mở đầu
Công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong gần hai mươi năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế: ổn định hoá kinh tế và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, luôn luôn có dấu hiệu ổn định. Những thành tựu kinh tế này đã tạo ra cơ sở cải thiện nhiều mặt về xã hội, đem lại lợi ích cho hầu hết các tầng lớp dân cư, đặc biệt là người lao động.
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Ngày nay chế độ chính sách bảo hiểm xã hội không những có ý nghĩa đối với cán bộ công nhân viên làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước, mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình đổi mới toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đất nước đang diễn ra từng ngày. Nền kinh tế đất nước đang phát triển mạnh mẽ theo định hướng đa thành phần kinh tế. Việc thực hiện tốt chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau. Đó là các quyền lợi mà họ cần được hưởng từ Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay do chưa nhận thức hết ý nghĩa của bảo hiểm xã hội, nên không ít các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách né tránh đóng bảo hiểm xã hội. Do vậy, quyền bình đẳng trong việc hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này đã bị chủ sử dụng lao động huỷ bỏ. Chính sự mất bình đẳng này đã làm ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung.
Với nhận thức đó nên em chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là:
“ Giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội”.
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng của bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội.
CHƯƠNG I
Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội
1.1- nhận thức cơ bản về Bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm chung về bảo hiểm xã hội
Cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, 5 hình thái phát triển kinh tế đã lần lượt được thay thế từ hình thức xã hội phát triển thấp - Cộng sản nguyên thuỷ, đến hình thái xã hội cao hơn-Cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn quá độ là Chủ nghĩa xã hội. Nhưng dù tồn tại dưới hình thức nào đi chăng nữa thì nhu cầu đảm bảo cuộc sống con người cũng không thể thiếu được. Đặc biệt trước những rủi ro, những biến cố mà bản thân mỗi người lao động không thể hoặc khó khắc phục như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn, mất người nuôi dưỡng... Vậy chúng ta phải giải quyết, đối phó, khắc phục như thế nào ?
Trong xã hội nguyên thuỷ, tư liệu sản xuất chưa có, mọi người cùng nhau săn bắn, hái lượm, sản phẩm làm ra phân phối bình quân nên khi ai gặp khó khăn, bất lợi trong cuộc sống thì cả cộng đồng chia sẻ gánh chịu. Nhưng điều này vẫn còn hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Nếu trong chế độ chiếm hữu nô lệ, tồn tại các hình thức chiếm hữu nô lệ, tích luỹ, đi xin... để trang trải những rủi ro bất ngờ của con người, thì trong chế độ Phong kiến, quan lại dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn dân cư dựa vào sự dùn bọc lẫn nhau. Với những cách giải quyết trên, người gặp khó khăn, rủi ro hoàn toàn thụ động trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ. Do vậy, sự giúp đỡ mới chỉ là khả năng, có thể hoặc không thể, có thể nhiều hay ít, không hoàn toàn chắc chắn .
Nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất hiện việc thuê mướn nhân công, hình thành quan hệ chủ- thợ. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người lao động có một thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu cần thiết như: ốm đau, tai nạn, tuổi già... Nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra nên giới chủ không phải chi một đồng nào, nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc người chủ phải bỏ ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Trước tình hình phát triển kinh tế- xã hội, giới chủ muốn chi ít hơn nên việc tranh chấp quyền lợi giữa hai bên chủ- thợ trở nên gay gắt. Biện pháp: “Cộng đồng tương trợ” -Những thành viên tham gia đều phải đóng một phần tiền vào quỹ cộng đồng, nếu gặp rủi ro họ sẽ được bù đắp tổn thất từ quỹ đó, nhưng nó vẫn không thể đáp ứng việc điều hoà mâu thuẫn. Lúc này đòi hỏi việc can thiệp của Nhà nước. Nhà nước sẽ đứng ra tổ chức một hệ thống trung gian, nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ bị mất việc làm hoặc làm giảm khả năng lao động. Hệ thống trung gian cũng như những hoạt động và mối quan hệ chặt chẽ của nó được gọi là bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ sự đóng góp của người lao động, sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc tử vong.
Hiện nay ở nước ta có hai loại bảo hiểm xã hội, đó là bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.
* Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Đây là loại hình mang tính cưỡng chế bắt buộc các bên chủ thợ phải thực hiện, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người lao động, người sử dụng lao động nếu đã đủ điều kiện trong các văn bản pháp luật của nhà nước về bảo hiểm xã hội.
Theo pháp luật hiện hành của nước ta, loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên, người lao động trong các đợn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước. Về tỷ lệ góp vốn ở những đơn vị này, người sử dụng lao động phải đóng bằng 15% tổng quỹ lương, người lao động phải đóng bằng 5% lương và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội.
* Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Là loại hình bảo hiểm xã hội mà việc tham gia bảo hiểm hay không tuỳ thuộc vào ý nguyện chủ quan của người lao động, pháp luật không cưỡng chế người lao động phải tham gia.
Theo điều 141 Điều lệ bảo hiểm xã hội thì người lao động làm việc ở những nơi sử dụng dưới 10 lao động hoặc làm những công việc thời hạn dưới 3 tháng, theo mùa vụ, hoặc làm các công việc có tính tạm thời khác, thì các khoản bảo hiểm xã hội được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả để người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về bảo hiểm.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội đối với kinh tế - xã hội
Trong bất cứ hệ thống bảo hiểm xã hội nào thì mục đích của nó cũng mang tính xã hội. Thông qua việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, xã hội ổn định hơn và có điều kiện tốt hơn để phát triển.
Vai trò của bảo hiểm xã hội được thể hiện qua những khía cạch cơ bản sau:
- Về đời sống kinh tế, bảo hiểm xã hội chính là sự phân phối lại thu nhập cho người lao động, nhờ đó, người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước mọi bất trắc rủi ro.
- Về mặt xã hội, bảo hiểm xã hội mang tính cộng đồng rất cao. Nhờ kỹ thuật “ San sẻ rủi ro”, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản trong thu nhập của mình cho quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng xã hội có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xẩy ra đối với người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội và chính sách đảm bảo xã hội nên bảo hiểm xã hội phải góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
- Bảo hiểm xã hội gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động và Nhà nước.
Và như tuyên ngôn ngày 10/12/ 1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi: “ Tất cả mọi người tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó được đặt trên cơ sở thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển con người”, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng chính sách của mỗi quốc gia, đồng thời là quyền lợi của mỗi người lao động.
1.1.3. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
* Nguyên tắc số đông bù số ít của bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội là một trong các cơ chế an toàn xã hội, trước hết là sự trợ giúp cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập tạm thời như: Khi bị ốm đau, tai nạn ... hoặc khi hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường là thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động mất khả năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết.
Mặt khác, tất cả những người tham gia bảo hiểm xã hội cùng một lúc đều có nhu cầu bảo hiểm, vì vậy nguyên tắc trước tiên của bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm hay bị mất khả năng lao động.
* Nguyên tắc tổ chức ba bên:
Nguyên tắc này được thực hiện xuyên suốt trong bảo hiểm xã hội, là sự kết hợp giữa các bên tham gia: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
+ Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội để đảm bảo cho chính mình dựa trên quy luật số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc thể hiện tính cộng đồng rất cao của con người, tức là một người gặp rủi ro sẽ được nhiều người giúp đỡ và chia sẻ.
+ Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn theo quy định của pháp luật. Đây là trách nhiệm mà xã hội đòi hỏi ở chủ lao động. Thông qua bảo hiểm xã hội chủ lao động sẽ tránh được hoặc được giảm bớt được gánh nặng đền bù tập trung trong một thời gian ngắn.
+ Nhà nước tham gia bảo hiểm xã hội với hai tư cách:
Tư cách là nhà nước và tư cách là chủ lao động, Nhà nước ban hành pháp luật và có các hỗ trợ cần thiết nhằm thúc đẩy hoạt động bảo hiểm xã hội để đạt các mục tiêu về xã hội.
* Nguyên tắc đảm bảo tính bắt buộc đồng thời đáp ứng nhu cầu của tham gia bảo hiểm xã hội trong trường hợp tự nguyện.
Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc là để đảm bảo quy luật số lớn và có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động .
* Nguyên tắc hạch toán độc lập quỹ bảo hiểm xã hội với ngân sách Nhà nước.
Thực tế trên thế giới hiện nay quỹ bảo hiểm xã hội đều được hạch toán độc lập. Trước đây, một số nước có chi phí bảo hiểm xã hội nằm trong ngân sách Nhà nước, do đó việc thực hiện chi trả bảo hiểm xã hội nằm trong chi ngân sách nhà nước, do đó việc thực hiện chi trả bảo hiểm xã hội gặp rất nhiều khó khăn về khả năng thanh toán lẫn thủ tục pháp lý.
Tính độc lập của quỹ bảo hiểm xã hội sẽ tạo được sự linh hoạt - trở thành ngân sách bổ sung khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt có thể vay trên cơ sở thoả thuận với cơ quan bảo hiểm xã hội. Chính vì thực hiện nguyên tắc này mà quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước trở nên rất lớn, có nhiều nước gấp 2-3 lần ngân sách Nhà nước.
* Nguyên tắc không phá sản:
Xuất phát từ chức năng: Bảo hiểm xã hội là ổn định xã hội, bảo hiểm xã hội đã góp phần chăm lo đời sống cho hàng triệu lao động nghỉ hưu và người đang làm việc thông qua chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội. Nếu hệ thống này bị phá sản thì sẽ có nghĩa là đời sống lao động của người công nhân viên chức sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và tất yếu xã hội sẽ bị mất ổn định. Do đó, các nước thường dành cho bảo hiểm xã hội một sự ưu tiên, thậm chí đặc quyền, đặc lợi để tạo điều kiện cho hệ thống sản xuất xã hội phát triển. Phá sản là không thể xẩy ra.
1.1.4. Nội dung của bảo hiểm xã hội
Nhận thấy những đặc tính ưu việt mà có thể mang lại nên từ thế kỷ 13 khi nền kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển, mầm mống bảo hiểm xã hội đã xuất hiện ở Nam Âu và nó đã trở thành đạo luật chính thống ở Hoa Kỳ vào năm 1935 và từ đây trở đi bảo hiểm xã hội có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Để có sự thống nhất giữa các quốc gia trên thế giới về bảo hiểm xã hội, năm 1952 tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã ban hành công ước số 102 quy định tối thiểu về bảo hiểm xã hội và được 158 thành viên phê chuẩn. Hệ thống bảo hiểm gồm các chế độ sau:
- Chăm sóc y tế;
- Trợ cấp ốm đau;
- Trợ cấp thất nghiệp;
- Trợ cấp tuổi già;
- Trợ cấp tai nạn lao động;
- Trợ cấp gia đình;
- Trợ cấp thai sản;
- Trợ cấp tàn tật;
- Trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước có thể thực hiện một số chế độ cơ bản hoặc mở rộng. Tuy nhiên, theo ILO quy định, các thành viên phê chuẩn công ước phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ đã nêu, trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ: 3, 4, 5, 8, 9 như đã nêu ở trên. ở Việt Nam sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Sắc lệnh 105/SL ngày 14/ 6/ 1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này đã quy định công chức phải đóng hưu liêm và trong quỹ hưu bổng có sự đóng thêm của nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến pháp 1959. Hội đồng chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/11/1961 bảo hiểm xã hội gồm 6 loại trợ cấp:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp mất sức lao động
- Trợ cấp hưu trí
- Trợ cấp chôn cất và mất người nuôi dưỡng.
Đến Quốc hội 5, khoá IX bằng việc thông qua Bộ luật lao động trong đó có chương 12 về bảo hiểm lao động, thì đối tượng của bảo hiểm lao động được mở rộng không chỉ là công nhân viên chức và quân nhân thuộc biên chế Nhà nước mà là cho tất cả người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế theo hai hình thức tự nguyện và bắt buộc. Điều lệ bảo hiểm xã hội mới kèm theo Nghị định 12/ CP ngày 26/1/1995 của chính phủ. Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng 5 chế độ: Trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp hưu trí và trợ cấp tử tuất.
* Chế độ trợ cấp ốm đau:
Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn rủi ro mà có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ Y tế quy định được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau.
Mức trợ cấp ốm đau, nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau hoặc thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số bằng 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc.
* Chế độ trợ cấp thai sản:
Lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất thứ, thứ hai khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp thai sản.
Mức trợ cấp thai sản trong thời gian nghỉ bằng 100% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ.
* Chế độ trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp:
Người lao động bị tai nạn trong các trường hợp sau đây được hưởng trợ cấp tai nạn lao động:
- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm việc ngoài giờ do yêu cầu của người sử dụng lao động;
- Bị tai nạn nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
-Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc.
Người sử dụng lao động phải chịu trác nhiệm trả các khoản chi phí và tiền lương từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định thương tật cho người bị tai nạn lao động.
Người bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp tuỳ thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động.
Nếu mức độ suy giảm <31% được tự cấp một lần từ 4 - 12 tháng tiền lương tối thiểu.
Nếu >31% được trợ cấp hàng tháng từ 0,4 tháng lương đến 1,6 tháng lương.
* Chế độ hưu trí:
Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc mà có một trong các điều kiện sau đây:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên.
- Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi có thời gian đóng boả hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc độc hại;
+ Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực có hệ số từ 0,7 trở lên:
+ Đủ 10 năm công tác ở miềm Nam, ở Lào trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 hoặc ở Campuchia trước ngày 31 tháng 8 năm 1989.
Mức lương hưu tối đa là 75% lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bình quân của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
* Chế độ tử tuất:
Người lao động đang làm việc, người lao động nghỉ việc chờ giải quyết chế độ hưu trí; người lao động đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng, khi chết thì người lo mai táng, thân nhân được hưởng chế độ tử tuất theo quy định.
Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do người sử dụng lao động đóng góp 15% quỹ tiền lương, người lao động đóng 5%, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước để đảm bảo việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động. Hiện nay, ở nước ta việc quản lý bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội được giao cho cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam - được thành lập theo Nghị định số 19/ CP của Chính phủ trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội thuộc Bộ Lao động Thương binh - xã hội và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Việc thực hiện có hiệu quả đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải luôn linh hoạt trong các hoạt động liên quan đến bảo hiểm xã hội.
1.2. tầm quan trọng của Bảo hiểm xã hội trong các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1. Hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định:" thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo" kinh tế cá thể, tiểu chủ được " Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển" kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển... sản xuất - kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Thực hiện nghị quyết đổi mới của Đảng hơn 10 năm qua các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (cá thể, TNHH, cổ phần vốn đầu tư nước ngoài, Tư bản tư nhân) đã phát triển rộng khắp trong cả nước đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách Nhà nước, cùng với kinh tế quốc doanh, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triểnkinh tế thị trường tạo tiền đề cho thị trường lao động phát triển. Đồng thời mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm đổi mới các yếu tố của nền kinh tế thị trường đang ở giai đoạn phôi thai (hình thành và phát triển) trong đó có sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp tư nhân (Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty tư nhân).
Do đang ở giai đoạn phôi thai cho nên các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém:
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hậu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ.
+ (97,71% số doanh nghiệp dưới 200 lao động, 94,93% vốn dưới 10 tỷ đồng, bình quân vốn thực tế sử dụng của một doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng).
Nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, tiền lương, tiền công. Bảo hộ lao động, giờ làm việc đối với người lao động.
- Không ít doanh nghiệp vi phạm pháp luật, trốn thuế, buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép.
Do sự hạn chế yếu kém trên của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động phổ biến là các doanh nghiệp không ký hợp đồng lao động với người lao động, không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
1.2.2. Tầm quan trọng của BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
* Đối với người lao động:
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Đảng và nhà Nước đối với người lao động. Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội không những có ý nghĩa đối với cán bộ, công nhân viên làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bởi vì ở những doanh nghiệp này, nếu chế độ chính sách bảo hiểm xã hội không được thực hiện thì chủ sử dụng lao động sẽ không bị ràng buộc về trách nhiệm đối với người lao động khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, khi hết tuổi lao động hoặc bị chết, khi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ phải ngừng sản xuất hoặc phá sản, giải thể... Trong những trường hợp trên, nếu các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện thì quyền lợi người lao động theo quy định của pháp luật sẽ được đảm bảo, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ. Trường hợp ngược lại, người lao động sẽ không được hưởng các quyền lợi chính đáng, hết sức quan trọng đó.
* Đối với chủ sử dụng lao động:
Khi người lao động được đảm bảo quyền lợi về bảo hiểm xã hội, họ sẽ yên tâm, phấn khởi hơn trong lao động, sáng tạo ra sản phẩm với năng suất, chất lượng cao hơn, từ đó hạ giá thành sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội không chỉ nhằm đảm bảo quyền bình đẳng về quyền lợi đối với những người lao động mà còn là sự đảm bảo quyền bình đẳng trong hoạt động sản xuất giữa các doanh nghiệp.
* Đối với Nhà nước và xã hội:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình đổi mới toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đất nước đang diễn ra từng ngày. Nền kinh tế đất nước đang phát triển mạnh mẽ theo định hướng đa thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau. Đó là sự công bằng về nghĩa vụ đóng góp cho đất nước, cho xã hội cũng như công bằng về các quyền lợi mà họ cần được hưởng từ Nhà nước, xã hội. Chính sự bình đẳng này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Nói cách khác, đó là sự thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển lên một trình độ mới, cao hơn.
Trong cuộc sống hàng ngày những nội dung nêu trên được thể hiện rất rõ, cụ thể là: Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều phải thực hiện đầy đủ các khoản đóng góp về thuế, về cơ sở hạ tầng; đều phải có nghĩa vụ thực hiện đúng pháp luật kinh doanh... như các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, các doanh nghiệp này cũng phải được hưởng các quyền như đối với các doanh nghiệp nhà nước khác, trong đó có quyền lợi về bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra số người lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đã và sẽ ngày càng tăng vì các lý do chính sau:
+ Cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, nhằm tập trung nội lực xây dựng đất nước, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động. Theo đó, mọi công việc mà pháp luật không cấm, tạo ra thu nhập cho xã hội, cho người lao động, đều được pháp luật công nhận. Chính vì vậy, lực lượng lao động làm việc trong các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh đã và sẽ ngày một tăng lên nhanh chóng.
+ Nhà nước đang tiến hành sắp xếp, củng cố lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng chỉ giữ lại các doanh nghiệp ở các ngành kinh tế then chốt hoặc doanh nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt để củng cố, phát triển, nhằm đảm bảo cho thành phần kinh tế quốc doanh giữ vững được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Số doanh nghiệp còn lại sẽ tiến hành cổ phần hoá thành các công ty cổ phần để hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả. Điều này cũng làm cho số doanh nghiệp và người lao động ngoài quốc doanh ngày càng tăng.
Với những lý do trên, chứng tỏ số lao động làm việc tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đã và sẽ ngày càng tăng, khả năng đóng góp của khu vực này vào quỹ BHXH ngày càng lớn.
Tóm lại, thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động các doanh nghiệp ngoài quốc có tầm quan trọng rất đặc biệt và lâu dài. Đó là một chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là một nhiệm vụ rất cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Chương II
thực trạng quá trình thực hiện Bảo hiểm xã hội
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội
2.1- Sơ lược tình hình kinh tế - xã hội lao động của Thành phố Hà Nội
2.1.1. Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Thành phố Hà Nội có 12 quận, huyện ( trong đó có 7 quận và 5 huyện ), 228 phường, xã ( có 105 phường và 123 xã ) với gần 3 triệu dân,với tốc độ tăng dân số trên dưới 2% năm được tạo thành bởi hai yếu tố: tăng tự nhiên và tăng cơ học. Là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Sản xuất kinh doanh tại Thành phố từ khi thực hiện chính sách đổi mới theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, từ những năm đầu thập niên 90 trở lại đây với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố ngày một khởi sắc, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố Hà Nội có hơn 5000 cơ quan, đơn vị kinh tế từ những tập đoàn, tổng công ty lớn đến những cơ sở kinh tế hộ gia đình, đa dạng trong các hoạt động kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư nhân, xí nghiệp liên doanh, 100% vốn đầu tư của nước ngoài và nhiều khu công nghiệp tập trung đang phát triển với tốc độ đô thị hoá nhanh như: Khu chế xuất Sài Đồng ( Gia Lâm ), khu Nam Thăng Long ( Từ Liêm), khu công nghiệp Đông Anh, Sóc Sơn... Đang hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế chủ yếu nhất của đất nước. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trên địa bàn Thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân và liên tục tăng trưởng với tốc độ cao.
Đến nay, trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã thu hút hơn 1,5 triệu lao động. Trong đó có 700 ngìn lao động phi nông nghiệp, có trên 500 ngìn lao động làm việc trong các ngành kinh tế hưởng tiền lương, tiền công. Số lao động này ngày một tăng nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá đất nước và tốc độ hoá phát triển cao của kinh tế Thành phố.
Đặc biệt là lực lượng lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ( có sử dụng từ 10 lao động trở lên ). Do vậy, quy mô và cơ cấu lao động xã hội thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội ở Thành phố Hà Nội cũng thay đổi hết sức nhanh chóng, từ chỗ chỉ có 16.736 lao động 1995 trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì đến năm 2001 đã là 43.802 lao động .
2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Ngay từ những năm 1986 - 1990 khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Thành phố Hà Nội đã phát triển rất đa dạng. Bên cạnh hàng chục ngàn hợp tác xã, tổ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, mua bán thương nghiệp... đã hình thành trước năm 1986 thì hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ dạng cá thể, hộ kinh tế gia đình đã ra đời theo các nghị định của chính phủ. Tiếp theo đó là giai đoạn 1990 - 1995 là sự phát triển nhanh chóng của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao, bình quân gần 8,5% năm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. (Xem bảng 2.1.)
Bảng 2.1
Số liệu tổng hợp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về một số chỉ tiêu đến năm 2000
Số lượng DN (đơn vị)
Số lao động (người)
GDP (tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng bình quân (1995 - 2000) (%)
Thu nhập bình quân đầu người (đồng)
4025
102245
14.508
8,5
800.000
Nguồn: BHXH TP. Hà Nội năm 2000
Với sự phát triển phong phú, đa dạng và tốc độ phát triển cao như vậy, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện đang thu hút một lực lượng lao động rất lớn. Bản thân nó đã trở thành một thị trường lao động rất sôi động, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển kinh tế, giải quyết việc làm tại thành phố Hà Nội.
Đặc điểm lớn nhất có ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam giai đoạn hiện nay là còn nhỏ lẻ, thiếu sự ổn định vững chắc.
Tuy vậy, trong khoảng 5 -7 năm trở lại đây, trên cơ sở chính sách của Đảng ngày càng rõ ràng, luật pháp kinh doanh ngày một cụ thể, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở thành phố Hà Nội đang ổn định dần và có những bước phát triển vững chắc và lâu dài. Ngày một nhiều chủ doanh nghiệp mạnh dạng mở rộng đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới để sản xuất kinh doanh, mở rộng tiêu thụ trong và ngoài nước một cách hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định dần đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, ngày càng gắn bó với doanh nghiệp.
Từ tháng 1 - 1995 chính sách bảo hiểm xã hội mới chính thức thực hiện cho người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trên phạm vi cả nước, việc thực hiện ngày càng gặp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Riêng ở thành phố Hà Nội, nhờ được tổ chức làm thí điểm từ trước (1990-1994 ) nên trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên so với yêu cầu chung, những kết quả ấy vẫn còn hết sức hạn chế.
2.2- Thực trạng quá trình thực hiện Bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Hà Nội
2.2.1. Đối tượng thực hiện
Căn cứ Điều lệ bảo hiểm xã hội, kể từ tháng 1- 1995 trên phạm vi cả nước, chế độ Bảo hiểm xã hội đã chính thức mở rộng đến tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Dựa trên nguyên tắc có đóng góp có hưởng thụ. Điều lệ mới đã tạo điều kiện cho việc xoá bỏ chế độ bao cấp, dựa vào ngân sách trước đây, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách tự do hoá lao động và sự chuyển dịch giữa các thành phần kinh tế.
Riêng tại thành phố Hà Nội, thời gian làm thí điểm cho lao động ngoài quốc doanh đã chấm dứt để chuyển sang thực hiện chính thức theo Điều lệ bảo hiểm xã hội mới từ tháng 5 - 1995.
Theo quy định mới, đối tượng được thực hiện ở khu vực này chỉ bao gồm người lao động làm việc trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
2.2.2. Hoạt động bảo hiểm xã ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28635.doc