng tạo. Với phương châm “An toàn và thịnh vượng của quý khách là thành đạt của PJICO”, đến nay Chi Nhánh PJICO Hưng Yên đã đạt được một số kết quả khá tốt, doanh thu năm sau cao hơn năm trước. Khách hàng ngày càng tin tưởng vào Chi Nhánh và tìm đến tham gia. Nhiều công trình trọng điểm của tỉnh được bảo hiểm tại Chi Nhánh, một số nghiệp vụ về bảo hiểm tài sản, cháy nổ, bảo hiểm xe cơ giới Chi Nhánh luôn dẫn đầu thị trường. Nhờ vậy mà Chi Nhánh PJICO Hưng Yên ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên địa bàn tỉnh. 2.Cơ cấu tổ chức Do đặc thù của Chi Nhánh PJICO Hưng Yên là đơn vị khai thác. Cơ cấu tổ chức của Chi Nhánh hết sức đơn giản, gọn nhẹ . Số lượng cán bộ công nhân viên của Chi Nhánh hiện nay là 18 người cả cán bộ ngắn hạn và cán bộ dài hạn, số lượng đại lý chuyên nghiệp là 35 đại lý. Để thuận tiện hơn cho hoạt động kinh doanh của mình Chi Nhánh PJICO Hưng Yên có 3 văn phòng Khu vực, văn phòng Thị xã đặt tại thị xã Hưng Yên, văn phòng Phố Nối là trụ sở Chi Nhánh, văn phòng Như Quỳnh tại Gia Lâm, Hà Nội. Vì vậy với số lượng cán bộ công nhân viên như vậy Chi Nhánh PJICO Hưng Yên vẫn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36687.doc
Tài liệu liên quan