Tài liệu Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập, cùng với những thuận lợi, cơ hội phát triển mới là những khó khăn, thách thức. Đất nước chúng ta – một đất nước còn đang trên đà phát triển thì "cạnh tranh" sẽ là một trong những áp lực lớn nhất trong con đường hội nhập thế giới. Và các ngân hàng thương mại "Hệ thống huyết mạch của nền kinh tế" cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, để tồn tại và phát triển buộc các ngân hàng phải trải qua cuộc "đấu tranh sinh tồn".
Như ta đã bi... Ebook Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết, cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng đồng nghĩa với nó là rủi ro ngày càng tăng. Hơn thế nữa, trong kinh doanh tín dụng nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng, rủi ro là yếu tố khách quan, chỉ có thể đề phòng hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro đến với ngân hàng có thể từ nhiều phía và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nên những tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn khá nhiều bất ổn như hiện nay, khi mọi dự đoán và tính toán chỉ mang tính lý thuyết, dễ biến động và không chính xác, thì "bảo đảm tiền vay" là một đòi hỏi mang tính trước mắt, tất yếu, khách quan.
Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn bức xúc đó, đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế; sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cán bộ nhân viên phòng Tín dụng&bảo lãnh nói riêng, toàn thể cán bộ, nhân viên SCB – chi nhánh Hà Nội nói chung, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài "Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội" để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, em muốn tìm hiểu sâu về các hình thức bảo đảm tiền vay, rủi ro tiền vay, tác dụng của việc bảo đảm tiền vay tới các chủ thể có liên quan. Trên cơ sở những lý luận chung đó, em cũng muốn đi sâu nghiên cứu về thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội để từ đó thấy được mặt được, chưa được trong công tác bảo đảm tiền vay cũng như những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Cuối cùng là đề xuất về giải pháp, kiến nghị để thực hiện bảo đảm tiền vay tại chi nhánh.
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như phương pháp thực tiễn, so sánh…kết hợp với cac phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật biện chứng…
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội.
Dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, song do còn nhiều hạn chế về thời gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên quan tâm.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể cán bộ, nhân viên phòng Tín dụng và bảo lãnh nói riêng, cán bộ nhân viên ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội nói chung đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong thời gian thực tập.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế đã truyền dạy kiến thức cũng như hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành xong đề tài này.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của ngân hàng thương mại và là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng. Đây là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để phục vụ nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống.
Có nhiều cách khái niệm về cho vay khác nhau. Theo khoản 1 điều 3 QĐ 1627/2001/QĐ – NHNN về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như vậy bản chất của cho vay là một giao dịch bằng tiền hoặc tài sản trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với cấp phát của NSNN.
1.1.2.Các loại hình cho vay
Trong xu thế hội nhập, các ngân hàng đang đứng trước một cuộc cạnh tranh khốc liệt không những với các ngân hàng trong nước mà còn cả với các ngân hàng nước ngoài. Do đó để tồn tại và phát triển, buộc các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng như không ngừng đa dạng hóa sản phẩm. Điều đó được thể hiện rất rõ trong sự đa dạng và phong phú của hoạt động cho vay. Tùy thuộc vào đặc điểm và nhu cầu riêng của từng khách hàng mà ngân hàng sẽ áp dụng hình thức vay phù. Có nhiều tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay, tuy nhiên trên thực tế người ta thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay gồm:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân
- Cho vay trung hạn: Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 đến 3 năm, còn đối với các nước trên thế giới loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 7 năm. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ….
- Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 3 năm (Việt Nam), trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới). Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các xí nghiệp mới…
Căn cứ phương thức cho vay, hoạt động cho vay bao gồm:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định và giới hạn đó được gọi là hạn mức thấu chi.
- Cho vay theo món: là hình thức cho vay được áp dụng đối với khách hàng có quan hệ không thường xuyên, có nguồn thu không ổn định, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Đây là hình thức áp dụng đối với cho vay vốn lưu động của khách hàng, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, cho vay bắc cầu, cho vay hỗ trợ triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ; cho vay tiêu dùng trong dân cư…với thời gian cho vay dưới 12 tháng.
- Cho vay theo hạn mức: Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây là hình thức áp dụng đối với các doanh nghiệp có sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và trong sử dụng vốn; có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng.
- Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây là hình thức được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc lâu bền.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay bao gồm:
- Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là hình thức cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là hình thức cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng…
- Cho vay cá nhân: là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng bao gồm:
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng bao gồm:
- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Căn cứ theo rủi ro thì cho vay bao gồm 5 loại sau:
- Vốn vay lành mạnh: là khoản cho vay có khả năng thu hồi cao
- Vốn vay có vấn đề: Các khoản cho vay có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là khoản nợ không có khả năng hoàn trả cho ngân hàng, không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thu hồi vốn và lãi cho ngân hàng.
Với cách phân loại này sẽ giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản cho vay, từ đó sẽ có biện pháp thu hồi và trích lập dự phòng thích hợp.
Như vậy phân loại cho vay giúp các ngân hàng thương mại quản lý và sử dụng vốn tín dụng hiệu quả. Song bên cạnh đó vẫn có rủi ro xảy ra vì rui ro là tiềm ẩn, là tất yếu, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ.
1.2. Hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn rủi ro, để đảm bảo an toàn hiệu quả trong hoạt động cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, pháp luật cho vay các nước đều có những quy định nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay. Tại Việt Nam, theo nghị định của Chính phủ số 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì" Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay"
Đứng trên góc độ của người vay, bảo đảm tiền vay có những đặc trưng cơ bản sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: bảo đảm tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc dục người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người vay dễ có động cơ không trả nợ.
- Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý.
- Tài sản phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản. Đặc trưng này thể hiện được các mặt sau: tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng – chủ thể cho vay được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn.
1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động bảo đảm tiền vay đối với ngân hàng
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt – kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ “vay để cho vay”. Do đó, nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên làm cho tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Nếu mức độ lớn có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng. Bởi vậy, bảo đảm tiền vay chính là biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Như ta đã biết, khi cho vay, ngân hàng đã xác định nguồn thu nợ thứ nhất của mình là doanh thu thực tế đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn; là thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức…) và các khoản thu nhập khác trong cho vay tiêu dùng. Các nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh có hàng ngàn lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được, nếu không có một nguồn bổ sung tất yếu ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Do đó, bảo đảm tiền vay là một yêu cầu tất yếu, khách quan để bảo vệ lợi ích của mình.
Mặt khác, đảm bảo tiền vay sẽ hướng cho khách hàng phải sử dụng vốn vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại tài sản. Khách hàng chỉ có thể nhận lại tài sản bảo đảm và các giấy tờ có liên quan khi đã trả hết nợ gốc và lãi cho khách hàng. Như vậy với việc áp dụng bảo đảm tiền vay, khách hàng sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay, điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả của vốn vay cũng được bảo đảm, khả năng hoàn trả của khách hàng cao hơn, cùng với đó vốn vay sẽ thực sự đem lại lợi ích cho chủ thể vay vốn.
Hơn nữa, hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế mang tầm quan trọng ví như hệ thống huyết mạch của cơ thể. Do đó, một nền kinh tế phát triển khi và chỉ khi có một thị trường tài chính nói chung và một hệ thống NHTM hoạt động vững mạnh. Song một thực tế hiển nhiên là rủi ro luôn luôn tồn tại song hành và thường trực trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Ta biết rằng, nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù chỉ ở một ngân hàng và chỉ ở một mức nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và ổn định của toàn hệ thống. Vì vậy bảo đảm tiền vay có vai trò vô cùng quan trọng, nếu được thực hiện tốt không những hạn chế được nợ quá hạn, nợ khó đòi, giảm rủi ro tổn thất… từ đó sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định, phát triển lành mạnh trên cơ sở có sự ràng buộc trách nhiệm và chia sẻ rủi ro của các bên. Ngược lại, một môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định sẽ là tiền đề để cho ngân hàng thương mại phát triển an toàn.
Như vậy, bảo đảm tiền vay là tất yếu, là khách quan, là một trong những điều kiện để một ngân hàng có thể tồn tại và phát triển.
1.2.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Khách hàng đến với ngân hàng ngày càng đa dạng với nhu cầu ngày càng cao, do đó để phục vụ tốt hơn các ngân hàng cần sử dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay. Mặt khác, mức độ rủi ro của mỗi khoản vay là khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian, mục đích sử dụng vốn vay, tư cách của chủ thể vay vốn,… nên đối với mỗi khoản vay, ngân hàng sẽ đưa ra biện pháp bảo đảm tiền vay thích hợp. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng thực hiện bảo đảm tiền vay theo một trong các hình thức dưới đây:
1.2.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Theo khoản 2 điều 2 nghị định 178/1999/NĐ – CP thì: "Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba".
Thế chấp tài sản
Theo quy định tại điều 342 Bộ luật dân sự 2005 thì "thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên cũng có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp".
Các hình thức thế chấp
Theo quy định của luật dân sự và luật đất đai có hai loại tài sản thế chấp: Bất động sản và giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra, tàu biển và máy bay cũng được dùng làm tài sản thế chấp.
- Bất động sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 “ là các tài sản gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định”. Ngoài ra còn bao gồm cả hoa lợi, lợi tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động sản thế chấp. Tất cả bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân đều được thế chấp để vay vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước khi thế chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản.
- Giá trị quyền sử dụng đất: Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội sử dụng ổn định lâu dài. Trong các chủ thể được giao đất và cho thuê nói trên, chỉ có cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế mới được thế chấp vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên cần phân biệt trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất với trường hợp không được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Những trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, đương nhiên được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với đất. Còn những trường hợp như đất do nhà nước giao cho tổ chức kinh tế không thu tiền, đất thuê trả tiền hàng năm thì chỉ được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với quyền sử dụng đất, không được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.
Phân loại thế chấp:Có nhiều cách phân loại thế chấp như sau:
Căn cứ vào số lần thế chấp thì thế chấp bao gồm thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai:
- Thế chấp thứ nhất: là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món nợ thứ nhất. Cần lưu ý rằng thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản đi thế chấp cho một khoản vay, mà thế chấp thứ nhất được xác định trong mối tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng một tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên đang tồn tại gọi là thế chấp thứ nhất.
Thế chấp thứ nhất có hai trường hợp: Thế chấp cho một bên cho vay và thế chấp cho nhiều bên cho vay dưới hình thức hợp vốn (đồng tài trợ). Trong trường hợp thế chấp cho nhiều khoản vay hợp vốn, việc quản lý tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm do một ngân hàng đại diện thực hiện.
- Thế chấp thứ hai: Là hình thức thế chấp, trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị tài sản thế chấp và khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai.
Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ (thế chấp thứ nhất và thứ hai) có một số điểm lưu ý sau:
- Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn, cũng được coi là đến hạn.
Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Theo quy định hiện hành thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai chỉ được thực hiện tại một tổ chức tín dụng.
"Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh cam kết với tổ chức tín dụng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình, đối với doanh nghiệp nhà nước là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực hiện không đúng nghĩa vụ trả.
Căn cứ vào tính chất pháp lý thì thế chấp gồm thế chấp pháp lý và thế chấp công bằng.
- Thế chấp pháp lý: là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay (người thế chấp) thỏa thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Theo hình thức này, khi người đi vay không thanh toán được nợ ngân hàng được quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữu mà không cần thực hiện các thủ tục tố tụng để nhờ sự can thiệp của tòa án.
- Thế chấp công bằng (thế chấp thông thường): là hình thức thế chấp mà trong đó ngân hàng chỉ nắm giữ giấy chứng nhận sở hữu tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho món vay. Khi người vay không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay hoặc phải nhờ đến sự can thiệp của tòa án, nếu có tranh chấp.
Hai hình thức này đều có những ưu và nhược điểm riêng. Nếu thế chấp pháp lý một mặt tạo điều kiện thuận lợi trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, mặt khác hình thức này lại tốn kém chi phí như chi phí đăng ký giao dịch bảo đảm, chi phí công chứng…và mỗi khi thay đổi hoặc kết thúc hợp đồng lại phải tiến hành chuyển giao lại quyền sở hữu hoặc làm lại hợp đồng. Còn đối với thế chấp công bằng thì thủ tục đơn giản, ít tốn kém nhưng lại khó khăn cho ngân hàng khi xử lý tài sản bảo đảm.
Căn cứ vào tính chất bất động sản thế chấp thì thế chấp bao gồm: thế chấp toàn bộ và thế chấp một phần bất động sản.
Theo quy định của pháp luật người đi vay có thế chấp toàn bộ bất động sản hoặc thế chấp một phần. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản có vật phụ, thì vật phụ của bất động sản cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận. Riêng đối với thế chấp quyền sử dụng đất, thì nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng trồng vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận.
Trong thực tế các ngân hàng thường nhận thế chấp toàn bộ bất động sản. Thế chấp một phần chỉ áp dụng trong trường hợp phần tài sản thế chấp có thể phát mại riêng mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận thế chấp. Đối với các tài sản gắn liền với đất như nhà ở, các công trình xây dựng chỉ được nhận thế chấp cùng với giá trị quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào phương thức thế chấp gồm thế chấp trực tiếp và thế chấp gián tiếp.
Thế chấp trực tiếp hay còn gọi là thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức thế chấp mà tài sản thế chấp do vốn vay tạo nên.
Thế chấp gián tiếp là hình thức thế chấp mà trong đó tài sản thế chấp mà tài sản dùng vốn vay để mua là hai tài sản khác nhau.
Cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ ba.
Theo khoản 2.1 của thông tư số 07/2003/TT- NHNN quy định tài sản cầm cố bao gồm:
- Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý và các vật có giá trị khác;
- Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ.
- Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền. Riêng đối với cổ phiếu của tổ chức tín dụng phát hành, khách hàng vay không được cầm cố tại chính tổ chức tín dụng đó;
- Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiềm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác;
- Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật;
- Tầu biển theo quy định của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, tầu bay theo quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố,
- Tài sản hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao địch cầm cố và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận;
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật
- Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
- Đối với quyền về tài sản quy định tại mục thứ 4, 5, 6 của quy định này, tổ chức tín dụng nhận cầm cố khi xác định được giá trị cụ thể do các bên thỏa thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định
Phân loại cầm cố
- Căn cứ vào tính chất quản lý, tài sản cầm cố được chia ra làm hai loại: có đăng ký quyền sở hữu và không đăng ký quyền sở hữu. Đối với tài không đăng ký quyền sở hữu, tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên cho vay, ngược lại đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể do bên cho vay, đi vay hoặc bên thứ ba giữ theo thỏa thuận của bên cho vay và bên đi vay.
- Ngoài ra cầm cố tài sản cũng được phân thành cầm cố công bằng và cầm cố pháp lý, cầm cố thứ nhất và cầm cố thứ hai, cầm cố trực tiếp và cầm cố gián tiếp tùy theo từng tiêu chí phân loại như thế chấp tài sản.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức trong đó khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay (là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó.
Hình thức bảo đảm này tiềm ẩn nhiều rủi ro vì tại thời điểm cho vay, tài sản đó chưa hình thành, nó được hình thành trong tương lai, mà trong tương lai thì khó có thể dự đoán chính xác được các điều xảy ra, liệu tài sản đó có theo đúng như cam kết ban đầu, tính thanh khoản có cao không… Do đó, để thực hiện hình thức này ngân hàng cần hết sức cẩn trọng. Để có thể vay vốn bằng hình thức bảo đảm này thì điều kiện trước hết phải là những khách hàng có tín nhiệm với tổ chức tín dụng, có khả năng tài chính, có những nguồn thu hợp pháp có khả năng thu được trong thời gian vay vốn; mức vốn tự có của khách hàng phải đáp ứng được một trong các điều kiện dưới đây mới áp dụng hình thức này:
- Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư;
- Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cộng với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư;
- Có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng một hoặc nhiều biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư của dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Thủ tục và hợp đồng cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay và hướng dẫn của Thông tư này về việc cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai.
Bảo lãnh của bên thứ ba
Khái niệm: Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Bảo đảm bằng bảo lãnh thường xuất hiện các chủ thể sau:
- Người bảo lãnh (guarantor): là người thực hiện nghĩa vụ thay cho người đi vay đối với người cho vay (ngân hàng). Người bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Một bảo lãnh có thể có nhiều người tham gia cùng bảo lãnh. Trong trường hợp này những người tham gia bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm và ngân hàng cho vay có quyền yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên nếu chứng thư bảo lãnh có quy định phần bảo lãnh cho từng người cụ thể thì miễn trừ nghĩa vụ liên đới.
- Người nhận bảo lãnh: là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh. Trong quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay.
- Người được bảo lãnh: là người đi vay (con nợ), người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
Các hình thức bảo lãnh
Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín:
- Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản là bên bảo lãnh phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp thế chấp hoặc cầm cố để thực hiện nghĩa vụ hoặc không do tổ chức tín dụng và bên bảo lãnh thỏa thuận. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh.
- Bảo lãnh bằng uy tín là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của người bảo lãnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Còn các tổ chức tín dụng được phép bảo lãnh vay bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
Người bảo lãnh có thể bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ số nợ phải thanh toán cho ngân hàng. Trong trường hợp bảo lãnh một phần thì phải ghi rõ số tiền bảo lãnh. Những trường hợp pháp luật quy định cho vay phải có bảo đảm thì chỉ áp dụng bảo lãnh một phần trong trường hợp phần còn lại phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, nếu không bắt buộc phải có bảo lãnh toàn bộ.
Bảo lãnh riêng biệt và bảo lãnh duy trì
- Bảo lãnh riêng biệt được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay.
- Bảo lãnh duy trì là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa. Phương thức bảo lãnh này áp dụng khi cho vay bằng kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai.
1.2.3.2.Bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Khái niệm: Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn chỉ dựa trên uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng vay hay của bên bảo lãnh bao gồm: ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; ngân hàng cho vay không có bảo đảm theo chỉ thị của Chính phủ; bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo. Cụ thể:
Ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay không có tài sản bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay không có tà._.i sản bảo đảm áp dụng đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế - xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về tiền vay vốn theo quy định tại các văn bản pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có tài sản bảo đảm.
Các ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn, trung, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong quan hệ vay vốn với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tổ chức tín dụng khác.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo quy định.
Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ nghèo vay vốn.
Các ngân hàng thực hiện cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như: Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên Đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
1.2.4.Quy trình thực hiện các nghiệp vụ bảo đảm tiền vay
Quy trình bảo đảm tiền vay gồm 5 bước sau đây:
Bước 1: Nhận và kiểm tra hồ sơ bảo đảm
Bộ phận tín dụng là đầu mối tiếp xúc và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ tài sản bảo đảm. Trong quá trình này, bộ phận tín dụng có trách nhiệm xác minh sơ bộ tính pháp lý, mức độ khả dụng tài sản có phù hợp với điều kiện nhận bảo đảm tại ngân hàng và quy định pháp luật, trong trường hợp:
-Tài sản không đủ điều kiện: Thông báo cho khách hàng và đề nghị đổi tài sản khác.
- Tài sản đủ điều kiện: Bộ phận tín dụng gửi giấy đề nghị định giá tài sản (kèm bản sao các giấy tờ sở hữu tài sản) cho bộ phận định giá.
Bước 2: Thẩm định tài sản bảo đảm
Thẩm định tài sản bảo đảm là một khâu hết sức quan trọng, nó là khâu quyết định mức cho vay. Căn cứ để thẩm định bao gồm:
Hồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp
Cán bộ tín dụng khảo sát thực tế, khẳng định lại các thông tin thu thập được từ khách hàng và phát hiện những vấn đề mới cần thẩm định tiếp.
Các cơ quan có thẩm quyền cấp các loại giấy tờ liên quan tới tài sản bảo đảm.
Các nguồn thông tin khác: chính quyền địa phương, công an, tòa án, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, các ngân hàng khác…
Nội dung thẩm định
Thẩm định giá trị pháp lý của tài sản bảo đảm nợ vay:
- xem xét tính hợp pháp của tài sản bảo đảm, có thuộc loại tài sản cấm hay không?
- Tài sản có đang cầm cố, thế chấp ở một tổ chức tín dụng khác không?
- Có bị tranh chấp pháp lý hay không?
Thẩm định về tính sở hữu của tài sản: Phải trả lời được câu hỏi, tài sản thuộc sở hữu của ai?
Đối với loại có đăng ký quyền sở hữu thì việc thẩm định tính sở hữu của tài sản bảo đảm thông qua việc kiểm tra giấy tờ sở hữu tài sản. Còn đối với những loại tài sản bảo đảm không đăng ký quyền sở hữu thì ngân hàng cần xem xét tính sở hữu của tài sản bảo đảm từ các nguồn thông tin khác như: tham khảo ý kiến của trung tâm phòng ngừa rủi ro, các người cư trú gắn với tài sản bảo đảm tiền vay…
Thẩm định tính hiện hữu của tài sản: Tài sản có thực sự tồn tại hay không? Về số lượng, chất lượng như thế nào?
Thẩm định giá trị của tài sản: Giá trị tài sản là bao nhiêu? Bộ phận định giá thông báo cho bộ phận tín dụng thời gian đi định giá và yêu cầu bổ túc hồ sơ tài sản (nếu có). Bộ phận tín dụng hẹn khách hàng thời gian định giá và đề nghị khách hàng chuẩn bị hồ sơ khi cán bộ ngân hàng xuống hiện trường định giá.
Thẩm định khả năng phát mại của tài sản: Tính thanh khoản của tài sản đó như thế nào? Thị trường tiêu thụ hiện tại như thế nào? Dự đoán trong tương lai, có nhiều loại tài sản khác thay thế hay không?
Bước 3: Lập hợp đồng bảo đảm
Sau khi thẩm định, hai bên đã thỏa thuận được các điều kiện về tín dụng, bộ phận tín dụng cios nhiệm vụ soạn thảo hợp đồng bảo đảm tiền vay trình giám đốc hoặc người được ủy quyền ký. Hợp đồng được lập thành 3 bản chính, khách hàng giữ 01 bản, ngân hàng giữ 02 bản được lưu ở phòng tín dụng và Ngân quỹ mỗi nơi một bản. Tùy theo từng hình thức và loại tài sản bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm có thể nằm trong hợp đồng tín dụng hoặc có thể lập thành hợp đồng bảo đảm riêng. Đối với tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay, khi tài sản đã đưa vào sử dụng các bên phải lập phụ lục hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm và xác định giá trị tài sản.
Hợp đồng cầm cố thế chấp có thể là hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự, điều này phụ thuộc vào bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng, vì hành vi cầm cố thế chấp tài sản nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng.
Tùy theo hình thức bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm tiền vay phải có những thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật như công chứng hợp đồng bảo đảm hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Sau khi hợp đồng cầm cố thế chấp đã được ký kết, các bên tham gia hợp đồng hoặc người được ủy quyền tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm, tiến hành nhập tài sản vào kho.
Bước 4: Tái định giá tài sản cầm cố, thế chấp và xử lý sau tái định giá
Tái định giá tài sản được thực hiện định kỳ theo quy định của ngân hàng hoặc đột xuất khi phát hiện tài sản bị dịch chuyển, thay đổi ảnh hưởng lớn đến giá trị tài sản. Bộ phận tín dụng chủ động đề xuất việc định giá lại tài sản bảo đảm và kết hợp với bộ phận định giá thực hiện.Việc tái định giá tài sản phải được lập thành biên bản và biên bản định giá lại là một phụ kiện của biên bản định giá. Bộ phận tín dụng chịu trách nhiệm báo cáo lại lãnh đạo các trường hợp sau: - Giá trị tài sản sau định giá lại không đủ bảo đảm tiền vay
- Tài sản bị mất mát hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được nữa.
Khi đó ngân hàng cần yêu cầu khách hàng bổ sung thêm giá trị tài sản bảo đảm hoặc thu hồi nợ phần thiếu bảo đảm.
Nếu tái định giá mà giá trị tài sản bảo đảm tăng thì ngân hàng có thể tăng dư nợ cho khách hàng nếu khách hàng có nhu cầu.
Bước5: Giải chấp
Khi người vay thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, ngân hàng sẽ trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc tài sản bảo đảm cho người vay đồng thời lập giấy xác nhận giải tỏa tài sản bảo đảm để gửi tới các đơn vị có liên quan, tiến hành thanh lý hợp đồng bảo đảm, đồng thời tiến hành thông báo giải chấp tới các phòng ban: phòng công chứng, phòng tài nguyên môi trường, trung tâm đăng ký giao dịch động sản.
Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn thì ngân hàng có thể tiến hành xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm. Trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm theo phương thức đã thỏa thuận, các bên buộc phải xử lý tại tòa án.
Về phương thức xử lý: Nếu các bên có thỏa thuận, có thể xử lý theo một trong các phương thức sau:
- Bán tài sản bảo đảm
- Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm
- Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên bảo đảm.
Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, thì tài sản bảo đảm được đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có). Sau khi xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn chưa thu hồi đủ khoản vay, thì ngân hàng tiếp tục truy đòi nợ đối với khách hàng vay vốn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Bảo đảm tiền vay là hoạt động để phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Hoạt động này có thực hiện được tốt hay không chịu sự chi phối không nhỏ từ chính các ngân hàng, ví dụ như nhiều khi nhận định chưa đúng, chưa đầy đủ về khách hàng; việc mở rộng mạng lưới hoạt động ngân hàng và tốc độ tăng trưởng quá nhanh, không tương xứng với việc nâng cao kiểm soát rủi ro; một số ngân hàng còn chấp hành quy chế cho vay, bảo lãnh chưa nghiêm túc, gia hạn nợ tùy tiện, làm trong sạch tài chính giả tạo, chạy theo thành tích, dẫn đến khách hàng lợi dụng gây ra việc thất thoát tài sản; một số ngân hàng quá chú trọng vào cho vay các dự án lớn, vào một nhóm khách hàng có liên quan với nhau, khi DN gặp khó khăn sẽ dẫn đến sự khó khăn cho ngân hàng; năng lực cán bộ còn yếu kém, đặc biệt ở khâu thẩm định cho vay. Cụ thể như sau:
Chiến lược kinh doanh, mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ
Trong mỗi giai đoạn, ngân hàng thương mại đều có những chính sách cho vay cụ thể, có thể là mở rộng hay thắt chặt. Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động bảo đảm tiền vay. Nếu ngân hàng muốn đẩy mạnh hoạt động tín dụng, sẽ mở rộng danh mục tài sản bảo đảm, cũng như linh hoạt hoạt hơn trong công tác bảo đảm tiền vay nhưng vẫn phải bảo đảm an toàn. Ngược lại, khi ngân hàng muốn thu hẹp quy mô tín dụng, ngoài công cụ là chính sách lãi suất, thì sử việc ra những quy định khắt khe hơn về tài sản bảo đảm cũng là một công cụ sử dụng vô cùng hiệu quả.
Chất lượng của cán bộ tín dụng ngân hàng
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh, khi sức mạnh của đồng tiền ngày càng có vị trí chiếm lĩnh thì có không ít những cán bộ đã bị lu mờ, đã đánh mất đạo đức nghề nghiệp. Trước đồng tiền mua chuộc, họ sẵn sàng định giá sai tài sản bảo đảm, nối kết cùng khách hàng để cung cấp thông tin sai lệnh lừa đảo ngân hàng. Đây là một rủi ro rất lớn cho ngân hàng, khi khách hàng không trả nợ hoặc quỵt nợ. Song một cán bộ tín dụng ngân hàng chỉ có đạo đức nghề nghiệp không thôi chưa đủ, mà còn cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bởi công tác thẩm định tài sản bảo đảm, thẩm định khách hàng...hết sức khó khăn, phức tạp với nhiều diễn biến khôn lường, nếu cán bộ không có sự kiến chuyên sâu, am hiểu thị trường, có óc phán đoán...thì không thể thực hiện tốt được công tác phân tích, định giá tài sản bảo đảm cũng như dễ bị khách hàng lừa đảo. Như vậy, sự thành công của một ngân hàng nói chung và công tác bảo đảm tiền vay nói riêng không thể thiếu được đội ngũ cán bộ - những người vừa giỏi chuyên môn nghiệp vụ vừa có đạo đức nghề nghiệp.
Chất lượng công tác trong quy trình bảo đảm tiền vay
Trước hết đó là chất lượng công tác thẩm định khách hàng của ngân hàng
Để có thể cho vay, dù một khoản vay nhỏ hay lớn đều cần qua các công đoạn cơ bản như: thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, theo dõi, kiểm tra trong quá trình sử dụng vốn vay đến khi thu hồi được nợ và lãi. Trong đó, có thể nói thẩm định là khâu quan trọng nhất, vì nó quyết định đến mức cho vay, phương thức vay, lãi suất, thời hạn, tài sản bảo đảm...Nếu không này thực hiện không tốt sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ hoạt động cho vay nói chung và hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng. Ví như, một khách hàng rất tốt lại được kết luận rằng khách hàng đó ở mức trung bình hoặc không tốt lắm, khi đó dẫn tới chính sách cho vay của ngân hàng trở lên khắt khe, gây mất thiện cảm của khách hàng đối với ngân hàng thậm chí có thể dẫn đến mất khách hàng tiềm năng. Ngược lại, có những khách hàng không tốt lại được đánh giá tốt, rất tốt dẫn đến giảm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng, thậm chí ngân hàng cho vay không có tài sản bảo đảm, khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng là rất lớn.
Hai là, chất lượng công tác định giá tài sản bảo đảm
Để cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, gói sản phẩm mới...một trong số đó là chính sách về tài sản bảo đảm – ngày càng đa dạng, phong phú hơn, với chính sách linh hoạt, thông thoáng hơn, đồng nghĩa với đó yêu cầu việc định giá tài sản bảo đảm phải được tiến hành cẩn thận, chính xác hơn. Vì bản thân tài sản bảo đảm đã rất khó định giá cùng với những diễn biến khó lường của thị trường thì công việc định giá lại trở lên khó khăn gấp bội. Nếu công việc định giá bảo đảm của ngân hàng không được thực hiện tốt, việc định giá cao hay thấp đều ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Nếu định giá tài sản bảo đảm cao hơn giá trị thực tế sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng khi phải xử lý tài sản bảo đảm, ngược lại đánh giá thấp tài sản bảo đảm sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc vay vốn, thậm chí là tâm lý e ngại không muốn vay vốn của khách hàng. Như vậy, để hoạt động bảo đảm tiền vay được thực hiện tốt, thì một trong những điều kiện không thể thiếu là thực hiện tốt công tác định giá tài sản bảo đảm.
Ba là, chất lượng công tác quản lý tài sản bảo đảm
Tài sản đảm bảo ngày càng đa dạng và phong phú, mỗi loại có những đặc thù riêng, những thay đổi nhỏ của các biến số kinh tế vĩ mô cũng như những thay đổi của trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có thể làm thay đổi giá trị của tài sản bảo đảm. Vì vậy, để bảo đảm những tài sản luôn nằm trong tình trạng bình thường và phát hiện kịp thời những sự cố liên quan làm giảm giá trị tài sản bảo đảm so với định giá ban đầu, ngân hàng phải thực hiện tốt khâu quản lý tài sản bảo đảm. Quản lý tài sản bảo đảm chính là việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá lại tài sản bảo đảm. Nếu công tác này không được thực hiện định kỳ và thường xuyên sẽ không phát hiện được những thay đổi về giá trị tài sản bảo đảm trước những sự biến động chủ quan hay khách quan....khi đó ngân hàng sẽ không thể phản ứng kịp dẫn đến những rủi ro khi phải xử lý tài sản bảo đảm. Chính vì vậy, việc thực hiện tốt công tác quản lý tài sản bảo đảm một cách có kế hoạch sẽ giúp ngân hàng tránh khỏi những rủi ro không đáng có, giảm thiểu được tổn thất cho ngân hàng.
Bốn là, chất lượng công tác xử lý tài sản bảo đảm
Phải xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, là điều không mong muốn đối với ngân hàng, song khi khách hàng hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện một phần nghĩa vụ trả nợ, buộc ngân hàng phải thực hiện biện pháp cuối cùng đó là xử lý tài sản bảo đảm. Việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ tuân theo thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm. Trong trường hợp không xử lý được theo thỏa thuận thì ngân hàng có quyền chủ động áp dụng các phương pháp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Xử lý tài sản đảm bảo tiền vay nếu được thực hiện một cách đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo được quyền và lợi ích giữa các bên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thu được nợ mà tiết kiệm được thời gian và chi phí và ngược lại, sẽ gây ra tranh chấp nếu việc xử lý tài sản không thỏa đáng cho các bên, thậm chí làm lãng phí thời gian, chi phí cho ngân hàng. Vì vậy việc cần thực hiện tốt khâu xử lý tài sản bảo đảm nợ vay – đó là điều kiện cần để có thể thực hiện tốt hoạt động bảo đảm tiền vay.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
Bên cạnh các nhân tố chủ quan thì nhân tố khách quan ảnh hưởng không nhỏ đến bảo đảm tiền vay mà trước hết phải nói đến đó là nhân tố khách hàng vì khách hàng là chủ thể vay vốn, là đối tượng chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc bảo đảm khoản vay. Do đó, bảo đảm tiền vay có tốt, có an toàn hay không – điều đó phụ thuộc không nhỏ vào khách hàng. Cụ thể như sau:
Một là, đạo đức khách hàng
Tư cách đạo đức của khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bảo đảm tiền vay. Như ta đã biết, nguồn thông tin khách hàng cung cấp là cơ sở để ngân hàng thẩm định đánh giá, quyết định cho vay. Nếu khách hàng không trung thực, cố tình lừa đảo, cung cấp thông tin sai sự thật. Đó là một rủi ro rất lớn về bảo đảm tiền vay nếu ngân hàng ko phát hiện kịp thời. Ngược lại, với khách hàng trung thực, có ý thức hợp tác, cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của ngân hàng sẽ giúp ngân hàng rất lớn trong thẩm định tài sản bảo đảm cũng như quyết định cho vay.
Hai là, năng lực tài chính, trình độ quản lý của khách hàng.
Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tê – một lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, ngân hàng chỉ cho vay khi nhận thấy khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có trình độ quản lý tốt. Nếu không hội đủ hai yếu tố đó, khách hàng không thể sử dụng đồng vốn thực sự có hiệu quả, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Ngược lại, với những khách hàng tiềm năng: có tình hình tài chính tốt, có trình độ quản lý, có sức cạnh tranh trên thị trường, khi đó khả năng trả nợ của khách hàng được bảo đảm, bảo đảm tiền vay được an toàn. Như vậy, ngân hàng cần sàng sọc để tìm ra những khách hàng hội tụ cả hai yếu tố trên. Làm được điều này đã là một thành công trong công tác bảo đảm tiền vay.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay. Ta biết rằng, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Một xã hội ổn định và phát triển phụ thuộc vào hiệu quả tác động của pháp luật lên các mối quan hệ trong xã hội. Là một bộ phận trong xã hội, hoạt động ngân hàng không nằm ngoài quy luật đó. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng mang tính đặc thù, nên xây dựng pháp luật về ngân hàng cần phải được đặt ra và xem xét một cách thấu đáo, đặc biệt là các quy định về bảo đảm tiền vay. Nếu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm tiền vay có sự thống nhất, hoàn thiện, chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngân hàng sẽ là hành lang pháp lý không những đảm bảo an toàn cho ngân hàng mà còn thỏa mãn được nhu cầu vốn của các chủ thể trong xã hội, qua đó có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế pháp triền. Song trên thực tế, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay của nước ta còn thiếu đồng bô, chồng chéo không phù hợp với thực tế, khiến cho việc thẩm định dự án, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn tạo ra những khe hở để khách hàng xấu lợi dụng lừa đảo ngân hàng. Chính vì vậy, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ và chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn là một tất yếu khách quan đối với nước ta – một nước đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới.
Ngoài ra, hoạt động bảo đảm tiền vay còn chịu ảnh hưởng bởi các biến số khác của môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, chính sách thuế, lạm phát...đều ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng, cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một khoản cho vay có thể được bảo đảm rất an toàn trên sổ sách nhưng thực tế khi có những biến động bất thường xảy ra như lãi suất tăng cao hay thời kỳ kinh tế suy thoái làm cho doanh thu hay thu nhập của khách hàng giảm, từ đó làm ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NHTM CỔ PHẦN SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Khái quát về NHTM cổ phần Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động
SCB – Một thương hiệu đã được khẳng định ở khu vực phía Nam, song lại còn khá mới đối với khu vực miền Bắc. Trước xu thế hội nhập, cạnh tranh, đồng thời để đáp ứng nhu cầu mở rộng và hoạt động trên cả nước, cuối năm 2005, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội được thành lập tại số 4 – Hồ Xuân Hương – P. Nguyễn Du - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội theo giấy phép thành lập số 0113009192 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 04/10/2005. Là ngân hàng "Bắc tiến" muộn hơn so với các ngân hàng khác, nhưng SCB sẽ cạnh tranh bằng chính chất lượng dịch vụ để chiếm được lòng tin của khách hàng. Thực tế kết quả hoạt động gần 3 năm qua đã chứng minh điều đó, hoạt động kinh doanh luôn có lãi, luôn vượt mức kế hoạch mà HĐQT đề ra, bên cạnh đó, chi nhánh luôn cố gắng mở rộng phạm vi hoạt động sang các vùng lân cận như Hà Tây, Hưng Yên, Bắc Ninh…,thu hút nhiều khách hàng mới, góp phần tăng doanh thu cho ngân hàng.
Là chi nhánh mới thành lập, đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, đặc biệt đó là thách thức về cạnh tranh…nhận thức được điều đó, chi nhánh đã có những bước đi chiến lược trong khâu tiếp cận khách hàng đó là - thực hiện các nghiệp vụ cho vay, tiền gửi, huy động vốn, các dịch vụ thanh toán quốc tế... với đối tượng được nhắm đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà đầu tư tài chính có tiềm năng, trong đó hoạt động chủ yếu là huy động vốn và cho vay.
Với phương châm “SCB luôn hướng tới sự hoàn thiện vì khách hàng”, chi nhánh không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Để làm tốt được công việc đó, SCB luôn chú trọng đến chất lượng đội ngũ nhân viên. Tuy nhiên, sau gần 3 năm thành lập, đến nay mới có 90 cán bộ, công nhân viên, hẳn đây chưa phải là con số lớn trước nhu cầu phát triển và mở rộng như hướng đi của SCB. Chính vì vậy, SCB – chi nhánh Hà Nội phối hợp với các trường đại học trong công tác đào tạo, tuyển dụng dưới hình thức tuyển trực tiếp sinh viên thực tập để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực, mở rộng hoạt động. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của chi nhánh như sau:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của NHTMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
Phòng tín dụng
Hội sở
Phòng KS hội sở
Phòng kiểm soát
Phòng ngân quỹ
Phòng hành chính
Các phòng giao dịch
Tổ định giá chi nhánh
Ban GĐ chi nhánh
Phòng kế toán
Tổ định giá Hội sở
Sau hơn 2 năm hoạt động, SCB – chi nhánh Hà Nội đã không ngừng gia tăng doanh số lợi nhuận mà còn tăng nhanh về số phòng giao dịch. Cho đến nay, SCB – chi nhánh Hà Nội đã có 06 phòng giao dịch trực thuộc và đang có kế hoạch mở rộng một số phòng giao dịch ở Hà Tây.
Sáu phòng giao dịch gồm:
Phòng giao dịch Đống Đa
Phòng giao dịch Ba Đình
Phòng giao dịch Hoàn Kiếm
Phòng giao dịch thanh xuân
Phòng giao dịch Cầu Giấy
Phòng giao dịch Thanh Nhàn
Với những thành tích đã đạt được trong thời gian qua, cùng với sự nỗ lực hết mình của toàn bộ lãnh đạo và nhân viên, chắc chắn rằng SCB – chi nhánh Hà Nội sẽ làm tốt sứ mệnh được giao phó "là cơ sở vững chắc đưa thương hiệu SCB đến với thị trường miền Bắc ".
2.1.2.Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
Sau năm năm đổi tên thương hiệu và phát triển, ngân hàng TMCP Sài Gòn - SCB đã và đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. Theo số liệu tại thời điểm tháng 11/2007, tổng tài sản của SCB đạt 23.000 tỷ đồng, tăng 114,66% so với đầu năm. Tổng vốn huy động đạt hơn 21.000 tỷ đồng, tăng 114,632% so với đầu năm. Cơ cấu nguồn vốn huy động được đảo chiều và ngân hàng đang duy trì một cơ cấu vốn ổn định giữa thị trường 1 và thị trường 2. Dư nợ tín dụng đạt 17.8 nghìn tỷ, tăng 117%. Tại TP HCM, SCB đứng thứ 4 về tổng tài sản và thứ 3 về dư nợ tín dụng sơ với các ngân hàng TMCP. Tỷ lệ dịch vụ trên tổng tài sản tăng đáng kể từ 5.56% năm 2006 lên 14.64% năm 2007. Không những tăng trưởng không ngừng về lợi nhuận, chất lượng dịch vụ ngày càng nâng cao mà thương hiệu SCB ngày càng định hình rõ nét trong lòng công chúng. Chất lượng kinh doanh của SCB khá tốt, các nhóm chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh, khả năng thanh toán, mức độ tăng trưởng đều biến động tích cực. Để đạt được những thành tựu đó, SCB - chi nhánh Hà Nội có đóng góp không nhỏ với kết quả hoạt động như sau:
2.1.2.1.Tình hình huy động vốn
Tận dụng thế mạnh thành công ở phía Nam, SCB – chi nhánh Hà Nội cũng dùng công cụ sắc bén đó để phát triển và khằng định ở khu vực phía Bắc. Xâm nhập thị trường bằng các sản phẩm dịch vụ truyền thống, trong đó hoạt động huy động vốn và cho vay là chủ yếu. Với nhiều chính sách hấp dẫn thu hút khách hàng, trong 2 năm qua, chi nhánh đã không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn đã có những kết quả khả quan. Cụ thể như sau:
Về tổng nguồn vốn huy động:
Qua bảng số liêu dưới đây ta thấy lượng vốn huy động của ngân hàng tăng lên một cách vượt bậc theo thời gian. Mặc dù mới được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2005 nhưng có thể nói đến nay lượng vốn huy động được tương đối lớn. Nếu như năm 2006, tổng nguồn huy động được là 1096.82 tỷ đồng thì đến năm 2007 tổng nguồn huy động là 6414.07 tỷ đồng.
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của SCB - chi nhánh Hà Nội 2006 - 2007
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối
Tương đối (%)
Tổng nguồn huy
động
1096.82
100
6414.07
100
5317.25
484.79
1. Theo loại tiền gửi
- VNĐ
1013.74
92.43
6233.36
97.18
5219.62
514.89
- Ngoại tệ
83.08
7.57
180.71
2.82
97.63
117.51
2. Theo kỳ hạn
- TG không kỳ hạn
151.92
13.85
270.82
4.22
118.9
78.26
- TG có kỳ hạn
944.9
86.15
6143.25
95.78
5198.35
550.15
3.Theo đối tượng KH và loại hình DN
- TG của TCKT
450.84
41.10
1584.78
24.71
1133.94
251.52
- TG của cá nhân
140.54
12.81
4377.17
68.24
4236.3
3014.54
- TG của các đối tượng khác
505.44
46.08
452.12
7.05
(53.32)
(10.55)
(Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính của SCB - chi nhánh Hà Nội năm 2007)
Như vậy, chỉ sau một năm, tổng nguồn huy động đã tăng 5317.25 tỷ đồng với tốc độ tăng 484.79%. Đây quả thật là một kết quả đáng nể đối với một ngân hàng mới thành lập. Điều đó cũng chứng tỏ chi nhánh đang ở thế chủ động trong công tác huy động vốn, sẽ tạo đà thuận lợi trong việc mở rộng tín dụng trong những năm tới.
Về cơ cấu huy động:
Xét cơ cấu huy động theo kỳ hạn
Tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong cả 2 năm, nhưng sang năm 2007 đã có xu hướng tăng về mặt tuyệt đối. Điều này cũng chứng tỏ các doanh nghiệp cũng đã nhận ra tính ưu việt của thanh toán qua ngân hàng, song so với tổng nguồn huy động năm 2007 thì đây còn là một con số khá khiêm tốn, chỉ chiếm tỷ trọng là 4.22%. Đây là một nguồn vốn rất rẻ cho ngân hàng tuy nhiên tính ổn định cũng không cao. Do đó bài toán đặt ra cho các nhà lãnh đạo chi nhánh cần tìm ra giải pháp để nâng cao hơn nữa nguồn này đồng thời cũng cần phải hết sức cân nhắc giữa việc sử dụng vốn và dự trữ để vừa đảm bảo được lợi nhuận, vừa đảm bảo tính thanh khoản và an toàn cho chi nhánh.
Xét cơ cấu huy động vốn theo loại tiền gửi ta thấy: nguồn vốn nội tệ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn huy động và có xu hướng tăng. Nếu năm 2006 nguồn này đạt 1013.74 tỷ đồng chiếm 92.43% thì đến năm 2007 con số này đã tăng rất nhanh tới 6233.36 tỷ chiếm 97.18. Điều này cho ta thấy dòng tiền chảy vào ngân hàng ngân hàng vẫn chủ yếu là nguồn tiền trong nước, còn hạn chế nhiều về các giao dịch ngoại tệ.
Xét theo cơ cấu nguồn huy động theo đối tượng khách hàng và loại hình daonh nghiệp, ta thấy có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng vốn huy động từ dân cư, giảm tỷ trọng từ các tổ chức kinh tế. Cụ thể, nguồn vốn từ dân cư đã tăng một cách vượt bậc, nếu như năm 2006, nguồn này chỉ đạt 140.54 tỷ đồng thì năm 2007 đã lên tới 4377.17 tỷ đồng, tăng 4236.63 tỷ với tốc độ tăng là 3014.54%. Điều này cho thấy chi nhánh đã áp dụng có hiệu quả chiến lược thành công ở khu vực phía Nam đó là đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, cung cấp sản phẩm tiết kiệm hấp dẫn, nhất là đối với tầng lớp dân cư. Đây là nguồn vốn mang tính ổn định khá cao, mang lại thế chủ động cho ngân hàng, nếu biết sử dụng hợp lý sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho chi nhánh. Và thực tế đã minh chứng: SCB Hà Nội luôn là đơn vị dẫn đầu về thành tích huy động vốn, trung bình Chi nhánh cung cấp từ 25% đến 30% nguồn vốn huy đông cho toàn hàng. Với những số liệu khả quan từ hoạt động huy động vốn báo hiệu những điểm sáng với hoạt động sử dụng nguồn ( hoạt động cho vay, bảo lãnh…
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu huy động theo đối tượng khách hàng và loại hình DN
2.1.2.2.Tình hình cho vay
Việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, phù hợp với các nguồn huy động được luôn là bài toán khó với các ngân hàng. Chi nhánh Ngân hàng TMCP sài gòn cũng vậy: hoạt động chính là tìm kiếm các khoản vốn với chi phí thấp để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Và phần lớn nguồn vốn huy động được phục vụ cho hoạt động cho vay và đầu tư.
Bảng 2.2: Tình hình dư nợ tại chi nhánh 2006 – 2007
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Tuyệt đối
Tỷ trọng(%)
Tuyệt đối
Tỷ
trọng(%)
Tuyệt đối
Tỷ lệ (%)
Tổng dư nợ
391.24
100
1051.44
100
660.20
168.75
1.Theo kỳ hạn
391.24
100
1051.44
100
660.20
168.75
Nợ ngắn hạn
150.87
38.56
615.00
58.49
464.13
307.64
Nợ trung hạn
197.51
50.48
266.66
25.36
69.15
35.01
Nợ dài hạn
42.86
10.95
169.78
16.15
126.92
296.13
2.Theo đối tượng KH
391.24
100
1051.44
100
660.20
168.75
Cho vay các TCKT
354.05
90.49
615.17
58.51
261.12
73.75
- công ty cổ phần
270.65
69.18
439.00
41.75
168.35
62.20
- Công ty TNHH tư nhân
83.40
21.32
176.22
16.76
92.82
111.29
Cho vay cá nhân
37.19
9.51
416.86
39.65
379.67
1020.89
cho vay khác
0.00
0.00
19.41
1.85
19.41
-
3. Theo ngành
391.24
100
1051.44
100
660.20
168.75
Chế biến
4.00
1.02
1.20
0.11
(2.80)
(70.00)
Thương nghiệp
290.21
74,18
142.94
13.59
(147.27)
(50.75)
Xây dựng
86.33
22.07
471.04
44.80
384.71
445.63
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
10.70
2.73
436.26
41.49
425.56
3977.20
(Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính của SCB - chi nhánh Hà Nội năm 2007)
Do giới hạn về quy mô hoạt động và do đặc thù của ngân hàng nên trong hoạt động sử dụng vốn thì hoạt động được đề cập ở đây tập trung vào hoạt động cho vay. Qua bảng số liệu trên ta thấy, sau 2 năm hoạt động, tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh không ngừng được mở rộng, thể hiện qua tổng dư nợ của chi nhánh không ngừng được tăng lên. Cụ thể như sau:
Về tổng dư nợ: Hoạt động cho vay đã không ngừng được mở rộng. Năm 2007, dư nợ là 1051.44 tỷ đồng, tăng 660.20 tỷ đồng tương ứng với 168.75% so với năm 2006. Mức tăng này tương đối cao so với toàn ngành ngân hàng năm 2007 (khoảng 37.8%). Ngoài nguyên nhân khách quan do sự phát triển mạnh của nền kinh tế thúc đẩy nhu cầu tín dụng tăng cao thì phải kể đến sự nỗ lực phấn đấu của toàn bộ đ._.h hàng tốt nhất, khách hàng đến và không muốn đi, chi nhánh sẽ có kho giữ hàng, để những khách hàng đến với tài sản bảo đảm là hàng hóa, nguyên vật liệu, thành phẩm…chi nhánh sẽ luôn rộng mở, không e ngại như trước.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tài sản đảm bảo, định kỳ hàng tháng phải định giá lại tài sản bảo đảm để có những biện pháp ứng phó kịp thời.
- Đưa cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định tài sản tham gia những khóa học chuyên môn, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật nghiệp vụ, phấn đấu giảm chi phí chuyên gia trong công tác thẩm định tài sản đến mức thấp nhất.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan để đánh giá, thẩm định tài sản bảo đảm cũng như khách hàng có tài sản bảo đảm, đồng thời nắm bắt cập nhật những thông tin, những văn bản mới nhất về bảo đảm tiền vay để thực hiện đúng chủ chương, đường lối.
- Hoàn thiện quy trình bảo đảm tiền vay và cố gắng thực hiện một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, ưu tiên hết sức trong việc thương lượng với khách hàng với nhiều hình thức đa dạng, hạn chế việc giải quyết lên tòa án.
- Hoàn thành tốt mục tiêu: không có nợ xấu, nợ quá hạn; nếu có thì kiên quyết kiểm soát để luôn duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở mức tối thiểu cho phép, tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hợp lý theo đúng quy định của Nhà Nước và của SCB.
- Duy trì tỷ lệ an toàn vốn trên 9% (Hệ số CAR ≥ 9%).
Quan điểm định hướng bảo đảm tiền vay nêu trên sẽ là kim chỉ nam soi đường, hướng dẫn cho toàn thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên chi nhánh không ngừng nỗ lực thực hiện thành công kế hoạch phát triển trong năm 2008, để có thể khẳng định thương hiệu SCB trên thị trường miền Bắc.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội
3.2.1. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Công tác bảo đảm tiền vay có được thực hiện tốt và an toàn hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ tín dụng. Vì đây là những người trực tiếp tham gia vào quá trình bảo đảm tiền vay, từ khâu tiếp xúc, thẩm định, quyết định mức cho vay đến hình thức bảo đảm …Do đó nếu những phân tích, nhận định của cán bộ tín dụng thiếu chính xác sẽ dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính vì vậy một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có am hiểu thị trường cùng đạo đức nghề nghiệp – luôn là đòi hỏi quan trọng và trước hết đối với một ngân hàng trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng. Do vậy,để thành công trong con đường hội nhập, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn là yếu tố đặt lên hàng đầu.
Việc nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng có thể được thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo và bố trí. Hiện nay tại chi nhánh, đây cũng là năm đầu tiên triển khai chính sách tuyển dụng sinh viên thực tập, tuy nhiên vì là năm đầu tiên triển khai thực hiện nên còn nhiều bất cập. Do đó, cần hoàn thiện hơn nữa trong các năm tiếp theo để có thể tuyển dụng được các cán bộ thực sự ưu tú cho ngân hàng. Đối với những cán bộ tín dụng tại chi nhánh, cần kết hợp giữa đào tạo tại chỗ nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ để đổi mới phong cách, lề lối làm việc cho năng động, hiệu quả hơn với việc đào tạo bên ngoài như cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn của NHNN, của chính phủ, của chính ngân hàng mình…nhằm góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành cũng như việc nắm bắt, cập nhật các văn bản luật mới … của cá cơ quan có thẩm quyền ban hành. Mặt khác, hầu hết các cán bộ chi nhánh đều tốt nghiệp từ các khối kinh tế nên việc thẩm định các dự án, công trình, máy móc thiết bị… sẽ gặp khó khăn. Do đó, chi nhánh cần cử những cán bộ đi tham gia các lớp nghiệp vụ về kỹ thuật, xây dựng để từ đó giúp các cán bộ tín dụng chủ động hơn trong thẩm định, định giá một cách toàn diện hơn về tài sản bảo đảm .
Bên cạnh đó, phải không ngừng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nhân viên đi học trong nước và quốc tế bằng cách giảm bớt khối lượng công việc cũng như hỗ trợ một phần học phí…Tuy nhiên việc đào tạo này phải đem lại hiệu quả thực sự cho ngân hàng, chính vì vậy việc đào tạo cán bộ phải trọng điểm, đào tạo có chọn lọc, tránh tràn lan, lãng phí.
Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, khuyến khích các bài tham luận về những khó khăn, vướng mắc cũng như những kinh nghiệm quý báu, thiết thực trong công tác bảo đảm tiền vay. Trên cơ sở giúp cho những người quản lý có thể nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân viên, cũng như những bất cập cần sửa đổi, từ đó đưa ra các biện pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng. Bên cạnh đó, việc phân công việc phải hợp lý để cho cán bộ đó có thể phát huy hết được năng lực, sở trường của mình.
Thường xuyên kiểm tra, hoặc đôi khi cũng có thể tiến hành đột xuất để phát hiện được những gian lận, sai sót do các bộ phận trong chính chi nhánh tạo ra.
Định kỳ, đánh giá lại chất lượng cán bộ để có hướng sắp xếp cán bộ cho phù hợp với trình độ chuyên môn, cũng như có kế hoạch điều chuyển hoặc tuyển nhân viên mới. Đồng thời trên kết quả đánh giá đó, chi nhánh phải có chế độ thưởng phạt công minh đối với thành tích và khuyết điểm của từng cá nhân, bộ phận để kích thích hiệu quả và chất lượng công việc.
3.2.2. Thực hiện các hình thức bảo đảm tiền vay linh hoạt nhưng an toàn
Hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng các doanh nghiệp Việt Nam (tới 90%). Đây cũng là đối tượng thường xuyên của ngân hàng. Song, đối với loại hình doanh nghiệp này thì tài sản bảo đảm là rất ít thậm chí có thể là không có, vì thế mà để tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng là một điều rất khó. Nhưng với xu thế hội nhập, cạnh tranh, việc áp dụng cứng nhắc các hình thức bảo đảm tiền vay sẽ hạn chế khách hàng đến ngân hàng, như vậy vừa làm giảm lợi nhuận, mất khách hàng, vừa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Do đó, ngân hàng cần kết hợp linh hoạt các biện pháp bảo đảm tiền vay .Đối với ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội cũng vậy, để có thể thực hiện hiệu quả hơn nữa trong công tác bảo đảm tiền vay, góp phần không ngừng mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng thì kết hợp linh hoạt các biện pháp bảo đảm tiền vay là điều hết sức cần thiết. Song cũng phải khẳng định rằng cho vay không có tài sản bảo đảm tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nếu không quản lý tốt sẽ gây nên tổn thất lớn cho ngân hàng. Vì hình thức cho vay này chỉ dựa vào uy tín, đảm bảo cho khoản vay cũng chỉ bằng uy tín. Tuy nhiên uy tín lại là yếu tố định tính, rất khó để đưa ra kết luận chính xác về giá trị. Và theo các chuyên gia, uy tín được cấu thành bởi các yếu tố như: mối quan hệ lâu dài, thường xuyên, trả nợ sòng phẳng, tình hình tài chính lành mạnh, dự án có tính khả thi, hiệu quả….Sự đánh giá về giá trị của mỗi yếu tố chỉ mang tính tương đối. Do đó, chi nhánh cần hết sức trú trọng trong công tác quản lý để có thể thu hồi được nợ đúng hạn, tránh rủi ro cho ngân hàng
3.2.3. Hoàn thiện công tác định giá tài sản bảo đảm
Bên cạnh việc đa dạng hóa tài sản đảm bảo để mở rộng thị phần, thu hút khách hàng thì định giá là công việc hết sức quan trọng trong bảo đảm tiền vay. Định giá chính xác giá trị tài sản, một mặt ngân hàng có được quyết định đúng đắn đưa ra mức cho vay phù hợp, mặt khác sẽ đánh giá được toàn diện những rủi ro có thể xảy ra. Như vậy, khi có những biến động bất thường, ngân hàng sẽ có thế chủ động để đối phó, tối thiểu hóa được rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh sự đa dạng phong phú của tài sản đồng nghĩa với nó là sự phức tạp, khó khăn hơn trong khâu định giá. Do đó, để hoàn thiện công tác định giá, cần có các văn bản hướng dẫn chỉ đạo cụ thể hơn nữa về những tiêu thức định giá cho từng loại tài sản bảo đảm. Đồng thời với những loại tài sản bảo đảm có tính kỹ thuật, chuyên môn cao thì cần kết hợp sự đánh giá của cán bộ thẩm định cùng với những cơ quan chuyên trách để có thể đưa ra kết luận chính xác nhất.
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm càng đa dạng, phong phú càng khó khăn trong khâu quản lý – nhất là đối với SCB – chi nhánh Hà Nội – với quy mô còn nhỏ, số lượng nhân viên còn khiêm tốn thì quả là công việc khó khăn. Do đó, để bảo đảm tài sản vẫn ở trong tình trạng bình thường và kịp thời phát hiện các sự cố liên quan để có biện pháp xử lý, tránh tình trạng giá trị tài sản bảo đảm bị giảm sút so với giá trị tài sản trong hợp đồng, hoặc không tồn tại do khách hàng lừa đảo… thì công tác quản lý tài sản bảo đảm có vai trò quyết định. Quản lý tài sản bảo đảm là quá trình theo dõi, kiểm tra, đánh giá lại tài sản bảo đảm. Cần thực hiện công tác này một cách liên tục, thường xuyên, hoặc bất thường khi phát hiện có những điều bất ổn xảy ra. Nếu không làm tốt điều này, khi có những thay đổi về mặt số lượng cũng như chất lượng do những nguyên nhân chủ quan và khách quan ngân hàng sẽ không phản ứng kịp, gây lên những rủi ro cho ngân hàng.
Do đó, chi nhánh cần tăng cường công tác quản lý tài sản bảo đảm đồng thời tăng cường giám sát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Với chính sách đa dạng hóa tài sản bảo đảm, mỗi loại lại có những đặc điểm khác nhau về hình thức, về tính thanh khoản, tính ổn định cũng như những quy định pháp luật. Vì vậy, chi nhánh cần đưa ra từng chính sách quản lý đối với mỗi loại tài sản. Cụ thể, đối với tài sản là bất động sản như nhà cửa, QSD đất ở, căn hộ…chi nhánh chỉ cần nắm giữ các giấy tờ sở hữu gốc, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng tài sản của khách hàng, đồng thời cập nhập những thông tin về thị trường bất động sản, và các diễn biến của thị trường khác có liên quan để có những thông tin phục vụ cho quá trình quản lý tốt hơn; đối với các tài sản là động sản, trước hết là đối với sổ tiết kiệm, sổ tiền gửi, việc quản lý đơn giản và dễ dàng hơn. Chi nhánh có thể theo dõi và phong tỏa các hoạt động thu chi trên tài khoản của người vay; đối với kỳ phiếu, trái phiếu thì cần kiểm tra ngày đáo hạn; đối với chứng khoán thì bán sát cập nhập thông tin hàng ngày, hàng giờ từ thị trường chứng khoán để có những ứng phó kịp thời vì cho đến thời điểm hiện nay, thị trường này còn khá nhiều bất ổn khó dự đoán; đối với những tài sản thế chấp là hàng hóa, nguyên vật liệu… cần theo dõi và định kỳ đánh giá lại tài sản vì đây là loại tài sản khó quản lý vì nó liên quan đến hao mòn vô hình, sự sụt giá do biến động của thị trường…Song như ta đã biết, rủi ro là tất yếu, khách quan chỉ có thể đề phòng hạn chế chứ không thể loại trừ. Do đó, nếu không quản lý một cách chặt chẽ sẽ gây ra nhiều tổn thất cho chi nhánh. Chính vì vậy, chi nhánh cần phối hợp với các chính quyền địa phương để quản lý tài sản bảo đảm một cách hiệu quả nhất.
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin về bảo đảm tiền vay
Thông tin không cân xứng là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều biến động như hiện nay thì nguồn thông tin có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng các khoản vay. Nếu thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác, có thể làm cho ngân hàng đánh giá sai về khách hàng, bị khách hàng qua mặt, nhưng ngược lại cũng có thể mất đi những khách hàng tiềm năng. Chính vì vậy, hệ thống thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác là một thành công rất lớn của ngân hàng, góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục cho vay và xử lý các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và hợp lý nhất. Do đó, chi nhánh lên chủ động xây dựng một mạng lưới liên quan đến khách hàng vay, giá trị thị trường của tài sản bảo đảm để khi cần thiết có thể sử dụng nhanh chóng, an toàn. Để có thể có làm được điều này, thiết nghĩ:
Thứ nhất, chi nhánh nên thành lập phòng nghiệp vụ chuyên môn chuyên có chức năng thu thập, tổng hợp, phân loại và xử lý thông tin, đồng thời tạo lập mối quan hệ chính thức với các tổ chức, cơ quan hữu quan như: TCTD khác, thuế vụ, hải quan, các tổ chức kiểm toán,.. để bảo đảm có được những thông tin cập nhật, chính xác. Làm tốt được điều này chẳng những giảm thiểu được rủi ro cho chi nhánh, mà còn thu hút được khách hàng, vì khâu thẩm định của chúng ta nhanh hơn, thậm chí có thể bỏ một vài bước. Như vậy ta đã đơn giản hóa thủ tục, giúp khách hàng nhanh chóng có được nguồn vốn mình cần.
Thứ hai, bên cạnh việc xây dựng mạng lưới thông tin dày đặc bao quanh cần trang bị cho cán bộ thẩm định các phương pháp tiếp cận, khai thác nguồn thông tin từ nhiều nguồn: tích cực tiếp cận, cập nhật từ những thay đổi trong đường lối chính sách của các cấp có thẩm quyền, về mọi lĩnh vực kinh tế trong nước và quốc tế, mua thông tin từ các tổ chức chuyên nghiệp, thuê chuyên gia tư vấn thẩm định các thông số kỹ thuật…
Thứ ba, trang bị công nghệ thông tin hiện đại, lắp đặt những phần mềm tiện ích có khả năng tích hợp thông tin từ các phòng ban, từ nhiều nguồn khác…Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần đặc biệt chú ý đến việc bảo mật thông tin. Nếu hệ thống bị đột nhập, phá hoại làm mất thông tin sẽ là một tổn hại nghiêm trọng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3.2.6. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng
Trong mọi nơi, mọi lĩnh vực, ngành nghề không thể thiếu được công nghệ thông tin. Đó là điều tất yếu của xu thế hội nhập, phát triển. Đối với ngân hàng, thì công nghệ thông tin càng thể hiện rõ những ưu việt mà hẳn không có nó con người rất vất vả mới hoàn thành. Chẳng hạn như: công nghệ thông tin giúp kết nối giữa các ngân hàng, ngân hàng trong nước với ngân hàng thế giới, ngân hàng với khách hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Hơn nữa, việc áp dụng công nghệ thông tin sẽ giúp ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giúp hoạt động của ngân hàng được suôn sẻ và nhanh chóng hơn, nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội, công nghệ thông tin đã được áp dụng nhưng chất lượng chưa cao. Trong xu thế hội nhập, nhất là sự cạnh tranh đối với các ngân hàng nước ngoài, thì đây quả là vấn đề bức thiết đối với SCB Hà Nội. Do đó, chi nhánh cần phải cập nhật và áp dụng những phần mềm ứng dụng mới, hiện đại hóa hệ thống máy móc của chi nhánh, tuyển dụng những cán bộ tin học giỏi là yêu cầu cấp thiết, tất yếu.
Trên đây là một số biện pháp nhằm hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại chi nhánh ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội. Song việc bảo đảm tiền vay không chỉ đòi hỏi sự cố gắng của riêng chi nhánh mà còn cần sự hướng dẫn, chỉ đạo của các bộ ngành hữu quan. Do đó để có thể hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay tại chi nhánh nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, em xin có một số kiến nghị dưới đây.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng TMCP Sài Gòn
Trước hết về mặt nhân sự, Ngân hàng TMCP Sài Gòn cần hỗ trợ công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ toàn ngân hàng về các kiến thức quản trị ngân hàng nói chung, về tài sản bảo đảm nói riêng; thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn cũng như đề cử những cán bộ xuất sắc đi đào tạo, học tập ở nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm cũng như nắm bắt xu thế của thế giới, từ đó không ngừng nâng cao khả năng làm việc, đưa ra các quyết định đúng đắn, tạo thêm nhiều khách hàng mà vẫn bảo đảm an toàn và lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng trình độ cán bộ nhân viên, ngân hàng cũng nên quan tâm hơn nữa đến lợi ích của cán bộ nhân viên, đồng thời tạo môi trường làm việc thân thiện hiệu quả, có những chính sách khen thưởng và kỷ luật một cách công bằng.
Về mặt công nghệ, NHTMCP Sài Gòn cần nâng cao hơn nữa chất lượng của các phần mềm sử dụng trong hoạt động bảo đảm tiền vay, cần xây dựng một hệ thống lưu trữ thông tin khách hàng đã đến với ngân hàng, những khách hàng tiềm năng, về tài sản đảm bảo để từ đó tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ có thể tra cứu một cách nhanh chóng. Đồng thời rút ngắn khâu thẩm định khách hàng đối với những khách hàng tiềm năng nâng cao hơn nữa trong hoạt động bảo đảm tiền vay. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần hỗ trợ phần mềm quản lý tại các chi nhánh theo hướng đồng bộ, phù hợp đặc thù của ngân hàng nhằm khai thác tốt nhất dữ liệu trong quá trình tác nghiệp, nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng.
Cuối cùng, ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tình hình thực hiện công tác bảo đảm của từng chi nhánh trực thuộc nhằm phát hiện kịp thời và xử lý kịp thời tránh những rủi ro cho chi nhánh cũng như cho toàn hàng. Công việc này cần thực hiện một cách toàn diện đối với tất cả các chi nhánh, thực hiện thường xuyên và chính xác.
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
Thứ nhất,Các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh trực tiếp của ngân hàng Nhà nước. Do đó để nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô, tăng cường quản lý tín dụng, nhằm bảo đảm thị trường tài chính hoạt động ổn định và cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn các việc hạ thấp tiêu chuẩn, nguyên tắc tín dụng để cạnh tranh thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, buộc các tổ chức tín dụng phải thực hiện một cơ chế tín dụng thống nhất, một hệ thống các biện pháp bảo đảm tiền vay để tạo ra sự lành mạnh, công bằng trong hoạt động tín dụng. Những sai phạm phải xử lý kịp thời và nghiêm túc đối với mọi đối tượng tham gia, cả trong và ngoài quốc doanh.
Thứ hai, NHNN nên chủ động phối hợp với các Bộ Tư pháp, Bộ tài chính, Bộ Công an, Tổng cục địa chính…nhằm sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm nhằm xúc tiến hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay.
Thứ ba, NHNN tăng cường thoi dõi, kiểm tra, giám sát, để từ đó nắm bắt được những khó khăn vướng mắc trong công tác bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng, từ đó đệ trình kịp thời lên Chính Phủ, Quốc hội nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời. Chẳng hạn như tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến việc nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, quyền thuê đất đòi hỏi NHNN Việt Nam cần tham mưu cho Thủ Tướng Chính phủ đề xuất lại với Chính phủ, Quốc hội có thể sửa đổi bổ sung kịp thời luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật thuế chuyển quyền sử dụng đất để có thể miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho các TCTD, thuế chuyển nhượng tài sản nói chung và quyền sử dụng đất nói riêng trong những trường hợp phải xử lý để thu hồi nợ. Nếu kiến nghị này không được chấp thuận thì ít nhất cũng lên giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp xuống dưới mức hợp lý.
3.3.3.Kiến nghị với Chính Phủ
Trên cơ sở nhận diện các bất cập trong thực tiễn thực hiện về bảo đảm tiền vay, em xin có một vài kiến nghị như sau:
Trước hết, chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, Ban ngành hoàn thiện các văn bản pháp luật và các chính sách liên quan đến bảo đảm tiền vay.
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau quy định về biện pháp bảo đảm như: các quy định về thế chấp quyền sử dụng đất của pháp luật về đất đai (Luật đất đai năm 2003); các quy định về thế chấp, cầm cố, bảo lãnh trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, hàng không, hàng hải (Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật hàng hải)... Tuy nhiên, trong nội dung các quy định này có nhiều vấn đề không còn phù hợp và việc áp dụng các quy định về biện pháp bảo đảm còn có điểm chưa thống nhất, gây lúng túng cho các cơ quan, người thực hiện, kể cả chủ thể áp dụng pháp luật. Mặt khác, trong xu thế ngày càng phát triển, thì những văn bản, quy định, hướng dẫn về bảo đảm tiền vay còn nhiều bất cập, chưa thực sự bắt nhịp được với những yêu cầu về đa dạng, phong phú của thực tiễn cuộc sống, chưa thích ứng được với yêu cầu, đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay là rất cần thiết. Để làm được điều đó, Chính Phủ cần đi sâu nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng chéo giữa các văn bản của các cơ quan, quán triệt các định hướng chủ yếu sau:
Một là, phải gắn với việc khẳng định Bộ luật Dân sự là đạo luật gốc điều chỉnh các quan hệ tư. Điều đó có nghĩa là hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay trước hết cần phải được hoàn thiện thông qua việc thiết lập các quy định chung về giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự.
Hai là, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay cần phải nâng cao hơn nữa tính tự chủ, quyền tự do cam kết thỏa thuận giữa các bên, kết hợp đề cao nguyên tắc tự chịu trách nhiệm của các bên về quyết định của mình trong trong quan hệ bảo đảm. Khi đó, các bên có thể chủ động, linh hoạt trong việc giải quyết các tình huống phát sinh ngoài dự kiến một cách thông thoáng hơn, tiết kiệm thời gian và chi phí.
Ba là, việc thiết lập hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay cần đảm bảo sự thuận tiện rõ ràng trong giao dịch bảo đảm, quy định rõ thứ tự ưu tiên thanh toán của các bên. Có như vậy mới tạo được hiệu quả trong việc xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Từ đó nâng cao hiệu quả về an toàn trong hoạt động tín dụng, đồng thời nâng cao trách nhiệm hơn nữa của người vay, giảm thiểu rủi ro đạo đức của người vay.
Bốn là, trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cần được xem xét dưới nhiều góc độ, trong đó đặc biệt chú trọng tới các quy định về sở hữu, về hợp đồng,…từ đó là cơ sở để bảo vệ được quyền và lợi ích công bằng cho các bên tham gia trong giao dịch.
Chính phủ cần có hướng dẫn, quy định cụ thể về quyền sở hữu tài sản
Thực tế về thế chấp máy móc thiết bị là cho ta thấy những hạn chế cần được khắc phục. Theo Nghị quyết số 11 ngày 01/07/2000 của Chính phủ về một số giải pháp điều hành phát triển kinh tế xã hội quy định thì “ đối với khách hàng là doanh nghiệp khi cầm cố tài sản là máy móc, thiết bị… mà pháp luật chưa quy định phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu thì chỉ cần giấy tờ chứng minh tài sản hợp pháp và cam kết với các TCTD là tài sản đó thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, không có tranh chấp là đủ”. Song thực tế việc xác định số lượng giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp là bao nhiêu, xác minh tính hợp pháp của giấy tờ đó như thế nào không hề đơn giản. Do đó trong trường hợp NHTM phải xử lý tài sản đảm bảo đó để thu nợ thì sẽ chịu thiệt thòi do không đủ giấy tờ hợp lệ, thậm chí là mất vốn nếu khách hàng cố tình lừa đảo. Chính vì vậy, Chính Phủ cần có chương trình cấp quyền sở hữu đối với tài sản có giá trị như: máy móc,dây chuyền sản xuất, nhà cửa… và cung cấp công khai các thông tin về quyền sở hữu đó.
Chính phủ cần có quy định về việc mua bảo hiểm cho tài sản bảo đảm
Chính Phủ cần quy định rõ loại tài sản nào bắt buộc phải mua bảo hiểm, loại tài sản nào không nhất thiết phải mua. Có như vậy, vừa bảo vệ được quyền lợi của các TCTD, vừa tạo được sự thống nhất trên toàn hệ thống. Đồng thời, Chính Phủ cũng cần quy định rõ mức phí áp dụng cho mỗi loại tài sản đảm bảo trên cơ sở những thông tin sau: giá trị tài sản, tốc độ hao mòn của tài sản, thời hạn vay, quy mô khoản vay…để tránh trường hợp không đồng bộ trong quy định về mức phí giữa các công ty bảo hiểm gây khó khăn cho hoạt động của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
Chính Phủ cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm hạn chế tổn thất cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm bao gồm các hình thức về xử lý tài sản bảo đảm, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm, đồng thời thành lập thêm nhiều trung tâm đấu giá mang tính chuyên nghiệp trong phạm vi cả nước nhằm thực hiện nhanh chóng thuận tiện cho các bên khi phải xử lý tài sản bảo đảm mà cần có sự tham gia của trung tâm bán đấu giá.
chấp thuận thì ít nhất cũng lên giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp xuống dưới mức hợp lý.
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng thương mại không ngừng lớn mạnh và phát triển, ngày càng khẳng định vị trí trụ cột của nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên bên cạnh những thành công gặt hái được là đầy rẫy những trở ngại khó khăn cần khắc phục. Và một trong những khó khăn đó đã được đề cập trong đề tài là những vướng mắc còn tồn tại trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo đảm tiền vay hay cụ thể hơn là việc áp dụng, triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Do đó việc hoàn thiện bảo đảm tiền vay luôn là mục tiêu để các ngân hàng hướng tới. Tuy nhiên, quá trình tự hoàn thiện là một quá trình lâu dài, là quá trình phấn đấu bền bỉ, là sự vượt lên chính mình để tồn tại và phát triển. Vì vậy, làm thế nào để các giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay thực sự là lá chắn, là tấm nệm an toàn cho đồng vốn sinh sôi nảy nở luôn là một bài toán khó không chỉ đối với các nhà lãnh đạo ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội mà còn là mối quan tâm của cả hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội nói riêng, các ngân hàng thương mại nói chung cần cố gắng hết mình trong công cuộc xây dựng, triển khai thực hiện bảo đảm tiền vay vì nếu không làm tốt dẫn tới rủi ro cho chi nhánh, thậm chí có thể ảnh hưởng dây truyền tới toàn hệ thống ngân hàng, từ đó sẽ ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
Tuy nhiên việc tổ chức và thực hiện tốt công tác bảo đảm tiền vay không phải là công việc đơn giản có thể thực hiện được trong một sớm một chiều mà đây là chiến lược lâu dài. Để thành công không những cần sự cố gắng của bản thân chi nhánh mà còn cần sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời thường xuyên của các bộ, ngành hữu quan.
Với những kiến thức được học, cùng bầu nhiệt huyết của một sinh viên sắp tốt nghiệp cũng như những gì lĩnh hội được sau gần ba tháng thực tập, em hy vọng với những phân tích, nhận định, giải pháp, kiến nghị…được đề cập trong bài viết này có thể ứng dụng không chỉ trong chi nhánh mà còn có thể áp dụng cho các ngân hàng thương mại. Với những gì đã trình bày, em tin mình đã đóng góp một phần nhỏ bé cùng chung sức với các cán bộ tâm huyết của ngân hàng tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tiền vay đối với chi nhánh nói riêng và với toàn hệ thống ngân hàng thương mại nói chung.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY
TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI 4
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Các loại hình cho vay 8
1.2. Hoạt động bảo đảm tiền vay của các ngân hàng thương mại 8
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay 8
1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động bảo đảm tiền vay đối với ngân hàng 9
1.2.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay 10
1.2.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản 11
1.2.3.2. Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản 19
1.2.4. Quy trình thực hiện các nghiệp vụ bảo đảm tiền vay 21
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay 25
1.3.1. Các nhân tố chủ quan 25
1.3.2. Các nhân tố khách quan 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG
TMCP SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI 29
2.1. Khái quát về ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội 32
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động 32
2.1.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội 34
2.1.2.1. Tình hình huy động vốn 35
2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn 38
2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ 44
2.1.2.4. Kết quả hoạt động kinh doanh 46
2.2. Thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh
Hà Nội 46
2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng
TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội 46
2.2.2. Quy trình bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn –
chi nhánh Hà Nội 48
2.2.3. Các hình thức thực hiện bảo đảm tiền vay 53
2.2.3.1.Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp tài sản 54
2.2.3.2. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay 60
2.2.3.3. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba 61
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện bảo đảm tiền vay tại ngân hàng
TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội 63
2.3.1. Những kết quả đạt được 63
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 65
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TIỀN
VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI 71
3.1. Phương hướng hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội năm 2008 71
3.1.1. Định hướng chung về hoạt động cho vay 71
3.1.2. Quan điểm định hướng chung về đảm bảo tiền vay 72
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội 74
3.2.1. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng 74
3.2.2. Thực hiện các hình thức bảo đảm tiền vay một cách linh hoạt
nhưng an toàn 76
3.2.3. Hoàn thiện công tác định giá tài sản bảo đảm 77
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý tài sản bảo đảm 77
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin về bảo đảm tiền vay 79
3.2.6. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của
ngân hàng 80
3.3. Kiến nghị 81
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng TMCP Sài Gòn 81
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước 82
3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ 83
PHẦN KẾT LUẬN 87
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Bảng 2.9:
Tình hình huy động vốn của SCB – chi nhánh Hà Nội
Tình hình dư nợ tại chi nhánh năm 2006 – 2007
Tình hình dư nợ theo tính chất nợ năm 2006 -2007
Chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của chi nhánh năm 2006–2007
Dư nợ cho vay theo hình thức bảo đảm
Tình hình cho vay có bảo đảm bằng cầm cố 2006 – 2007
Dư nợ cho vay theo hình thức thế chấp 2006 – 2007
Tình hình dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba
Biểu đồ 2.1:
Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ 2.3:
Biểu đồ 2.4:
Biểu đồ 2.5:
Biểu đồ 2.6:
Cơ cấu huy động vốn theo đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp
Cơ cấu dư nợ theo kì hạn năm 2006 – 2007
Cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp
Cơ cấu cho vay theo ngành năm 2006 – 2007
Tình hình nợ quá hạn tại SCB Hà Nội
Tình hình nợ quá hạn có thế chấp 2006 -2007
Sơ đồ 2.1:
Cơ cấu tổ chức của NHTM cổ phần Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTMCP:
NHTM:
NHNN:
NSNN:
QSD:
TCTD:
SCB:
TCKT:
TNHH:
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà Nước
Ngân sách nhà nước
Quyền sử dụng
Tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn
Tổ chức kinh tế
Trách nhiệm hữu hạn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11231.doc