Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội

MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM), thanh toán quốc tế (TTQT) ra đời và phát triển không ngừng như là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, TTQT không chỉ đơn thuần mang lại những lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro, tổn thất trực tiếpcho đất nước, cho ngân hàng (NH), cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thanh toán quốc tế bằng phươn

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thức Tín dụng chứng từ ( TDCT) là phương thức hay được sử dụng nhất trong TTQT bởi tính tiện lợi và những lợi ích nó mang lại hơn hẳn những phương thức khác. Song không vì thế mà phương thức này có ít hơn rủi ro so với các phương thức khác. Hiểu biết về những rủi ro trong TTQT bằng phương thức TDCT là một đòi hỏi cấp thiết trong hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu hiện nay. Sau thời gian dài thực tập tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội, em đã có cơ hội tìm hiểu thêm về hoạt động TTQT, mà cụ thể hơn là hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại đây. Vì vậy, trong chuyên đề thực tập của mình, em xin viết về đề tài “Giải pháp hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín dụng chứng từ tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội”. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài *Mục đích: Mục đích của đề tài là đưa ra một cái nhìn về rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội và đề xuất một số giải pháp để nhằm hạn chế và phòng ngừa những rủi ro đó xảy ra. *Nhiệm vụ: Tập hợp những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài như Thanh toán quốc tế, phương thức Tín dụng chứng từ, những rủi ro… cũng như tình hình TTQT tại ngân hàng NHNo Hà Nội trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây. Phân tích thực trạng của hoạt động TTQT của chi nhánh ngân hàng NHNo Hà Nội thông qua những tài liệu tìm được và những lí luận về những vấn đề liên quan. Từ đó tìm ra những ưu, nhược điểm, những mặt mạnh, yếu của hoạt động TTQT nói chung và TTQT bằng phương thức TDCT nói riêng. Từ việc phân tích thực trạng của hoạt động TTQT của NHNo Hà Nội, nhìn thấy những ưu nhược điểm, đưa ra một số giải pháp cho tình hình hoạt động TTQT bằng phương thức TDCT của NHNo Hà Nội. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Với mục đích nói trên, đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động TTQT bằng phương thức TDCT của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Phạm vi nghiên cứu Do chỉ nghiên cứu một phương thức trong 5 phương thức TTQT tại NHNo Hà Nội nên phạm vi nghiên cứu của chuyên đề cũng khá hẹp:Hoạt động TTQT bằng phương thức TDCT tại các ngân hàng thương mại trên lãnh thổ Việt Nam nói chung và ngân hàng NHNo Hà Nội nói riêng trong thời gian 3 năm 2006-2008. Địa điểm cụ thể mà chuyên đề này nghiên cứu là phòng Kinh doanh ngoại hối của NHNo Hà Nội. Kết cấu Chuyên đề kết cấu tất cả 3 chương Chương 1.Tổng quan về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các ngân hàng thương mại Chương 2. Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội và những rủi ro tiềm ẩn. Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Thanh toán quốc tế và hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại. 1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế là việc thực hiện nghĩa vụ tiền tệ phát sinh từ hoạt động mậu dịch và phi mậu dịch giữa các cá nhân, tổ chức tại quốc gia này với cá nhân và tổ chức ở quốc gia khác hoặc giữ một quốc gia với tổ chức quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng. Chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế ở các quốc gia khác nhau. Mỗi giao dịch thanh toán quốc tế liên quan tối thiểu đến 2 quốc gia, thông thường là ba quốc gia. Hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do tính phức tạp đó các bên tham gia thường lựa chọn các quy phạm pháp luật mang tính thông nhất và theo thông lệ quốc tế… Đồng tiền dùng trong thanh toán quốc tế thông thường tồn tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán( Hối phiếu,séc, thẻ, chuyển khoản…), có thể là đồng tiền của nước người mua hoặc nước người bán, hoặc có thể là đồng tiền của nước thứ 3, nhưng thường là ngoại ngoại tệ được tự do chuyển đổi. Ngôn ngữ sử dụng trong thanh toán quốc tế thông thường phổ biến là tiếng Anh. Thanh toán quốc tế đòi hỏi trình độ chuyển môn cao, trình độ công nghệ tương xứng với trình độ quốc tế. 1.1.2. Điều kiện và vai trò của thanh toán quốc tế. 1.1.2.1. Các điều kiện trong thanh toán quốc tế Để thực hiện TTQT, điều khoản thanh toán quy định trong hợp đồng ngoại thương các bên tham gia phải và thanh toán bộ chứng từ thanh toán. 1.1.2.1.1. Điều kiện về tiền tệ Hầu hết các quốc gia trên Thế giới đều có đồng tiền riêng của đất nước mình.Tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền có thể thay đổi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan. Vì vậy, trong kinh doanh quốc tế các nhà xuất nhập khẩu đặc biệt lưu ý đến điều kiện về tiền tệ. Trong thương mại quốc tế thường xuất hiện hai loại tiền tệ: tiền tệ dùng để tính toán hợp đồng và tiền tệ dùng để thanh toán hợp đồng. Hai loại tiền tệ này có thể giống nhau hoặc khác nhau, có thể là tiền tệ của nước xuất khẩu, tiền tệ của nước nhập khẩu hoặc tiền tệ củan một nước thứ ba. 1.1.2.1.2. Điều kiện về thời gian thanh toán Thời gian thanh toán có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận và gây ra rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.Vì vậy, điều kiện về thời gian thanh toán đặc biệt được lưu ý trong kinh doanh quốc tế để cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận. Thông thường các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thỏa thuận thanh toán trước khi giao hàng, ngay khi giao hàng hoặc sau khi giao hàng. 1.1.2.1.3. Điều kiện về phương thức thanh toán PTTT là cách thức hai bên trong quan hệ hợp đồng ngoại thương thực hiện chuyển tiền và nhận tiền. Hiện nay, các NHTM cung cấp nhiều PTTT tiện ích, đa dạng cho khách hàng như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ,…. Mỗi PTTT đều có đặc điểm riêng và có thể gây rủi ro, bất lợi hoặc tạo thuận lợi cho các bên. Vì vậy, các bên cần phải lưu ý khi lựa chọn PTTT trong kinh doanh quốc tế 1.1.2.1.4. Điều kiện về bộ chứng từ thanh toán Bộ chứng từ mô tả hàng hóa, dịch vụ và toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng. Nhà xuất khẩu phải lập bộ chứng từ xuất trình để chứng minh việc giao hàng của mình. Nhà nhập khẩu sẽ nhận hàng dựa trên bộ chứng từ nhà xuất khẩu lập. Trong một số phương thức, việc quyết định thanh toán chỉ dựa vào bộ chứng từ nhà xuất khẩu xuất trình. Với mong muốn hạn chế rủi ro trong thương mại, nhà nhập khẩu thường đòi hỏi chứng từ đầy đủ về số lượng, nội dung, hoàn hảo đến từng chi tiết và đôi khi cả đơn vị phát hành chứng từ. Điều này có thể làm gia tăng chi phí, tốn thời gian cho nhà xuất khẩu, thậm chí đôi khi nhà xuất khẩu không thể thực hiện được. Vì vậy, ngay từ thời điểm ký hợp đồng, các bên cần phải quy định rõ ràng về bộ chứng từ thanh toán để tạo thuận lợi cho quá trình mua bán. 1.1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế đối với hoạt động của NHTM. Ngày nay, ngoại trừ những hoạt động mua bán nhỏ, một số giao dịch hạn chế tại biên giới được chi trả bằng tiền mặt; hầu như các hoạt động kinh doanh hợp pháp trên Thế giới đều được thực hiện thông qua các định chế tài chính trung gian. Với chức năng trung tâm , hoạt động TTQT của NHTM đã trở thành một dịch vụ không thể thiếu và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa. 1.1.2.2.1. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng thị phần kinh doanh cuả NHTM. NHTM là trung gian tài chính, thực hiện chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và cung ứng dịch vụ ngân hàng. Thông qua hoạt động kinh doanh đa năng , NHTM đã thiết lập nên mối quan hệ không chỉ với các tổ chức, khách hang trong nước, mà còn thiết lập quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế khác và đã trở thành một chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế. TTQT là chức năng ngân hang quốc tế của NHTM. Trong TTQT, ngân hàng không chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán mà còn tư vấn khách hàng về điều kiện thanh toán, hướng dẫn về kĩ thuật TTQT nhằm giảm rủi ro, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, tạo sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch ngoại thương. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các ngân hàng, đặc biệt là với các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngày càng gay gắt và xu hướng phát triển ngoại thương, đầu tư tài chính mang tính quốc tế như hiện nay, TTQT là một nghiệp vụ không thể thiếu để NHTM có thể ít nhất là giữ được các khách hàng hiện có, đồng thời tạo cơ hội thu hút thêm khách hàng mới. 1.1.2.2.2. Thanh toán quốc tế góp phần làm tăng thu nhập cho NHTM. Ngoài việc nguồn vốn huy động tăng, tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng, thông qua TTQT, ngân hàng còn tạo ra nguồn thu đáng kể từ thu phí dịch vụ thanh toán, tài trợ xuất khẩu, mua bán ngoại tệ… 1.1.2.2.3. Thanh toán quốc tế làm giảm rủi ro trong kinh doanh. Thông qua hoạt động TTQT,ngân hàng có thể quản lí việc sử dụng vốn vay và giám sát được tình hình kinh doanh của khách hàng, tạo điều kiện quản lí và nâng cao hiệu quả đầu tư. Mặt khác, việc kinh doanh đa năng là phương sách hiệu quả để phân tán rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng. 1.1.2.2.4. Thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản của NHTM. Nghiệp vụ TTQT không tạo điều kiện thu hút khách hàng, làm tăng số dư tiền gửi thanh toán , mà trong quá trình thực hiện các phương thức TTQT, đặc biệt là phương thức tín dụng chứng từ, những khoản tiền kí quỹ mở thư tín dụng của khách hàng tạo ra nguồn vốn rẻ và tương đối ổn định. Ngoài ra các khoản khách hàng nộp để giải chấp lô hàng nhập khẩu do ngân hàng quản lí khi chưa đến hạn thanh toán cũng là một nguồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình thức tiền tập trung chờ thanh toán. 1.1.2.2.5. Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại. TTQT giúp cho quy mô hoạt động của ngân hàng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hòa nhập với các ngân hàng trên thế giới, góp phần nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Trên cơ sở đó, ngân hàng có điều kiện phát triển quan hệ đại lí, khai thác nguồn tài trợ trên thị trường tài chính quốc tế, nguồn tài trợ từ ngân hàng nước ngoài để đáp ứng vốn phát triển kinh tế- xã hội… 1.1.3. Vai trò, trách nhiệm và quyền hạn các ngân hàng thương mại. 1.1.3.1. Ngân hàng mở L/C Quyền hạn Xem xét các điều kiện, điều khoản của L/C sẽ được phát hành, hoặc nội dung sẽ sửa đổi. Chỉ định ngân hàng xác nhận, ngân hàng thông báo L/C. Định đoạt chứng từ bất hợp lệ. Yêu cầu người xin mở L/C thanh toán. Thu phí dịch vụ ngân hàng. Trách nhiệm Thanh toán bộ chứng từ phù hợp với quy định của thư tín dụng Thực thi đúng quy định của UCP 600 1.1.3.2. Ngân hàng thông báo L/C Quyền hạn Xem xét ( đồng ý hoặc không đồng ý) thông báo L/C của ngân hàng mở cho người thụ hưởng Thu phí dịch vụ Trách nhiệm - Kiểm tra tính xác thực của thư tín dụng - Thông báo cho ngân hàng mở nếu từ chối thông báo L/C - Thực thi đúng quy định của UCP 600 1.1.3.3. Ngân hàng xác nhận L/C Quyền hạn - Xem xét các điều khoản, điều kiện của thư tín dụng sẽ xác nhận kể cả các sửa đổi liên quan nếu có - Yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán toàn bộ chứng từ phù hợp - Thu phí dịch vụ Trách nhiệm - Thanh toán miễn truy đòi cho người thụ hưởng trên cơ sở bộ chứng từ hợp lệ - Thực thi đúng quy định của UCP 600 1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu. 1.2.1. Phương thức chuyển tiền: Khi có một khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ( người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định thì gọi là chuyển tiền của ngân hàng. Để thực hiện việc chuyển tiền thì ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý của mình ở nước người thụ hưởng. Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách: - Chuyển tiền bằng điện - Chuyển tiền bằng thư Hai cách chuyển tiền trên chỉ khác nhau ở chỗ là: chuyển tiền bằng điện nhanh hơn chuyển tiền bằng thư, nhưng chi phí chuyển tiền bằng điện cao hơn. Tiền chuyển đi có thể là tiền của nước người thụ hưởng hoặc là tiền của nước người trả hoặc là tiền của nước thứ ba. Nếu là tiền của nước người thụ hưởng và tiền của nước thứ ba thì gọi là thanh toán bằng ngoại tệ. Trong trường hợp thanh toán bằng ngoại tệ thì người chuyển tiền phải mua ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái của nước đó. Phương thức chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế. Nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, cũng như các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như cước vận tải, bảo hiểm, bồi thường… 1.2.2. Phương thức bảo lãnh (letter of guarantee - L/G) là bất cứ một sự bảo lãnh nào cam kết thanh toán của trung gian tài chính hoặc của pháp nhân hay thể nhân bằng văn bản là sẽ bồi thường một số tiền nhất định, nếu đến hạn mà người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ như quy định trên thư bảo lãnh. 1.2.3. Phương thức nhờ thu: Người xuất khẩu sau khi hoàn thành nhiệm vụ xuất chuyển hàng hoá cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Các thành phần chủ yếu tham gia phương thức thanh toán này như sau: - Người xuất khẩu - Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu - Ngân hàng đại lý của ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (đó là ngân hàng quốc gia của người nhập khẩu) - Người nhập khẩu Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau: - Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng), đồng thời uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu - Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng. Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là người khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của người xuất khẩu được đảm bảo hơn. 1.2.4.Phương thức tín dụng chứng từ: Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoã thuận mà trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ 3 hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người thứ 3 này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Như vậy, để tiến hành thanh toán bằng phương thức này, bắt buộc phải hình thành một thư tín dụng. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức thanh toán này, vì nếu không có thư tín dụng thì xuất khẩu sẽ không giao hàng và như vậy phương thức tín dụng chứng từ cũng sẽ không hình thành được. Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở hợp đồng thương mại, tức là phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu của hợp đồng để người nhập khẩu làm thủ tục yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng. Nhưng sau khi đã được mở, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập với hoạt động thương mại đó. Điều đó có nghĩa là khi thanh toán, ngân hàng chỉ căn cứ vào nội dung thư tín dụng mà thôi. 1.3. Khái niệm, trình tự tiến hành và nội dung của phương thức Tín dụng chứng từ. 1.31. Khái niệm Phương thức Tín dụng chứng từ. Là một sự thoả thuận trong đó ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Các chức năng cơ bản của thư tín dụng chứng từ (L/C) (i). Chức năng thanh toán: L/C là một phương thức thanh toán rất thông dụng trong mua bán quốc tế. L/C thường được sử dụng như là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. (ii). Chức năng bảo đảm: L/C là một cam kết thanh toán có điều kiện và độc lập của ngân hàng phát hành, bảo đảm là người thụ hưởng sẽ không còn bị phụ thuộc vào thiện chí thanh toán của người mua. (iii). Chức năng tín dụng: Trong một giao dịch L/C, ngân hàng có thể chiết khấu chứng từ hàng xuất của người xuất khẩu với điều kiện là những chứng từ đó hoàn toàn hợp lệ. 1.3.2. Ý nghĩa của phương thức Tín dụng chứng từ. 1.3.2.1. Đối với nhà xuất khẩu. Nếu lựa chọn và sử dụng đúng, L/C có thể đem lại nhiều lợi ích và đặc biệt là sự an toàn cần thiết cho người xuất khẩu – đảm bảo là người nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền. Tuy nhiên, để có được các lợi ích này, người xuất khẩu nhất thiết phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và các qui định. - Ngân hàng sẽ thực hiện thanh toán đúng như qui định trong thư tín dụng bất kể việc người mua có muốn trả tiền hay không - Người mua không được từ chối thanh toán vì bất cứ lý do gì - Chậm trễ trong việc chuyển chứng từ được hạn chế tối đa - Thanh toán bằng thư tín dụng được thực hiện nhanh hơn so với nhờ thu - Khi chứng từ được chuyển đến ngân hàng phát hành, việc thanh toán được tiến hành ngay hoặc vào một ngày xác định (nếu là L/C trả chậm). - Khách hàng có thể đề nghị chiết khấu L/C để có trước tiền sử dụng cho việc chuẩn bị thực hiện hợp đồng. 1.3.2.2. Đối với nhà nhập khẩu. Nếu lựa chọn và sử đúng, L/C có thể đem lại nhiều lợi ích và đặc biệt là sự an toàn cần thiết cho người nhập khẩu – đảm bảo là người xuất khẩu sẽ phải thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, để có được các lợi ích này, người nhập khẩu nhất thiết phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và các qui định. - Chỉ khi hàng hóa thực sự được giao thì người nhập khẩu mới phải trả tiền. - Người nhập khẩu có thể yên tâm là người xuất khẩu sẽ phải làm tất cả những gì theo qui định trong L/C để đảm bảo việc người xuất khẩu sẽ được thanh toán tiền (nếu không người xuất khẩu sẽ mất tiền). 1.3.2.3. Đối với ngân hàng thương mại. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ đòi hỏi chuyên môn cao do tính phức tạp của phương thức này tuy nó đem lại thu nhập cao cho ngân hàng và tạo điều kiện nâng cao uy tín của ngân hàng . Đây là nghiệp vụ chứa đựng rủi ro ở tất cả các khâu nghiệp vụ, do vậy nó đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ tính cẩn trọng và thực thi nghiêm chỉnh quy trình thanh toán đã đề ra. 1.3.3. Cơ sở pháp lí của thanh toán Tín dụng chứng từ. 1.3.3.1. Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ (tiếng Anh: The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits (viết tắt là UCP) là một bộ các quy định về việc ban hành và sử dụng thư tín dụng (hay L/C), được xem như Luật quốc tế trong giao dịch Tín dụng thư. UCP được các ngân hàng và các bên tham gia thương mại áp dụng ở trên 175 quốc gia. Khoảng 11-15% thương mại quốc tế sử dụng thư tín dụng với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ USD mỗi năm. Về mặt lịch sử, các bên tham gia thương mại, đặc biệt là các ngân hàng, đã phát triển các kỹ thuật nghiệp vụ và các phương pháp sử dụng thư tín dụng trong tài chính-thương mại quốc tế. Các thông lệ này đã được Phòng thương mại quốc tế (ICC) tiêu chuẩn hóa thông qua việc xuất bản UCP năm 1933 và tiếp theo đó là cập nhật nó qua các năm. ICC đã phát triển và đưa vào khuôn khổ UCP bằng các bản sửa đổi thường xuyên, bản trước đây là UCP500. Kết quả là nỗ lực quốc tế thành công nhất trong việc thống nhất các quy định từ trước đến nay, khi UCP đã có hiệu lực thực tế trên toàn thế giới. Bản sửa đổi mới nhất đã được Ủy ban Ngân hàng của ICC phê chuẩn tại cuộc họp ở Paris vào ngày 25 tháng 10 năm 2006. Bản sửa đổi mới này, gọi là UCP600, đã chính thức bắt đầu hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. 1.3.3.2. Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên ngân hàng theo Tín dụng chứng từ ( URR 525) Tuy không thiết thực và thông dụng bằng UCP 600 nhưng với sự phát triển của TTQT với tính chuyên môn hóa ngày càng cao, URR525 đang có xu hướng được áp dụng rỗng rãi. URR525 chính là sự mở rộng và chi tiết hóa của điều khoản 19 trong UCP 600. 1.3.3.3. Quy tắc thực hành Tín dụng dự phòng quốc tế ( ISP 98) ISP 98 – viết tắt của International Standby Letter of Credit, là một tài liệu do phòng thương mại quốc tế ban hành, quy định các quy tắc về thực hành về Thư tín dụng dự phòng, được xuất bản năm 1998 và có hiệu lực từ 1/1/1999. ISP được phát triển từ UCP500. Do UCP chủ yếu áp dụng cho thư tín dụng thương mại nên khi áp dụng cho thư tín dụng dự phòng- một loại L/C có nhiều đặc thù riêng nên UCP 500 bộc lộ nhiều hạn chế trong khi thực hành. 1.3.3.4 ISBP Tiêu chuẩn quốc tế về nghiệp vụ ngân hàng dùng cho việc kiểm tra chứng từ trong Tín dụng chứng từ của phòng Thương Mại Quốc Tế, số xuất bản 681 năm 2007 - International Standard Banking Practice for the Examination of Documents under Documentary Credit (ISBP681). Đây là tài liệu bổ sung mang tính thực tiễn cho UCP600. ISBP không sửa đổi UCP mà chỉ giải thích chi tiết rõ ràng làm thế nào những quy tắc này được áp dụng trong giao dịch hằng ngày. Thông qua việc sử dụng ISBP, những người làm việc kiểm tra chứng từ có thể thực hành công việc cho phù hợp với các tập quán mà các đồng nghiệp của họ đang sử dụng trên thế giới. Do vậy, ISBP ra đời góp phần làm giảm đáng kể số lượng chứng từ bị từ chối thanh toán do bất hợp lệ khi xuất trình lần đầu tiên. 1.3.3.5 Incoterms 2000 Incoterms (viết tắt của International Commerce Terms - Các điều khoản thương mại quốc tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterm quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế. Incoterm quy định các điều khoản về giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển..., thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá. Incoterm 2000 được Phòng thương mại Quốc tế (ICC) ở Paris, Pháp chỉnh lý và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2000. Incoterms 2000 bao gồm có 13 điều kiện giao hàng mẫu, chia thành 4 nhóm: C, D, E, F. Trong đó, nhóm E gồm 1 điều kiện (EXW), nhóm F gồm 3 điều kiện (FCA, FAS, FOB), nhóm C gồm 4 điều kiện (CFR, CIF, CPT, CIP) và nhóm D gồm 5 điều kiện (DAF, DES, DEQ, DDU, DDP). 1.3.3.6 Các điều kiện bảo hiểm ICC clauses 1982. ICC ( viết tắt của Institute Cargo Clause) 1982 do ILU ( viết tắt của Institute London Underwritters) ban hành năm 1982 thay cho ICC 1963, quy định các điều kiện bảo hiểm về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển của Anh. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm quốc tế, ICC 1982 được sử dụng rất rộng rãi. 1.3.3.7 Quy định về cấm vận của Hoa Kỳ: Các khoản thanh toán bằng USD qua các nước sau dây không thể thực hiện: Balkans, Burma (Myanmar), Cuba, Iran, Iraq, Liberia, Libya, North Korea, Sudan, Syria, Zimbabwe. 1.3.3.8 Các văn bản pháp luật trong nước: - Quyết định số 711/2001/QĐ- NHNN của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước về quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm - Quyết định số 1233/2001/QĐ- NHNN của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước sửa đổi điều 15 của Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước về quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm - Thông tư 08/2003/TT-NHNN hướng dẫn thi hành về nghĩa vụ bán ngoại tệ đối với giao dịch vãng lai của người cư trú là tổ chức. - Thông tư 09/2004/TT- NHNN quy định các khoản vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp. - Nghị định số 12/2006/NĐ- CP ngày 23/01/2006 về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và hoạt động đại lý mua bán gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài quy định danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương Mại và bộ quản lý chuyên ngành. - Pháp lệnh ngoại hối của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 28/2005/PL- UBTVQH11 ngày 13/12/2005 quy định về các hoạt động ngoại hối tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. - Nghị định 160/2006/NĐ- CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối. 1.3.4. Nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.3.4.1. Thư tín dụng thương mại(Letter of Credit- L/C). 1.3.4.1.1. Khái niệm. Tín dụng thư (hay còn gọi là thư tín dụng) là một văn bản pháp lý được phát hành bởi một tổ chức tài chính (thông thường là ngân hàng), nhằm cung cấp một sự bảo đảm trả tiền cho một người thụ hưởng trên cơ sở người thụ hưởng phải đáp ứng các điều khoản trong thư tín dụng. Điều này có nghĩa là: Khi một người thụ hưởng hoặc một ngân hàng xuất trình (đại diện của người thụ hưởng) thỏa mãn ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận trong khoảng thời gian có hiệu lực của LC (nếu có) những điều kiện sau đây: - Các chứng từ cần thiết thỏa mãn điều khoản và điều kiện của LC. Chẳng hạn như: vận đơn (bản gốc và nhiều bản sao), hóa đơn lãnh sự, hối phiếu, hợp đồng bảo hiểm...v.v - Các thông lệ trong UCP và hoạt động ngân hàng quốc tế. - Các thông lệ của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận (nếu có). Nói một cách ngắn gọn, một thư tín dụng là: Một loại chứng từ thanh toán Do bên mua (hoặc bên nhập khẩu) yêu cầu mở. Liên lạc thông qua các kênh ngân hàng. Được trả bởi ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận thông qua ngân hàng thông báo (advising bank tại nước người thụ hưởng) trong một khoảng thời gian xác định nếu đã xuất trình các loại chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện, điều khoản. Các tổ chức tài chính không phải là ngân hàng cũng có thể phát hành LC. Tín dụng thư cũng có thể là nguồn thanh toán cho một giao dịch, nghĩa là một nhà xuất khẩu sẽ được trả tiền bằng cách mua lại LC. LC được sử dụng chủ yếu trong giao dịch thương mại quốc tế có giá trị lớn. LC cũng được dùng trong quá trình phát triển điền sản để bảo đảm rằng những cơ sở hạ tầng công cộng đã được phê duyệt (như đường xá, vỉa hè, kè chắn sóng ..v.v) sẽ được xây dựng. 1.3.4.1.2. Nội dung Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại bao gồm những điều khoản sau: - Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C (No of L/C, place and date of issuing) Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng, nhằm để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng. - Địa điểm mở (Place of issuing): Là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa khi chọn luật áp dụng nếu xảy ra tranh chấp có xung đột về pháp luật. - Ngày mở (Issuing date): Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng không. - Tên địa chỉ của người thụ hưởng (Beneficiary) có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ: - Ngân hàng mở L/C (opening bank; issuing bank): là ngân hàng thường được hai bên xuất khẩu và nhập khẩu thoả thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có quy định trước người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu ngân hàng phát hành L/C và tìm cách thông báo L/C đó cho người xuất khẩu. - Ngân hàng thông báo (advising bank): thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu. Khi nhận đựoc điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. - Ngân hàng trả tiền (negotiating bank or paying bank): là ngân hàng mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm. Ngân hàng mở L/C có thể chỉ định ngân hàng trả tiền là chi nhánh của mình, nhưng với điều kiện ngân hàng chi nhánh đó ở nước khác (điều 2 UCP 500) - Ngân hàng xác nhận (confirming bank): là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của nó. Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng lớn có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế. - Số tiền của thư tín dụng (Amount of money): Số tiền của L/C vừa ghi bằng số, vừa ghi bằng chữ và thống nhất với nhau họăc có thể chỉ cần số tiền bằng số. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng. Cách ghi số tiền tốt nhất là ghi một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được. Những từ “khoảng chừng, độ khoảng hoặc những từ ngữ tương tự được dùng đê chỉ biên độ số tiền của L/C cho phép xê dịch hơn kém không quá 10% của tổng số tiền đó. - Thời hạn hiệu lực (Expiry date): là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với L/C. - Thời hạn trả tiền của L/C (Latest payment date): là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau. Điều này có thể nhận dạng ở hối phiếu của người xuất khẩu ký phát. Thời hạn về giao hàng cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng có thể có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. -Thời hạn giao hàng: Ðược ghi trong thư tín dụng và cũng do hợp đồng mua bán ngoại thương quy định. Ðây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao xong hàng cho bên mua, kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực. Thời hạn giao hàng liên quan chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Nếu hai bên thoả thuận kéo dài thời gian giao hàng thêm một số ngày thì ngân hàng mở thư tín dụng cũng sẽ hiểu rằng thời hạn hiệu lực của thư tín dụng cũng được kéo dài thêm một số ngày tương ứng. - Những nội dung về hàng hoá (Description of goods): tên hàng, số lượng, trọng lượng (có cả sai lệch cho phép) , giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu..cũng được ghi vào thư tín dụng. - Những nội dung về vận tải (Shipment term): giao nhận hàng hoá như điều kiện có sở giao hàng, nơi gửi, giao hàng từng phần..nơi giao hàng cũng được ghi vào thư tín dụng. - Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình (Documents for payment): là nội dung then chốt của thư tín dụng, bởi vì bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là môt bằng chứng của người xuất khẩu chứng mình rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những quy định của thư tín dụng. - Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C: là nội dung cuối cùng của thư tín dụng và nó ràng buộc trách ._.nhiệm của ngân hàng mở L/C. - Chữ ký của ngân hàng mở L/C : L/C thực chất là một khế ước dân sự, do vậy người ký nó cũng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiện quan hệ dân luật. L/C mở bằng thư phải được ký bằng chữ ký đã được lưu ký tại ngân hàng đại lý. L/C mở bằng điện phải có sự đồng ý của ngân hàng mở L/C) . 1.3.4.1.3. Các loại tín dụng thư. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ: là loại L/C sau khi mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung.. trong thời hạn hiệu lực của nó. Một L/C không ghi IRRECOCABLE thì vẫn được coi là không huỷ bỏ được. - Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận : là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được một ngân hàng xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. - Thư tín dụng không thể hủy bỏ, miễn truy đòi : là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng không còn quyền đòi lại tiền dù trong bất ký trường hợp nào. - Thư tín dụng chuyển nhượng : là L/C không thể huỷ bỏ, trong đó quy định người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. - Thư tín dụng tuần hoàn: là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy cho đến khi nào tổng giá trị L/C được thực hiện. - Thư tín dụng giáp lưng: người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng. - Thư tín dụng đối ứng là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín dụng kia đối ứng với nó đã mở. Loại L/C này được sử dụng trong phương thức hàng đổi hàng, phương thức gia công 1.3.4.2. Quy trình tiến hành thanh toán tín dụng chứng từ. 1.3.4.2.1. Các bên tham gia trong thanh toán bằng L/C. - Người xin mở thư tín dụng ( the applicant for the credit): là người mua, người nhập khẩu hàng hóa, người mở thư tín dụng. -Ngân hàng mở thư tín dụng ( issuing bank): là ngân hang đại diện cho người nhập khẩu, còn gọi là ngân hàng phát hành. - Người hưởng lợi ( beneficiary) là người bán, người xuất khẩu hay bất kì người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. - Ngân hàng thông báo (advising bank) là ngân hàng được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo cho nhà xuất khẩu về việc mở thư tín dụng. Ngoài ra còn có thể cho một số ngân hàng khác tham gia vào phương thức thanh toán này như: - Ngân hàng xác nhận ( confirming bank) là ngân hàng nhận trách nhiệm thanh toán cuối cùng nếu ngân hàng phát hành không thể thanh toán chứng từ phù hợp với điều khoản của L/C. Ngân hàng xác nhận có thể vừa là ngân hàng thông báo L/C hay là một ngân hàng khác do bên xuất khẩu yêu cầu. - Ngân hàng được chỉ định ( nominated bank) là ngân hàng được ngân hàng phát hành chỉ định để thực hiện việc thương lượng, chiết khấu hay thanh toán L/C. Lúc đó ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng chiết khấu ( negotiating bank) hay ngân hàng thanh toán ( paying bank) - Ngân hàng hoàn trả ( reimbursing bank) là một ngân hàng được ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận chỉ định thay mình trả tiền. - Ngân hàng chiết khấu ( negotiating bank) là ngân hàng được ngân hang mở L/C cho phép mua hối phiếu hay thương lượng chứng từ do người bán kí phát cho ngân hang. Tùy theo quy định của L/C mà ngân hàng chiết khấu thường là ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng thứ ba nào đó do ngân hàng mở L/C quy định. - Người được chuyển nhượng là người nhận các quyền và nghĩa vụ do người hưởng lợi chuyển. Trong thực tế nghiệp vụ tín dụng chứng từ không nhất thiết phải có các bên như đã nêu ở trên. 1.3.4.2.2. Quy trình nghiệp vụ trong thanh toán bằng L/C. Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C được minh họa qua hình 1 và quy trình này được chia làm 8 bước. Hình 1: Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ Ngân hàng thông báo Người xuất khẩu Người nhập khẩu Ngân hàng phát hành 6 2 8 7 1 4 Hợp đồng 3 5 B1: Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. B2:Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ỏ nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu. B3:Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc thư tín dụng, thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. B4: Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì tiến hành đề nghị người mua yêu cầu ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng (tu chỉnh L/C). B5:Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán. B6: Ngân hàng mở L/C kiểm tra chứng từ không quá 7 ngày làm việc kể từ sau ngày nhận chứng từ và thông báo kết quả kiểm tra cho người nhập khẩu bằng văn bản, yêu cầu người nhập khẩu trả lời trong vòng 2 ngày làm việc. B7: Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ và quyết định chấp nhập hay từ chối thanh toán. B8: Căn cứ vào ý kiến của người nhập khẩu, Ngân hàng mở L/C quyết định nhận chứng từ và trả tiền hoặc quyết định từ chối nhận chứng từ và từ chối trả tiền. Nếu quyết định từ chối nhận chứng từ thì ngân hàng mở L/C phải chuyển trả chứng từ lại cho ngân hàng xuất trình. 1.4. Tín dụng chứng từ- một phương thức thanh toán quốc tế ẩn chứa nhiều rủi ro. 1.4.1. Khái niệm rủi ro. Rủi ro trong hoạt động TTQT của NHTM là vấn đề xảy ra ngoài ý muốn trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM, trong đó có phương thức tín dụng chứng từ. Trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một bên tham gia bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ một sự chậm trễ nào trong các khâu của quá trình TTQT. Rủi ro có thể xảy ra với tất cả các bên tham gia: Với người bán, rủi ro xảy ra khi bán hàng không thu được tiền hoặc chậm thu được tiền, rủi ro về thị trường, rủi ro không nhận hàng, rủi ro không thanh toán…; với người mua, rủi ro xảy ra khi người bán giao hàng không đúng với các điều kiện của hợp đồng (không đúng số lượng, chủng loại…), rủi ro không giao hàng, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá…; với NH có liên quan, rủi ro xảy ra khi người mua hoặc người bán thiếu trung thực, không thực hiện đúng cam kết đã ghi trong hợp đồng, do tỷ giá biến động… Trong phương thức tín dụng chứng từ (L/C :Letter of Credit), việc ngân hàng chỉ căn cứ vào bề mặt chứng từ là thanh toán (miễn hỏi người mua nhé) mà không cần biết chất lượng của hàng, cũng như số lượng của hàng có đúng theo hợp đồng hay không miễn sao bộ chứng từ thanh toán đáp ứng đúng yêu cầu trong L/C không chỉ tạo thuận lợi trong việc thực hiện theo phương thức này mà còn dẫn đến không ít rủi ro. Dưới đây là một số rủi ro thường gặp phải đối với các bên tham gia trong phương thức TDCT. 1.4.1.1. Rủi ro đối với bên xuất khẩu. Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản thanh toán (chấp nhận) đều có thể bị từ chối và nhà xuất khẩu sẽ phải tự giải quyết bằng cách dỡ hàng, lưu kho, bán đấu giá… cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải chở hàng quay về nước. Nhà xuất khẩu phải trả các khoản chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm hàng hoá… trong khi không biết nhà nhập khẩu có đồng ý nhận hàng hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ có sai sót. Nếu NH phát hành hoặc NH xác nhận mất khả năng thanh toán thì mặc dù bộ chứng từ xuất trình có hoàn hảo cũng không được thanh toán. Cũng tương tự như vậy, nếu NH chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được trả tiền. Trừ khi L/C được xác nhận bởi một NH hạng nhất trong nước, còn lại nhà xuất khẩu sẽ phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của NH phát hành cũng như rủi ro chính trị hay rủi ro do cơ chế chính sách của nhà nước thay đổi. Thêm nữa, nhà xuất khẩu muốn đòi được tiền của khách hàng thì phải có bộ chứng từ thanh toán hoàn hảo gửi cho ngân hàng đúng thời hạn quy định trong L/C.Mà việc lập chứng từ này nếu không có kinh nghiệm thì sẽ rất dễ bị sai và chứng từ sẽ có lỗi. Khi chứng từ có lỗi thì một là không nhận được tiền ( nếu khách hàng không thiện chí và không nhận hàng) như vậy rủi ro cho doanh nghiệp rất nhiều.Hai là tiền nhận được sẽ rất chậm và nếu là 1/3 set of original B/L mà gửi cho khách hàng rồi thì khách hàng sẽ nhận hàng trước và nếu họ không thiện chí thì rất khó để nhà xuất khẩu có thể nhận được tiền nếu bộ chứng từ thanh toán là có lỗi. 1.4.1.2. Rủi ro đối với bên nhập khẩu. Rủi ro lớn nhất của nhà NK chính là việc người xuất khẩu không cung cấp hàng hoá hoặc có thể bị nhận hàng không đúng như hợp đồng nhưng vẫn phải thanh toán (chứng từ phù hợp) Rủi ro do thanh toán dựa trên chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng hoá và chứng từ: Việc thanh toán của NH cho nhà xuất khẩu chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra thực tế hàng hoá. NH chỉ kiểm tra tính hợp lệ bề ngoài của chứng từ. Nếu nhà xuất khẩu chủ tâm gian lận có thể xuất trình chứng từ giả mạo cho NH chỉ định để thanh toán. Như vậy, sẽ không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hoá sẽ đúng như hợp đồng về số lượng, chủng loại và không bị hư hỏng gì. Trong trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền đã thanh toán cho NH phát hành. Khi thanh toán bằng L/C thì chỉ cần người bán có bộ chứng từ thanh toán hoàn hảo như trong L/C và xuất trình cho ngân hàng đúng thời hạn quy định trong L/C là người bán đã lấy được tiền rồi. Còn bên NK không biết có nhận được hàng hay không và nếu có nhận được hàng thì không biết hàng có đúng như yêu cầu hay không.Và nếu hàng không có bảo hiểm thì nếu có vấn đề gì xảy ra trong quá trình vận chuyển bên NK mất hàng mà vẫn phải thanh toán tiền. Các rủi ro khác như: lựa chọn hãng tàu không tin cậy, hư hỏng hàng hoá do xếp hàng không đúng quy định… 1.4.1.3. Rủi ro đối với các ngân hàng thương mại. 1.4.1.3.1. Rủi ro đối với NH phát hành (NH mở L/C- issuing bank) NH phát hành là NH đại diện cho người nhập khẩu, nó cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu. NH này thường được hai bên nhập khẩu và xuất khẩu thoả thuận lựa chọn và được quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Rủi ro đối với NH phát hành là ở chỗ NH phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không thanh toán hay không có khả năng thanh toán hayrủi ro nhà NK không thanh tóan đủ (trường hợp sử dụng hạn mức tín dụng hoặc ký quỹ một phần). Mặc dù có khả năng NH sẽ sở hữu lô hàng bù cho phần không thanh toán, nhưng việc “ôm” một lô hàng như thế tự thân nó cũng là một rủi ro rồi. 1.4.1.3.2. Rủi ro đối với NH thông báo thư tín dụng (advising bank) NH thông báo là NH được NH mở yêu cầu thông báo một L/C do NH mở phát hành cho người bán. NH thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khoá mã, mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. Rủi ro đối với NH thông báo xảy ra khi gặp phải một L/C giả (hoặc sửa đổi giả) mà không có ghi chú gì. Theo thông lệ quốc tế thì NH thông báo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với các bên liên quan. 1.4.1.3.3. Rủi ro đối với NH được chỉ định NH được chỉ định không có một trách nhiệm nào phải thanh toán cho nhà xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ NH phát hành. Tuy nhiên trong thực tế, các NH được chỉ định thường ứng trước tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà xuất khẩu. Do đó, NH này thường phải tự chịu rủi ro tín dụng đối với NH phát hành hoặc nhà xuất khẩu. 1.4.1.3.4.Rủi ro đối với NH xác nhận (confirming bank) NH xác nhận thường là NH lớn có uy tín hoặc NH có quan hệ tiền gửi, tiền vay với NH mở, được NH mở yêu cầu xác nhận và cam kết trả tiền cho người bán nếu như NH mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Đối với NH xác nhận, khi tham gia xác nhận là họ đã tự ràng buộc trách nhiệm của mình vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh chấp giữa hai bên. Rủi ro đối với NH xác nhận xảy ra khi họ không nắm vững được năng lực tài chính của NH mở mà xác nhận theo yêu cầu của họ để rồi khi xảy ra hậu quả thì lại phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho NH mở L/C do NH mở L/C thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán, thậm chí bị phá sản. 1.4.1.3.5. Rủi ro đối với NH chiết khấu (negotiating bank) NH chiết khấu là NH được chỉ định cụ thể hoặc bất cứ NH nào nếu L/C cho chiết khấu tự do. Cũng như NH phát hành, NH chiết khấu có thể gặp phải rủi ro nếu như không thực hiện chính xác nghiệp vụ cũng như không tuân thủ theo các điều kiện của UCP500. Rủi ro xảy ra đối với NH chiết khấu phần nhiều phụ thuộc vào thiện chí của NH mở và nhà nhập khẩu. Các rủi ro mà NH chiết khấu có thể gặp phải là: Rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán; rủi ro trong quá trình vận chuyển; rủi ro do nhà nhập khẩu từ chối thanh toán bộ chứng từ; rủi ro do NH mở bị phá sản; rủi ro do NH chiết khấu không hành động đúng theo quy định của UCP500. 1.4.2. Các loại rủi ro trong thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ và nguyên nhân. 1.4.2.1. Rủi ro kĩ thuật. - Không tuân thủ quy định của thông lệ quốc tế đã thống nhất đã áp dụng trong TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ.( UCP 600, URC 522, URR 522…) - Không tuân thủ chế độ bảo mật trong quản lí , sử dụng thiết bị và mật mã dùng trong TTQT theo phương thức TDCT. -Rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện nghiệp vụ + Rủi ro phát sinh khi thực hiện phát hành thư tín dụng Phát hành thư tín dụng là khâu đầu tiên trong qui trình thanh toán bằng phương thức TDCT. Đây là khâu rất quan trọng quy định các điều kiện và chứng từ xuất trình để thanh toán, đây là khâu có thể gây ra rủi ro cho NHPH nếu không thực hiện chính xác và cẩn trọng và cũng là khâu góp phần đáng kể vào việc giảm các tranh chấp phát sinh sau này. Khi tư vấn mở thư tín dụng, NHPH chủ yếu dựa vào hợp đồng ngoại thương, kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm của mình. NHPH phải thực hiện theo đúng chỉ thị của người mở thư tín dụng, nếu không sẽ gánh chịu rủi ro bộ chứng từ xuất trình phù hợp với TTD nhưng không đúng theo chỉ thị của người mở và bị người mở từ chối thanh toán. + Rủi ro phát sinh từ phát hành thư bảo lãnh nhận hàng. Bảo lãnh nhận hàng khi chưa có vận đơn gốc là một nghiệp vụ phổ biến để tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu mở TTD nhận hàng khi họ đáp ứng được khả năng thanh toán, tuy nhiên nó cũng có thể đem lại rủi ro cho NHPH. Khi phát hành thư bảo lãnh nhận hàng, ngân hàng đã cam kết sẽ đền bù cho hãng vận tải nếu có tổn thất xảy ra khi người mở thư tín dụng nhận hàng mà không xuất trình vận đơn gốc, cam kết này hoàn toàn độc lập với cam kết thanh toán cho người thụ hưởng. Bảo lãnh nhận hàng chỉ có tính chất tạm thời, không thể thay thế được chứng từ sở hữu hàng hóa. Khi NHPH nhận được vận đơn gốc từ người thụ hưởng, phải giao vận đơn gốc cho hãng vận tải để thu hồi bảo lãnh nhận hàng về thì trách nhiệm của NHPH đối với hãng vận tải mới chấm dứt. Như vậy, NHPH sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu như người thụ hưởng thực hiện hành vi lừa đảo, không phải là chủ sở hữu của lô hàng và lô hàng đã nhận không thuộc TTD đã mở mà nó thuộc về một chủ sở hữu khác. Trong trường hợp này, NHPH đã thanh toán cho người thụ hưởng mà vẫn phải bồi thường cho hãng vận tải. + Rủi ro phát sinh từ khâu kiểm tra bộ chứng từ Kiểm tra bộ chứng từ xuất trình theo thư tín dụng đã mở có ý nghĩa quan trọng quyết định việc NHPH chấp nhận hay từ chối thanh toán. Việc kiểm tra bộ chứng từ được điều chỉnh bởi tập quán thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP và ISBP. Tuy nhiên, UCP và ISBP quy định tất cả các trường hợp xảy ra nên có nhiều chi tiết các ngân hàng diễn giải theo nhiều nghĩa khác nhau. Vì vậy, đây là khâu dễ gây tranh cãi giữa các ngân hàng và cũng dễ gây rủi ro cho NHPH: Theo quy định của UCP, ngân hàng có năm ngày làm việc để quyết định chấp nhận hay từ chối bộ chứng từ được xuất trình theo TTD, NHPH sẽ mất quyền từ chối sau 5 ngày làm việc đó. Sau khi NHPH từ chối bộ chứng từ xuất trình theo thư tín dụng thì bộ chứng từ đó thuộc về người xuất trình chứng từ. Nếu NHPH giao bộ chứng từ cho người mở TTD trước khi có chỉ thị của người xuất trình thì NHPH có thể phải chịu rủi ro bị người xuất trình chứng từ kiện vì việc giao chứng từ này. Khi bộ chứng từ không phù hợp với điều khoản và điều kiện của TTD, nếu người mở TTD nhận bộ chứng từ và thanh toán, NHPH cần phải yêu cầu người mở TTD chấp nhận những điểm không phù hợp bằng văn bản. Nếu không có thư chấp nhận này, NHPH có thể phải chịu rủi ro người yêu cầu mở TTD khiếu nại vì không thông báo điểm không phù hợp cho họ. Việc diễn giải UCP và ISBP không thống nhất có thể gây ra tranh cãi giữa các ngân hàng về những điểm không phù hợp. NHPH còn phải gánh chịu rủi ro do ngân hàng xuất trình chứng từ bác bỏ những điểm không phù hợp. Rủi ro phát sinh từ môi trường kinh doanh - Rủi ro phát sinh từ biến động của thị trường hàng hóa nhập khẩu Hàng hóa nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của người mở TTD và việc thu hồi vốn của NHPH. Nếu là mặt hàng giá cả biến động nhiều theo thị trường, kênh phân phối và tiêu thụ hẹp, chỉ có một số đối tượng tiêu thụ đặc biệt thì việc kinh doanh của nhà nhập khẩu dễ gặp rủi ro, NHPH cũng khó tiêu thụ hàng hóa để thu hồi lại vốn trong trường hợp cần thiết. Trong nhiều trường hợp, NHPH không tiêu thụ được hàng hóa đã bảo lãnh mở TTD. - Rủi ro phát sinh từ tình hình kinh tế chính trị của một quốc gia Mọi chủ thể kinh tế hoạt động trong một quốc gia đều chịu sự tác động của tình hình kinh tế chính trị của quốc gia đó. Khi tình hình chính trị không ổn định, nền kinh tế suy thoái, NHPH thường không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán của mình làm ảnh hưởng đến uy tín của NHPH; người nhập khẩu không được nhập hàng hóa hoặc mất khả năng thanh toán, trường hợp này NHPH phải gánh chịu rủi ro. Khủng hoảng kinh tế, lạm phát khiến cho đồng tiền trong nước kém ổn định, mấtgiá so với đồng tiền nước ngoài làm giá hàng hóa thay đổi gây rủi ro hàng hóa. - Rủi ro phát sinh từ chính sách kinh tế của một quốc gia Chính sách thương mại, các quy định về xuất nhập khẩu của một quốc gia có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia. Chính sách quản lý ngoại hối, những quy định về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của nước nhập khẩu... nếu bị thay đổi đột ngột (như hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài) thì sẽ gây rủi ro cho NHCK và nhà xuất khẩu. Hoặc một quốc gia có dự trữ ngoại tệ thấp, nhà nhập khẩu gặp khó khăn thì thậm chí không mua được ngoại tệ để thanh toán, gây rủi ro cho NHCK không nhận được tiền, NHPH mất uy tín thanh toán. 1.4.2.3. Rủi ro ngoại hối. Trong phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và thanh toán quốc tế nói chung, thông thường người ta không sử dụng đơn vị tiền tệ trong nước mà sử dụng các ngoại tệ mạnh tự do chuyển đổi. Tỉ giá hối đoái là một nhân tố rất nhạy cảm, được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, biến động của tỉ giá hối đoái còn ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Việc cân nhắc mua hay bán ngoại tệ trở nên khó khăn khi tỉ giá thay đổi liên tục, bất thường, hậu quả là nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán bị ảnh hưởng.Các ngân hàng buộc phải lựa chọn: Một là chấp nhận co hẹp hoạt động thanh toán quốc tế, hạn chế đối tượng khách hàng, hai là chịu lỗ về kinh doanh ngoại tệ, bù lại ngân hàng sẽ giữ được khách hàng. 1.4.2.4. Rủi ro đạo đức. Rủi ro do nguyên nhân lừa đảo quốc tế: Hoạt độngthương mại quốc tế phát triển ở giai đoạn càng cao thì càng dễ xảy ra những vụ lừa đảo với thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp và liên quan đến nhiều bên trong mỗi giao dịch, trong đó đặc trưng nhất là thông qua phương thức thanh toán bằng Tín dụng chứng từ. - Lừa đảo về hàng hóa: Đây là dạng lừa đảo dể xảy ra đối với những đối tác có quan hệ làm ăn buôn bán lần đầu. Chính nguyên tắc “ tất cả các bên liên quan trong Tín dụng thư chỉ thực hiện căn cứ trên chứng từ, không căn cứ vào hàng hóa” là điểm mấu chốt, nhưng cũng là điểm yếu nhất, dễ bị kẻ xấu lợi dụng để lừa đảo trong phương thức thanh toán bằng phương thức Tín dụng chứng từ. Đôi khi chúng còn tìm cách tăng khả năng thành công bằng cách yêu cầu L/C xác nhận bằng một ngân hàng khác. - Chứng từ giả mạo: Bộ chứng từ ( làm giả) hoàn hảo nhưng không có lô hàng nào được giao. Khả năng xấu nhất là L/C đã được ngân hàng xác nhận chiết khấu miễn truy đòi, còn nhà Nhập khẩu chấp nhận từ bỏ lô hàng hóa cho ngân hàng “ phát mại” hoặc tuyên bố phá sản. - L/C giả mạo: Dạng lừa đảo này thường xảy ra với loại L/C được mở trực tiếp cho người thụ hưởng ( straight L/C), không sử dụng ngân hàng thông báo, hàng hóa đươc gửi thẳng cho một cái tên đích danh . Liên quan đến giao dịch này có thể có L/C giáp lưng hoặc chuyển nhượng khó xác định người mua đích thực. - Dạng lừa đảo có sự tiếp tay cả khách hàng Dạng thứ nhất: Người Nhập khẩu đề nghị ngân hàng mở L/C, Người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ giả và đem chiết khấu, khi nhận được yêu cầu hoàn trả tiền ( cho ngân hàng chiết khấu) thì ngân hàng mở L/C mới không thể liên lạc được với người Nhập khẩu. Dạng thứ hai: L/C bị các tổ chức tội phạm lợi dụng để rửa tiền các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Việc phát hành và thanh toán L/C diễn ra hoàn toàn bình thường. Các ngân hàng không thể biết tình trạng thực của hàng hóa. Kết luận chương I: Bước sang thế kỉ XXI, quá trình toàn cầu hóa làm bùng nổ nhu cầu về thanh toán quốc tế, trong đó phương thức tín dụng chứng từ là phương thức quan trọng nhất. Do đó việc đẩy mạnh dịch vụ TTQT là góp phần quảng bá hình ảnh thương hiệu của Ngân hàng, đồng thời góp phần đưa đất nước hội nhập nhanh với kinh tế Thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tuy nhiên, song song với việc phát triển mạnh TTQT bằng phương thức TDCT, các ngân hàng còn phải đề phòng những rủi ro mà phương thức này mang lại. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG NN&PTNT HÀ NỘI VÀ NHỮNG RỦI RO TIỀM ẨN 2.1. Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Agribankhanoi. NHNo & PTNT Hà Nội (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 51- QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 cuả Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt Nam). Chi nhánh NHNo & PTNT Thành phố Hà Nội (nay là NHNo & PTNT Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công-Nông-Thương Thành phố Hà nội và 12 chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp huyện được đổi tên từ các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung Quận Hai Bà Trưng , Hà Nội. Với 1182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn đọng.Trụ sở, phương tiện, kho tàng không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh.NHNo & PTNT Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Những năm đầu cùng với sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các công ty Lương thực Hà nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp. Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới nông thôn ngoại thành Hà nội. NHNo & PTNT Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, nhờ vậy chỉ sau hơn hai năm hoạt động từ năm 1990 trở đi NHNo & PTNT Hà Nội đã có đủ tiền mặt và nguồn vốn thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiên mặt cho khách hàng. Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị : Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phú Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo & PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm về NHNo & PTNT Việt Nam. Lúc này NHNo & PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng Nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dáng dấp của sản xuất nông nghiệp ngay giữa nội đô Thành phố Hà Nội. Sau 20 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, NHNo & PTNT Hà Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và các hoạt động khác. Về nguồn vốn: Từ 18 tỷ khi mới thành lập, đến 12/2008 NHNo & PTNT Hà Nội đã huy động được 15.322 tỷ VNĐ, tăng 1.500 tỷ so 2007 tăng 30% mỗi năm, trong đó nguồn vốn ngoại tệ chiếm 7.1% đến nay có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng nội, ngoại tệ của các doanh nghiệp. Về dư nợ 3438 tỷ, tăng trên 701 tỷ so năm 2007, chất lượng được tín dụng đặc biệt chú trọng đã nâng dần hiệu quả kinh doanh của NHNo & PTNT Hà Nội. 2.1.2. Chi nhánh Để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, NHNo & PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động vầ đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành. 12 Ngân hàng chi nhánh trực thuộc huyện là: Chi nhánh ngân hàng huyện Thanh Trì, chi nhánh ngân hàng huyện Đông Anh, chi nhánh Ngân hàng huyện Gia Lâm, chi nhánh ngân hàng huyện Từ Liêm, chi nhánh ngân hàng huyện Mê Linh, chi nhánh ngân hàng huyện Sóc Sơn, chi nhánh ngân hàng huyện Hoài Đức, chi nhánh ngân hàng huyện Đan Phượng, chi nhánh ngân hàng huyện Thạch Thất, chi nhánh ngân hàng huyện Phúc Thọ, chi nhánh ngân hàng huyện Sơn Tây, chi nhánh ngân hàng huyện Ba Vì. Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện (thị): Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về các tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây. Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo & PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm. Trong những năm tiếp theo, NHNo & PTNT Hà Nội tiếp tục mở rộng thêm 1 số chi nhánh. Năm 1994 thành lập mới chi nhánh chợ Hôm - nay là chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Hai Bà Trưng. Năm 1995 thành lập mới chi nhánh Đồng Xuân - nay là chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Hoàn Kiếm. Năm 1996 thành lập chi nhánh Tây Hồ (quận Tây Hồ) và chi nhánh Giảng Võ (quận Ba Đình). Năm 1997 thành lập chi nhánh Cầu Giấy. Năm 1999 thành lập chi nhánh Đống Đa. Năm 2002 thành lập chi nhánh Tràng Tiền & chi nhánh Chương Dương. Năm 2003 thành lập chi nhánh Hàng Đào, chi nhánh Nghĩa Đô và chi nhánh Chợ Hôm. Tháng 11 năm 2004 tiếp tục bàn giao hai chi nhánh Chương Dương và Tây Hồ về Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Năm 2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng (nay là CN Trung hoà) 2.1.3. Hệ thống tổ chức. 2.1.3.1. Mô hình tổ chức. NHNo & PTNT Hà Nội là đơn vị trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam nên cũng hoạt động theo mô hình tổng công ty 90, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng, có tư cách pháp nhân,thời hạn hoat động là 99 năm, có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh. Hình 2: Bộ máy quản lý của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội NHNO & PTNT HÀ NỘI BAN LÃNH ĐẠO CÁC P.GIAO DỊCH P.KINH DOANH PHÒNG K TOÁN- N.QUĨ DỊCH VỤ VÀ MARKETING P.KINH DOANH NGOẠI HỐI HÀNH CHÍNH NHÂN SỰ PHÒNG KẾ HOẠCH PHÒNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TỔ GIAO DỊCH TỔ KẾ TOÁN NGÂN QUỸ KHÁCH HÀNG NHNO & PTNT VIỆT NAM (Nguồn: Phòng Kế hoạch tổng hợp- NHNN&PTNN HN) - NHNo & PTNT Hà Nội có 8 phòng ban và 17 chi nhánh trực thuộc. Toàn hệ thống NHNo & PTNT Hà Nội có trên 1000 cán bộ ,trong đó nữ chiếm 58%. Lao động làm chuyên môn nghiệp vụ: Tín dụng 32%, kế toán 17%, giám định viên 3%, ngân quỹ 11%, tin học 1.5%, hành chính, lái xe, bảo vệ, lao công 7%, nghiệp vụ khác 3.5%. - Về trình độ chuyên môn: Tiến sỹ, Thạc sỹ: 0.5%; Đại học, Cao đẳng 31% Trung học: 47%, chứng chỉ: 8.5% Sơ cấp:13%. BGĐ của NHNo & PTNT Hà Nội bao gồm Giám đốc và 4 Phó giám đốc. 2.1.3.2. Chức năng và nhiệm vụ chính của các phòng ban tại NHNo & PTNT Hà Nội. Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội bao gồm các phòng ban: Phòng kế toán NQ, phòng kinh doanh, phòng kinh doanh ngoại hối, phòng kiểm toán nội bộ, phòng giao dich, phòng dich vu & marketing, phòng tổ chức các bộ, phòng hành chính nhan su. - Phòng kế toán NQ bao gồm: Trưởng phòng, các phó phòng và các nhân viên. Nhiệm vụ là: + Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), NHNo & PTNT Việt Nam. + Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh NHNo & PTNT trên địa bàn trình NHNo & PTNT cấp trên phê duyệt. + Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo qui định của NHNo & PTNT trên địa bàn. + Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. - Phòng kinh doanh bao gồm: Trưởng phòng, hai phó phòng và các nhân viên. Nhiệm vụ là: + Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách h._.ọi khác nhau, nhân viên TTQT cần phải chú ý để tư vấn cho phù hợp; đối với từng loại chứng nhận xuất xứ khác nhau mà yêu cầu số bản xuất trình phù hợp. Đối với giấy chứng nhận phân tích và giấy chứng nhận số lượng cần phải quy định thêm về nội dung vì theo quy định của UCP các chứng từ này nếu không quy định về nội dung có thể thể hiện bất kỳ nội dung nào và như vậy có thể gây bất lợi cho người mua. Những chứng từ khác phải quy định rõ cơ quan cấp, nếu không thì bất kỳ cơ quan nào cấp cũng được chấp nhận. Nếu người mua muốn giao hàng từng phần và làm nhiều đợt phải quy định cụ thể chặt chẽ, tránh quy định chung chung; không nên đưa vào thư tín dụng các điều kiện không xuất trình chứng từ vì không thể kiểm tra việc thực hiện của người bán. * Đề nghị người bán phát hành thư bảo lãnh nếu có khả năng xảy ra rủi ro Trường hợp trị giá TTD lớn và người mua không tin tưởng người bán thì cần thương lượng để người bán phát hành TTD dự phòng hoặc thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này cần kiểm tra uy tín của ngân hàng người xuất khẩu. * Fax bản nháp thư tín dụng cho người thụ hưởng khi thư tín dụng được phát hành lần đầu Để tránh các trường hợp tu chỉnh, nhân viên TTQT nên đề nghị người mở thư tín dụng fax bản nháp cho người bán trước khi tiến hành mở TTD. Như vậy, người bán có thể chỉnh sửa trên bản nháp trước khi TTD gốc được phát hành. - Tu chỉnh thư tín dụng Thư tín dụng khi được mở ra có tính chất không hủy ngang, nếu muốn hủy hoặc tu chỉnh cần có sự đồng ý của người thụ hưởng, NHPH, người mở TTD và ngân hàng xác nhận (nếu có). Vì vậy, trong trường hợp người mở TTD yêu cầu tu chỉnh thư tín dụng cần phải tư vấn cho người mở TTD hiểu, người thụ hưởng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận tu chỉnh, tránh trường hợp bộ chứng từ không phù hợp theo tu chỉnh nhưng phù hợp với thư tín dụng gốc, người mở thư tín dụng dựa vào đó để từ chối bộ chứng từ, trong khi NHNo Hà Nội không thể từ chối bộ chứng từ, ảnh hưởng đến quan hệ giữa NHNo Hà Nội và khách hàng. Thứ ba, kiểm tra khi nhận bộ chứng từ, thực hiện ký hậu vận đơn và thanh toán. Ở khâu kiểm tra chứng từ cần thực hiện cẩn trọng, tránh trường hợp bắt những lỗi không tuân thủ UCP làm mất quyền từ chối thanh toán khi đã thông báo không phù hợp đến người mua. Bên cạnh đó, việc kiểm tra bộ chứng từ đảm bảo cho việc nhận hàng của người mở TTD. Việc kiểm tra bộ chứng từ TTD phải là trên tinh thần thư tín dụng là phương tiện thanh toán chứ không phải là phương tiện bắt những điểm không phù hợp và từ chối thanh toán. Để việc kiểm tra chứng từ được tuân thủ hoàn toàn theo UCP, nhân viên TTQT cần nắm vững UCP, thường xuyên đọc lại để không quên kiến thức, NHNo Hà Nội cần tổ chức những buổi hội thảo để trao đổi kinh nghiệm về UCP giúp nhân viên hiểu rõ và vận dụng UCP phù hợp. Bên cạnh đó, nhân viên TTQT cần phải tham khảo các tài liệu liên quan đến UCP như DCINSIGHT, Leading courses in documentary credits… để nắm được tinh thần phán quyết các điểm không phù hợp của phòng thương mại quốc tế, rút ra những kinh nghiệm trong việc quyết định bắt những điểm không phù hợp của bộ chứng từ; qua các tài liệu này nhân viên TTQT còn có kinh nghiệm trong các vụ tranh chấp, lừa đảo, các rủi ro có thể phát sinh trong PTTT TDCT, có những nhìn nhận và phán đoán về rủi ro có thể xảy ra tốt hơn. Nhân viên có thể lập bản ghi nhớ để kiểm tra bộ chứng từ để tránh bỏ sót những điểm không phù hợp khi kiểm tra bộ chứng từ. Đối với những điểm theo UCP là phù hợp nhưng việc nhận hàng của khách hàng không thuận lợi thì cần lưu ý cho khách hàng. Khi thông báo những điểm không phù hợp cho người mở TTD cần phải gửi thông báo từ chối bộ chứng từ cho ngân hàng xuất trình, tránh trường hợp mất quyền từ chối bộ chứng từ. Theo dõi bộ chứng từ đến hạn thanh toán, nhắc nhở, đốc thúc khách hàng nộp tiền, thanh toán đúng hạn cho ngân hàng xuất trình để đảm bảo uy tín cho NHNo Hà Nội. Trong trường hợp người mở TTD chấp nhận và thanh toán bộ chứng từ không phù hợp, cần phải yêu cầu chấp nhận bằng văn bản trước khi giao bộ chứng từ gốc và thanh toán. Khi phát hành thư bảo lãnh nhận hàng, giấy ủy quyền, ký hậu vận đơn cần phải xác định bộ chứng từ thuộc TTD đã mở, thực hiện ký quỹ đầy đủ, xem xét uy tín của người mở TTD, theo dõi vận đơn gốc để đổi lấy thư bảo lãnh nhận hàng gốc, tránh trường hợp quên thu hồi thư bảo lãnh nhận hàng gốc. 3.3.3.1.2 Các giải pháp hạn chế rủi ro khi NHNo Hà Nội là ngân hàng xác nhận thư tín dụng. Xác nhận là nghiệp vụ duy nhất NHNo Hà Nội chưa thực hiện trong bốn nghiệp vụ chính của PTTT TDCT. Khách hàng yêu cầu xác nhận thường là NHPH TTD nên rủi ro xảy ra ít hơn so với hai nghiệp vụ phát hành và chiết khấu TTD. Đây là nghiệp vụ có mức phí cao, các ngân hàng xác nhận thường là các ngân hàng có uy tín và được người thụ hưởng tin tưởng. Thế nên NHNo Việt Nam thường là ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này những khi khách hàng có yêu cầu. Trong tương lai gần, NHNo Hà Nội hi vọng sẽ nhanh chóng đưa nghiệp vụ này vào trong các gói dịch vụ của mình. Vì vậy, NHNo Hà Nội cần nâng cao uy tín đồng thời thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro nhằm mở rộng nghiệp vụ này góp phần mở rộng thị trường TTQT. Dưới đây là một số biện pháp NHNo Hà Nội có thể áp dụng khi là ngân hàng xác nhận thư tín dụng. Kiểm tra uy tín của ngân hàng phát hành trước khi xác nhận. Để hạn chế rủi ro do NHPH TTD bị mất khả năng thanh toán hay phá sản cần phải xem xét đến uy tín của NHPH trước khi xác nhận TTD. Theo quy định của NHNo Hà Nội, NHNo Hà Nội chỉ xác nhận các TTD của các NHPH nằm trong danh sách NHNo Hà Nội chấp nhận chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, không phải tất cả các ngân hàng nằm trong danh sách này NHNo Hà Nội đều thực hiện xác nhận thư tín dụng, trong trường hợp NHPH TTD không đảm bảo uy tín cần yêu cầu phải ký quỹ 100% trị giá xác nhận tại NHNo Hà Nội. Hiện tại, do nhu cầu xác nhận TTD chưa nhiều nên NHNo Hà Nội có thể đề ra hạn mức chiết khấu và hạn mức xác nhận chung đối với từng ngân hàng và quy định các chi nhánh cập nhật trị giá xác nhận vào hệ thống tương tự trường hợp chiết khấu bộ chứng từ thư tín dụng xuất khẩu. Xem xét nội dung thư tín dụng trước khi xác nhận Theo quy định của NHNo Hà Nội, NHNo Hà Nội chỉ xác nhận TTD có quy định NHNo Hà Nội là ngân hàng thông báo và xác nhận, bộ chứng từ phải được xuất trình cho NHNo Hà Nội, thư tín dụng cho phép đòi tiền bằng điện. Các điều kiện này nhằm đảm bảo quyền lợi của NHNo Hà Nội khi thực hiện xác nhận TTD. Bên cạnh những quy định này, NHNo Hà Nội còn phải xem xét các điều kiện khác trong TTD có đem lại bất lợi cho NHNo Hà Nội không, nếu có phải đề nghị tu chỉnh trước khi xác nhận hoặc xác nhận có điều kiện. Trong trường hợp các điều khoản TTD hoặc tu chỉnh TTD không đảm bảo quyền lợi và có thể gây rủi ro cho NHNo Hà Nội, NHNo Hà Nội không nên xác nhận và gửi thông báo cho NHPH. Kiểm tra bộ chứng từ và thực hiện thanh toán. Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình từ người thụ hưởng, nhân viên TTQT cần phải kiểm tra cẩn trọng theo quy định của UCP, hạn chế rủi ro không phát hiện các điểm không phù hợp hoặc bất đồng với NHPH về các điểm không phù hợp của bộ chứng từ. Nếu bộ chứng từ không phù hợp, cần phải xin ý kiến của NHPH trước khi thanh toán hoặc chỉ gửi chứng từ thu hộ cho người thụ hưởng, vì NHXN không có trách nhiệm thanh toán bộ chứng từ không phù hợp với điều kiện và điều khoản TTD. Trong trường hợp này, nếu NHNo Hà Nội chiết khấu bộ chứng từ, phải thông báo cho người thụ hưởng để trừ vào hạn mức vay, hạn chế rủi ro người thụ hưởng không hoàn trả tiền khi NHPH từ chối thanh toán. 3.3.3.1.3 Các giải pháp hạn chế rủi ro khi NHNo Hà Nội là ngân hàng chiết khấu thư tín dụng. Theo đánh giá của các chi nhánh và các rủi ro thực tế đã phát sinh, khi NHNo Hà Nội là ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ thì rủi ro có khả năng xảy ra cho NHNo Hà Nội là nhiều nhất. Vì vậy, các chi nhánh cần chú ý đến những giải pháp sau: Kiểm tra bộ chứng từ. Ở khâu kiểm tra bộ chứng từ nếu thực hiện tốt thì có khả năng phòng ngừa rủi ro NHPH bắt những điểm không phù hợp không tuân theo UCP và ISBP hoặc bất đồng với NHPH về những điểm không phù hợp; rủi ro người mua mất khả năng thanh toán hay không có thiện chí thanh toán là nguyên nhân để NHPH cố tình tìm những điểm không phù hợp nhằm từ chối bộ chứng từ; rủi ro xảy ra khi chiết khấu bộ chứng từ và không phát hiện ra những điểm không phù hợp. Tại NHNo Hà Nội, việc quyết định chiết khấu bộ chứng từ xuất trình theo TTD xuất khẩu trước tiên dựa vào kết quả kiểm tra chứng từ của nhân viên TTQT. Nếu bộ chứng từ phù hợp với điều khoản và điều kiện của L/C thì sẽ được xem xét chiết khấu theo đúng quy trình và tỷ lệ quy định. Vậy nên nhân viên TTQT phải hết sức cẩn trọng khi kiểm tra bộ chứng từ. Cần hoàn toàn tuân thủ UCP, ISBP và L/C; có thể kiểm tra một cách máy móc đúng theo UCP, ISBP và L/C từng câu, từng chữ để tránh trường hợp UCP và ISBP quy định là phù hợp nhưng NHPH cho rằng không phù hợp. Có như vậy thì NHPH mới không thể tìm cách từ chối thanh toán bộ chứng từ xuất trình. Để khâu kiểm tra chứng từ diễn ra thuận tiện, nhân viên TTQT cần có những bước chuẩn bị thật kỹ từ kiến thức, kinh nghiệm và tư vấn cho khách hàng. Khi nhận được L/C xuất khẩu, nhân viên cần đọc kỹ L/C và tư vấn cho khách hàng những điểm bất lợi hoặc những điều kiện người thụ hưởng không thực hiện được và đề nghị tu chỉnh để tránh trường hợp vì không thể thực hiện được theo L/C mà bộ chứng từ có những điểm không phù hợp. Nhắc nhở khách hàng giao hàng và xuất trình chứng từ trong thời hạn L/C cho phép là điều nên làm bởi chúng dễ gây ra những điểm không phù hợp của bộ chứng từ mà không thể chỉnh sửa được. Tiếp theo là cần tư vấn cho khách hàng cách lập bộ chứng từ. NHNo Hà Nội nên ban hàng cẩm nang lập bộ chứng từ xuất khẩu đơn giản, ngắn gọn dễ hiểu để cung cấp cho khách hàng, có như vậy sẽ tránh được việc bộ chứng từ có nhiều điểm không phù hợp không thể hoặc khó chỉnh sửa. Bên cạnh đó, mỗi loại chứng từ có những đặc điểm riêng, nhân viên cần có kinh nghiệm và hướng dẫn khách hàng, ví dụ đối với vận đơn “surrender” thì ở ô số vận đơn gốc phải là không, những điều này thường không được quy định trong UCP và ISBP. Nhân viên cần phải hướng dẫn khách hàng tự kiểm tra chứng từ trước khi xuất trình đến NHCK để tránh những lỗi chính tả cho bộ chứng từ. Ở khâu lập thư ngân hàng và gửi chứng từ đến NHPH, Chi nhánh cần chú ý đến ngày lập thư ngân hàng, nếu ngày lập thư ngân hàng sau thời hạn xuất trình chứng từ L/C quy định phải ghi rõ câu “Bộ chứng từ được xuất trình trong thời hạn cho phép trong thư tín dụng”, tránh để NHPH dựa vào thư ngân hàng bắt lỗi bộ chứng từ được xuất trình trễ. Khi gửi chứng từ, nhân viên cần phải thực hiện đầy đủ các điều kiện khác trong TTD, ví dụ TTD yêu cầu gửi kèm một bộ chứng từ bản sao, gửi kèm bản sao của vận đơn gốc(ở đây không phải là bản vận đơn không thương lượng mà hãng tàu giao cùng vận đơn gốc)…, không để xảy ra tình trạng bộ chứng từ khách hàng xuất trình phù hợp nhưng NHCK lại làm cho bộ chứng từ xuất trình đến NHPH là không phù hợp. Tìm hiểu về người nhập khẩu, ngân hàng phát hành và nước nhập khẩu. Để hạn chế rủi ro xảy ra do người nhập khẩu, NHPH và nguyên nhân bất khả kháng, NHNo Hà Nội cần phải xem xét đến uy tín của nhà nhập khẩu, NHPH và tình hình kinh tế chính trị, thiên tai của nước nhập khẩu trước khi chiết khấu hoặc cấp mức chiết khấu cho khách hàng. + Tìm hiểu về nhà nhập khẩu: Thông tin về nhà nhập khẩu có thể được thu thập từ người thụ hưởng, từ các khách hàng khác, từ internet, các tổ chức xúc tiến thương mại và từ những lần thanh toán trước đây. Chẳng hạn như nếu nhà nhập khẩu là đối tác cũ của khách hàng và thanh toán đúng hạn cho những lần giao hàng trước thì sẽ được coi là một yếu tố đánh giá uy tín của nhà nhập khẩu…Tại NHNo Hà Nội, uy tín nhà nhập khẩu đã được tính đến nhưng chưa được bộ phận tín dụng quan tâm đúng mức khi cấp mức chiết khấu cho các doanh nghiệp. + Tìm hiểu về ngân hàng phát hành: Việc đánh giá và xếp loại ngân hàng được phòng phân tích các định chế tài chính thực hiện dựa trên kết quả của Tổ chức xếp hạng quốc tế, uy tín thanh toán của NHPH với NHNo Hà Nội, các chỉ số tài chính của NHPH..., tùy mỗi ngân hàng NHNo Hà Nội sẽ định ra một hạn mức chiết khấu cụ thể. Chi nhánh chỉ chiết khấu đối với ngân hàng thuộc nhóm một và nhóm hai trong danh sách các ngân hàng được NHNo Việt Nam chấp nhận chiết khấu bộ chứng từ và cập nhật trị giá chiết khấu vào chương trình theo dõi, trị giá này sẽ được hoàn trả lại hạn mức khi NHPH thanh toán bộ chứng từ. Để tránh trường hợp các chi nhánh sử dụng thông tin không cập nhật, phòng phân tích các định chế tài chính phải thường xuyên cập nhật thông tin, đánh giá định kỳ lại và lập hạn mức chiết khấu mới cho các NHPH. Chi nhánh cần cập nhật trị giá chiết khấu vào chương trình theo dõi đã không chiết khấu vượt hạn mức do NHNo Việt Nam đề ra và theo dõi khoản thanh toán, hoàn nhập hạn mức để có thể tận dụng tối đa hạn mức chiết khấu. + Tìm hiểu nước nhập khẩu: Chi nhánh tự cập nhật và đánh giá thông tin nước nhập khẩu và không được hỗ trợ về thông tin này. Vì vậy, chi nhánh có thể tìm hiểu thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng xem nước nhập khẩu có thường xuyên bị chiến tranh, nội chiến, cấm vận, tình hình kinh tế chính trị có ổn định không, có nguy cơ khủng hoảng về kinh tế chính trị hay không… Đề nghị phòng phân tích các định chế tài chính chịu trách nhiệm tìm hiểu thông tin nước nhập khẩu và lên cảnh báo đối với những nước có nguy cơ xảy ra bất khả kháng, giúp cập nhật thông tin và không mất thời gian chi nhánh tự đánh giá. Xem xét các điều kiện liên quan đến người thụ hưởng trước khi cấp mức chiết khấu. Tại NHNo Hà Nội khách hàng chiết khấu được phân làm 2 nhóm: khách hàng thường xuyên và khách hàng ít có nhu cầu chiết khấu. Đối với khách hàng thường xuyên có nhu cầu chiết khấu, NHNo Hà Nội xem xét thỏa các điều kiện về tài sản đảm bảo, uy tín, mặt hàng, quan hệ giao dịch với NHNo Hà Nội... và xét cấp mức chiết khấu; nhóm khách hàng này chủ yếu có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo một phần và một số khách hàng không có tài sản đảm bảo. Nhóm khách hàng thứ hai là khách hàng ít có nhu cầu chiết khấu, NHNo Hà Nội sẽ xem xét chiết khấu từng lần cụ thể, điều kiện bao gồm lịch sử giao dịch, uy tín, khả năng tài chính, tài sản đảm bảo...; nhóm khách hàng này chủ yếu không có tài sản đảm bảo. Khi xét cấp hạn mức chiết khấu hay chiết khấu từng lần cần phải xem xét các điều kiện liên quan đến người thụ hưởng một cách cẩn thận, không vì xem chiết khấu chủ yếu dựa vào NHPH và bộ chứng từ mà không đánh giá hoặc đánh giá người thụ hưởng một cách qua loa. Sau khi cấp mức chiết khấu, các chi nhánh cần phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để kịp thời điều chỉnh mức chiết khấu. Khi khách hàng mở rộng xuất khẩu và nhu cầu chiết khấu tăng lên, thì NHNo Hà Nội tăng hạn mức chiết khấu cho khách hàng giúp duy trì khách hàng hiện tại; hoặc có thể thu hẹp hạn mức nếu thấy rủi ro tiềm ẩn cho NHNo Hà Nội. Việc đánh giá người thụ hưởng rất quan trọng, nó giúp hạn chế được rủi ro do người thụ hưởng gây ra. Về việc chiết khấu bộ chứng từ không phù hợp: Khi bộ chứng từ không phù hợp, nhân viên TTQT tư vấn khách hàng chỉnh sửa trong thời hạn xuất trình chứng từ, trong trường hợp không chỉnh sửa được thì phải lập điện xin ý kiến NHPH và chỉ chiết khấu khi có điện chấp nhận của NHPH. Trường hợp không có điện chấp nhận của NHPH thì các chi nhánh trừ số tiền chiết khấu vào hạn mức vay như quy định chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu. Các trường hợp khác khi chiết khấu bộ chứng từ không phù hợp cần xem xét đến uy tín và khả năng tài chính của người thụ hưởng… Các chi nhánh cần phải hạn chế chiết khấu bộ chứng từ không phù hợp. 3.3.3.1.4 Các giải pháp hạn chế rủi ro khi NHNo Hà Nôi là ngân hàng thông báo thư tín dụng. Với vai trò là NHTB, NHNo Hà Nội chỉ tham gia vào giao dịch TDCT với tư cách là ngân hàng cung cấp dịch vụ; NHNo Hà Nội không có nghĩa vụ liên quan đến thanh toán TTD mà chỉ có trách nhiệm thực hiện dịch vụ một cách cẩn trọng hợp lý và tuân thủ UCP. Hiện nay, NHNo Hà Nội thường đóng vai trò là NHTB cuối cùng (người thụ hưởng là khách hàng của NHNo Hà Nội), ít khi NHNo Hà Nội là NHTB thứ nhất. Với hệ thống đại lý rộng khắp, NHNo Hà Nội cần nâng cao uy tín và tiếp thị dịch vụ thông báo TTD của Agribank Hanoi nhằm tăng phí TTQT. Để hạn chế rủi ro khi thông báo TTD và nâng cao uy tín, NHNo Hà Nội cần thực hiện các biện pháp sau: Thực hiện xác thực thư tín dụng, đảm bảo việc truyền và xử lý dữ liệu giữa Phòng thanh toán quốc tế và các chi nhánh. Theo quy định của UCP, NHTB phải có trách nhiệm xác thực TTD trước khi thông báo đến người thụ hưởng, phải đảm bảo thông báo tất cả các nội dung nhận được cho người thụ hưởng. Khi nhận được TTD gửi đến NHNo Hà Nội bằng thư, nhân viên TTQT cần phải xác thực chữ ký ngay theo đúng quy trình tránh trường hợp quên xác thực chữ ký khi thông báo cho người thụ hưởng. Nếu xảy ra trường hợp như vậy, cần xử lý kịp thời để hạn chế rủi ro cho khách hàng. Những TTD thông báo qua mạng swift đã được xác thực, nhưng việc truyền dữ liệu từ Phòng Kinh doanh ngoại hối đến các chi nhánh cần phải chú trọng, tránh xảy ra trường hợp mất dữ liệu. Hiện tại, NHNo Hà Nội sử dụng mạng nội bộ để truyền TTD về chi nhánh, các chi nhánh phải chỉnh sửa hình thức cho phù hợp trước khi in TTD gốc. Vì vậy, để tránh việc mất dữ liệu của TTD trong quá trình chỉnh sửa, NHNo Hà Nội nên sử dụng chương trình TTQT hiện có để đổ dữ liệu từ swift truyền về, dữ liệu này ở dạng không chỉnh sửa được và các chi nhánh chỉ việc in TTD gốc từ chương trình này. Thông báo thư tín dụng nhanh chóng. Khi nhận được TTD đã được xác thực, nhân viên TTQT cần thông báo ngay cho người thụ hưởng. Trong trường hợp không đồng ý thông báo do có những điểm bất lợi cho NHNo Hà Nội, không xác thực được TTD, không liên hệ được với người thụ hưởng … cần thông báo ngay cho ngân hàng gửi TTD để xin chỉ thị mới, không kéo dài thời gian thông báo TTD gây thiệt hại cho các bên tham gia. Trước khi thông báo, nhân viên TTQT cần phải đọc TTD và tư vấn cho khách hàng tu chỉnh những điều khoản bất lợi cho người thụ hưởng, đồng thời lưu ý khách hàng xem kỹ nội dung TTD và đề nghị người mở TTD tu chỉnh nếu cần thiết. Trong từng vai trò cụ thể NHNo Hà Nội cần thực hiện những biện pháp đã đề ra một cách triệt để để hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng nghiệp vụ TTQT bằng phương thức TDCT. Bên cạnh đó, để phát huy những biện pháp kể trên, ở bất kỳ vai trò nào, NHNo Hà Nội cũng cần phải thực hiện các biện pháp chung như sau: 3.3.3.2 Đào tạo con người để phục vụ cho nghiệp vụ TTQT Đội ngũ nhân viên và quản lý là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ của NHNo Hà Nội. Trong đó, nhân viên TTQT, nhân viên tín dụng và đội ngũ quản lý hai bộ phận này ảnh hưởng trực tiếp đến dịch vụ TTQT và rủi ro có thể xảy ra cho NHNo Hà Nội. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ nhân viên và quản lý có chất lượng tốt. Xây dựng đội ngũ nhân viên cần bắt đầu từ khâu tuyển dụng, đào tạo và nâng cao kiến thức sau khi tuyển dụng. Để trở thành nhân viên TTQT giỏi, ngoài những kiến thức về TTQT, còn phải có những kiến thức có liên quan như ngoại thương, vận tải, bảo hiểm, …. Trong đó ngoại ngữ và tin học là kiến thức không thể thiếu. Hiểu biết về các văn bản luật có liên quan, thị trường hàng hóa, tập quán liên quan đến TTQT trong và ngoài nước… cũng là yếu tố cần thiết. Bên cạnh kiến thức và hiểu biết cần có, nhân viên TTQT còn cần có các đức tính như trung thực, tuân thủ kỷ luật nói chung và các quy định liên quan đến TTQT nói riêng, cẩn trọng và chính xác trong công việc, linh động trong việc giải quyết các tình huống, phải có ý thức tự nâng cao kiến thức và tinh thần làm việc theo nhóm…. Các nhân viên TTQT tại NHNo Hà Nội đều qua các khóa đào tạo TTQT cơ bản. Hàng năm NHNo Hà Nội đều tổ chức và tham gia các buổi hội thảo với ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên vì thời gian các buổi hội thảo ngắn, không thể làm rõ hết các vấn đề. Vì vậy, Phòng Kinh doanh ngoại hối nên tập hợp các tình huống, trường hợp cần thảo luận từ các chi nhánh, đưa ra hướng giải quyết và phổ biến đến các chi nhánh trong toàn hệ thống. Đây cũng là một cách để nâng cao kiến thức và chất lượng đội ngũ nhân viên TTQT và đối với đội ngũ nhân viên tín dụng, nên được đào tạo qua lớp TTQT cơ bản. Với đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý giỏi sẽ đem lại chất lượng dịch vụ TTQT tốt nhất cho khách hàng và hạn chế rủi ro tốt nhất cho NHNo Hà Nội. Các quy định về quản lý ngoại hối, về chính sách thương mại, hải quan, định hướng của nền kinh tế… ảnh hưởng trực tiếp đến nghiệp vụ TTQT, từng nhân viên TTQT không thể cập nhật hết các thay đổi của các quy định này. Phòng Kinh doanh ngoại hối cần thành lập bộ phận chuyên trách cập nhật các thay đổi có liên quan và phổ biến đến từng chi nhánh, kịp thời đưa ra các điều chỉnh về quy định và chính sách liên quan đến TTQT; kịp thời tư vấn khi khách hàng yêu cầu, nâng cao uy tín của NHNo Hà Nội. 3.3.3.3 Hoàn thiện chương trình công nghệ phục vụ thanh toán quốc tế Đối với một ngân hàng hiện đại thì việc áp dụng công nghệ hiện đại phục vụ các dịch vụ để cung cấp cho khách hàng là yếu tố không thể thiếu. Công nghệ giúp chi nhánh quản lý dữ liệu thống nhất và có thể truy xuất bất kỳ lúc nào, giảm được sức người trong việc theo dõi cơ học: như theo dõi các khoản thanh toán đến hạn, hạn mức của các doanh nghiệp…; giúp Phòng Kinh doanh ngoại hối có thể theo dõi nghiệp vụ các chi nhánh đang thực hiện, thực hiện các chức năng giám sát từ xa của Phòng thanh toán quốc tế hội sở…. Hiện tại chương trình TTQT của NHNo Hà Nội đã thỏa mãn các yêu cầu trên, tuy nhiên cần phải hoàn thiện thêm phần lưu hồ sơ và truy xuất hồ sơ lưu một cách khoa học phù hợp với NHNo Hà Nội, hoàn thiện phần theo dõi các giao dịch của từng nhân viên để có thể có biện pháp nâng cao năng xuất và chất lượng của từng nhân viên cụ thể, cần liên kết chương trình TTQT và các chương trình quản lý khác nhằm giảm thời gian nhân viên nhập lại dữ liệu đã nhập vào chương trình quản lý chung. Chương trình tin học cần cho biết được tình hình giao dịch TTQT của từng khách hàng để nhân viên chăm sóc khách hàng có những biện pháp chăm sóc khách hàng phù hợp. 3.3.3.4. Đối với các đơn vị có liên quan trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Để hạn chế rủi ro khi thanh toán bằng phương thức TDCT thì tất cả các bên tham gia vào PTTT phải cùng với NHNo Hà Nội thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. - Đối với người yêu cầu phát hành thư tín dụng hay người thụ hưởng thư tín dụng có nhiều rủi ro có thể hạn chế được bằng việc xem xét kĩ uy tín của đối tác. Người mua hay người bán có thể tìm hiểu đối tác của mình qua các đối tác khác, tổ chức xúc tiến thương mại, các thông tin có sẵn trên thị trường, có thể trực tiếp tìm hiểu đối tác hoặc có thể thông qua ngân hàng... Người bán, người mua đều cần ý thức được phương thức thanh toán tín dụng chứng từ không phải là tuyệt đối an toàn cho người bán cũng như người mua. Người bán và người mua nên lường trước những rủi ro có thể xảy ra để chủ động phòng ngừa. - Đối với các ngân hàng liên quan đến phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Các ngân hàng có liên quan đến phương thức TDCT cần cùng nhau hợp tác để hạn chế rủi ro cho chính bản thân ngân hàng và rủi ro cho các ngân hàng khác tham gia vào phương thức tín dụng chứng từ này. Các ngân hàng thông báo cho nhau khi phát hiện các trường hợp có nghi vấn, nên xem phương thức TDCT là công cụ thanh toán trong thương mại quốc tế, không phải là công cụ để từ chối thanh toán hay thu phí. Kết luận chương III: Việc xây dựng nên những chính sách, giải pháp phù hợp với tình hình, kinh tế, xã hội như trên không thể xem là hoàn chỉnh để có thể phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong TTQT bằng phương thức TDCT ở Việt Nam nói chung, ở NHNo Hà Nôi nói riêng. Những biện pháp trên chỉ mong nhấn mạnh việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong TTQT bằng phương thức TDCT là rất quan trọng, đây là những  biện pháp gợi mở, phù hợp với đặc trưng của NHNo Hà Nôi, giúp NHNo Hà Nội xem xét, chọn lọc áp dụng triển khai nhằm nâng cao vị thế và năng lực canh tranh của mình. Từ đó có sự chuẩn bị, sẵn sàng cạnh tranh hơn với các hệ thống Ngân hàng khác đang hoạt động trên địa bàn với cùng lĩnh vực hoạt động. KẾT LUẬN Cùng với sự mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, hoạt động TTQT không những có cơ hội phát huy vai trò của mình đối với NHTM, các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu mà còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của đất nước. Với những thành tựu đã đạt được trong những năm qua NHNN&PHNT Hà Nội vẫn tiếp tục hoàn thiện và từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Cũng như các NHTM khác, NHNN&PHNT Hà Nội đánh giá cao hiệu quả hoạt động TTQT, đặc biệt là TTQT theo phương thức TDCT trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp kinh doanh XNK và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các kiến thức đã học và thực tế, được sự giúp đỡ của NHNN&PHNT Hà Nội, Phòng Kinh doanh ngoại hối đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Luận văn đã đạt được: Về lý luận: Nêu khái quát được những vấn đề cơ bản về những rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại các ngân hàng thương mại nói chung và tại NHNo & PTNT Hà Nội nói riêng. Về thực tế: Bằng việc phát hiện được những nguyên nhân của các rủi ro, luận văn đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị với chính ngân hàng, với Chính phủ, với NHNN, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại NHNo&PTNT Hà Nội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007, 2008 của NHNo&PTNT Hà Nội. Các tài liệu nội bộ do NHNo&PTNT Hà Nội cung cấp. David Cox- NXB Chính trị Quốc gia (1997)- Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. N.G Mankiw ( 1998 )Kinh tế vĩ mô, Nhà xuất bản Thống kê . PGS Đinh Xuân Trình ( 2006), Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động- xã hội. Hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối trong hệ thống NHNo&PTNT. Ts Nguyễn Minh Kiều, TS Nguyễn Hoàng Ngân (1997 ), Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê PGS TS Lê Văn Tề( 2006 ), Nghiệp vụ tín dụng và thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống Kê Những điều kiện thương mại quốc tế Incorterm 2000 Phòng thương mại quốc tế (2008 )Các tập quán thương mại quốc tế về L/C, Nhà xuất bản trường Kinh tế Quốc dân GS.TS Dương Thị Bình Minh (2001), Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản Giáo dục. PGS. TS Phan Thu Hà ( 2004), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê Peter.S.Rose ( 2006)Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài Chính TS Nguyễn Thị Mùi (2001), Lý thuyết Tiền tệ ngân hàng, nhà xuất bản Xây dựng Hà Nội Những trang web: My.opera.com Money.com Vietnamnet.vn - Exportvietnam.googlepager.com Danketoan.com MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, TS. Đàm Quang Vinh, em đã chọn đề tài “ Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn và các bác, các anh chị cán bộ NHNo&PTNT Hà Nội. Nếu có bất kỳ sự sao chép nào, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, ngày….tháng….năm 2009 Người viết Lê Thị Mai Chi NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, em đã nhận được nhiều sự ủng hộ, giúp đỡ và ý kiến đóng góp quý báu của cô giáo, TS. Đàm Quang Vinh và các cô chú, anh chị tại NHNo&PTNT Hà Nội. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, TS. Đàm Quang Vinh người đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiệt tình trong thời gian qua Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế đã dạy dỗ và truyền đạt cho em những kiến thức, kinh nghiệm quý báu để góp phần quan trọng vào thành công của luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của NHNo & PTNT Hà Nội………. 42 Bảng2.2: Tình hình dư nợ của NHNo & PTNT Hà Nội……………….. 44 Bảng2.3: Tình hình NQH của NHNo & PTNT Hà Nội………………... 45 Bảng 2.4: Tình hình phục vụ công tác xuất khẩu của các DN…………. 46 Bảng2.5: Tình hình phục vụ công tác nhập khẩu của các DN………..... 46 Bảng2.6: Tình hình cung ứng ngoại tệ cho các DN thanh toán nhập khẩu…………………………………………………………………… 47 Bảng 2.7: Tình hình TTQT giai đoạn 2006-2008 tại NHNo & PTNT Hà Nội........................................................................................................... 52 Bảng 2.8: Kết quả thanh toán tín dụng chứng từ đối với hàng nhập khẩu tạiNHNo &PTNT Hà Nội........................................................................ 54 Bảng 2.9: Kết quả thanh toán tín dụng chứng từ đối với hàng xuất khẩu tại ngân hàng NHNo & PTNT Hà Nội..................................................... 55 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1: Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ……………………………...23 Hình 2: Bộ máy quản lý của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội……………38 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHNo & PTNT…....Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHNO…………......Ngân hàng nông nghiệp NHTM……………..Ngân hàng thương mại TTQT……………...Thanh toán quốc tế TDCT………………Tín dụng chứng từ NHPH…………...…Ngân hàng phát hành NHCK……………..Ngân hàng chiết khấu NHCĐ…………… Ngân hàng chỉ định NHXN…………..…Ngân hàng xác nhận NHTB…………….. Ngân hàng thông báo PTTT……………. Phương thức thanh toán TTD…………….….Thư tín dụng KDNT…………...…Kinh doanh ngoại hối UPC…………....Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31261.doc
Tài liệu liên quan