Giải pháp hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam

Mục Lục Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ở Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhằm cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp, cũng như để thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá nền kinh tế, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nhanh chóng đưa đất nước bắt kịp tốc độ phát triển của thế giới thì nhu cầu vốn đầu tư rất lớn. Mặc dù Nhà nước ta đã tích cực tìm mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, chủ trương đa dạng hoá các lo

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại hình cung ứng vốn và tập trung đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nhưng nguồn vốn vẫn khan hiếm và là bài toán làm đau đầu các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, khả năng tích luỹ vốn của các doanh nghiệp rất hạn chế, khả năng tái đầu tư, đổi mới thiết bị cũng rất thấp dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao. Do đó, doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ và cạnh tranh. Mặt khác, doanh nghiệp cũng khó vay được vốn ngân hàng bởi vốn cho sản xuất kinh doanh là vốn trung và dài hạn trong khi ngân hàng chỉ dư thừa vốn ngắn hạn. Hơn nữa, khi cho vay, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn bởi đất đai, tài sản của doanh nghiệp lại do Nhà nước nắm giữ, dây chuyền thiết bị lại lạc hậu, giá trị thanh toán thấp. Chính vì những lý do đó nên số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ngày càng nhiều. Tình trạng nợ nần kéo dài, kể cả nợ ngân sách và nợ chiếm dụng vốn lẫn nhau diễn ra khá phổ biến. Đứng trước thực trạng này, Cho thuê tài chính như một phương thuốc hữu hiệu giải quyết căn bệnh trầm kha thiếu nguồn vốn. Đây là công cụ vừa giảm thiểu rủi ro đối với vốn đầu tư vừa nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đưa nền kinh tế sớm tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới. Hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam tuy còn là một hoạt động cấp tín dụng trung và dài hạn hết sức mới mẻ nhưng có thể thấy nhu cầu của nền kinh tế nước ta đối với hoạt động này là rất lớn. Nhưng qua thời gian thực tế thực hiện cho thấy sự phát triển của hoạt động này trên thị trường Việt Nam còn chậm, chưa tương xứng với vai trò, khả năng và chưa phát huy hết những ưu điểm của nó. Một trong các nguyên nhân chính là hành lang pháp lý của chúng ta còn thiếu, nhiều sơ hở và chưa đồng bộ. Sự không phù hợp của pháp luật trong mối quan hệ với kinh tế nói chung và trong mối quan hệ với hoạt động cho thuê tài chính nói riêng sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động này. Xuất phát từ những lý do nêu trên, qua tìm hiểu thực tế và tiến hành phân tích đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động Cho thuê tài chính, em đã lựa chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện Chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài - Tìm hiểu một cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính. Tìm hiểu tình hình cho thuê tài chính trên thế giới một cách khái quát và cụ thể để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam. - Tìm hiểu và đánh giá thực trạng của hoạt động cho thuê tài chính cũng như chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam để tìm ra những khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ, và dựa trên việc phân tích cơ sở pháp lý của hoạt động cho thuê tài chính rút ra được những khó khăn thuận lợi cho việc thực hiện chế độ cho thuê tài chính. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính theo pháp luật Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận đi vào nghiên cứu cho thuê tài chính và chế độ của nó ở Việt Nam, trong đó tập trung phân tích các quy định của pháp luật hiện hành trực tiếp điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước. Khoá luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... 5. Bố cục của Khoá luận: Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Nội dung của khoá luận được chia làm 3 chương: Chương I: Tổng quan về cho thuê tài chính và chế độ cho thuê tài chính Chương II: Thực trạng chế độ cho thuê tài chính hiện nay ở Việt Nam Chương III: Giải pháp hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam Do cho thuê tài chính là một lĩnh vực còn mới và việc nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính là vấn đề đòi hỏi Chính phủ cùng nhiều cơ quan Bộ ngành tham gia và phối hợp thực hiện , nên mặc dù đã cố gắng bằng tất cả tâm huyết và năng lực hiểu biết của mình để hoàn thành khoá luận một cách tốt đẹp nhất nhưng khoá luận chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý để khoá luận được hoàn thiện hơn. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là Cô giáo Lê Thị Thanh và bà Đoàn Xuân Thanh - phó giám đốc Vietcombank Financial Company cùng các cán bộ Vụ quản lý các công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Nhà nước và công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Chương I: Tổng quan về cho thuê tài chính và chế độ cho thuê tài chính I. Khái quát về cho thuê tài chính 1. Khái niệm Cho thuê tài chính và Chế độ cho thuê tài chính Hoạt động cho thuê tài chính xuất hiện là một tất yếu khách quan do nhu cầu của đời sống xã hội ngày càng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Bởi vậy cho thuê tài sản thông thường không còn khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của bên thuê cũng như bên cho thuê và khái niệm cho thuê tài chính ra đời đánh dấu sự thay đổi căn bản về tính chất của hoạt động cho thuê tài sản thông thường. Cho thuê tài chính là một giao dịch thuê tài sản trong đó, hoặc là bên đi thuê được chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi kết thúc hợp đồng thuê, hoặc bên đi thuê được quyền lựa chọn mua tài sản, hoặc thời hạn thuê tương đối dài so với thời hạn hữu dụng của tài sản, hoặc tổng số tiền thanh toán của một hợp đồng thuê tương đối lớn so với giá trị của tài sản. Khái niệm cho thuê tài chính xuất hiện trên thế giới lần đầu tiên tại Mỹ vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XX và nhanh chóng lan truyền sang các quốc gia khác do những ưu điểm nổi bật của hoạt động này so với nhiều phương thức tài trợ vốn khác trong khi nền kinh tế của hầu hết các quốc gia đều cần thu hút vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Theo Uỷ ban Tiêu chuẩn kế toán quốc tế (International Accounting Standard Committee – IASC) thì bất cứ một giao dịch nào thoả mãn ít nhất 1 trong 4 tiêu chuẩn sau đây đều được gọi là thuê tài chính: 1.Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao chậm nhất là khi kết thúc hợp đồng (ownership transferred by the end of the lease term). 2.Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua (Bargain purchasing option).Quyền mặc cả mua là quyền được lựa chọn mua tài sản thuê với giá thấp hơn giá trị thị trường ở một thời điểm nào đó trong thời hạn hợp đồng hoặc khi chấm dứt hợp đồng. (The option of purchasing the leased asset at less than fair value at some point during or at the end of the lease period). 3.Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn của hoạt động tài sản (lease term for major part of asset’s useful life). 4.Hiện giá (giá trị hiện tại)của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản. (Present value of minimum lease payments greater than or subtantially equal to asset’s value). Tuỳ theo mỗi nước, căn cứ vào tình hình kinh tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật...khác nhau mà các tiêu chuẩn trên được quy định cụ thể hơn. Chẳng hạn như ở Mỹ, tiêu chuẩn 3 và 4 được quy định như sau: 3.Thời hạn thuê bằng 75% hoặc cao hơn so với đời sống hoạt động ước tính của tài sản thuê. (The period of lease is 75% or more of estimated service life of leased asset). 4.Hiện giá các khoản tiền thuê tối thiểu là 90% hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản thuê. (The present value of the minimum lease payment is 90% or more of the faire value of the leased asset). Khái niệm về cho thuê tài chính lần đầu tiên được đề cập ở nước ta trong Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 64/ NĐ- CP ngày 9/10/1995. Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 có hiệu lực từ ngày 1/8/1998, tại khoản 11 điều 20 quy định: “ Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là toỏ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng thuê mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng”. Để cụ thể hoá qui định trên của Luật Các tổ chức tín dụng, Nghị định số 16/2000/NĐ-CP ngày 2/5/2001 về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính được ban hành thay thế Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 9/10/1995, tại khoản 1.2 Điều 1 qui định: “ Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị,phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phưong tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng”. ở mỗi quốc gia khác nhau có hoạt động cho thuê tài chính đều có những quy định khác nhau về hoạt động cho thuê tài chính do thể chế Nhà nước và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung hoạt động cho thuê tài chính mang những đặc điểm cơ bản sau: - Bên cho thuê thường là các công ty chuyên doanh. - Người thuê có quyền lựa chọn tài sản thuê, bên cung ứng tài sản thuê và sử dụng tài sản đó trong thời hạn thuê theo những mục đích hợp pháp của mình. - Thời hạn cho thuê trong hợp đồng cho thuê tài chính là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản cho thuê (từ 60- 70%). - Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không được huỷ ngang. - Tổng số tiền thuê tài sản thường lớn hơn hoặc bằng giá trị của tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng. - Bên cho thuê sở hữu tài sản trong suốt quá trình thuê. - Phần lớn chi phí vận hành, bảo hiểm tài sản được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Chế độ cho thuê tài chính được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực cho thuê tài chính. Nội dung chủ yếu của chế độ này gồm các quy định về việc tổ chức, thành lập và hoạt của các công ty cho thuê tài chính, về hợp đồng cho thuê tài chính, về bên thuê, về tài sản cho thuê, về việc quản lý nhà nước đối với hoạt động này... Chỉ mới sơ qua về cho thuê tài chính nhưng ta đã có thể thấy cho thuê tài chính có những ưu điểm hơn hẳn các hình thức huy động vốn khác và nghiên cứu để hoàn thiện chế độ phát triển thị trường này quả là cần thiết, nhất là đối với Việt Nam chúng ta. 2. Sự khác biệt giữa cho thuê tài chính với hình thức cho thuê vận hành và các hình thức tín dụng khác Việc phân biệt hoạt động cho thuê tài chính với hoạt động cho thuê tài sản thông thường (cho thuê vận hành), với hình thức thuê mua trả góp và với hoạt động vay vốn của các tổ chức tín dụng để mua tài sản và giúp cho việc nhận diện một giao dịch trên thực tế có phải là giao dịch cho thuê tài chính hay không là rất cần thiết, vì nó còn liên quan đến vấn đề xác định luật áp dụng và chế độ điều chỉnh. a) Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành Bảng 1 : Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành Tiêu chí Cho thuê tài chính Cho thuê vận hành Bên cho thuê Công ty cho thuê tài chính Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có đủ năng lực chủ thể và có tài sản cho thuê. Thời hạn thuê Chiếm phần lớn thời gian hữu ích của tài sản Thường rất ngắn so với thời gian hữu ích của tài sản. Quyền huỷ ngang hợp đồng Không được quyền huỷ ngang hợp đồng Được quyền huỷ ngang hợp đồng Tiền thuê tài sản Thường lớn hơn hoặc bằng giá trị của tài sản cho thuê tại thời điểm ký kết hợp đồng Thường nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị của tài sản cho thuê Việc cung ứng tài sản thuê Tài sản thuê do bên thuê đặt mua theo yêu cầu của mình và sử dụng tài sản đó Tài sản thuê thường do bên cho thuê cung cấp Chi phí vận hành, bảo trì, bảo hiểm và rủi ro liên quan đến tài sản Do bên thuê chịu Do bên cho thuê chịu Chuyển quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng Do hai bên thoả thuận và nếu bên thuê mua lại tài sản thì sẽ được ưu tiên mua với giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng Thường không xảy ra Hình thức pháp lý Hợp đồng cho thuê tài chính Hợp đồng thuê tài sản Luật điều chỉnh Pháp luật về cho thuê tài chính Pháp luật dân sự b) Phân biệt cho thuê tài chính và thuê mua trả góp Bảng 2: Phân biệt Cho thuê tài chính và Thuê mua trả góp Tiêu thức Cho thuê tài chính Thuê mua trả góp Bên cho thuê Công ty cho thuê tài chính Nhà cung cấp hoặc Công ty cho thuê tài chính Bên đi thuê Các pháp nhân Các pháp nhân và thể nhân Thời hạn hợp đồng Có thời hạn dài từ 1 đến 20 năm thậm chí dài hơn Có thời hạn trung bình từ 1 đến 5 năm Giá trị còn lại Có thể chuyển giao cho người thuê khi hết hạn hợp đồng Chuyển giao cho người thuê khi hết hạn hợp đồng Quyền sở hữu Quyền sở hữu thuộc về bên cho thuê và có thể được chuyển giao cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng Chuyển giao cho bên thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng c) Phân biệt cho thuê tài chính với vay vốn tổ chức tín dụng để mua tài sản Bảng 3: Phân biệt cho thuê tài chính với vay vốn tổ chức tín dụng Tiêu chí Cho thuê tài chính Vay vốn để mua tài sản Hình thức tài trợ Bằng hiện vật. Không nhất thiết phải có tài sản bảo đảm Bằng tiền và thường phải có tài sản bảo đảm Quyền sở hữu tài sản Tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt quá trình thuê Người vay vốn dùng tiền vay để mua tài sản và là người sở hữu tài sản đó Thời hạn hợp đồng Trung hoặc dài hạn Ngắn, trung, dài hạn Hình thức pháp lý Hợp đồng cho thuê tài chính Hợp đồng tín dụng 3. Các phương thức và hình thức cho thuê tài chính 3.1. Các phương thức cho thuê tài chính Để thực hiện một giao dịch cho thuê tài chính, người ta có thể sử dụng nhiều phương thức khác nhau nhằm đảm bảo sự thuận tiện và mang lại những lợi ích tốt nhất cho cả bên thuê và bên cho thuê. Dưới đây là một số phương thức cho thuê được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước: * Cho thuê liên kết (Syndicate Lease) Theo phương thức này bên cho thuê có thể là hai hay nhiều công ty cùng liên kết với nhau để tài trợ cho một bên thuê (đồng tài trợ). Vì vậy, tài sản thuê trong trường hợp này thường là những tài sản có giá trị lớn. Việc thanh toán tiền thuê cũng như phương thức xử lý tài sản khi kết thúc thời hạn thuê sẽ thực hiện theo sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng. * Cho thuê bắc cầu (Leveraged Lease) Trong thực tế, công ty cho thuê tài chính thường có nhiều khách hàng và không phải lúc nào họ cũng đủ nguồn vốn để thực hiện tất cả giao dịch cho thuê. Do đó, khi thực hiện giao dịch cho thuê, công ty cho thuê tài chính có thể đi vay từ bên thứ ba (thường là các ngân hàng hoặc định chế tài chính khác) để mua tài sản cho thuê. Nhằm đảm bảo sự an toàn của giao dịch, pháp luật các nước thường giới hạn khoản tiền vay so với giá trị tài sản. Vai trò của các bên trong giao dịch này thể hiện như sau: Bên cho vay: Cho vay phần lớn số tiền mua tài sản. Nhận tiền trả nợ (cả gốc và lãi) từ bên cho thuê. Bên cho thuê: Vay phần lớn số tiền tài trợ từ bên cho vay với vật thế chấp chính là tài sản cho thuê hình thành từ vốn vay. Giữ quyền sở hữu tài sản và cho thuê lại tài sản đó. Phải trả nợ vay và được hưởng các khoản chênh lệch giữa tiền cho thuê và tiền trả nợ. Bên thuê: Trả tiền thuê cho bên cho thuê theo yêu cầu của họ và chịu mọi rủi ro có thể xảy ra với tài sản. Sử dụng tài sản. *Cho thuê giáp lưng (Under Lease) Một trong những đặc điểm của cho thuê tài chính là các bên không được huỷ ngang hợp đồng trước thời hạn. Do đó, nếu sau khi ký hợp đồng, bên thuê không còn nhu cầu sử dụng tài sản nữa và thời hạn thuê vẫn chưa hết thì họ sẽ ở trong tình trạng hết sức bất lợi. Để khắc phục tình trạng này, bên thuê có thể tìm một bên thứ hai để cho thuê lại tài sản. Bên thuê thứ hai sẽ trả tiền thuê cho bên thuê thứ nhất đồng thời có mọi quyền lợi, nghĩa vụ khác trong việc sử dụng tài sản thuê. Tuy nhiên, vì hợp đồng ký giữa bên cho thuê và bên thuê thứ nhất vẫn còn hiệu lực nên bên thuê thứ nhất vẫn có nghĩa vụ trả tiền thuê và phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra đối với tài sản. Việc cho thuê lại tài sản chỉ được tiến hành nếu có sự đồng ý đơn giản, nhanh gọn. Đây cũng là một trong những yếu tố làm tăng sức cạnh tranh của cho thuê tài chính với các hình thức cấp tín dụng khác. - Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng hoá việc sử dụng vốn đồng thời mở rộng mối kinh doanh đa phương. Vốn cấp tín dụng sử dụng linh hoạt hơn vì tiền thuê được thu hồi dần về từng kỳ và bên cho thuê có thể sử dụng ngay cho việc tái đầu tư, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn cao. Đây cũng có thể coi là hình thức bán hàng bổ sung nếu bên cho thuê đồng thời là nhà cung cấp. 3.2. Các hình thức cho thuê tài chính ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực, các giao dịch cho thuê tài chính đều có những đặc điểm riêng biệt tạo nên sự phong phú và phức tạp của nghiệp vụ này. Tuy nhiên, nhìn chung chúng tồn tại dưới những hình thức sau: * Thuê tài chính thuần (Finance Leases): là hình thức mà sản phẩm của giao dịch cho thuê gần như là một khoản vay do mức độ cạnh tranh của thị trường thấp. Hợp đồng cho thuê tài chính là những hợp đồng hoàn trả toàn phần và không được huỷ ngang. Tiền thuê được trả đều theo các kỳ. Người đi thuê chịu mọi chi phí vận hành, sửa chữa, bảo hành cho dụng cụ đi thuê. cuối thời hạn thuê, người đi thuê sẽ mua lại tài sản đó. Hình thức này đang thông dụng tại các nước đang phát triển. * Thuê tài chính linh hoạt (Flexible Finance Lease): là hình thức dựa vào sự gia tăng của mức độ cạnh tranh trên thị trường, người cho thuê đưa vào sản phẩm của mình những yếu tố cạnh tranh như quyền chọn mua tài sản theo giá cố định, quyền trả lại tài sản khi kết thúc hợp đồng hoặc quyền gia hạn hợp đồng, các dịch vụ bảo trì sửa chữa....Tiền thuê được phân bổ cho phù hợp với luồng tiền vốn của người đi thuê, đồng thời các công ty cho thuê tài chính cũng bị ràng buộc nhiều hơn. * Thuê vận hành (Operating leases): là hình thức mà từng loại thiết bị cho thuê được cho thuê tài chính chuyên môn hoá. * Thuê tài chính đổi mới (Innovative Leases): là hình thức mà cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa cho thuê tài chính và các hình thức tài trợ khác mà còn diễn ra ngay trong ngành. Do đó dẫn tới các nhà kinh doanh phải nỗ lực hơn trong việc thiết lập sản phẩm độc quyền của mình. Đặc trưng chính của những công cụ mới này là những dịch vụ mang tính khép kín, hoặc có giá cả cạnh tranh do các công ty tận dụng được lợi thế quy mô của mình. Sản phẩm chính của giai đoạn này là : cho thuê trọn gói, cho thuê liên kết, tài trợ dự án và chứng khoán hoá. Ngành công nghiệp cho thuê tài chính của các nước Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản đang vận dụng hình thức này. * Thuê tài chính hoàn thiện (Maturity Leases): là hình thức mà ngành công nghiệp cho thuê tài chính phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, sự khác biệt giữa các hình thức cho thuê là không đáng kể. Dịch vụ cho thuê đã hoàn toàn trở thành hàng hoá, tính linh hoạt của dịch vụ đã vươn tới mức hoàn thiện. Sự bão hoà của thị trường sẽ dẫn tới sự mua lại hay sát nhập các công ty thuê mua thành các tập đoàn lớn. Chưa một nước nào trên thế giới áp dụng được hình thức này. Việc xác định đúng phương thức và hình thức cho thuê tài chính cũng thuận lợi cho việc có một chế độ hợp lý để điều chỉnh, hướng ngành công nghiệp cho thuê tài chính đi theo chiều hướng tích cực. 4. Vai trò của cho thuê tài chính Việc xác định vai trò của cho thuê tài chính giúp chúng ta định hình được tầm quan trọng của nó để có những chính sách biện pháp phù hợp hướng nó phát triển tương xứng với vai trò và ý nghĩa của nó. 4.1.Đối với bên cho thuê - Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản luôn thuộc về bên cho thuê, do đó nếu có bị đe dọa đối với sự an toàn của tài sản thuê như bên thuê vi phạm hợp đồng, bên thuê bị giải thể, phá sản...họ có thể thu hồi tài sản ngay lập tức. - Cho thuê tài chính đảm bảo việc sử dụng đúng đắn số vốn tài trợ. Lý do là phương thức này tài trợ bằng hiện vật nên dễ kiểm tra, kiểm soát vốn cấp tín dụng. - Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định nhanh. Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách nhà tài trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ liên quan đến tài sản. Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu tư cao nên nhìn chung thủ tục tài trợ thường đơn giản, nhanh gọn. Đây cũng là một trong những yếu tố làm tăng sức cạnh tranh của cho thuê tài chính với các hình thức cấp tín dụng khác. - Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng hoá việc sử dụng vốn đồng thời mở rộng mối kinh doanh đa phương. Vốn cấp tín dụng sử dụng linh hoạt hơn vì tiền thuê được thu hồi dần về từng kỳ và bên cho thuê có thể sử dụng ngay cho việc tái đầu tư, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn cao. Đây cũng có thể coi là hình thức bán hàng bổ sung nếu bên cho thuê đồng thời là nhà cung cấp. 4.2. Đối với bên thuê - Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất, sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp có thể tăng lên bất cứ lúc nào, nó đòi hỏi phải có sự tích luỹ. Song khả năng tài chính của doanh nghiệp không phải luôn đáp ứng được nhu cầu đó, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn, nếu đi vay theo các thể thức tín dụng thông thường thì thường không đủ điều kiện về tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thông qua các tổ chức cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn có được máy móc thiết bị phục vụ yêu cầu sản xuất. - Những doanh nghiệp không thoả mãn yêu cầu về điều kiện vay vốn của ngân hàng cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới được thành lập, chưa có uy tín với ngân hàng thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro, nên thường bị các ngân hàng từ chối cho vay. Bởi vì, ngân hàng không trực tiếp quản lý được các khoản tiền cho khách hàng vay, nên khi có rủi ro xảy ra, khách hàng không trả được nợ, thì ngân hàng chỉ có quyền hạn giống như những chủ nợ khác trong khuôn khổ tài sản bảo đảm mà thôi. Trái lại, trong hoạt động cho thuê tài chính, người cho thuê nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê và họ có thể trực tiếp theo dõi, kiểm tra việc sử dụng tài sản cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của bên thuê. Nếu có những nguy cơ rủi ro xảy ra với tài sản cho thuê thì họ có thể thu hồi tài sản đó ngay lập tức. Do vậy, các công ty cho thuê tài chính có thể thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi tài chính, uy tín của họ còn hạn chế. - Cho thuê tài chính giúp cho bên thuê không bị ứ đọng vốn đầu tư vào tài sản cố định. - Cho thuê tài chính là phương thức tài trợ vốn đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tài trợ khác thì thủ tục tài trợ theo phương thức cho thuê tài chính thường đơn giản, nhanh chóng. Hơn nữa, bên thuê có quyền lựa chọn tài sản, nhà cung ứng tài sản từ trước nên có thể rút ngắn được thời gian thẩm định. Trên thực tế, các công ty cho thuê tài chính thường chuyên môn hoá về tài sản cho thuê, nên tài sản cho thuê thường được tổ chức cung ứng theo phương thức khép kín, thiết bị thường được gắn liền với phụ tùng, linh kiện, kỹ năng quản trị, huấn luyện đào tạo, thậm chí cả tư vấn về kỹ thuật công nghệ, thị trường, sản phẩm cho khách hàng, do đó giúp cho bên thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh. - Thông qua cho thuê tài chính, doanh nghiệp có thể tăng được khả năng huy động nguồn vốn từ bên ngoài. 4.3 Đối với nền kinh tế - Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi, khả năng quay vòng vốn nhanh nên có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân và đặc biệt là các định chế tài chính đầu tư vào hoạt động này. Mặt khác, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp các quốc gia thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế thông qua các loại tài sản cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư này không làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia và thời gian sử dụng nguồn vốn này có thể dài hơn các loại hình đầu tư khác. - Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật. Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả với các nền kinh tế phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp...cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Do vậy, đối với các quốc gia chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều vì có thể rút ngắn được tiến trình phát triển, lập tức bắt kịp với sự tiến bộ của nhân loại thông qua hình thức tài trợ này. 5. Rủi ro có thể xảy ra trong giao dịch Cho thuê tài chính Mặc dù mức độ rủi ro của cho thuê tài chính thấp hơn so với các hình thức tài trợ vốn khác,song do đặc điểm của nó là loại tài trợ trung, dài hạn, quy mô của khoản tài trợ khá lớn nên vấn đề tìm hiểu các rủi ro trong hoạt động này xét về mục đích hoàn thiện chế độ điều chỉnh cũng rất cần thiết. 5.1. Rủi ro liên quan đến tài sản - Tài sản cho thuê không đúng yêu cầu kỹ thuật của người thuê Trong trường hợp này người thuê có quyền gửi trả lại tài sản, yêu cầu người cho thuê cung cấp tài sản thay thế hoặc thậm chí huỷ bỏ hợp đồng yêu cầu người cho thuê bồi thường. Rủi ro này thường xảy ra khi các nhân viên chuyên trách của công ty cho thuê tài chính thiếu kiến thức chuyên môn về thiết bị hoặc tài sản được mua từ nhà cung cấp không đáng tin cậy. - Rủi ro giá trị còn lại của tài sản sau khi cho thuê Người cho thuê luôn đứng trước rủi ro về giá trị còn lại của tài sản. Sau thời gian cho thuê tài sản sẽ có thể phải chịu những rủi ro sau: + Tài sản có những ẩn tỳ + Tài sản đã lỗi thời không thể tái chế nâng cấp + Tài sản bị hư hỏng mất phẩm chất + Tài sản bị mất Kết quả là tài sản cho thuê được thu hồi không thể cho thuê tiếp hoặc bán lại. Điều này đặt ra yêu cầu đối với người cho thuê là phải quy định mức phí thuê sao cho hấp dẫn đối với ngưòi đi thuê nhưng cũng có thể bù đắp được rủi ro này. 5.2. Rủi ro về tài chính - Rủi ro về thanh toán Đây là rủi ro xảy ra đối với nguồn tài chính của người cho thuê trong trường hợp người thuê không thanh toán tiền thuê khi đến hạn. Trường hợp này thường xảy ra khi tình hình tài chính của người thuê quá khó khăn, hoặc bị phá sản. Cũng có nhiều trường hợp người thuê không thanh toán do muốn chiếm dụng vốn. Về mặt pháp lý, người cho thuê hoàn toàn có quyền đòi lại tài sản và huỷ ngang hợp đồng. Nhưng trên thực tế, việc đòi lại tài sản rất phức tạp và tốn kém. Hơn nữa, lúc đó người cho thuê phải gánh chịu toàn bộ khoản lỗ do không đòi được các khoản tiền thuê mà người thuê đang nợ. Việc đòi bồi thường mất rất nhiều thời gian nhưng thương không có kết quả. - Tiền thuê thu được không đủ bù đắp vốn gốc Rủi ro này có thể xảy ra do những nguyên nhân sau: + Do sự thay đổi tỷ giá hối đoái theo hướng bất lợi cho người cho thuê (đối với loại thiết bị nhập khẩu hay tài trợ cho thuê quốc tế) + Do tỷ lệ lạm phát tăng nhanh + Do sự biến động lãi suất trên thị trường vốn dẫn tới có sự chênh lệch cao giữa lãi suất huy động vốn va lãi suất tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê. - Rủi ro nguồn vốn Hoạt động cho thuê tài chính là một hoạt động kinh doanh có tỷ lệ nợ trên vốn cao, vì vậy phần lớn tiền cho thuê được dùng để trả nợ. Và rủi ro của việc sử dụng tỷ lệ nợ trên vốn cao thể hiện ở ba mặt: + Thứ nhất, đó là nghĩa vụ phải trả một số tiền lớn đầu tư tài trợ cho tài sản mang cho thuê. Các khoản nợ đến hạn đều phải trả dù cho người cho thuê đã thu được phí cho thuê hay chưa, cho dù thu nhập từ giao dịch có đủ để trả nợ hay không. + Thứ hai, đó là rủi ro lãi suất. Khi nguồn vốn vay của công ty cho thuê tài chính là một nguồn vốn vay không tương xứng với lãi suất trong hợp đồng thuê (thả nổi), thì biến động lãi suất là một rủi ro đáng kể đối với người cho thuê. Nếu như lãi suất đi vay biến động lên cao hơn lãi suất của hợp đồng thuê, thì xem như người cho thuê bị lỗ. + Cuối cùng phải kể đến một rủi ro là hoạt động trong một môi trường tỷ lệ nợ trên vốn cao khiến cho công ty cho thuê tài chính không tìm được nguồn vốn tài trợ. 5.3. Các rủi ro chung trong kinh doanh Trong hoạt động Cho thuê tài chính cũng như các hoạt động kinh doanh khác, đều có các rủi ro chung trong kinh doanh như sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi các sắc thuế, các biến động về kinh tế, chính trị, xã hội, tài chính...Các rủi ro này có thể gây ra nhiều khó khăn thậm chí đẩy công ty cho thuê tài chính đến phá sản. Lấy công nghiệp cho thuê tài chính của Nhật Bản làm ví dụ. Những năm 80, nhu cầu tự động hoá và nhu cầu vốn đầu tư trong nước cùng với việc cải tổ Luật quản lý Ngoại hối nhằm quốc tế hoá hoạt động cho thuê tài chính đã làm cho công nghiệp thuê mua Nhật Bản phát triển mạnh. Tuy n._.hiên, đến cuối năm 1990, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu thời kỳ đi xuống. Nhu cầu thuê tài chính bỗng nhiên mất chỗ đứng. Và năm 1992 lần đầu tiên công nghiệp thuê mua Nhật Bản trải qua thời kỳ tăng trưởng âm là -11,7% so với năm 1991. Bởi vì, hoạt động cho thuê tài chính gắn liền với hiện vật là một ưu điểm, nhưng chính nó lại trở thành một nhược điểm khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, vì trong suy thoái hoạt động Cho thuê tài chính rơi vào điểm “ chết” khó cứu chữa. Hàng loạt máy móc, vật tư thiết bị nằm chết không sinh lợi nhuận; người thuê không trả được tiền thuê vật tư, trong khi đó vật tư thiết bị phải chịu hao mòn vô hình và hữu hình rất lớn; chủ sở hữu không dễ gì bán vật tư, thiết bị đã sử dụng để thu hồi lại vốn tiền tệ. Ví dụ, hiện nay kinh tế đang suy thoái, du lịch vận tải đang lao đao xuống dốc, máy bay, xe chở khách đã sử dụng dù bán rẻ cũng ít người mua. Ngoài ra, hoạt động cho thuê tài chính và hoạt động ngân hàng có mối liên hệ hữu cơ như hình với bóng. những khó khăn bất trắc xảy ra đối với ngân hàng đều có thể xảy ra đối với các công ty cho thuê tài chính và ngược lại. Vụ phá sản của công ty cho thuê tài chính Nhật Bản (Japan Leasing Corporation- JLC) ngày 28/9/1998 để lại món nợ khổng lồ 16,1 tỷ USD phần lớn bắt nguồn từ những khó khăn của các cổ đông chính là ngân hàng thương mại (trong đó có Long Term Credit Bank – một ngân hàng đang trong thời kỳ khủng hoảng nợ). Xác định rủi ro để thấy rằng với những rủi ro mà bên thuê hay bên cho thuê thật sự khó khắc phục thì nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ phù hợp để khắc phục rủi ro. 6. Hợp đồng cho thuê tài chính 6.1. Khái niệm Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng kinh tế được giữa hai bên cho thuê và bên cho thuê về việc cho thuê một hoặc một số máy móc - thiết bị, động sản khác trong một thời gian nhất định (thời hạn cho thuê) và thoả mãn những điều kiện cho thuê tài chính Hợp đồng cho thuê tài chính phải đảm bảo các yêu cầu sau đây : - Được lập thành văn bản - Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý hợp đồng, nơi Công ty đặt trụ sở theo quy định của pháp luật. - Không được huỷ bỏ trước hạn (huỷ ngang) thời hạn thuê đã thoả thuận quy định trong hợp đồng. 6.2. Các điều khoản cơ bản của hợp đồng Một hợp đồng cho thuê tài chính phải bao gồm những nội dung cơ bản sau: Số hợp đồng, ngày tháng năm ký hợp đồng. Tên, địa chỉ đầy đủ của bên cho thuê, bên đi thuê. Tài sản cho thuê: tên, quy cách, số sêri, công dụng và số lượng tài sản cho thuê. Giá mua máy móc thiết bị; Thời gian hữu ích cần thiết của thiết bị (thời gian khấu hao bình quân); Thời hạn khấu hao của thiết bị; Mục đích sử dụng; Thời hạn thuê; Địa điểm lắp đặt thiết bị; Các cam kết thoả thuận của các bên; Tiền thuê phải trả cả gốc lẫn lãi; Bảo hiểm tài sản; Các cam kết chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê; Ngày hiệu lực của hợp đồng. Iii. một số đặc điểm về chế độ cho thuê tài chính trên thế giới và bài học kinh nghiệm với Việt Nam Mặc dù cho thuê tài chính đối với Việt nam còn mới mẻ, nhưng nghiệp vụ này đã phát triển mạnh tại nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển. Do đó, cần nghiên cứu chế độ điều chỉnh ngành công nghiệp cho thuê tài chính trên thế giới để từ đó chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu nhằm khai thác tiềm năng của thị trường cho thuê tài chính Việt Nam. 1. Tình hình hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới Công nghiệp cho thuê tài chính đang phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới. Tuy nhiên mức độ và quy mô phát triển công nghiệp cho thuê tài chính ở từng quốc gia là khác nhau. Cùng nằm trên lục địa châu Mỹ nhưng trình độ phát triển của công nghiệp cho thuê tài chính của khu vực Bắc Mỹ và Nam Mỹ có sự khác biệt khá lớn. Công nghiệp cho thuê tài chính ở Bắc Mỹ phát triển nhất thế giới với giá trị giao dịch chiếm 43% giá trị cho thuê tài chính toàn cầu. Thị trường cho thuê tài chính của Mỹ bước vào giai đoạn cho thuê tài chính hoàn thiện (Maturity). Trong khi đó thị phần của công nghiệp này ở Canada vẫn còn thấp. Tình trạng này phản ánh rất rõ chính sách thuế thu nhập chặt chẽ đã không khuyến khích người cho thuê và người thuê tiến tới giao dịch. Tuy nhiên việc thực thi Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) đã tạo cú huých mạnh cho các giao dịch qua biên giới. Kết quả là, Mêxico đã có được bước phát triển mạnh mẽ trong ngành công nghiệp cho thuê tài chính những năm gần đây. Tốc độ phát triển trung bình của ngành này trong vòng 5 năm trở lại đây luôn vượt mức 30%. Mêxico đứng trong hàng 20 nước có công nghiệp cho thuê tài chính phát triển nhất thế giới. Các hàng hoá cho thuê tài chính chủ yếu là : Các phương tiện vận tải (chủ yếu là ô tô) và các thiết bị thương mại và công nghiệp. Công nghiệp cho thuê tài chính ở Nam Mỹ tốc độ phát triển mạnh mẽ vào thập kỷ 90 (thế kỷ 20). Brazin đã vươn lên đứng vào hàng 10 nước có khối lượng giao dịch cho thuê tài chính nhiều nhất thế giới. Colombia cũng đã có những bước tăng trưởng ngoạn mục trong ngành này. Còn công nghiệp cho thuê tài chính ở Achentina đang trong giai đoạn củng cố và phục hồi sau khi đã sụp đổ hoàn toàn bởi khủng hoảng kinh tế những năm 80 đầu thập kỷ 90. Châu Âu là một trong 3 thị trường có khối lượng giao dịch cho thuê tài chính lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 25% giá trị hoạt động cho thuê tài chính trên toàn thế giới. Đức, Anh, Pháp, Italia được xếp vào hàng những nước công nghiệp cho thuê tài chính phát triển nhất thế giới. Những số liệu thống kê gần đây cho thấy cho thuê tài chính là nguồn cung cấp thiết bị lớn thứ 2 sau các khoản tín dụng trực tiếp. Một phân tích của Leaseurope chỉ ra rằng đối tượng chính của hợp đồng cho thuê thường là phương tiện vận tải (chủ yếu là ô tô) 35%; thiết bị công nghiệp (29%); máy tính và thiết bị văn phòng (24%), các loại hàng hoá khác (tàu thuỷ, máy bay, thiết bị đường sắt) 8%. Một số nước Châu Âu đã có luật cho thuê tài chính (Anh, Pháp), còn một số nước thì những quy định về cho thuê tài chính nằm ở luật dân sự (Đức, Italia) và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên đa số các nước công nhận tiêu chuẩn kế toán quốc tế 17 là tiêu chuẩn kế toán cho thuê tài chính quốc tế (IAS 17 – International Accounting Standard). Khối lượng giao dịch cho thuê tài chính ở Châu á chiếm khoảng 25% tổng giá trị giao dịch cho thuê tài chính thế giới. Hiện nay, 18 quốc gia Châu á đã thành lập ngành công nghiệp cho thuê tài chính. Trong đó 14 nước đứng vào hàng thứ 50 quốc gia có công nghiệp cho thuê tài chính phát triển nhất thế giới. Đứng đầu khu vực là Nhật Bản, sau đó là Hàn Quốc... Ngoài ra cũng phải kể đến một loạt các quốc gia Châu á khác đã có những tăng trưởng mạnh mẽ trong ngành công nghiệp này ở thập kỷ 90 là Đài Loan, Singapore, Hồng Kông và đặc biệt là Trung Quốc. Nhu cầu máy máy móc thiết bị công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã khiến nước này trở thành một thị trường cho thuê tài chính hấp dẫn trong thế kỷ 21. Công nghiệp cho thuê tài chính của nước này tuy còn non trẻ nhưng có tiềm năng lớn để phát triển. Nam Phi là nước có khối lượng giao dịch lớn nhất Châu Phi và nằm trong 20 nước có giao dịch cho thuê tài chính lớn nhất thế giới. Maroc và Malauy là hai nước cũng có khối lượng giao dịch cho thuê tài chính đáng kể. Còn ở các nước khác thuộc Châu Phi, hoạt động cho thuê tài chính phát triển chậm chạp và trì trệ, khối lượng giao dịch không đáng kể. Một trong những lý do của sự yếu kém này là sự bất ổn về chính trị dẫn tới khủng hoảng về kinh tế. Ngoài ra, cũng phải kể đến các đạo luật và quy định đã đẩy hoạt động cho thuê tài chính vào chỗ bế tắc và bất lợi. Hình thức cho thuê tài chính chủ yếu ở các nước Châu Phi là tài trợ cho thuê của các tổ chức quốc tế với lãi suất thấp,nhằm tăng khả năng sản xuất của các nước này. Tóm lại, tuy mức độ phát triển ở từng khu vực, quốc gia khác nhau, công nghiệp cho thuê tài chính đã vươn cánh tay của mình ra khắp thế giới, mang lại lợi ích cho quốc gia nào biết tận dụng những ưu thế của nó vào sự phát triển của đất nước mình. 2. Một số đặc điểm về chế độ cho thuê tài chính trên thế giới Các giao dịch cho thuê tài chính trên thế giới thường dựa vào một trong các nguồn luật sau: -Hiệp định thống nhất dân sự về cho thuê tài chính quốc tế(Hiệp hội cho thuê tài chính quốc tế thoả thuận ngày 26/ 5/ 1988, tại Ohawa – Canada). -Tiêu chuẩn cho thuê tài chính của uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế(International Accounting Standard Committee –IASC). - Luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính của quốc gia. Để tìm hiểu các chế độ cho thuê tài chính trên thế giới do đó chúng ta cũng cần dựa vào các nguồn luật này. 2.1.Về tiêu chuẩn Công ty hoạt động Cho thuê tài chính * Tư cách pháp nhân: Luật pháp của hầu hết các quốc gia đều cấm các thể nhân, các doanh nghiệp tư nhân hay công ty phi tài chính tham gia vào hoạt động Cho thuê tài chính. Các chủ thể cho thuê tài chính thường gặp là các ngân hàng thương mại, các hãng sản xuất, các Công ty cho thuê tài chính độc lập và có thể là các công ty bảo hiểm (Pháp). Tuy nhiên ở một số quốc gia có quy chế rộng rãi, coi những doanh nghiệp kinh doanh cho thuê tài chính như một công ty thương mại (Thái Lan) hay coi cho thuê tài chính là một hình thức hỗ trợ bán sản phẩm của các công ty công nghiệp nếu hoạt động này được thực hiện qua các công ty con (dealers) chuyên kinh doanh cho thuê tài chính (Hoa Kỳ). ở các nước đang phát triển, cho thuê tài chính được coi như kênh thu hút vốn và công nghệ, nên các công ty cho thuê tài chính hoạt động như một công ty xuất nhập khẩu để tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nước này thường khuyến khích các công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài (Hàn Quốc, Trung Quốc). * Vốn pháp định : Luật pháp của các quốc gia đều quy định cụ thể về mức tối thiểu của các công ty hoạt động cho thuê tài chính, tuỳ theo trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và công nghiệp cho thuê tài chính nước đó nói riêng. Hàn Quốc quy định vốn điều lệ của công ty ít nhất phải 30 triệu Won và huy động dưới dạng tiền mặt, Mỹ 17 triệu USD, Việt Nam ít nhất 55 tỷ VND đối với công ty 100% vốn trong nước và 5 triệu USD đối với công ty có vốn nước ngoài. * Nguồn vốn hoạt động: Hầu hết các quốc gia đều có những quy định hết sức chặt chẽ về nguồn huy động vốn của các công ty Cho thuê tài chính. Đa số các nước đều cấm các công ty huy động tiền gửi của công chúng để tài trợ. Nguồn vốn hoạt động của các tổ chức này có thể huy động từ các nguồn sau: - Nguồn tín dụng của các tổ chức tài chính, các công ty có thể vay trung hạn, dài hạn từ ngân hàng, các công ty tài chính. - Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn trong và ngoài nước. - Phát hành cổ phiếu, trái phiếu trung và dài hạn nhưng không quá 20 lần số dư vốn riêng. - Nguồn vốn hỗ trợ của các công ty bảo hiểm và các quỹ trợ cấp. Nguồn vốn cấp từ ngân hàng mẹ, nếu các công ty cho thuê tài chính là chi nhánh hay công ty con. Vốn tự có của công ty Cho thuê tài chính. 2.2.Về giao dịch cho thuê tài chính * Giá trị giao dịch: Nhìn chung các quốc gia đều có quy chế nới lỏng hạn mức tín dụng của các công ty Cho thuê tài chính hơn các định chế tài chính khác, do đó giá trị giao dịch có thể rất lớn. Các quốc gia quy định hạn mức tài trợ cho một hợp đồng có thể dao động từ 20%- 200% vốn tự có của bên cho thuê. Với mức quy định như vậy hợp đồng thuê có thể đạt giá trị rất lớn và linh hoạt. Sở dĩ có sự ưu đãi này là do hoạt động của các Công ty Cho thuê tài chính có mức rủi ro về chênh lệch thời hạn tín dụng thấp hơn do không nhận tiền gửi và không có sự biến động lớn về vốn. * Đối tượng giao dịch: Các nước phát triển đều quy định tỷ lệ sử dụng thiết bị sản xuất trong nước để tài trợ cho thuê (Mỹ, Pháp, Nhật Bản). Sở dĩ có quy định này là do chính sách ưu tiên phát triển trong nước. Ngoài ra tại Pháp, người thuê sẽ nhận được sự hỗ trợ đặc biệt nếu thiết bị cho thuê (đối tượng giao dịch) có liên quan đến công nghệ tiết kiệm năng lượng, năng lượng mới, “ khôi phục” dự trữ khoáng sản... Tại các quốc gia đang phát triển, do nhu cầu nhập khẩu công nghệ mới từ các nước phát triển nên thường không quy định tỷ lệ thiết bị sản xuất trong nước, mà còn miễn thuế nhập khẩu cho những thiết bị nhập để tái xuất sản phẩm (Hàn Quốc, Trung Quốc...) * Quyền chọn mua : Các quốc gia quy định rất khác nhau về quyền này. ở Singapore, quyền chọn mua bị cấm hoàn toàn. Bởi vì họ cho rằng nếu không bỏ quyền chọn mua thì không còn cơ sở để phân biệt giữa cho thuê tài chính và cho thuê trả góp. Trong khi đó tại Mỹ, Luật thống nhất thương mại quy định người mua có thể mua tài sản thuê, hay tiếp tục thuê và thời điểm kết thúc hợp đồng. Giá mua hay giá trị hợp đồng thuê gia hạn phải theo giá trị hợp lý như giá bán trên thị trường tại thời điểm mua. Nhìn chung Luật của nhiều quốc gia quy định hợp đồng thuê phải dự liệu quyền chọn mua cho người thuê khi kết thúc thời hạn thuê. * Phương thức thanh toán: Các quốc gia đều có những quy định rất linh hoạt trong phương thức thanh toán. Một số quốc gia cho phép điều chỉnh mức phí cho thuê theo mức lạm phát. Hầu hết các nước cho phép sử dụng cả nội tệ và ngoại tệ trong giao dịch cho thuê tài chính. ở Hàn Quốc, các giao dịch tài trợ 100% bằng ngoại tệ chiếm từ 40 – 50%. Công ty cho thuê tài chính phải đổi ngoại tệ ở các ngân hàng được phép đổi ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái được thả nổi nên trong giao dịch cho thuê tài chính có sử dụng các khoản tín dụng ngoại tệ thì phí cho thuê cũng được thả nổi theo tỷ giá hối đoái đã được chuyển sang người thuê. Tuy nhiên, Luật cho thuê tài chính của Nhật Bản quy định nếu việc giao dịch diễn ra giữa các bên trong nước thì thanh toán bằng nội tệ. Nếu một trong hai bên là nước ngoài thì đồng tiền thanh toán do hai bên thoả thuận. Nhìn chung, sự linh hoạt trong phương thức thanh toán cùng với những quy định về phí tài trợ một phần tạo nên động lực thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới. 3. Kinh nghiệm rút ra từ Chế độ cho thuê tài chính ở Hàn Quốc và Đức: 3.1. Kinh nghiệm rút ra từ Chế độ cho thuê tại chính của Hàn Quốc Những kinh nghiệm của Hàn Quốc trong lĩnh vực cho thuê tài chính đã cung cấp những bài học quý giá cho các nước mong muốn đẩy mạnh hoạt động cho thuê tài chính của mình, đặc biệt là đối với Việt Nam do có nhiều nét tương đồng với hoàn cảnh của Hàn Quốc. Ngành công nghiệp cho thuê tài chính của Hàn Quốc phát triển như hiện nay do nhiều nhân tố, nhưng quan trọng hơn cả là do Hàn Quốc đã có một Chế độ cho thuê tài chính đúng đắn và phù hợp. Ngành công nghiệp cho thuê tài chính của Hàn Quốc có thể nói là đã nhận được một sự hỗ trợ rất lớn từ phía chính phủ. Ngay từ đầu, Chính phủ Hàn Quốc đã có chủ trương xây dựng và phát triển công nghiệp cho thuê tài chính thành một lĩnh vực tài chính độc lập và riêng biệt , đồng thời ban hành các đạo luật và các văn bản cụ thể, từng bước hoàn thiện theo những bước tiến của ngành công nghiệp này. Điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính ở Hàn Quốc là Luật kinh doanh cho thuê, Nghị định số 12208 của Tổng thống hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh cho thuê và Quy định của Bộ tài chính số 1882, ngày 18/5/1992 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12208 của Tổng thống. Ngoài ra, một số điều luật của các đạo luật khác như Luật thương mại, Luật thuế công ty, Luật hải quan, Luật ngoại thương...được dẫn chiếu tới trong Luật kinh doanh cho thuê cũng có tác dụng chi phối hoạt động cho thuê taì chính. Ngay trong điều 1 của Luật kinh doanh cho thuê Hàn Quốc, mục đích hỗ trợ đối với hoạt động cho thuê đã được quy định rõ: “Mục đích của đạo luật này là ủng hộ việc đầu tư vào thiết bị của các công ty công nghiệp nhằm giúp đỡ phát triển nền kinh tế quốc dân thông qua việc hỗ trợ cho sự phát triển lành mạnh của công nghiệp cho thuê và bằng cách điều chỉnh hợp lý hoạt động của nó”. Luật của Hàn Quốc không phân biệt đối xử giữa hoạt động cho thuê tài chính và các hình thức tài trợ khác. Vì vậy, các công ty cho thuê tài chính không phải nộp thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, và được hưởng cùng một mức thuế lợi tức với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng,....Điều đó đã giúp tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tài chính, tín dụng vốn có trên thị trường Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Luật cũng đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực cho thuê tài chính. Một trong những biện pháp được đưa ra là khuyến khích về thuế: công ty cho thuê tài chính được miễn thuế lợi tức trong 5 năm hoạt động đầu tiên, ngoài ra, còn được giảm 50% thuế đánh vào cổ tức chia cho các cổ đông nước ngoài. Tác dụng của những biện pháp nói trên đặc biệt có ý nghĩa trong thời gian mới đưa loại hình cho thuê tài chính vào nền kinh tế. Theo các quy định của Luật Hàn Quốc, các doanh nghiệp khi sử dụng hình thức thuê tài chính để tài trợ cho nhu cầu đầu tư máy móc thiết bị được hưởng mọi quyền lợi như khi họ trực tiếp mua sắm thiết bị máy mócbằng nguồn vốn của minhf hoặc nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác. Cách thức đối xử như vậy đã tác động đến quyết định của các doanh nghiệp khi lựa chọn hình thức tài trợ cho nhu cầu mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị của mình. Sử dụng cho thuê tài chính hay hình thức khác thì quyền lợi pháp lý của doanh nghiệp vẫn vậy, trong khi cho thuê tài chính lại có nhiều ưu điểm hơn các hình thức tài trợ thông thường, như: tỷ lệ tài trợ cao, không yêu cầu tài sản thế chấp (luật của Hàn Quốc không cho phép các công ty cho thuê yêu cầu thế chấp, trừ trường hợp tình trạng tài chính của doanh nghiệp đi thuê quá xấu, và ngay cả trong trường hợp đó, mức thế chấp đối với mỗi giao dịch cũng bị khống chế không vượt quá 5% chi phí mua thiết bị cho thuê), ra quyết định nhanh chóng, linh hoạt trong thanh toán tiền thuê,...nên cũng dễ hiểu làm sao cho thuê tài chính lại được ưa thích hơn. Nhìn chung, Luật của Hàn Quốc dành cho các công ty cho thuê tài chính khá nhiều ưu đãi trong việc huy động nguồn vốn hoạt động. Bên cạnh các nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính trung gian trong và ngoài nước, các công ty cho thuê được phép phát hành trái phiếu với giá trị phát hành tối đa lên tới 10 lần giá trị ròng của công ty. (Điều 7.3, Luật kinh doanh cho thuê Hàn Quốc). Trái phiếu do các công ty cho thuê tài chính phát hành có thể không cần đảm bảo. Sự ưu đãi này giúp cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực cho thuê tài chính nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, thời hạn của trái phiếu thường được ấn định “khớp” với thời hạn các hợp đồng cho thuê, do đó giảm được rủi ro về sự không ăn khớp giữa vốn vay với các thời hạn cho thuê. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính của Hàn Quốc còn được tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi vay các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài. Tiền lãi của khoản vay nước ngoài được miễn thuế chuyển tiền ra nước ngoài. Ngoài ra, Luật cũng cho phép các công ty cho thuê tài chính “tiếp cận” với các quỹ khuyến khích đầu tư của Hàn Quốc, như: Quỹ đầu tư quốc gia, Quỹ nội địa hoá máy móc, Quỹ tín dụng ngoại tệ đặc biệt,...Công ty cho thuê tài chính được hưởng sự ưu tiên đặc biệt này khi doanh nghiệp đi thuê thoả mãn các điều kiện để được tài trợ từ các quỹ đó. Chỉ cần xuất trình cho tổ chức quản lý các quỹ trên hợp đồng cho thuê tài chính và các tài liệu chứng nhận người đi thuê thuộc đối tượng được tài trợ, công ty cho thuê tài chính sẽ được sử dụng nguồn vốn từ các quỹ này để tiến hành giao dịch cho thuê. (Điều 7.4, Luật kinh doanh cho thuê và Điều 6.3, Nghị định Tổng thống). Biện pháp này đã giúp các công ty cho thuê tài chính Hàn Quốc tháo gỡ khó khăn trong huy động nguồn vốn hoạt động, ngay cả trong bối cảnh chính phủ Hàn Quốc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát, các công ty cho thuê tài chính Hàn Quốc không chỉ đứng vững mà còn có điều kiện để phát triển hơn nữa. Luật của Hàn Quốc cũng quy định rất linh hoạt về vấn đề thanh toán tiền thuê và cho phép các công ty cho thuê tài chính ấn định đồng tiền thanh toán là đồng ngoại tệ đã sử dụng để nhập khẩu thiết bị cho thuê, nhờ đó, giúp các công ty này giảm bớt rủi ro hối đoái và được chủ động về nguồn vốn ngoại tệ sử dụng trong quá trình kinh doanh. Luật kinh doanh cho thuê của Hàn Quốc còn cho phép các công ty cho thuê tài chính được hưởng miễn trừ từ nhiều luật khác, các thủ tục liên quan đều được quy định đơn giản hoá. 3.2. Kinh nghiệm rút ra từ Chế độ cho thuê tài chính ở Đức: *Đặc điểm của thị trường cho thuê tài chính ở Đức: Đức là một nước có nền công nghiệp cho thuê tài chính phát triển và điển hình. Ngành công nghiệp cho thuê tài chính non trẻ của nước ta có thể học tập được nhiều điều bổ ích từ quốc gia này. ở Đức có hơn 1000 công ty cho thuê tài chính . Trong đó 250 công ty có thị phần lớn chủ yếu được thành lập bằng cách liên doanh. Năm 2001, ngành công nghiệp cho thuê tài chính ở Đức đạt mức tăng trưởng 4,9% , tương đương với 95 tỷ DM. Theo nghiên cứu của viện Munich ( một trong những viện nghiên cứu thị trường đầu não ở Đức ), có thể khái quát tình hình cụ thể hoạt động cho thuê tài chính ở Đức năm 2001 qua hai Bảng sau: Bảng 4 : Khách hàng cho thuê tài chính ở Đức năm 2001 Đối tượng Phần trăm Tỷ DM Các dịch vụ khác 28.1 26.6 Sản xuất 20.9 19.8 Thương mại/ Phân phối 15.7 14.9 Vận tải & Thông tin 12.0 11.3 Người tiêu dùng 10.0 9.5 Năng lượng và nguồn nước, mỏ 3.5 3.3 Chính phủ 3.5 3.3 Ngân hàng, tài chính và bảo hiểm 3.2 3.0 Xây dựng và kiến trúc 3.1 2.9 Tổng 100.0 94.6 Bảng 5 : Tài sản cho thuê ở Đức năm 2001 Tài sản cho thuê tài chính Phần trăm Tỷ DM Xe cộ , trong đó Xe có động cơ: 52.5 50.5 49.7 47.8 Máy tính và thiết bị văn phòng 12.9 12.2 Máy công nghiệp 8.4 7.9 Thiết bị truyền hình 7.8 7.4 Tài sản lưu động 81.6 77.2 Bất động sản 18.4 17.4 Tổng 100.0 94.6 (Nguồn : Viện nghiên cứu kinh tế Munich, Đức) * Kinh nghiệm về chế độ Cho thuê tài chính ở Đức: a. Các quy định về Hạn chế, Điều chỉnh và Giám sát ở Đức không có bất cứ một quy định hạn chế nào điều chỉnh các hoạt động cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính. Các công ty cho thuê tài chính không cầm giữ (Non-captive) không phải là các ngân hàng và vì vậy không chịu bất cứ các quy định ràng buộc nào kể cả các quy định về hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên các công ty thuộc sở hữu các ngân hàng có thể gián tiếp chịu sự quy định về hoạt động của ngân hàng bởi vì các hoạt động của các công ty này thường phối hợp với hoạt động tài chính của các công ty mẹ ( là các ngân hàng) với mục đích chung của cả tập đoàn. Trước đây không lâu đã xuất hiện xu hướng trong đó tất cả các công ty tài chính trực thuộc các ngân hàng lập các báo cáo về các giao dịch tài chính vượt quá ngưỡng 3 triệu DM (quy định về các khoản tín dụng có quy mô lớn). Do theo Luật dân sự quan điểm này về cơ bản là sai. Nhìn chung ở Đức thì cho thuê tài chính không phải là một loại hình tín dụng, và do vậy nó không phải chịu sự giám sát của các ngân hàng . Trong khi đó các nhà lập pháp lại chấp nhận quan điểm này và huỷ bỏ các kế hoạch trước đây. b. Các quy định về Luật dân sự và Luật tài chính của Đức về hoạt động cho thuê tài chính: Theo Luật dân sự của Đức , các hợp đồng cho thuê tài chính về cơ bản được coi là các hợp đồng cho thuê, bởi vì nó điều tiết hình thức mà tài sản cho thuê được vốn hoá cả về mặt thương mại và tài khoản thuế . Khái niệm về sở hữu kinh tế được nêu trong Mục 39 của cuốn Mã số tài chính ( Fiscal Code)ở Đức. Theo quy định này người sở hữu là người mà theo Luật Dân sự , sẽ tách biệt giữa người sở hữu thực tế theo pháp luật với người sử dụng tài sản. Nhìn chung , người cho thuê vừa là người sở hữu về mặt kinh tế vừa là người sở hữu về mặt pháp luật đối với tài sản cho thuê. Có một trường hợp ngoại lệ xảy ra khi người đi thuê có thể không cho phép người cho thuê có bất cứ ảnh hưởng nào đối với tài sản cho thuê tài chính trong một thời gian dài. Trong trường hợp này, sở hữu kinh tế đối với tài sản cho thuê được xem như là thuộc về người đi thuê. Các quy định về cho thuê tài chính ở Đức gồm : Nghị định về cho thuê tài chính thanh toán toàn bộ được ban hành năm 1971 và 1972 và Nghị định về cho thuê tài chính thanh toán từng phần ban hành 1975 và 1991. Trong mọi trường hợp, người sở hữu kinh tế phải chuyển thành vốn tài sản đi thuê vào bảng cân đối tài sản. Khi một hợp đồng cho thuê tài chính không phù hợp với các quy định của nghị định về cho thuê tài chính cũng như không quy định về việc chuyển giao sở hữu kinh tế của tài sản cho thuê cho người đi thuê thì hợp đồng đó được coi là hợp đồng vì mục đích kế toán và được xếp vào loại hợp đồng mua bán tín dụng. Các hợp đồng cho thuê đặc biệt, theo đó chỉ người đi thuê được quyền sử dụng tài sản vì mục đích kinh tế, cũng được xem là hợp đồng mua bán tín dụng. ở Đức, Bảng cân đối tài sản đóng vai trò quyết định cho việc lập bảng cân đối thuế, những đặc điểm về tài chính của hợp đồng cho thuê tài chính không thể tách biệt giữa đặc điểm thương mại và luật pháp của nó. Khi một hợp đồng quy định việc chuyển giao quyền sở hữu kinh tế về tài sản thuê cho người đi thuê, tài sản đó phải được vốn hoá trong bảng cân đối tài sản cũng như thuế của người đi thuê. Việc vốn hoá tài sản mà người đi thuê thực hiện thông thường mang lại cho người đi thuê bớt đi những gánh nặng về tài chính, so với tình hình khi tài sản thuê còn nằm trong tài sản của người cho thuê. Điều này giải thích tại sao các công ty rất ưa thích việc thuê tài sản. Khi tài sản đi thuê được vốn hoá vào tài sản của người đi thuê, thì đối với người cho thuê khoản thu nhập từ tiền thuê sẽ được xem là chi phí khấu trừ vào thuế. Trong trường hợp khi tài sản được vốn hoá vào bảng cân đối tài sản của người đi thuê và khi hợp đồng cho thuê được xem là hợp đồng mua bán tín dụng, thu nhập từ tiền thuê sẽ không còn được xem là chi phí khấu trừ vào thuế và người đi thuê và người đi thuê trở thành đối tượng phải chịu thuế. Số thuế lớn vào những thuận lợi ngoài bảng kế toán mang lại từ việc vốn hoá tài sản của người đi thuê có nghĩa là người cho thuê sẽ tránh sử dụng các hợp đồng có hình thức là hợp đồng mua bán. Chương II: Thực trạng về chế độ cho thuê tài chính hiện nay ở Việt Nam I. sự cần thiết và Tình hình hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam 1. Sự cần thiết phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu đổi mới thiết bị và công nghệ vốn đã cũ nát và lạc hậu của nước ta. Các nguồn vốn hiện tại (vốn ngân sách, vốn tự bổ sung,...) đều thiếu và yếu, chỉ có thể đáp ứng được từ 30% - 40% nhu cầu đầu tư và đổi mới máy móc, thiết bị trong cả nước. Bên cạnh đó, thị trường hàng hoá nước ta đang bước vào thời kỳ cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải năng động đổi mới thiết bị công nghệ để đáp ứng nhu cầu thị trường đòi hỏi chất lượng, mẫu mã ngày càng khắt khe. Trong bối cảnh đó, “vốn” là một bài toán hóc búa làm đau đầu không ít các nhà kinh tế và hoạch định chính sách. Hơn nữa, để vay được vốn từ các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác đòi hỏi doanh nghiệp phải có chữ tín hoặc phải có chứng minh tài chính đảm bảo khả năng trả nợ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín chưa đủ thuyết phục mà ngay cả vốn điều lệ để hoạt động cũng không cao. Vậy làm sao để có vốn kinh doanh, mở rộng sản xuất và phát triển? Cho thuê tài chính với những lợi thế và vai trò của nó đã giúp ta phần nào giải được bài toán hóc búa và trả lời cho câu hỏi trên, trở thành cứu cánh cho những doanh nghiệp thiếu vốn. Có thể nói : Việc triển khai hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp và được coi như một kênh dẫn vốn trung và dài hạn có hiệu quả đối với nền kinh tế. 1.1. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu đổi mới thiết bị và công nghệ của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nước ta Nhà nước đã đặt ra mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 với những định hướng phát triển cụ thể sau: “... Lực lượng sản xuất đạt trình độ tương đối hiện đại, thể hiện chủ yếu ở sự chuyển đổi sâu sắc toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp. Một số chỉ tiêu quan trọng là: - Chuyển đổi cơ cấu GDP, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm khoảng 90% GDP (công nghiệp và xây dựng khoảng 40 – 45%, nông nghiệp 10%..). Khoa học và công nghệ trở thành yếu tố quan trọng nhất để mở rộng nền sản xuất xã hội: + Tốc độ đổi mới công nghệ đạt 15- 20%/năm. Hoàn thành cơ bản cơ giới hoá, hiện đại hoá, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin và công nghệ sinh học trong nền kinh tế xã hội. + Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp 15-16%. + Công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP đến năm 2020 chiếm khoảng 90%, riêng công nghiệp phải chiếm 40-45%, công nghiệp chế tác chiếm 80-85% trong công nghiệp. + Phát triển một cơ cấu công nghiệp tương đối đa dạng, đủ sức trang bị cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế để xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu một số sản phẩm quan trọng sản xuất trong nước có hiệu quả...” (Trích một số ý kiến về định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam đến năm 2020- Bộ kế hoạch và đầu tư- Viện chiến lược phát triển-10/1996) Như vậy Nhà nước ta đã đặt ra những mục tiêu hết sức cụ thể cho công nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên phải nhìn thẳng vào thực tế rằng : Từ năm 1990 trở lại đây, tuy đã có nhiều đổi mới nhưng các doanh nghiệp nước ta vẫn đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong một tình trạng quy mô tài sản cố định nhỏ bé, trình độ công nghệ lạc hậu so với trình độ công nghệ trong khu vực và thế giới. Đa số các doanh nghiệp nước ta thuộc loại vừa và nhỏ. Số doanh nghiệp có quy mô vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 20% tổng số các doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng chiếm 55%, còn lại 25% có quy mô dưới 1 tỷ đồng. Về máy móc thiết bị: Máy móc thiết bị chỉ chiếm tỷ trọng 26% giá trị tài sản cố định; nhà xưởng và các công trình xây dựng khác chiếm 36%. phần còn lại là các tài sản cố định (như xe hơi, xe tải) không trực tiếp sử dụng vào ._. lớn trong tương lai một cách dễ dàng. 4.3. Ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn cụ thể các quy định liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính: Trong thời gian trước mắt các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính nhằm đông bộ hoá các quy định trực tiếp điều chỉnh hoạt động này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về cho thuê tài chính ở Việt Nam. Cụ thể như: - Việc nhập khẩu tài sản cho thuê (Điều 18 NĐ16CP) cần có hướng dẫn của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan. - Việc đăng ký tài sản cho thuê tài chính tại Trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm (Điều 19 NĐ16CP) cần có sự hướng dẫn của Bộ tư pháp. - Việc công chứng và lưu hành bản sao giấy chứng nhận đăng ký phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản (Điều 20NĐ16CP) cần có sự hướng dẫn của Bộ Công an và Bộ Tư pháp. - Nơi đăng ký và đăng kiểm phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản cần có sự hướng dẫn của Bộ Công an và Bộ Giao thông vận tải. - Những vấn đề về thuế (Điều 22 NĐ16CP) cần có hướng dẫn của Tổng cục thuế và tổng cục hải quan. - Những vấn đề khác cần có sự hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước... 4.4. Phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước để thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính a. Ngân hàng Nhà nước phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính: Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính hoạt động đối ngoại và vay vốn trực tiếp nước ngoài, tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của nước ngoài như nguồn vốn ODA, các dự án tài trợ của Chính phủ, ngân hàng, các tổ chức quốc tế như hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, trợ giúp người hồi hương tạo công ăn việc làm... Ngân hàng Nhà nước chủ động tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hoạt động cho thuê tài chính và nghiệp vụ cho vay thông thường của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan nên có chính sách hỗ trợ đối với công ty cho thuê tài chính về các khoản tiền cho vay với lãi suất ưu đãi,về cơ chế quản lý... Mặt khác, do đây là nghiệp vụ mới nên Ngân hàng Nhà nước tiếp tục kêu gọi các tổ chức song phương, đa phương hỗ trợ đào tạo nghiệp vụ cho các công ty cho thuê tài chính. b. Hình thành các liên kết hoạt động: Cần tổ chức hợp tác chặt chẽ giữa các ngân hàng, các doanh nghiệp lớn, các Bộ quản lý ngành có nhu cầu về thuê mua tài chính (như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp...) và các chủ địa phương làm chủ đầu tư. Việc hợp tác này đem lại nhiều ưu điểm quan trọng, tạo tiền đề cho dịch vụ cho thuê tài chính phát triển chắc chắn: Lợi ích của các doanh nghiệp và Bộ quản lý ngành - Đảm bảo có thiết bị hiện đại, hiệu quả để tham gia đấu thầu mà chỉ phải thuê sau khi thắng thầu. - Lên kế hoạch chắc chắn về đầu tư đổi mới công nghệ mà không sợ bị động về vốn vay. - Tránh được thủ tục thế chấp và bảo lãnh phiền phức khi đầu tư vào các thiết bị lớn. Lợi ích của các ngân hàng: - Thực hiện nhanh khâu thẩm định bởi vì một dự án được Bộ quản lý ngành duyệt thường phải qua nhiêù hội đồng, có nhiều chuyên gia giỏi phản biện nên những sai sót về kỹ thuật – kinh tế có thể hạn chế được. - Các dự án nằm trong các kế hoạch đầu tư dài hạn thường có nguồn tài trợ chắc chắn (như nguồn ODA...) và do đó các ngân hàng có thể yên tâm. - Cơ chế thực hiện các dự án qua đấu thầu thường được các ban quản lý dự án kiểm tra kỹ nên việc hỗ trợ thu nợ đơn giản hơn so với cho thuê mua tài chính nằm ngoài dự án. * Do các lợi điểm trên, chúng ta nên áp dụng một hình thức hợp tác theo trình tự như sau: - Các Bộ quản lý ngành, các cơ quan quản lý đầu tư đưa ra các dự án với các điều kiện tài chính kèm theo. - Các ngân hàng tập hợp với các doanh nghiệp thực hiện dự án thành một tập đoàn công nghiệp – tài chính (5-6 công ty xây dựng, 4-5 ngân hàng, 1 công ty tư vấn, 1-2 công ty thương mại, dịch vụ). Tập đoàn này tự lo về thiết bị, vốn liếng để thực hiện dự án, sau đó thu hồi dần. - Trong khuôn khổ của tập đoàn tài chính – côngnghiệp để thực hiện dự án cụ thể đó, tổ hợp 4-5 ngân hàng sẽ hợp tác đồng tài trợ cho doanh nghiệp cả thuê mua thiết bị và vốn lưu động thực hiện dự án. - Trong quá trình thực hiện dự án, Bộ quản lý ngành sẽ chỉ đạo và điều chỉnh tập đoàn tài chính – công nghiệp thông qua đại diện của mình trong tập đoàn. Như vậy, dự án sẽ được đi đúng hướng theo chỉ đạo của trên. Mô hình này có thể áp dụng để: Xây các công trình hạ tầng cơ sở vốn trên 50 triệu USD. Xây các khu công nghiệp, khu đô thị. 4.5. Về chính sách thuế đối với hoạt động cho thuê tài chính: Chính sách thuế là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô rất quan trọng của Nhà nước. Thuế không chỉ đơn thuần tạo ra khoản thu cho ngân sách Nhà nước mà nó còn thể hiện sự ưu đãi cuả Nhà nước đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực nhất định. Thông qua việc đánh thuế, Nhà nước có thể kích thích sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nhất định bằng cách dành cho ngành đó, lĩnh vực đó những mức thuế ưu đãi. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng chính sách thuế của Chính phủ đối với ngành cho thuê tài chính rất quan trọng, có tính chất quyết định tới sự phát triển của hoạt động này, đặc biệt là trong giai đoạn sơ khai ban đầu. Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, NĐ 16CP ra đời cùng với các văn bản đi kèm đã làm cho chế độ thuế đối với các công ty cho thuê tài chính được cởi mở rất nhiều. Hoạt động cho thuê tài chính không còn phải chịu thuế giá trị gia tăng, thuế doanh thu và cũng không còn phải chịu hai lần thuế trước bạ. Tuy nhiên, đối với thiết bị cho thuê tài chính có thuế giá trị gia tăng đầu vào, Bên thuê phải khấu trừ dần trong suốt thời hạn thuê. Điều này như thể họ phải thuê luôn cả thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT), trong khi nếu vay vốn ngân hàng để mua thiết bị họ sẽ được khấu trừ thuế GTGT ngay một lần. Trong khi đó, các công ty cho thuê tài chính khi mua tài sản cho thuê chỉ được xuất hoá đơn và thu thuế GTGT theo từng kỳ trả tiền của Bên thuê. Vì vậy, nên quy định cho công ty tài chính được khấu trừ ngay toàn bộ số thuế GTGT đã nộp cho bên thuê. Xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau: * Sau khi mua tài sản và nhận được hoá đơn thuế GTGT từ phía nhà cung cấp, công ty cho thuê tài chính được sao lại hoá đơn đó đồng thời xác nhận vào bản sao (nếu cần đề nghị cơ quan thuế chứng nhận) và cung cấp bản sao hoá đơn thuế này cho bên thuê. Dựa trên hợp đồng thuê và bản sao thuế đã được xác nhận nói trên, bên thuê sẽ được phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với tài sản đi thuê khi tính thuế GTGT phải nộp. * Để giúp bên thuê được phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với tài sản cho thuê, bên cho thuê được phép phát hành một loại hoá đơn đặc thù dưới sự quản lý của cơ quan thuế. Số liệu hoá đơn dự kiến phát hành sẽ được đăng ký với cơ quan thuế. Trên hoá đơn, ngoài những nội dung theo yêu cầu của cơ quan thuế còn có những nội dung sau: Tên hoá đơn (Khác với tên hoá đơn thuế GTGT thông thường). Tên bên cho thuê Tên bên thuê Giá thiết bị (giá chưa có thuế GTGT) Thuế GTGT mà công ty cho thuê tài chính đã trả cho nhà cung cấp Ghi chú: “Hoá đơn này không dùng để chuyển quyền sở hữu, không dùng để yêu cầu thanh toán mà chỉ dùng để chuyển cho người thuê quyền khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với tài sản thuê” Hoá đơn này sẽ được bên cho thuê phát hành cho bên thuê vào thời điểm mà bên thuê thanh toán khoản tiền thuê đầu tiên. Cùng với hợp đồng thuê, nó tạo thành căn cứ pháp lý đầy đủ để người thuê được phép khấu trừ thuế GTGT đầu vào. * Để bên thuê có thể khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với tài sản thuê, bên thuê phải trực tiếp trả tiền thuế GTGT đó cho nhà cung cấp và sẽ nhận được hoá đơn thuế GTGT đứng tên mình. Nói cách khác, bên cho thuê trả tiền thiết bị, còn bên thuê trả tiền thuế GTGT cho nhà cung cấp. Nhà cung cấp phát hành hai hoá đơn riêng biệt, phần giá cả thiết bị cho bên cho thuê và phần thuế giá trị gia tăng cho bên thuê. 4.6. Về mức lãi suất: Thời gian qua lãi suất cho thuê cũng là một vấn đề làm đau đầu các công ty cho thuê tài chính. Nên chăng, các công ty tập chung vào việc cung cấp các dịch vụ kèm theo tài sản như là một phương pháp cạnh tranh với các ngân hàng thương mại. Do đó, dù cho lãi suất cho thuê cao hơn lãi cho vay trung bình dài hạn 2-3 %/năm thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chấp nhận. Một số giao dịch cho thuê bằng đồng Việt Nam nên dựa trên cơ sở đảm bảo bằng USD để lãi suất tương đương với cho thuê bằng USD mới có thể thực hiện được trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Là một tổ chức tín dụng, các công ty cho thuê tài chính phải chịu sự chi phối chỉ đạo chung của về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng ứ đọng vốn trong các Ngân hàng Thương mại đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng với nhau (các Ngân hàng Thương mại, công ty tài chính trực thuộc các Tổng công ty lớn của Nhà nước, Công ty Cho thuê tài chính..., ngoài ra còn có loại hình đầu tư của các công ty bảo hiểm và đặc biệt là Quỹ Hỗ trợ Đầu tư với mức lãi suất hết sức ưu đãi (khoảng 0,6%/tháng), vô hình chung đã tạo ra một áp lực nhất định đẩy lãi suất cho vay xuống thấp hơn nhiều lãi suất trần. Vì vậy, Nhà nước nên có một quy định chống sự phá giá của lãi suất bởi họ có những thuận lợi riêng. Trong giai đoạn tạo dựng thị trường thuê mua, các ngân hàng cần mạnh dạn tìm các phương thức phù hợp để giảm lãi suất tín dụng và giảm các thủ tục bảo lãnh phiền phức. Ngân hàng nhà nước cũng nên có chính sách hỗ trợ đối với công ty cho thuê tài chính về các khoản tiền cho vay với lãi suất ưu đãi. 4.7. Chính sách trợ giúp phát triển, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường vốn trong nước và vốn ngoài nước. Về chính sách trợ giúp phát triển Thứ nhất, Chính phủ yêu cầu các Bộ, các cơ quan ngang Bộ ban hành các chính sách, các văn bản hướng dẫn xuống các doanh nghiệp về loại hình tín dụng mới mẻ này. Nhằm thực hiện việc tuyên truyền cho các doanh nghiệp trong nước hiểu rõ lợi ích và cách vận dụng cho thuê tài chính nhằm thư được kết quả cao. Có thể nói đây chỉ là một hình thức thông tin rộng rãi của các phương tiện truyền thông, của các chuyên gia trong hoạt động tín dụng, nhưng nó có một vai trò hết sức quan trọng trong việc đẩy mạnh sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam. Tạo điều kiện nâng cao hiểu biết về hoạt động cho thuê tài chính cho các chủ doanh nghiệp. Như vậy, nên chăng chúng ta tổ chức các buổi truyền hình, truyền thanh phổ biến các kiến thức cơ bản về loại hình tín dụng này như đối với việc phổ cập các kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Thứ hai, nhà nước nên nghiên cứu và trực tiếp đưa ra các loại hàng hoá cho giao dịch cho thuê tài chính bao gồm các khoản mục với các quy định cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta đưa ra giải pháp này bởi vì thực tế ở các nước áp dụng thành công loại hình cho thuê tài chính, điển hình như ở Đức, cũng đã phải đưa ra các hàng hoá với các quy định cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của loại hình hoạt động cho thuê tài chính, tránh hiện trạng hỗn loạn trong thị trường còn mới mẻ này. Đồng thời tương ứng với mỗi loại sản phẩm thì Nhà nước có những giúp đỡ về vốn, về kỹ thuật cho các công ty cho thuê tài chính. Thứ ba, mở các cuộc hội thảo khoa học có tầm cỡ quốc tế về cho thuê tài chính nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ và đối tác ở nước ngoài. Đối với nước ta hoạt động cho thuê tài chính hoàn toàn còn mới mẻ trong khi ở các nước phát triển thì hoạt động này đã thực sự trở thành kênh huy động vốn trong nền kinh tế. Vì vậy việc mở các hội thảo quốc tế về lĩnh vực cho thuê tài chính là hoàn toàn có lợi cho chúng ta không những nâng cao trình độ nghiệp vụ mà còn tạo thanh thế, nâng cao uy tín của chúng ta trên thương trường quốc tế. Trên cơ sở đó thu hút đầu tư của các công ty cho thuê tài chính quốc tế và tìm đối tác cho công ty cho thuê tài chính trong nước. Thứ tư, nhà nước cần có những biện pháp phát triển hoạt động của thị trường đồ cũ để tạo điều kiện cho việc buôn bán những tài sản thuộc giao dịch cho thuê hết hợp đồng. Ví dụ như có những quy định cụ thể của hoạt động thị trường đồ cũ, có chính sách thuế trên tài sản cũ một cách hợp lý...Điều đó không những thúc đẩy thị trường cho thuê tài chính mà còn thúc đẩy thị trường hàng hoá cũ phát triển. Tiếp cận thị trường vốn trong nước: Việc thu hút đủ một lượng vốn trung và dài hạn từ thị trường vốn trong nước là một thách thức lớn mà các công ty cho thuê tài chính gặp phải ở những nước đang phát triển. Nhu cầu về vốn trong nước được đặt ra bởi vì rất nhiều người đi thuê không muốn chấp nhận rủi ro về ngoại hối do xuất phát từ việc thuê các tài sản được mua bằng ngoại tệ, đặc biệt là đối với những công ty đi thuê mới thành lập, những công ty đi thuê nhỏ hoặc có mục tiêu bán sản phẩm của mình ở thị trường trong nước. Để giải quyết được vấn đề này, các công ty cho thuê tài chính cần chú ý xem xét các nguồn tài trợ trong nước tiềm năng sau: + Từ các ngân hàng hay các tổ chức tài chính trong nước. + Các khoản tiền gửi có kì hạn của các quỹ tiết kiệm như: Công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu... + Từ các thị trường vốn trong nước, thông qua việc phát hành trái phiếu. + Nhận tiền gủi trực tiếp ( kiến nghị với Chính phủ cho phép). + Các khoản vay nước ngoài mà có thể chuyển sang VNĐ. Trong số các nguồn trên thì nguồn vay từ các ngân hàng trong nước là nguồn quan trọng nhất đối với các công ty cho thuê tài chính. Một trong những cách để giảm bớt rủi ro khi tiếp cận thị trường vốn trong nước là mời một ngân hàng địa phương trở thành một trong những cổ đông chính của công ty và do vậy công ty có thể có một nguồn cung cấp vốn bằng bản tệ một cách dễ dàng. Công cụ này đã được sử dụng một cách khá thành công ở Inđônêsia, Thổ Nhĩ Kì, Cộng hoà Séc, ấn Độ, Gioócđani, Slovenia và Estonia. Tiếp cận thị trường vốn ngoài nước: Đối với một số nền kinh tế trong đó có Việt Nam, khi mà việc thu hút các nguồn tài chính trung dài hạn trong nước trở nên khó khăn thì công ty cho thuê tài chính vẫn có thể tiếp tục phát triển bằng cách thực hiện các khoản cho thuê bằng ngoại tệ đối với những nhà xuất khẩu- những người cần nhập khẩu máy móc thiết bị để mở rộng kinh doanh hàng xuất khẩu. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng Nhà nước và bản thân các công ty cần phải tiếp cận và nhờ sự trợ giúp của các tài chính, tín dụng quốc tế ( như IFC-International Financial Company) để thu hút các khoản vay bằng ngoại tệ. 4.8. Thành lập loại hình bảo hiểm tín dụng Hiện nay ở Việt Nam chưa có dịch vụ bảo hiểm tín dụng nhằm phục vụ cho hoạt động thuê mua tài chính và theo các chuyên gia trong ngành tài chính thì điều này đang cản trở các công ty cho thuê tài chính mới phôi thai hoạt động theo đúng nguyên tắc quốc tế. Bảo hiểm tín dụng là loại hình bảo hiểm dành cho các ngân hàng, các công ty tài chính hay các công ty cho thuê tài chính..., nhằm đảm bảo sẽ bồi thường cho các tổ chức cho vay này trong trường hợp khách hàng của họ gặp ruỉ ro, không có khả năng hoàn lại được số tiền đã vay. Cho đến nay, loại hình bảo hiểm này chưa một lần xuất hiện ở Việt Nam mặc dù trong điều kiện hiện nay, khi các hoạt động tín dụng hoạt động mạnh mẽ, loại hình bảo hiểm này ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng và tính cấp thiết của nó. Cũng chính vì không có bảo hiểm thuê mua tài chính mà các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam buộc phải tự bảo hiểm cho mình bằng cách yêu cầu khách hàng phải thế chấp hoặc được bảo lãnh. Nhưng vấn đề là ở chỗ, theo tiêu chuẩn quốc tế, thuê mua tài chính là một loại hình tín dụng không kèm theo bất cứ điều kiện thế chấp hay tín chấp nào. Vì vậy, có thể nói rằng, để tự hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình, các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam đang hoạt động xa rời với những nguyên tắc cơ bản của nghiệp vụ này. Đồng thời, sự cố gắng của các công ty cho thuê tài chính trong việc hạn chế rủi ro bằng cách yêu cầu khách hàng phải thế chấp hay tín chấp cũng có thể chẳng đem lại lợi ích gì vì chẳng thể nào mà biết được những gì mà khách hàng đem ra thế chấp đã được bảo hiểm hay chưa. Theo các chuyên ra trong ngành bảo hiểm thì nguyên nhân của việc chưa có loại hình bảo hiểm tín dụng ở Việt Nam là các công ty bảo hiểm trong nước còn chưa đủ già dặn để cung cấp nghiệp vụ bảo hiểm khá phức tạp này. Đồng thời, các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng không đủ can đảm để tham gia vào thị trường bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng và công ty tài chính của Việt Nam vì họ không có điều kiện thẩm định khách hàng đi vay một cách kỹ càng. Để khắc phục tình trạng này chúng ta nên thực hiện theo hai hướng sau: - Biện pháp trước mắt: Thành lập một quỹ giúp đỡ các công ty cho thuê tài chính trong trường hợp gặp rủi ro. Đây là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục khó khăn trong khi còn chưa có dịch vụ bảo hiểm tín dụng ở Việt Nam. - Biện pháp lâu dài: Nhanh chóng phát triển hệ thống tài chính, ngân hàng một cách hoàn chỉnh để phục vụ cho hoạt động thẩm định các khách hàng đi vay. Cần phải phát triển, đào tạo đội ngũ các chuyên gia thẩm định có trình độ, có đạo đức, có khả năng tiến hành những đánh giá cẩn thận và kỹ càng đối với tình hình tài chính của người đi vay. Ngoài ra, để phục vụ tốt cho công tác thẩm định cũng cần xây dựng một ngân hàng thông tin và hệ thống thông tin công nghệ, thông tin rủi ro trong hoạt động tài trợ thuê mua tài chính. 4.9. Thiết lập thị trường mua bán thiết bị cũ: Cần thiết lập một thị trường mua bán máy móc thiết bị cũ từ các nguồn sẵn có trong nước để các công ty cho thuê tài chính có thể bán những máy móc thiết bị cũ, hoặc tài sản cho thuê sau khi đáo hạn hợp đồng nhưng vẫn còn giá trị sử dụng (hay đã bị lỗi thời so với công nghệ tiến tiến nhưng còn phù hợp với nhu cầu của một số khách hàng ở những địa phương nào đó) đến đúng với người cần chúng. Trong nhiều trường hợp, khi người đi thuê đã thuê tài sản nhưng đến một thời điểm nào đó trong thời hạn thuê lại không có đủ khả năng thanh toán nốt số tiền thuê còn lại thì người cho thuê sẽ thu tài sản cho thuê về. Nếu không có một thị trường mua bán máy móc thiết bị cũ thì rất có thể công ty cho thuê tài chính không thể thu hồi vốn bởi vì tài sản đó đã quá cũ, không thể tiếp tục cho thuê được nữa. 4.10. Một số kiến nghị, giải pháp khác: * Thực hiện rộng rãi cơ chế đồng tài trợ của các ngân hàng trong triển khai dịch vụ cho thuê tài chính với các lý do: - Đồng tài trợ sẽ tạo ra khả năng tài chính mạnh hơn. Thực hiện quy chế này, ngân hàng có thể tài trợ cho các dự án có quy mô lớn, đem lại lợi ích kinh tế-xã hội cao. - Tránh được các ràng buộc về quy mô tài trợ, hạn chế được rủi ro. - Dễ thực hiện được tái thuê mua với các tổ chức tài chính quốc tế. * Các ngân hàng nên hợp tác chặt chẽ với các công ty tư vấn để thẩm định dự án ngay từ lúc dự án mới hình thành. Các ngân hàng nên tài trợ cho công tác tư vấn để rút ngắn thời gian hình thành dự án, giá cả thiết bị hợp lý và giải pháp tài chính phù hợp với khả năng của cả ngân hàng và doanh nghiệp. * Theo kinh nghiệm của Đức- nước có nền công nghiệp cho thuê tài chính phát triển mạnh mẽ thì nhà nước ta nên khuyến khích thành lập các công ty cho thuê tài chính liên doanh, vì như vậy sẽ làm tăng thêm tiềm lực của các công ty cho thuê tài chính làm cho việc xử lý các dự án cho thuê dễ dàng và có hiệu quả hơn, như vậy cũng có thể tiếp nhận các hợp đồng cho thuê có quy mô lớn hơn. Chúng ta cũng nên ban hành các Nghị định trực tiếp điều chỉnh việc thanh toán tiền thuê. Ngoài ra, nếu có thể, chúng ta có thể vốn hoá tài sản đi thuê vào Bảng cân đối tài sản của người đi thuê và chi phí đi thuê sẽ được khấu trừ vào thuế. Để hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính thì về phía các công ty cho thuê tài chính và các doanh nghiệp đi thuê cũng cần có những giải pháp thích hợp thì mục đích của việc hoàn thiện mới có hiệu qủa. Do cho thuê tài chính là một hoạt động kinh doanh rủi ro bởi vì bản chất đây cũng là một hình thức cấp tín dụng. Muốn đạt được thành công trong lĩnh vực này, công ty cho thuê tài chính cần phải tuân thủ các nguyên tắc cho thuê và thực hiện một số các biện pháp nhằm tự hạn chế mức độ rủi ro như sau: Thiết lập sự cân đối trong hoạt động kinh doanh cho thuê: - Nhà tài trợ cần thiết lập một cơ cấu cân đối giữa nguồn vay và tài trợ, thể hiện trên hai mặt: + Cần đảm bảo sự ăn khớp chính xác giữa thời hạn của các nguồn vốn vay và thời hạn của các hợp đồng tài trợ. + Xây dựng một cơ cấu lãi suất tài trợ phù hợp với lãi suất huy động vốn, để nguồn thu từ phí tài trợ có thể đủ trang trải cho các khoản chi phí, dụe phòng và có lợi nhuận ở mức hợp lý. - Các nhà tài trợ nhỏ cần tránh tập trung vốn của mình vào một khách hàng hay một giao dịch lớn. Điều này sẽ rất nguy hiểm, bởi nếu khách hàng này mất khả năng chi trả thì giao dịch sẽ bị phá vỡ và người cho thuê có thể bị phá sản theo khách hàng. Vì vậy, nếu nhận được những yêu cầu cho thuê ngoài khả năng nguồn tài trợ của mình thì công ty nên giới thiệu những giao dịch đó cho các nhà tài trợ lớn để hưởng hoa hồng. Đánh giá định kỳ mức độ an toàn của các giao dịch: Nhà tài trợ cần tiến hành đánh giá các giao dịch tài trợ theo định kỳ. Những nội dung cần đánh giá là: - Đánh giá độ lớn của hợp đồng tài trợ so với giá trị tài sản có và doanh số hoạt động của khách hàng. - Đánh giá khả năng trả tiền thuê của khách hàng trong từng giai đoạn và sự tồn tại của họ trong thời hạn hợp đồng. - Đánh giá người bảo lãnh ở tại thời điểm đó để xem xem khả năng của họ so với những cam kết mà họ đã đưa ra. Thiết lập sự bảo đảm: - Công ty cho thuê tài chính thành lập quỹ dự phòng bằng cách trích lợi nhuận hàng năm đưa vào quỹ này và nghiêm chỉnh tuân thủ quy chế sử dụng quỹ đã được Nhà nước quy định đối với các định chế tài chính. - Thực hiện các nghiệp vụ tự bảo hiểm bằng cách tạo ra sự bảo hiểm cho các hoạt động kinh doanh từ tổ chức mẹ, hoặc nếu công ty thuê mua tài chính là công ty lớn thì có thể thành lập một chi nhánh chuyên đảm nhiệm việc bảo hiểm cho nó. - Thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm chéo giữa các công ty cùng ngành hay với các nhà cung cấp thiết bị để phân tán rủi ro trong kinh doanh. Nhìn chung, để đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho các hoạt động kinh doanh cho thuê, công ty thuê mua tài chính cần áp dụng các biện pháp tự bảo hiểm một cách nghiêm ngặt. Ngoài ra đối với bản thân các bên cho thuê và bên thuê còn có một số biện pháp sau: * Các công ty cho thuê tài chính cần xây dựng một hệ thống các nhà cung cấp thiết bị (nhất là bán thiết bị trả chậm). Tổ chức mạng lưới đại lý dịch vụ nhằm tăng khả năng tiếp thị và chất lượng phục vụ, giảm phí quản lý tài sản, giảm rủi ro. * Các công ty cho thuê tài chính cần thiết lập quy chế làm việc, quy trình nghiệp vụ phù hợp với bản chất của công tác cho thuê tài chính, để vừa kiểm soát được tài sản cho thuê với tư cách là người sở hữu pháp lý, vừa phục vụ tốt cho bên thuê. Bản thân các công ty cho thuê tài chính cũng phải có những nỗ lực để kiện toàn tổ chức và tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng đội ngũ cán bộ thông thạo về nghiệp vụ cho thuê tài chính, am hiểu về chuyên môn máy móc thiết bị cho thuê. * Các công ty cho thuê tài chính nên thành lập một phòng Marketing để thực hiện công tác Market và các hoạt động quảng cáo giới thiệu để đưa hoạt động mới mẻ này giới thiệu với mọi người và các doanh nghiệp. Vì trên thực tế ở Việt Nam, nhiều người còn chưa biết cho thuê tài chính là gì và sự hiểu biết của bản thân các doanh nghiệp về hoạt động này cũng chưa thật sự thông tường dẫn đến tâm lý ngại tiếp xúc. Nếu thực hiện được tốt công tác này thì chắc chắn sẽ phát triển được hoạt động kinh doanh của công ty và vô hình chung cũng đem lại lợi ích cho toàn ngành. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng nên có biện pháp hỗ trợ kết hợp để tăng cường hoạt động tuyên truyền giới thiệu hoạt động cho thuê tài chính với các doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp cũng nên tự tìm hiểu để tìm ra kênh huy động vốn hiệu quả nhất cho doanh nghiệp của mình. * Trong giao dịch thuê tài chính, doanh nghiệp đi thuê nên chú ý một số vấn đề: Doanh nghiệp nên chú trọng thuê các tài sản tạo giá trị gia tăng cao, có hiệu quả thiết thực đến dự án phát triển của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp đi thuê nên lựa chọn phương thức thuê mua thuần vì mức độ rủi ro thấp, các bên trong giao dịch có trách nhiệm cao. - Doanh nghiệp nên có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức giám định chất lượng để có những thông tin chính xác về tình trạng kỹ thuật, công nghệ của máy móc, thiết bị được cung cấp trong hợp đồng thuê mua tài chính. - Doanh nghiệp cũng nên tuân thủ các quy định của pháp luật về cho thuê tài chính để bảo đảm được quyền lợi pháp lý của mình khi có vấn đề phát sinh trong khi thuê tài sản. * Trong giai đoạn đầu, để hạn chế rủi ro, cả hai bên (bên thuê và bên cho thuê) cần tập trung thực hiện các giao dịch với giá trị nhỏ (vài trăm ngàn USD), tài sản thuê thuộc loại dễ chuyển động (phương tiện vận tải, thiết bị thi công, thiết bị lẻ...), giá cả ít biến động trên thị trường, có giá trị sử dụng không lâu lắm, được sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Kết luận Cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng có rất nhiều ưu thế so với các hình thức cấp tín dụng khác, đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế và các bên tham gia quan hệ cho thuê tài chính. Qua phân tích cho thấy đây là một hoạt động cấp tín dụng rất phù hợp với những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển mạnh mẽ, chưa phát huy hết khả năng, vai trò của nó đối với nền kinh tế ta do nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất phải kể đến là nguyên nhân chế độ cho thuê tài chính chưa thực sự hoàn thiện, hành lang pháp lý còn thiếu đồng bộ, còn nhiều điểm chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế. Để khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính phát triển và đảm bảo việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động này cần thiết phải nhanh chóng hoàn thiện quy chế pháp lý điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế – xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Với đóng góp nhỏ bé của mình qua khoá luận này, em hy vọng sẽ hữu ích phần nào cho ngành công nghiệp cho thuê tài chính đang phát triển hết sức khiêm tốn ở nước ta, cũng mong nhận được ý kiến quý báu từ các thầy cô giáo và những người quan tâm đến lĩnh vực này để luận văn được hoàn thiện hơn nữa. Hà nội, tháng 12 năm 2002 Sinh viên Nguyễn Phương Huyền Tài liệu tham khảo Luật Các tổ chức tín dụng. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 Về tổ chức và hoạt động của công ty Cho thuê tài chính. Thông tư số 08/2001/TT- NHNN ngày 6/9/2001 Hướng dẫn thực hiện Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty Cho thuê tài chính. Nghị định 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của Chính phủ ban hành vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Nghị định số 64 / CP ngày 9/ 10/ 1995 Ban hành Quy chế Tạm thời về Tổ chức và hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính tại Việt Nam. Thông tư của Bộ Tài Chính số 49/1999/TT/BTC ngày 6/5/1999 Hướng dẫn thực hiện luật thuế GTGT đối với hoạt động Cho thuê tài chính. Quyết định của thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam số 222/ QĐ- NH2 ngày 14/7/1997 Về việc bổ sung , sửa đổi một số tài khoản vào hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức Tín dụng. Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 03/ TT- NH2 ngày 14/7/1997 hướng dẫn hạch toán Nghiệp vụ Cho thuê tài chính. Tài liệu “ Các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động Cho thuê tại Việt Nam ( Tài liệu cho Hội thảo về hoạt động cho thuê ngày 27/3/1996, do Công ty cho thuê tài chính thuộc Ngân hàng ngoại thương cung cấp). Mạnh Tiến- Cho thuê tài chính một hướng đi mới (Tạp chí Ngân hàng ngoại thương Việt Nam số 8/1998). Th.s Vũ Quốc Trung – Một số vấn đề trong hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam (Tạp chí Ngân hàng số 3/2000). Trần Quốc Quýnh – Vì sao công ty cho thuê tài chính Nhật Bản (JLC) bị phá sản (Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương số 4/1998). Vũ Hà Cường- “ Thị phần hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn nhỏ” ( Báo TBKTVN, 26/3/2001). Anh Thi- “ Cho thuê tài chính còn xa lạ- Hành lang pháp lý chưa thuận cho hoạt động” (TBKTVN, 19/2/2001). Anh Thi- “Ký kết ba hợp đồng cho thuê tài chính mới” (TBKTVN, 18/4/2001). Đoàn Thanh Hà- “ Cho thuê tài chính- Giải pháp về vốn để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp” (Tạp chí Tài chính số 11(433)-2000, trang 25 ). Vũ Hà Cường- “ Kích thích cho thuê tài chính” (Tạp chí tài chính số 5 (439)-2001, trang 41). Đoàn Thanh Hà- “ Đi tìm lời giải cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí tài chính số 10 ( 444)-2001, trang 38). Th.s Nguyễn Trọng Nghĩa – Phó vụ trưởng các định chế tài chính,NHNN Việt Nam – Vai trò của công nghệ cho thuê đối với công cuộc phát triển kinh tế và khuôn khổ pháp luật đối với hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam – Bài phát biểu tại Hội thảo về “Bảo hiểm hoạt động Ngân hàng và Cho thuê tài chính” do công ty Bảo hiểm Swire và NHNN đồng tổ chức, Hà Nội 5/9/1996. Đoàn Xuân Thanh- phó giám đốc Công ty cho thuê tài chính Việt Nam- Tình hình cho thuê tài chính ở Việt Nam và ở công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương, Đánh giá thực trạng và các kiến nghị về mặt pháp lý.( Tài liệu lưu hành nội bộ công ty, năm 2001). Bộ kế hoạch và đầu tư- Viện chiến lược phát triển- Một số ý kiến về định hướng Công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Việt Nam đến 2020- 10/1996. Hoàng Thị Mai Hạnh, “ Cho thuê tài chính ở Hàn Quốc và giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam”, tài liệu của trường Đại học Ngoại Thương. Shawn D. Halladay, Sudhir P. Amembal – “The Hand-Book of Equipmant Leasing”. Copyright 1995.P.R.E.P Institute of America, Inc.Publisher Press.Utah.Volumn 1&2. Asian Development Bank – LEASING in Developing Asia. Volumn 1&2. Leasing in Emerging Markets ( Excutive Summary by Laurence W.Carter, Teresa Barge, and Irving Kuczynski, order from the World Bank Bookstore, 17/1/2000). German Leasing market – Global situation in 2001 and prospects for 2002 & German leasing market-Customers and leasing assets. ( verband.de/dbview/owa/assdoc.dpreview?pdid=656, 04/07/2002). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa Luan 1.doc
  • docBia huyen.doc
  • docPhu luc A.doc
  • docPhu Luc B.doc
Tài liệu liên quan