Giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Thị trường chứng khoán đã ra đời cách đây hàng mấy thế kỷ. Đây là kênh bổ sung các nguồn vốn dài hạn quan trọng cho Nhà nước và các doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, một yếu tố hạ tầng cơ sở quan trọng của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đều tồn tại một thị trường chứng khoán, nhất là ở những nước có lực lượng sản xuất phát triển nhất hiện nay như Nhật Bả

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2050 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, Hoa Kỳ, Anh, Thuỵ Sỹ… ở nước ta, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết đổi mới do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhưng cũng chính trong quá trình phát triển đó đang đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán để làm cầu nối giữa một bên là các nhà đầu tư bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và đông đảo dân chúng có tiền nhàn rỗi với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn để kinh doanh và Nhà nước cần tiền để thoả mãn các nhu cầu chung của nền kinh tế - xã hội, cùng với sự hình thành các thị trường khác, sự hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam sẽ làm cho bộ khung của nền kinh tế thị trường ở nước ta thêm hoàn thiện. Tuy nhiên, ở Việt Nam thị trường chứng khoán là một phạm trù kinh tế hết sức mới mẻ không những cả về lý thuyết và thực hành, không những đối với dân chúng mà đối với cả các cán bộ, viên chức và những nhà kinh doanh. Trong khuôn khổ đề tài này, em xin trình bày về vấn đề: "Giải pháp hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay". Vì thị trường chứng khoán đối với nước ta là vấn đề mới, nên đề án không khỏi có những sơ suất. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Phần I: Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường I- Khái niệm về thị trường chứng khoán. Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá, chứng nhận sự góp vốn hay cho vay dài hạn đối với chủ thể phát hành. Theo Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì chứng khoán được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán là một công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng lồ, tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà nước và tư nhân. Chứng khoán bao gồm: + Cổ phiếu + Trái phiếu + Chứng chỉ quỹ đầu tư + Các loại chứng khoán khác Thị trường chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ nơi hoặc cơ chế giao dịch, mua bán chứng khoán (trung hạn, dài hạn). II- Cơ cấu của thị trường chứng khoán II.1. Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán mà thị trường chứng khoán có thể được chia làm hai cấp. a. Thị trường sơ cấp (Primary Market) Còn gọi là thị trường phát hành hay thị trường cấp một: là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu ra thị trường của các doanh nghiệp, các công ty cổ phần hay của Nhà nước. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Việc phát hành chứng khoán ra thị trường có thể được công khai bán qua Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) hoặc cũng có thể bán riêng. Thông thường việc phát hành chứng khoán được thực hiện qua các tổ tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, Công ty chứng khoán hoặc Công ty tài chính thị trường thứ cấp (Secondary Market). Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu hành, là nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán sau lần đầu tiên. Hay nói cách khác, đây là thị trường sơ cấp. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp hoàn toàn không làm tăng nguồn vốn cho các chủ phát hành ra nó. Tuy vậy, việcmua cổ phiếu sẽ là một yếu tố quan trọng khi đánh giá doanh nghiệp và nó cũng là cơ sở để hình thành nên giá cả cổ phiếu bán ra thị trường sơ cấp ở lần phát hành sau: II. 2. Căn cứ vào phương tiện pháp lý, TTCK được chia làm hai loại: Thị trường gọi là thị trường chứng khoán tập trung, là thị trường hoạt động theo đúng các quy luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu ( listd registeredseuritier). Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm và và bán qua trung gian các nơi và Công ty môi giới. Chứng khoán biệt lệ là loại được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành phố, tỉnh, quận huyện…. phát hành và bảo đảm. Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời điểm mua bán rõ rệt và giá cả, được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội đồng chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện chủ yếu bằng các cơ sở giao dịch chứng khoán (SG DCK). SGDCK giúp cho việc mua bán chứng khoán được thuận tiện, dễ dàng, hợp pháp, giúp cho quá trình giao lưu vốn được hài hoà và phát triển. SGDCK không tham gia vào việc mua bán chứng khoán cũng như kiểm soát việc mua bán chứng khoán và chỉ có nhiệm vụ tổ chức đấu giá chứng khoán theo đúng nguyên tắc cạnh tranh và quan hệ cung cầu cuả thị trường và đóng vai trò là quan toà xử lý các vi phạm lừa đảo trong mua bán chứng khoán. - Đối với Công ty phát hành, SGDCK cung cấp các dịch vụ về phát hành, giúp các Công ty cổ phần được đăng ký mua bán chứng khoán trên thị trường giúp cho việc huy động vốn của Công ty này đạt yêu cầu về số lượng giá trị và thời hạn. - Đối với các nhà đầu tư, SGDCK phục vụ những nhu cầu đầu tư của khách hàng thông qua hoạt động của các chuyên gia chứng khoán. Các chuyên gia chứng khoán là các nhà môi giới, tư vấn, hướng dẫn khách hàng trong giao dịch chứng khoán. SGDCK với hoạt động của mình luôn luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Chính điều này đã thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán. Vì vậy, vai trò của các SGDCK quyết định đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán quốc gia. Thị trường chứng khoán phi chính thức (thị trường OTC). Hay còn gọi là thị trường chứng khoán không tập trung, là thị trường mua bán chứng khoán bên ngoài SGDCK, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như SGDCK. ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài (Hội đồng chứng khoán), không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán. Các chứng khoán liên hệ ở đây thường là loại không đăng biểu, ít người biết đến hay ít được mua bán. Lúc đầy thị trường này chỉ là thị trường tự phát nhỏ bé tồn tại một cách khách quan do nhu cầu mua bán những chứng không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên SGDCK, nhưng dần dần nó trở nên lớn mạnh với giá trị thị trường giao dịch không thua kém thị trường chính thức đồng thời mua bán luôn cả những chứng khoán đã được niêm yết. II.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch TTCK được chia làm hai loại. Thị trường giao ngay (Spot Market) Còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo một quy định. Thị trường tương lai (Future Market). Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định ở tương lai. Ngoài những tiêu thức đã nêu trên, nếu căn cứ vào đặc điểm các loại sản phẩm lưu hành trên TTCK, TTCK được chia làm 3 loại: - Thị trường cổ phiếu. - Thị trường trái phiếu. - Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán. III- Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế. TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Qua lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường của các quốc gia phát triển, TTCK có ý nghĩa quan trọng trong đặc biệt đối với sự tăng trưởng của một quốc gia, nó có những vai trò cụ thể sau: 1. Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Vai trò quan trọng đầu tiên của TTCK là thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, khuyến khích dân chúng tiết kiệm để hình thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế cũng như tài trợ cho các nhu cầu tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. TTCK là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không những trong nước mà cả nước ngoài. Qua tìm hiểu hoạt động của một số TTCK, chúng ta thấy nó huy động được một số vốn đáng kể. Đối với những TTCK kỳ cựu như New yorle, London, Tokyo, số vốn huy động có thể lên tới hàng ngàn tỷ USD. Còn đối với những thị trường chứng khoán trong khu vực chỉ mới hoạt động cách đây 20-30 năm nhưng cũng huy động được số vốn đáng kể như Đài Bắc. 119 tỷ USD, Seoul 114 tỷ USD, kuala Lumpur 58 tỷ USD, Singapore 41 tỷ USD, Bangkole 27 tỷ USD. Sự tồn tại của TTCK là yếu tố quyết định thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bởi họ đầu tư vào chứng kohán không chỉ đơn thuần để hưởng lãi, mà còn hưởng chênh lệch giá khi giá chứng khoán lên cao và hưởng giá trị cổ phần tăng khi công ty làm ăn phát đạt. Đối với nước ta với nguồn vốn còn tiềm tàng trong nhân dân chưa đựơc đưa vào sản xuất kinh doanh thì việc TTCK song hành với sự ra đời của các công ty cổ phần là một chiến lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài. 2. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn, có hiệu quả hơn. Đối với các nhà đầu tư, lợi ích việc đầu tư vốn vào các giá trị động sản phải dựa vào khả năng linh động tức thì của chứng khoán kể cả lúc mua cũng như lúc bán. Điều này khác với đầu tư theo lối cổ điển, theo đó vốn bị đọng trong một thời gian đôi khi là khá dài. TTCK giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu: khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất thì doanh nghiệp đó có thể phát hành các loại chứng khoán vào thị trường để huy động vốn. Phương thức tài trợ vốn này có tên là "vay vốn qua phát hành". Thông qua phương thức này, doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ, những người này mong muốn đầu tư vốn nhàn rỗi của mình vào các giá trị động sản. Các doanh nghiệp phát hành ra các cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua. Khi phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp tăng nguồn vốn tự có thông qua việc tăng vốn bằng góp tiền cổ phần. Còn khi phát hành trái phiếu các doanh nghiệp tăng nguồn vốn vay dân. Ngược lại, khi các doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như lấy một tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển thành tiền khi cần thiết, thông qua TTCK. Hơn nữa TTCK còn giúp các doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu. Việc sáp nhập, mở rộng hoạt động các doanh nghiệp đều có thể thực hiện thông qua TTCK. Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như là mua bán chính tài sản của các doanh nghiệp nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được duy trì và phát triển. Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi mà nó sẽ được bán vào tay một số cổ đông khác và các cổ đông mới này sẽ tiếp tục duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp. 3. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai. Việc các doanh nghiệp có yết giá buộc phải cung cấp đều đạt các thông tin về hoạt động của họ cho phép các nhà đầu tư có cách nhìn khá chính xác về doanh nghiệp đó. Sự hình thành thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp trên TTCK đã bao hàm sự đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị giá cổ phiếu (cao hay thấp) biểu hiện mức độ đầu tư tài chính, trạng thái kinh tế của doanh nghiệp, đặc biệt là mức độ cổ tức các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu (chênh lệch giữa giá thị trường và mệnh giá) thể hiện khả năng mang lại lợi tức và thu thập của doanh nghiệp cho các cổ đông của mình. Thường thì những cổ phiếu có cổ tức cao thường có giá trị thị trường cao, chỉ có những doanh nghiệp làm ăn tốt mới có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ doanh nghiệp có ban quản lý tốt mới có khả năng ăn nên làm ra. Tuy nhiên, cũng có những cổ phiếu chỉ có cổ tức khiêm tốn, nhưng vẫn có giá trị thị trường cao vì đó là những doanh nghiệp có tiến bộ khoa học kỹ thuật và hứa hẹn nhiều lãi trong tương lai, những doanh nghiệp này phát triển nhanh đòi hỏi vốn lớn và vì thế phần lớn lợi nhuận hàng năm được giữ lại làm vốn kinh doanh, phần lợi nhuận để trả cổ tức sẽ thấp hơn các doanh nghiệp khác. 4. TTCK là "phong vũ biểu" của nền kinh tế. Ngoài công cụ đánh giá doanh nghiệp TTCK còn là "phong cũ biểu" của nền kinh tế. Với phương pháp chỉ số hoá thị giá các loại chứng khoán chủ yếu trong nền kinh tế và việc nghiên cứu phân tích một cách khoa học, có hệ thống chỉ số giá chứng khoán trên các thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với thị trường thế giới cho phép dự đoán trước được sự biến động kinh tế, dự đoán được tương lai kinh tế của một hoặc hàng loạt các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, nghiên cứu sự biếnđộng thị giá trái phiếu trên thị trường chứng khoán cũng cho phép được một cách gián tiếp tỷ lệ lãi suất mà các nhà kinh doanh chứng khoán thu được qua khoản cho vay dài hạn dưới hình thức trái phieéu. Đây là một chỉ số nói lên mức độ tin cậy của nhà đầu tư trước diễn biến của các rủi ro tiền tệ (mức độ lạm phát dự đoán) và rủi ro tài chính (khả năng thanh toán của tổ chức phát hành). 5. Công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt kinh tế, Nhà nước vay tiền của dân là thiết thực và lành mạnh vì Chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông, tạo sức ép lạm phát. Ngày nay hầu hết các quốc gia, việc Nhà nước phát hành trái phiếu thông qua TTCK vay tiền của dân là biện pháp thường xuyên và có kỹ thuật tiên tiến. Nếu là trái phiếu kho bạc, đó là nguồn thu thường xuyên của ngân sách, vốn huy động được hoà vào nguồn thu thuế, phục vụ cho các chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Nếu là trái phiếu có mục đích, nguồn thu đó được sử dụng vào những mục đích đã định. Có TTCK tập trung, có việc phát hành, có việc mua đi bán lại trái phiếu theo đúng tính chất thị trường, thì việc phát hành trái phiếu của Nhà nước sẽ rất tiện lợi. 6. TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá. Kết quả cuối cùng của cổ phần hoá là chuyển từ một doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước thành một công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty. Cổ phần hoá là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần, đòi hỏi phải có TTCK. Bởi vì TTCK là Công ty cổ phần đi đôi với nhau như hình với bóng. Với những nguyên tắc hoạt động: trung gian, đấu giá và công khai. TTCK sẽ là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự của luật pháp và phù hợp với tâm lý của người dân đầu tư. Chỉ có thông qua TTCK thì Nhà nước mới có thể thực hiện được cổ phần hoá đối với bất kỳ loại doanh nghiệp nào. Vì TTCK là nơi tập trung được toàn bộ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà đầu tư. IV- Những mặt tiêu cực có thể phát sinh trong thị trường chứng khoán. Như đã nêu trên, TTCK có vai trò rất tích cực trong việc huy động vốn đầu tư. Hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều có TTCK, kể cả quốc gia đang phát triển, đang chuyển đổi kinh tế như nước ta. Song nó chỉ thực sự phát huy khi hoạt động tốt, đảm bảo sự lành mạnh cần thiết. Nhưng bên cạnh đó, TTCK cũng có nhiều mặt tiêu cực cần phải phòng tránh để hạn chế thấp nhất những rủi ro, tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó. 1. Bán khống. Bán khống là thuật ngữ dùng để chỉ việc các nhà đầu tư bán chứng khoán mà họ chưa có quyền sở hữu. Trong thực tế việc bán khống đem lại lợi nhuận rất cao cho các nhà đầu tư nếu họ tiên đoán đúng xu hướng của thị trường. Nhưng đây là một hành vi lũng đoạn thị trường tạo ra nhu cầu giả tạo về chứng khoán. 2. Mua bán nội gián. Mua bán nội gián là hành vi của những kẻ lợi dụng quyền hành hay sự ưu tiên trong việc nắm giữ những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế có phát hành chứng khoán ra thị trường để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường và phương hại đến các nhà đầu tư khác. Mua bán nội gián được xem như là phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau: 3. Thông tin sai sự thật. Đây là một hành vi thiếu đạo đức nhằm mục đích làm cho giá cổ phiếu của công ty khác sụt giảm hoặc giá cổ phiếu công ty mình được tăng cao do việc phao tin đồn thất thiệt trên thị trường. Người phao tin đồn thất thiệt có thể được hưởng lợi do việc mua với giá thấp cổ phiếu của công ty khác để khống chế công ty và sau đó chờ khi thông tin được kiểm chứng sẽ bán ra với giá cao hơn. 4. Đầu cơ chứng khoán, lũng đoạn thị trường. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng là giá sẽ tăng trong tương lai để thu được lợi nhuận trong từng thương vụ. Trên TTCK, các nhà đầu tư có quyền ngang bằng nhau trong việc lựa chọn thời cơ mua và bán chứng khoán nhằm đem lại lợi ích cho bản thân họ. Hoạt động đầu tư làm tăng doanh số giao dịch thị trường, tăng tính thanh khoản của chứng khoán. Nhưng nếu những nhà đầu tư cấu kết với nhau để mua hoặc bán chứng khoán với số lượng lớn gây nên cung hay cầu giả tạo, làm giả cổ phiếu tăng đột biến, lũng đoạn thị trường thì đây lại là hành vi tiêu cực cần phải ngăn cấm. Nói chung, lụât về chứng khoán không cấm đầu cơ, nhưng cấm sự cấu kết dưới mọi hình thức. Những mặt tiêu cực nêu trên và nhữgn biến tướng tinh vi của nó có thể được hạn chế và khắc phục bằng việc ban hành một số hệ thống luật lệ hoàn chỉnh và có sự giám sát chặt chẽ, thường xuyên của uỷ ban chứng khoán quốc gia. Phần II: Thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa trong đời sống kinh tế chính trị – xã hội của Việt Nam trong năm 2000 đó là việc khai trước trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (TTGDCK) vào ngày 20/07/2000. Sau đó 8 ngày tức ngày 28/07/2000, vào lúc 11 giờ, phiên giao dịch đầu tiên của TTCK Việt Nam được thực hiện và được đánh giá là thành công ngoài dự kiến. Hoạt động của TTGDCK còn đang ở những bước thử nghiệm, song nó cũng cho phép rút ra một số đánh giá tổng quát về TTCK Việt Nam hiện nay. II.1. Những kết quả đạt được. Sau một năm kể từ khi TTGDCK ra đời, TTCK Việt Nam đã đạt được một số kết quả: Đã có những bước tiến đáng kể về quy mô thị trường, cả về số lượng lẫn chất lượng chứng khoán. Số lượng các công ty niêm yết tăng nhanh. Tính đến ngày 31/12/2001 đã có 10 loại cổ phiếu được cấp giấy phép. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết diễn ra theo chiều hướng tốt, các công ty đều có lãi và trả cổ tức cao, hấp dẫn người đầu tư. Hầu hết các công ty đều có tốc độ tăng trưởng khá cao, hoạt động kinh doanh diễn ra thuận lợi. Bên cạnh đó, các công ty niêm yết trên TTCK còn được hưởng ưu đãi về thuế, tăng uy tín của công ty trên thị trường… nên hoạt động kinh doanh của các công ty được hỗ trợ tích cực. Tổng khối lượng giao dịch trong năm 2001 là 19.028.200 cổ phiếu với tổng giá trị 964,5 tỷ đồng, chiếm 93,2 tổng giá trị thị trường. Hoạt động thị trường diễn ra suôn sẻ, công tác quản lý, tổ chức được nâng cao. Đội ngũ cán bộ ngành chứng khoán đã có những bước tiến bộ cùng với kiến thức và kinh nghiệm quản lý ngày càng được vững vàng, được tích luỹ qua thực tế thị trường. Đội ngũ cán bộ này sẽ là nòng cốt, đóng vai trò quan trọng trong công việc hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Số lượng công ty cổ phần tăng lên, việc phân phối cổ phiếu, trái phiếu được thuận lợi. Công chúng đầu tư có sự quan tâm hơn tới sự phát hành và niêm yết cổ phiếu của các công ty cổ phần. Tuy hoạt động của thị trường trong thời gian qua đã có những thành công cơ bản, song thực tế, tổ chức hoạt động thị trường còn nhiều khó khăn và còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để thực hiện được vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế. II.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân. 1. Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường còn ít. Ngay từ khi đi vào hoạt động, với đặc điểm của TTCK Việt Nam là quy mô quá nhỏ, dễ dàng bị tác động bởi các nhà đầu tư lớn, sự hiểu biết về TTCK còn sơ khai và tâm lý ban đầu là tham gia để biết. Thực tế quy mô thị trường là quá nhỏ bé; tổng số lượng cổ phiếu niêm yết: 30.208.000 cổ phiếu, trong đó số đủ điều kiện giao dịch là 21.466.399 cổ phiếu chiếm 71% (tuy nhiên chỉ có khoảng 35% trong số này được lưu ký. Trái phiếu chính phủ cũng đã tổ chức đấu thầu nhưng ít có người mua và bán, trái phiếu công ty chưa thấp xuất hiện trên TTGDCK, kể cả trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển đã được cấp giấy phép niêm yết. Mặc dù ở Việt Nam hiện nay, trong số 660 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá, có khoảng gần 80 công ty đủ điều kiện niêm yết, nhưng các công ty này chưa chịu đăng ký niêm yết. Vật đâu là nguyên nhân làm cho nhiều doanh nghiệp chưa muốn niêm yết? Có thể kể ra những nguyên nhân sau: Một là: Công tác tuyên truyền, giáo dục và lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng chưa được đẩy mạnh. Nhiều doanh nghiệp có phần lớn cán bộ chưa qua đào tạo chứng khoán và TTCK. Hai là: Chưa có những dự án lớn để phát sinh nhu cầu huy động thêm vốn đối với các doanh nghiệp. Mặt khác TTCK đối với Việt Nam là quá mới mẻ nên họ chưa có sự chuẩn bị tốt, chưa có kế hoạch tham gia thị trường. Ba là: Ngại phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh, sợ đối thủ cạnh tranh biết và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh cũng như thị phần của mình. Ba là: Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 90%). Như vậy các doanh nghiệp này chưa thể hội đủ điều kiện về phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết như: Những điều kiện về quy mô vốn, tính công chúng hoá sở hữu chứng khoán. 2. Khuôn khổ pháp lý hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ. Nghị định 48/1998/NĐ-CP là văn bản pháp luật cao nhất về chứng khoán và TTCK. Nghị định này được nc và ban hành trong điều kiện ta chưa có TTCK, vì vậy khi triển khai có những hạn chế nhất định như: chưa phân định rõ về phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán; chưa thể hiện rõ nguyên tắc và cơ chế giao dịch; chưa phân định cụ thể vai trò TTGDCK và Uỷ ban chứng khoán Nhà nước trong việc quản lý, giám sát thị trường; mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ chưa rõ ràng và thiếu tính hiện thực; một số chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa được ban hành đồng bộ; quy định về chính sách thuế và quản lý ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài chưa được ban hành. 3. Hệ thống giao dịch chứng khoán còn hạn chế. Hệ thống giao dịch hiện nay là hệ thống dấu lệnh tập trung, khớp lệnh định kỳ. Hệ thống này chỉ phù hợp với giai đoạn đầu của TTCK. Mặt khác, hệ thống này chưa có chức năng cảnh báo, giám sát, vì vậy phần nào cũng có hạn chế trong việc quản lý. 4. Các tổ chức trung gian tài chính còn ít và hoạt động đơn điệu. Các công ty chứng khoán hiện nay mới chỉ tập trung vào nghiệp vụ môi giới trong phạm vi các địa bàn nơi công ty đóng trụ sở. Các hoạt động nghiệp vụ khác như bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư chưa được triển khai đồng bộ. Cho đến nay chưa có một quỹ đầu tư chứng khoán nào được thành lập; các công ty quản lý quỹ đầu tư, công ty xếp hạng tín nhiệm chưa được hình thành. Từ những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn tại nêu trên, chúng ta có thể đề ra những giải pháp để phát huy những thành tựu đã đạt được và giải quyết những hạn chế, tồn tại của TTCK Việt Nam hiện nay. Phần III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. I.. Các mục tiêu cụ thể của thị trường chứng khoán Việt Nam. I.1. Định hướng xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần tứh 9 đã xác định: “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường bao gồm thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ"… kể cả trong nước và ngoài nước. Trên cơ sở đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với mục tiêu tổng quát là: “Củng cố, phát triển TTCK Việt Nam, bao gồm cả thị trường tập trung và thị trường không tập trung, hoàn chỉnh môi trường pháp lý, môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh tốc độc chu chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần ổn định điều hoà lưu thông tiền tệ". I.2. Các mục tiêu cụ thể phát triển của TTCK Việt Nam. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược trên, trong giai đoạn tới, các mục tiêu cụ thể phát triển TTCK Việt Nam là: 1. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. 2. Thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia TTCK, mở rộng môi trường đầu tư có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, lành mạnh hoá TTCK Việt Nam. 3. Hỗ trợ tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động, phát huy vai trò của các công ty chứng khoán trong thị trường với tư cách là trung gian tài chính. Để đạt được những mục tiêu nói trên, đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK cũng như các cơ quan chức năng có liên quan phải có nỗ lực cao trong việc hoạch định và thực thi các chính sách phù hợp quy luật của thị trường vốn, thị trường chứng khoán, trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. II- Những giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK ở Việt Nam. II.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường. Về lâu dài, cần phải xây dựng Luật chứng khoán. Trước mắt, nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị định mới về CK&TTCK để thay thế Nghị định 48/1998/NĐ CP. Nghị định này cần bổ sung vào những nội dung hoạt động giao dịch Bảng 2 theo đề án đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt và bổ sung sửa đổi những vấn đề khác có liên quan. Vấn đề quan trọng là phân định rõ tiêu chuẩn niêm yết trên Bảng 1 và Bảng 2. Các nội dung khác như phát hành chứng khoán ra công chúng niêm yết, giao dịch, thanh toán bù trừ, đăng ký lưu ký, giám sát thanh tra… được bổ sung và sửa đổi phù hợp và áp dụng chung cho cả hai bảng giao dịch. Các văn bản pháp lý khác bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật tổ chức tín dụng, Luật thương mại, Lụât thuế, Luật kế toán… cần có sự đồng bộ và thống nhất với Luật chứng khoán. Trước mắt cần bổ sung và hoàn chỉnh các quy định về quản lý tài chính doanh nghiệp, kế toán, chính sách thuế và quản lý ngoại hối (liên quan đến đầu tư của bên nước ngoài). II.2. Tạo hàng hoá và chất lượng cao cho thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cần trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 44/1998/NĐ-CP về CPH các DNNN nhằm khắc phục những trở ngại về CPH DNNN hiện nay. Lựa chọn những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để CPH gắn với việc đăng ký niêm yết trên TTCK. Cải tiến lại cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp, cải tiến phương thức bán cổ phần theo hướng giành một tỷ lệ nhất định để bán ra công chúng thông qua đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. Thống nhất tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu khi CPH và tỷ lệ nắm giữ khi đầu tư trên TTCK. Thống nhất mẫu cổ phiếu, từng bước thực hiện phi vật chất hoá cổ phiếu và quy định về đại lý chuyển nhượng cổ phiếu đối với Công ty cổ phần. - Tăng cường công tác quản trị công ty, nhất là công ty cổ phần niêm yết cần được quan tâm hơn. Chính phủ cần ban hành Nghị định về quản trị công ty, trên cơ sở đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hướng dẫn thông lệ tốt nhất về quản trị công ty cho các tổ chức phát hành và niêm yết. - Cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK cần xem xét hoàn chỉnh quy trình xét duyệt hồ sơ phát hành, đăng ký niêm yết để vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ, vừa bảo đảm thuận tiện cho các doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục hành chính. II.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các tổ chức tài chính trung gian. TTCK phát triển tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống các tổ chức trung gian vì nguyên tắc hoạt động của TTCK là thực hiện qua các tổ chức tài chính trung gian. Để phát triển hệ thống này cần phải: - Mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán, cho phép thành lập thêm công ty chứng khoán mới và cho phép mở chi nhánh ở các tỉnh, thành phố lớn. - Nâng cao chất lượng phục vụ của các công ty chứng khoán, tập trung chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên nghiệp vụ hành nghề chứng khoán. Đội ngũ này phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức nghề nghiệp cao. - Thành lập thêm các tổ chức tài chính trung gian khác như các công ty quản lý quỹ, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, cho phép các công ty kiểm soát nước ngoài được tham gia kiểm toán các tổ chức phát hành niêm yết và kiểm toán các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán. - Hoàn chỉnh chế độ quản lý tài chính, kế toán đối với các tổ chức tài chính trung gian và nc khả năng tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho các đối tượng này. II.4. Xây dựng hệ thống giao dịch mới đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường. Hệ thống giao dịch có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức vận hành thị trường, hệ thống này phải đáp ứng được yêu cầu giao dịch bảng 1 và giao dịch ở bảng 2; đồng thời tăng cường các chứng năng khác của hệ thống giao dịch như: công bố thông tin, thanh toán bù trừ, lưu ký và giảm sát giao dịch. Trên cơ sở thống nhất hoạt động của thị trường, từng bước nâng cao vai trò độc lập của trung tâm giao dịch chứng khoán để nâng cấp thành sở giao dịch chứng khoán khi hội đủ điều kiện. Chuẩn bị sẵn sàng cho việc thành lập một trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ thống nhất. II.5. Tăng cường công tác quản lý giám sát về chứng khoán và TTCK, nhằm đảm bảo hoạt động thị trường an toàn, hiệu quả. - Xác định vị thế của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý và giám sát thị trường. Đối với Việt Nam hiện nay, chức năng này được giao cho Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Vì vậy cần củng cố bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ để thực hiện nhiệm vụ này, kể cả việc phản ánh trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng và ban hành các bản quy phạm pháp luật. - Xây dựng cơ chế giám sát hoạt động thị trường theo các cấp độ khác nhau: các công ty chứng khoán hướng dẫn các nhà đầu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35289.doc
Tài liệu liên quan