Giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB)

MỞ ĐẦU Trong bối cảnh chung của nền kinh tế đang chuyển mình đổi mới, hệ thống các ngân hàng không ngừng phát triển để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt trong năm 2007 với sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước ngành ngân hàng ngày càng khẳng định rõ vai trò, vị

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trí to lớn của mình trong nền kinh tế. Với vai trò là một lĩnh vực kinh doanh tiềm năng trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ đang ngày càng trở nên có vị thế quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, cũng như các ngân hàng khác, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng Quân đội luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Nguyên nhân có thể do thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thời gian tham gia vào thị trường quốc tế chưa nhiều, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, kinh nghiệm quản lý yếu kém…. Một trong những rủi ro đem lại thiệt hại rất lớn trong kinh doanh ngoại tệ đó là rủi ro tỷ giá. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có đạt hiệu quả, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân hàng quản lỷ rủi ro như thế nào. Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội” đã được chọn làm đề tài nghiên cứu chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Với mục đích trên, nội dung của chuyên đề tập trung chủ yếu nghiên cứu về rủi ro tỷ giá và giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội từ năm 2004-2006. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển và xu hướng đa năng hoá, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp ngày càng tăng, ngoài các dịch vụ truyền thống như: nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản tài sản hộ, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh…thì hoạt động KDNT cũng đang trở thành một trong những hoạt động mà ngân hàng cần chú trọng để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mở cửa và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. KDNT theo nghĩa rộng bao gồm việc mua, bán, vay và cho vay các loại ngoại tệ nhằm đảm bảo cân đối nhu cầu về ngoại tệ cho ngân hàng và tìm cách thu lời thông qua chênh lệch về tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau. Theo nghĩa hẹp thì KDNT chỉ đơn thuần là các hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại khi ngân hàng tham gia trên thị trường trong và ngoài nước nhằm đảm bảo nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua và bán các đồng tiền khác nhau. Ngày nay, do vai trò tiền tệ của vàng giảm đáng kể, chính vì vậy khi nói đến thị trường ngoại hối người ta thường hiểu đó là thị trường mua bán các đồng tiền khác nhau, hay mua bán ngoại tệ, nghĩa là thị trường ngoại hối thường được hiểu theo nghĩa hẹp là thị trường ngoại tệ. Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ Đối với ngân hàng Hoạt động KDNT giúp cho các NHTM nâng cao khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, ngoài ra còn mang lại một khoản lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có hoạt động KDNT phát triển. Hoạt động KDNT có ảnh hưởng lớn đến các nghiệp vụ khác của ngân hàng như: thanh toán quốc tế, bảo lãnh, vay, cho vay bằng ngoại tệ…góp phần đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng thương mại. Các nghiệp vụ KDNT như: forwards, future, swaps, options có thể được dùng như các công cụ để phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất, đặc biệt là những rủi ro có liên quan đến tỷ giá và lãi suất. Hoạt động KDNT góp phần nâng cao vị thế các ngân hàng thương mại trên thị trường quốc tế thông qua giao dịch mua bán ngoại tệ với các ngân hàng nước ngoài. Đối với nền kinh tế Đối với doanh nghiệp Đáp ứng nhu cầu đa dạng về ngoại tệ cho các khách hàng doanh nghiệp thanh toán các hợp đồng ngoại thương, tạo điều kiện cho các hoạt động ngoại thương và việc thanh toán giao dịch của khách hàng được diễn ra thuận lợi. Với việc tư vấn, đánh giá sự thay đổi của tỷ gía đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tính toán được hiệu quả kinh tế đối ngoại, đồng thời cấp cho các doanh nghiệp các công cụ để có thể hạn chế được rủi ro về biến động tỷ giá. Đối với thị trường ngoại hối NHTM là một thành viên giữ vai trò quan trọng nhất trên thị trường ngoại hối, với chức năng kinh doanh tiền tệ ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Đối với NHNN Hoạt động KDNT góp phần làm tăng nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia, hoàn thiện chính sách vĩ mô của Chính phủ về quản lý ngoại hối, về chính sách tỷ giá và lãi suất, điều tiết quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường nhằm đảm bảo ổn định đồng nội tệ và góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và của quốc gia. 1.1.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ Trong hoạt động KDNT có thể nói không tránh khỏi những rủi ro. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng luôn luôn có mối quan hệ cùng chiều, lợi nhuận càng nhiều thì rủi ro càng lớn (more profit, more risks). Hiện nay, hoạt động KDNT ngày càng có vai trò quan trọng, đem lại lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng, tuy nhiên ngân hàng cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như: 1.1.3.1. Rủi ro tỷ giá Rủi ro tỷ giá là rủi ro xảy ra do sự biến động của tỷ giá dẫn đến thua lỗ trong giao dịch. Bất kỳ mọi hoạt động KDNT nào tạo ra một trạng thái ngoại tệ mở đều có khả năng chịu rủi ro khi tỷ giá thay đổi. Rủi ro tỷ giá là một trong những rủi ro chính trong hoạt động KDNT của NHTM. Tùy thuộc vào quy mô hoạt động và quan điểm của ban lãnh đạo của ngân hàng, mỗi ngân hàng có mức độ rủi ro ngoại hối khác nhau. Một số ngân hàng thực hiện KDNT để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Điều này có nghĩa là khi khách hàng có nhu cầu mua, bán ngoại tệ ngân hàng mới thực hiện giao dịch đối ứng để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng. Trong trường hợp này rủi ro ngoại hối của ngân hàng ít. Ngược lại những ngân hàng lớn hoạt động đa dạng, năng động trên thị trường quốc tế không chỉ KDNT để đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn tự doanh cho bản thân ngân hàng để thu lợi nhuận (được gọi là hoạt động tự doanh hay đầu cơ). Trong trường hợp này rủi ro tỷ giá của ngân hàng là rất lớn. Các ngân hàng có hoạt động tự doanh như vậy đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý rủi ro rõ ràng đầy đủ phù hợp với mức độ rủi ro của ngân hàng. 1.1.3.2. Rủi ro hoạt động Rủi ro xuất phát từ trong hoạt động KDNT của ngân hàng là các khả năng mất mát trong hoạt động KDNT do các yếu tố phi tài chính gây ra. Rủi ro hoạt động bao gồm: Rủi ro do con người: là rủi ro xuất phát một cách chủ quan từ các nhân viên tham gia vào quá trình thực hiện các giao dịch KDNT. Nguyên nhân có thể do: trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, chưa có chính sách đãi ngộ hợp lý…. Rủi ro vận hành: là rủi ro xảy ra do sự sai sót của hệ thống thông tin phục vụ hoạt động KDNT của ngân hàng. Rủi ro tổ chức: là những rủi ro do hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý đem lại. Rủi ro này thường có nguồn gốc từ sự phân công trách nhiệm chưa rõ ràng giữa các bộ phận tham gia hoạt động KDNT: giao dịch, thanh toán, kiểm soát… dẫn đến rủi ro như : Hạn mức kinh doanh giữa ngân hàng và khách hàng có thể bị vượt Những hợp đồng KDNT có thể không được thực hiện đúng hạn Dòng tiền vào ra không được theo dõi kiểm soát Trạng thái ngoại tệ có thể vượt mức an toàn cho phép Không đánh giá đúng mức độ rủi ro… 1.1.3.3. Rủi ro đối tác Rủi ro đối tác là rủi ro xảy ra khi một ngân hàng đối tác hay khách hàng không có khả năng hay không muốn thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng giao dịch mua bán ngoại tệ vào thời điểm phát sinh các nghĩa vụ đã cam kết đó. Trong trường hợp này rủi ro thực sự cho ngân hàng là chi phí để huỷ bỏ hợp đồng với đối tác theo giá tại thời điểm hiện tại. Để hạn chế rủi ro này, cần phải có những báo cáo đánh giá độ tin cậy của các đối tác, tình hình hoạt động cũng như uy tín của họ để từ đó xây dựng các hạn mức cho từng khách hàng, ứng với từng loại hình giao dịch. Trường hợp khách hàng không đủ uy tín và năng lực tài chính để thực hiện hợp đồng giao dịch thì phải có các biện pháp dự phòng nhằm hạn chế rủi ro như: Yêu cầu khách hàng đặt cọc, ký quỹ; sử dụng điều khoản dự trữ thông thường mà theo đó các đối tác duy trì tài khoản tiền gửi tại hệ thống tài khoản của nhau… 1.1.3.4. Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản trong hoạt động KDNT là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thể thực hiện được việc mua bán ngoại tệ của mình do thị trường có tính thanh khoản kém, có nghĩa là khi ngân hàng có nhu cầu mua thì không mua được và ngược lại hoặc là các thành viên trên thị trường cùng có nhu cầu mua hoặc bán. Ngân hàng thường dùng các hạn mức quản lý trạng thái để hạn chế rủi ro này. 1.1.3.5. Rủi ro chính trị Rủi ro chính trị là rủi ro xảy ra khi đối tác giao dịch ở nước ngoài không thể hoặc có thể không thực hiện được các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng giao dịch mua bán ngoại tệ vào thời điểm phát sinh các nghĩa vụ cam kết mà nguyên nhân có thể do chiến tranh, bạo loạn… Nhìn chung trong hoạt động KDNT ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, tuy nhiên rủi ro quan trọng nhất đem lại tổn thất lớn cho ngân hàng đó là rủi ro tỷ giá. Lịch sử hoạt động ngân hàng đã chứng kiến những tổn thất lớn hoặc thậm chí dẫn đến sụp đổ ngân hàng vì rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của bộ phận Treasury, ngân hàng Barrings là một ví dụ. Việc ngân hàng không có phương pháp quản lý rủi ro phù hợp với hoạt động KDNT đang được mở rộng sẽ dẫn đến rủi ro tiềm ẩn về tỷ giá rất lớn. “Tiềm ẩn’’ là đặc điểm cần lưu ý trong rủi ro về tỷ giá. Điều này có nghĩa là với trình độ và phương pháp quản lý rủi ro không phù hợp với hoạt động KDNT ngân hàng vẫn có thể hoạt động bình thường và thậm chí có lãi trong điều kiện thị trường bình thường, thuận lợi. Chỉ đến khi tỷ giá biến động bất lợi, thị trường có nhiều biến động, lúc đó mức độ rủi to tìêm ẩn mới được hiện thực hoá bằng những khoản lỗ thực sự ngoài dự kiến. Vì vậy việc quản lý rủi ro tỷ giá là hết sức quan trọng nhằm mục đích: Chuẩn bị cho những thay đổi bất lợi về tỷ giá trong lĩnh vực KDNT. Bảo vệ ngân hàng khỏi những mất mát, thiệt hại ngoài dự tính trong hoạt động KDNT của ngân hàng khi tỷ giá biến động bất lợi. Đảm bảo lợi nhuận cao cho ngân hàng với mức độ rủi ro là thấp nhất. Giảm bớt sự nhạy cảm đối với những thay đổi có hại của môi trường đến tỷ giá. Tăng cường lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. 1.2. Rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ 1.2.1.Trạng thái ngoại hối và mối liên quan với rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro tỷ giá đối với các ngân hàng tham gia kinh doanh trên thị trường ngoại hối. Trạng thái ngoại hối có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nói chung và rủi ro tỷ giá nói riêng. Thực tế đã chỉ ra rằng, trong KDNT, nếu lỏng lẻo trong công tác quản lý trạng thái ngoại hối thì sớm hay muộn tai hoạ cũng sẽ xảy ra và hậu hoạ của nó là khó lường. Chính vì vậy, đối với các nhà KDNT trên thế giới, yếu tố trạng thái ngoại tệ được xem là yếu tố thường trực trong kinh doanh. 1.2.1.1. Trạng thái ngoại hối Đối với NHTM, trạng thái ngoại hối của mỗi ngoại tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ (bao gồm cả nội bảng và ngoại bảng) của ngoại tệ đó tại một thời điểm nhất định. Vì là trạng thái tại một thời điểm nên trạng thái ngoại hối của một ngoại tệ phản ánh số dư của ngoại tệ đó tại một thời điểm nhất định. Ngày nay, vai trò tiền tệ và vai trò ngoại hối của vàng cũng như ý nghĩa của nó so với ngoại tệ ngày càng giảm sút và trở nên thứ yếu, do đó trong thực tế người ta coi trạng thái ngoại hối chính là trạng thái của các ngoại tệ. Vấn đề đặt ra là, trong thực tế hoạt động kinh doanh của NHTM, có rất nhiều giao dịch liên quan đến ngoại tệ, vậy căn cứ vào tiêu chí nào để biết được một giao dịch có làm phát sinh trạng thái ngoại tệ hay không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta chia các giao dịch liên quan đến ngoại tệ làm hai nhóm là: (1) nhóm giao dịch làm phát sinh sự chuyển giao quyền sử dụng về ngoại tệ và (2)nhóm giao dịch làm phát sinh sự chuyển dịch quyền sở hữu về ngoại tệ; trong đó, chỉ các giao dịch làm phát sinh sự chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ mới làm phát sinh trạng thái ngoại tệ. Từ tiêu chí quyết định nêu trên, ta có thể liệt kê các giao dịch làm phát sinh trạng thái ngoại tệ bao gồm: Mua, bán ngoại tệ (giao ngay và kỳ hạn) Thu, chi lãi suất bằng ngoại tệ. Các khoản chi, thu phí bằng ngoại tệ Các khoản cho, tặng, biếu, viện trợ bằng ngoại tệ Ngoại tệ giả và các giấy tờ có giá giả ghi bằng ngoại tệ Các khoản ngoại tệ bị mất, rách nát, hư hỏng không còn giá trị… Trạng thái ngoại tệ ròng đối với một loại ngoại tệ xác định là số chênh lệch giữa tất cả các dòng tiền vào và tổng dòng tiền ra đối với ngoại tệ đó cho tất cả các ngày đến hạn. Trạng thái ngoại tệ ròng bao gồm: + Trạng thái dương (Net long position): xảy ra khi dòng tiền vào lớn hơn dòng tiền ra đối với một ngoại tệ xác định, có nghĩa là những giao dịch làm tăng quyền sở hữu về ngoại tệ đều làm phát sinh trạng thái trường của ngoại tệ đó + Trạng thái âm (Net short position): Xảy ra khi dòng tiền ra lớn hơn dòng tiền vào đối với một ngoại tệ xác định, có nghĩa là những giao dịch làm giảm quyền sở hữu về ngoại tệ đều làm phát sinh trạng thái đoản của ngoại tệ đó. +Trạng thái cân bằng (square position): Xảy ra khi ròng tiền vào bằng dòng tiền ra, tức là không có trạng thái ròng. 1.2.1.2. Mối liên hệ giữa trạng thái ngoại tệ và rủi ro tỷ gi Khi có trạng thái ngoại tệ ròng khác 0, thì NHTM phải đối mặt với rủi ro tỷ giá, cụ thể: Đối với trạng thái dương (trường), thì khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra lãi ngoại hối và khi tỷ giá giảm sẽ phát sinh lỗ ngoại hối đối với NHTM. Đối với trạng thái âm (đoản), thì khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra lỗ ngoại hối và khi tỷ giá giảm sẽ phát sinh lãi ngoại hối đối với NHTM. Đối với trạng thái cân bằng, thì những thay đổi của tỷ giá đều không ảnh hưởng đến lãi hay lỗ ngoại hối của NHTM. Ví dụ về ý nghĩa của trạng thái ngoại tệ và rủi ro tỷ giá NEPF(t-1) LFCF(t) SFCF(t) NEPF(t) Rủi ro tỷ giá -10 +50 -30 +10 Trạng thái ngoại tệ dương lãi khi tỷ giá tăng lỗ khi tỷ giá giảm +10 +10 -40 -20 Trạng thái ngoại tệ âm lãi khi tỷ giá giảm lỗ khi tỷ giá tăng +5 +15 -20 0 Ttrạng thái ngoại tệ cân bằng không phát sinh lãi và lỗ khi tỷ giá thay đổi Vì trong số các giao dịch làm chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ, thì hoạt động mua bán ngoại tệ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối là chủ yếu, do đó, đôi khi người ta coi trạng thái ngoại tệ là trạng thái mua bán ngoại tệ của ngân hàng. Trạng thái ngoại tệ phát sinh ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng có sự chuyển giao quyền sở hữu, chứ không phải tại thời điểm xảy ra thanh toán. Ví dụ, nếu một hợp đồng mua bán giao ngay được ký kết ngày hôm nay với số lượng 100 000 USD tại tỷ giá VND/USD = 15 000, thì ngay lập tức sau khi ký hợp đồng người mua USD ở trạng thái trường và người bán USD ở trạng thái đoản, cho dù việc thanh toán xảy ra vào ngày làm việc thứ hai sau ngày ký kết hợp đồng. Tương tự, các giao dịch mua bán ngoại tệ kỳ hạn cũng tạo ra trạng thái ngoại tệ ngay lập tức sau khi ký kết hợp đồng chứ không phải tại thời điểm thanh toán. Trong thực tế ngoài việc quy định trạng thái ngoại tệ đối với từng ngoại tệ, người ta còn quy định tổng trạng thái ngoại tệ của tất cả các ngoại tệ (quy nội tệ )theo công thức: NEP(t) = S[EF* NEPF(t)] Trong đó: NEP(t) - Tổng trạng thái ngoại tệ của tất cả các ngoại tệ quy nội tệ. EF - Tỷ giá của ngoại tệ F tính bằng nội tệ NEPF(t)- Trạng thái ngoại tệ f tại thời điểm t F = 1, 2, 3…. n. Thông thường, trạng thái của mỗi ngoại tệ hay tổng trạng thái ngoại tệ được quy định bằng tỷ lệ % nhất định (quy đổi) so với vốn tự có của NHTM. Ngoài ra, một phương pháp khác cũng hay dùng đó là quy định trạng thái ngoại tệ theo số lượng tyệt đối đối với từng loại ngoại tệ. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết quy định trạng thái ngoại tệ bằng tỷ lệ % so với tổng tài sản có nói chung, tài sản có bằng ngoại tệ… 1.2.2. Nhận biết và đo lường rủi ro tỷ giá Rủi ro tỷ giá là một hình thức của rủi ro thị trường, vì vậy có thể xác định được tổn thất do thị trường mang lại. Rủi ro tỷ giá xuất hiện khi có sự dịch chuyển tỷ giá của các ngoại tệ mà NHTM nắm giữ dưới dạng tài sản có, tài sản nợ hoặc cả hai. Ngân hàng tham gia thị trường ngoại hối với hai mục đích chính là: dịch vụ khách hàng ( mua hộ và bán hộ ) và kinh doanh mua bán cho chính mình. Rủi ro tỷ giá chỉ phát sinh khi ngân hàng kinh doanh mua bán cho chính mình, tức là tạo trạng thái mở để đầu tư kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Trong hoạt động KDNT rủi ro tỷ giá mang lại tổn thất cho ngân hàng khi có một trạng thái ngoại tệ mở. Như vậy bất kỳ một hoạt động KDNT nào tạo ra một trạng thái ngoại tệ mở đều có khả năng chịu rủi ro khi tỷ giá thay đổi. Phương pháp đo lường rủi ro tỷ giá thông dụng là: Phương pháp định giá lại theo thị trường (Mark to market) và phương pháp giá trị chịu rủi ro ( Value at risk) Phương pháp định giá lại theo thị trường: Ví dụ: giả sử ngân hàng đang có một trạng thái ngoại tệ mở đối với EUR là + 10 triệu EUR ở mức tỷ giá EUR/USD = 1,2030 nếu hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2020 thì ngân hàng đang có khả năng lỗ là 10 triệu EUR x (1,2030 – 1,2020) =10.000 USD Phương pháp giá trị chịu rủi ro: Giá trị chịu rủi ro (value at risk) là tổn thất dự kiến của ngân hàng đối với những biến động về tỷ giá. Hạn mức giá trị chịu rủi ro là mức tổn thất dự kiến tối đa mà ngân hàng có thể chịu đựng được. Giá trị chịu rủi ro = Trạng thái ngoại hối x Độ biến động dự tính của tỷ giá x Tỷ giá đóng cửa Trong đó: Trạng thái ngoại hối được tính theo từng đồng tìên. Mức độ biến động tỷ giá dự tính được tính như sau: Mức độ biến động tỷ giá dự tính với mức độ tin cậy là 99% = xi = LN (tỷ giá hôm nay/tỷ giá hôm qua). Khi tính xi, cần lấy tỷ giá trong 90 ngày làm việc liên tiếp vì theo thống kê, 90 ngày là mẫu đủ lớn để ước tính sự biến động của tỷ giá. x = số trung bình của xi n = 90 (90 tỷ giá đóng cửa trong 90 ngày làm việc liên tục). 2,5 là số độ lệch chuẩn mà tại đó có 99% trường hợp tỷ giá sẽ biến động theo dự tính.(Nói cách khác 99% là mức độ tin cậy). Giá trị chịu rủi ro được lập nhằm cho phép một mức độ linh hoạt nhất định cho sự phản hồi lại những thay đổi về giá cả trên thị trường. Giá trị chịu rủi ro phản ánh được mức độ rủi ro về tỷ giá trên cơ sở xem xét hai yếu tố trạng thái ngoại hối và mức độ biến động tỷ giá dự kiến đối với từng đồng tiền. Ngoài ra, giá trị chịu rủi ro đo lường được mức độ rủi ro về tỷ giá, tức là mức độ tổn thất dự kiến đối với ngân hàng khi tỷ giá biến động. 1.2.3. Các nghiệp vụ quản lý rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh liên quan đến ngoại tệ thường gặp phải tình trạng có thể bị tổn thất vốn do biến động tỷ gía. Để hạn chế rủi ro tỷ giá, các Ngân hàng thường đưa ra các giải pháp nghiệp vụ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng bảo đảm. 1.2.3.1 Hợp đồng giao dịch kỳ hạn các loại ngoại tệ (forwards) Giao dịch kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán với nhau một khoản ngoại tệ nhất định tại một thời điểm xác định trong tương lai, với một tỷ giá đã được xác định ngay khi hợp đồng giao dịch được ký kết. Hợp đồng kỳ hạn các loại ngoại tệ được thực hiện một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng tại thời điểm nào đó đã xác định, mặt khác giúp khách hàng hạn chế được rủi ro khi dự báo được sự biến động tỷ giá bất lợi cho kinh doanh của mình. Giao dịch mua bán kỳ hạn các ngoại tệ được ký tại thời điểm hiện tại và được kết thúc vào kỳ hạn cụ thể xác định trong hợp đồng ( 15 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng… thậm chí có thể hơn 1 năm sau). Tỷ giá kỳ hạn được xác định bởi 2 yếu tố chủ yếu trên thị trường, đó là: Tỷ giá trao ngay; Lãi suất thị trường của 2 đồng tiền liên quan Xác định tỷ giá kỳ hạn theo công thức chuẩn: Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá trao ngay + Điểm kỳ hạn Điểm kỳ hạn = D(T2 – T1)N 36000 + T1N Trong đó: D - Tỷ giá trao ngay Dm/Db T1- Lãi suất đồng tiền yết giá T2- Lãi suất đồng tiền định giá 360- Năm thương mại thông thường N- Số ngày của kỳ hạn theo hợp đồng. 1.2.3.2. Giao dịch hợp đồng tương lai (future) Hợp đồng tương lai được sử dụng nhằm phòng ngừa rủi ro và đầu cơ. Đây là hợp đồng giao dịch được tiêu chuẩn hoá và được thực hiện trên sàn giao dịch của sở giao dịch tiền tệ tương lai. Các cá nhân, các công ty, các Ngân hàng gửi các lệnh đặt mua, các lệnh đặt bán một lượng cụ thể ngoại tệ cho các nhà môi giới hay các thành viên của sở giao dịch. Tại sở giao dịch các lệnh đặt mua còn gọi là trạng thái trường(long positions) được đối chiếu với các lệnh bán, hay còn gọi là trạng thái đoản(short positions). Một công ty thanh toán bù trừ của sở giao dịch đảm bảo cho cả hai bên mua và bán rằng các lệnh mua và bán sau khi đã được đối chiếu và khớp với nhau chắc chắn sẽ được thực hiện. Cung cầu về các hợp đồng tương lai được thể hiện thông qua việc các đối tác sẵn sàng mua, hay sẵn sàng bán các hợp đồng, điều này làm cho giá cả các hợp đồng biến động theo giá cả của các lệnh đặt mua, hay đặt bán. Mặt khác, giá cả biến động làm cho các hợp đồng mua bán khớp được với nhau. Trong những tính huống đặc biệt những lệnh đặt mua, đặt bán có khoảng cách xa nhau về giá cả, các giao dịch trên thị trường tạm thời không xảy ra. Trường hợp này gọi là “hố ngầm trên sở giao dịch’’. Sau khi đã mua bán thì các hợp đồng tương lai ít khi được duy trì cho đến ngày đáo hạn. Nhứng hợp đồng được duy trì cho đến ngày đáo hạn sẽ được thanh toán như các giao dịch kỳ hạn. Đối với các hợp đồng tương lai, khối lượng các loại ngoại tệ giao dịch được quy định cụ thể, ví dụ đối với GBP là 62.500; đối với CAD là 100.000; đối với DEM là 125.000… Điều bắt buộc trong giao dịch tương lai là cả người mua và người bán hợp đồng phải là thành viên của thị trường, phải ký quỹ và phải trả các phí giao dịch. Khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai có thể được chuyển nhượng tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Chúng ta xem xét chuyển nhượng hợp đồng tương lai qua ví dụ sau: Giả sử một khách hàng có nhu cầu ngoại tệ bằng GBP vào tháng 8, anh ta muốn sử dụng thị trường tương lai để có được GBP. Có hai cách lựa chọn: Mua hợp đồng tương lai có giá trị vào tháng 6, chờ đến khi hợp đồng đến hạn, nhận GBP sau đó đầu tư số GBP này 2 tháng trên thị trường tiền tệ. Vào tháng 8, khi khoản đầu tư đến hạn sẽ nhận cả lỗ và lãi bằng GBP. Mua hợp đồng tương lai có ngày giá trị vào tháng 9. Vào thời điểm tháng 8, khi có nhu cầu ngoại tệ GBP, thì bán lại hợp đồng tương lai cho sở giao dịch để nhận lại USD và dùng số USD này mua GBP trên thị trường trao ngay theo tỷ giá trao ngay tại thời điểm giao dịch. Theo cách giao dịch thứ hai thì người mua hợp đồng tương lai hầu như đã phòng ngừa được hầu hết rủi ro ngoại hối. Bởi vì, nếu tỷ giá giao ngay của GBP tại thời điểm chuyển nhượng hợp đồng cao hơn so với thời điểm mua hợp đồng tương lai, thì người mua hợp đồng tương lai đã nhận được khoản lãi từ tài khoản ký quỹ. Khoản lãi này bù đắp cho sự tăng tỷ giá trao ngay của GBP (tuy không phải hoàn toàn trùng khớp). Trong quá trình lựa chọn sử dụng nghiệp vụ phòng chống rủi ro tỷ gía, khách hàng là nhà xuất - nhập khẩu, người đi vay và cho vay thường ưu tiên sử dụng các hợp đồng kỳ hạn hơn là các hợp đồng tương lai. Ngược lại hợp đồng tương lai được các nhà đầu cơ lựa chọn nhằm bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, hợp đồng tương lai vẫn chưa được áp dụng tại Việt Nam. 1.2.3.3. Giao dịch hoán đổi (swaps) Giao dịch hoán đổi Swap bao gồm tiền tệ (hay Swap ngoại hối ) và Swap lãi suất. Hai nghiệp vụ này đều dựa trên nguyên tắc cơ bản như nhau, nhưng chúng có đặc thù kỹ thuật trên các thị trường riêng biệt. Swap là một trong những công cụ thông dụng có hiệu quả cho các nhà đầu tư, người đi vay ngoại tệ và các Ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái, hoặc để kinh doanh thu lợi nhuận. Ngân hàng Trung ương các nước sử dụng Swap như giải pháp hỗ trợ tỷ giá cho đồng nội tệ. Giao dịch Swap cũng góp phần tích cực làm cho các thị trường tài chính quốc tế liên kết với nhau. 1. Giao dịch Swap tiền tệ Giao dịch Swap tiền tệ là sự kết hợp của một giao dịch trao ngay(sport transaction) với một giao dịch kỳ hạn(forward transaction)- đổi một lượng cố định ngoại tệ này lấy một lượng biến đổi ngoại tệ khác trong thời gian xác định bằng cách cùng một lúc ký hai hợp đồng: một hợp đồng ký mua – bán trao ngay và một hợp đồng bán mua kỳ hạn tương ứng. Như vậy, Swap tiền tệ là một sự kết hợp đồng thời hai giao dịch trao ngay và kỳ hạn theo chiều ngược lại, được thực hiện với cùng một khoản đối ứng(cùng một đồng tiền). Do đó không làm ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của cả hai bên và có thể loại trừ rủi ro tỷ giá. Công thức tổng quát tính điểm Swap: R = D(T2 – T1)N 36000 + T1N Trong đó: D- Tỷ giá giao ngay T1- Lãi suất của đồng tiền yết giá T2- Lãi suất của đồng tiền định giá N- Số ngày của kỳ hạn hợp đồng hoán đổi R- gọi là điểm swap. Nếu T2>T1 sẽ có điểm gia tăng Nếu T2<T1 sẽ có điểm khấu trừ Từ đó suy ra điểm Swap bán là: Rb = D(T 2b – T1m)N 36000 + T1mN Từ đó suy ra điểm Swap mua là: Rm = D(T2m – T1b)N 36000 + T 1bN Ứng dụng Swap tiền tệ Cân đối nguồn vốn: Trong thực tê tổ chức kinh tế thường nảy sinh trường hợp ở cùng một thời điểm đang tạm thời dư thừa đồng tiền này, nhưng lại thiếu đồng tiền khác, thông qua giao dịch Swap sẽ cân đối nguồn vốn theo nhu cầu. Việc xác định tỷ giá trao ngay trong giao dịch Swap được các đối tác tham gia thoả thuận. Trong thực tế ngân hàng yết giá có thể áp dụng tỷ giá khác nhau trong hợp đồng. Tuy nhiên, để giảm chi phí và tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch các bên thường chọn tỷ giá trao ngay trong giao dịch Swap là tỷ giá trung bình giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Cân bằng trạng thái ngoại tệ: Một giao dịch Swap luôn kết hợp với các giao dịch kỳ hạn và giao dịch trao ngay. Khi thực hiện giao dịch Swap,trên thị trường nếu phát sinh nghiệp vụ mua ngoại tệ kỳ hạn thì bao giờ cũng kèm theo nghiệp vụ bán ngoại tệ trao ngay. Các nhà giao dịch đã xử lý làm cân đối bằng trạng thái ngoại hối trao ngay bằng cách tuần hoàn chúng hàng ngày, hàng tháng cho đến ngày giá trị của hợp đồng kỳ hạn. Thời gian tồn tại của một giao dịch kỳ hạn có thể được rút ngắn(tiến hành sớm hơn trước kỳ hạn) hoặc kéo dài thời hạn(gia hạn hợp đồng) bằng công cụ Swap. Điều này có nghĩa là ngày giá trị ban đầu của hợp đồng kỳ hạn được thay thế bằng ngày giá trị sớm hơn hay muộn hơn. 2. Giao dịch Swap lãi suất Các thành viên tham gia thị trường sử dụng nghiệp vụ Swap lãi suất nhằm tìm kiếm những nguồn vốn với lãi suất cố định phí tổn thấp. Swap lãi suất là nghiệp vụ cũng dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản như Swap tiền tệ, tuy có phức tạp hơn. Cơ sở của giao dịch hoán hổi là sự cam kết của hai bên giao dịch vào một ngày nhất định đổi một lượng cố định ngoại tệ này để nhận một lượng biến đổi ngoại tệ khác với thời hạn xác định khi đến hạn. Phí tổn của giao dịch phụ thuộc vào chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền tính theo số ngày trên cơ sở tỷ giá trao ngay(đó chính là điểm Swap). Trên cơ sở điểm Swap được các ngân hàng thông báo, khách sẽ lựa chọn giữa đi vay ngoại tệ hay giao dịch Swap. 1.2.3.4. Hợp đồng giao dịch quyền lựa chọn (options) Hợp đồng giao dịch quyền ch.ọn tiền tệ là quyền (không phải là nghĩa vụ), mua hoặc bán một đồng tiền này với một đồng tiền khác tại tỷ giá cố định đã thoả thuận trước, trong một khoảng thời gian nhất định. Không giống như các giao dịch kỳ hạn và tương lai, giao dịch quyền chọn cho phép người mua hợp đồng có quyền( không phải là nghĩa vụ) mua, hoặc bán tiền tệ tại một mức tỷ giá đã thoả thuận trước gọi là tỷ giá quyền chọn. Hợp đồng quyền chọn cho phép người mua quyền được lựa chọn: Tiến hành giao dịch thanh toán theo tỷ giá đã thoả thuận cố định từ trước, nếu thấy có lợi cho mình. Để cho hợp đồng tự hết hạn mà không tiến hành bất cứ một giao dịch nào, nếu thấy như vậy thì ít tốn kém nhất. Ngược lại, đối với người bán hợp đồng quyền chọn không có bất cứ sự lựa chọn nào khác, ngoài việc sẵn sàng giao dịch khi người mua muốn. Khi giao dịch quyền chọn mua đồng tiết yết giá bao hàm ý là tương đương với quyền chọn bán đồng tiền định giá. Khi giao dịch quyền chọn bán đồng tiền yết giá bao hàm ý là tương đương với quyền chọn mua đồng tiền định giá. Trong mỗi hợp đồng quyền chọn tiền tệ có hai đối tác tham gia đó là: Người bán hợp đồng và người mua hợp đồng(cần phân biệt với người mua bán tiền tệ). Người bán hợp đồng là bán quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua, ngược lại người mua hợp đồng là mua quyền chọn mua, hoặc mua quyền chọn bán. Một hợp đồng quyền chọn mua(có thể là mua quyền chọn mua, hoặc mua quyền chọn bán): Người mua hợp đồng sau khi đã trả phí mua quyền chọn, luôn quan tâm đến quyền tiến hành giao dịch, nếu thấy có lợi; hoặc quyền không tiến hành giao dịch, nếu thấy bất lợi. Một hợp đồng quyền chọn bán (có thể là bán quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua): Người bán hợp đồng sau khi đã thu phí bán quyền chọn, có nghĩa vụ luôn sẵn sàng giao dịch tại mức giá đã thoả thuận, nếu người mua thực hiện quyền chọn của mình. Thời điểm các bên đối tác ký kết hợp đồng gọi là thời điểm ký kết hợp đồng, thời điểm thanh toán hợp đồng gọi là thời điểm giao dịch. Trong giao dịch quyền chọn tiền tệ, tỷ giá áp dụng trong giao dịch gọi là tỷ giá quyền chọn. Tỷ giá này ngoài yếu tố cung cầu, còn phụ thuộc vào mức phí quyền chọn cao hay thấp. Nếu bỏ qua phí quyền chọn._., khi người nắm giữ hợp đồng quyền chọn tiến hành giao dịch mà không phát sinh bất cứ khoản lãi hay lỗ kinh doanh ngoại hối nào gọi là ngang giá quyền chọn – At the money(ATM) Nếu tỷ giá quyền chọn đúng bằng tỷ giá giao ngay hiện hành gọi là ngang giá quyền chọn giao ngay – at the money spot(ATM- F) Nếu bỏ qua phí quyền chọn khi mua người nắm giữ hợp đồng quyền chọn tiến hành giao dịch mà có lãi gọi là được giá quyền chọn – in the money(I TM) Nếu tỷ giá quyền chọn mua thấp hơn, hay tỷ giá quyền chọn bán cao hơn so với tỷ giá giao ngay hiện hành, gọi là được giá quyền chọn giao ngay – in the money spot (ITM - S) Nếu tỷ giá quyền chọn mua thấp hơn, hay tỷ giá quyền chọn bán cao hơn so vơi tỷ giá kỳ hạn, được gọi là được giá quyền chọn kỳ hạn – in the money fordward(ITM – F) Khi nắm giữ hợp đồng quyền chọn tiến hành giao dịch mà chịu lỗ, thì gọi là giảm giá quyền chọn – out of the money(OTM) Nếu tỷ giá quyền chọn mua cao hơn hay tỷ giá quyền chọn bán thấp hơn so với tỷ giá giao ngay hiện hành gọi là giảm giá quyền chọn giao ngay – out of the money spot (OTM – S) Nếu tỷ giá quyền chọn mua cao hơn hay tỷ giá quyền chọn bán thấp hơn so với tỷ giá kỳ hạn gọi là giảm giá quyền chọn kỳ hạn – out of the money forward (OTM – F) 1.3. Điều kiện để ngân hàng thương mại có thể hạn chế rủi ro tỷ giá Trong thực tế không phải bất kỳ NHTM của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể thực hiện các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Để áp dụng được các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trên, ngân hàng cũng phải phát triển tới một mức độ nhất định và nền kinh tế cũng vậy. Cụ thể, để có thể hạn chế được rủi ro tỷ giá ngân hàng cần có các điều kiện cơ bản sau: 1.3.1. Các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật Việc áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ là không hề đơn giản, ngân hàng cần phải có một hệ thống trang thiết bị kỹ thuật với công nghệ tiên tiến. Những thiết bị công nghệ dùng trong kinh doanh ngoại tệ thuộc loại chuyên dụng và đắt đỏ. Đối với những ngân hàng hoạt động kinh doanh ngoại hối tích cực, đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp có thể lên tới hàng trăm người, mỗi người cần phải được trang bị đầy đủ các trang thiết bị và công nghệ hiện đại, chi phí lên tới nhiều triệu đôla. Và nhìn chung, những trang thiết bị này thường không sử dụng được lâu dài, bởi vì công nghệ tiên tiến phát triển rất nhanh, nên dễ bị khấu hao vô hình và trở nên lạc hậu trong một vài năm. Như vậy, không phải ngân hàng nào cũng có khả năng mua sắm đầy đủ các trang thiết bị công nghệ đó. Chỉ có những ngân hàng phát triển ở một trình độ nhất định, đủ lớn mạnh về tài chính mới có khả năng mua sắm trang bị đầy đủ hiện đại để phục vụ cho việc quản lý rủi ro. Những ngân hàng lớn thường chấp nhận chi phí cao để có được các thiết bị và công nghệ hiện đại nhất, giúp cho việc chuyển và xử lý số liệu được nhanh, hiệu quả, tăng khả năng phân tích, lưu giữ số liệu tin cậy và có hệ thống…Như vậy, tuy chi phí cho công nghệ có cao nhưng bù lại hoạt động kinh của ngân hàng trở nên cạnh tranh hơn, việc hạn chế rủi ro tỷ giá đạt hiệu quả hơn và hứa hẹn nguồn thu nhập lớn. Tuy nhiên, việc mua sắm các máy móc, trang thiết bị và công nghệ cũng cần phải chú ý xem có phù hợp với mô hình tổ chức của ngân hàng không? Có phù hợp với chế độ kế toán sổ sách mà ngân hàng đang áp dụng hay không? Trình độ của ngân hàng có đủ khả năng để áp dụng vận hành hệ thống máy móc, thiết bị và công nghệ này hay không?... 1.3.2. Các điều kiện về nguồn nhân lực Trong quản lý rủi ro tỷ giá, con người là chủ thể quản lý còn các giao dịch liên quan đến ngoại tệ là đối tượng quản lý, cho nên năng lực và trình độ của nhà quản lý là nhân tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý rủi ro nói chung, cũng như rủi ro tỷ giá nói riêng. Việc hạn chế rủi ro tỷ giá là không hề đơn giản, đòi hỏi nhà quản lý phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, có một trình độ nhất định. Năng lực của nhà quản lý không những thể hiện ở kiến thực chuyên sâu về quản lý rủi ro tỷ giá, mà còn biểu hiện ở kinh nghiệm, sự phán đoán nhạy bén và bản lĩnh của nhà quản lý trong quá trình triển khai thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ nói chung cũng như các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Nhà quản lý cần phải thường xuyên theo dõi, phân tích sự vận động của tỷ giá, am hiểu và thành thạo các nghiệp vụ, có bản lĩnh vững vàng sẵn sàng đối phó với những tình huồng bất ngờ ngoài dự đoán. Đặc biệt, cần phải có khả năng tiếp thu nhanh với trình độ công nghệ hiện đại, bởi vì dù có trang bị đầy đủ và hiện đại đến đâu mà con người không theo kịp, không ứng dụng được thì những máy móc thiết bị đó là vô giá trị và việc hạn chế rủi ro là vô cùng khó khăn. Đồng thời, phải thường xuyên cập nhật các chính sách liên quan đến cơ chế quản lý và giao dịch ngoại hối để có những điều chỉnh phù hợp với thị trường. 1.3.3. Các điều kiện về thị trường Ngân hàng chỉ có thể áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá khi thị trường ngoại hối đã phát triển tới một mức độ nhất định. Nếu thị trường ngoại hối phát triển với đầy đủ các thiết chế, các công cụ để điều hành các hoạt động giao dịch ngoại hối, có khả năng đáp ứng được tất cả các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ phái sinh thì việc quản lý rủi ro tỷ giá của ngân hàng sẽ đạt hiệu quả tốt hơn. Khi đó ngân hàng sẽ có được nhưng thông tin đầy đủ hơn giúp cho việc dự báo biến động tỷ giá chính xác hơn, và dễ dàng hơn trong việc đánh giá thị trường. Ngược lại, thị trường ngoại hối chưa phát triển hoặc phát triển chưa đầy đủ thì việc thực hiện các nghiệp vụ KDNT, phòng ngừa rủi ro là rất hạn chế, và như vậy việc quản lý rủi ro tỷ giá của ngân hàng sẽ rất khó khăn. 1.3.4. Các điều kiện về cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý cũng là một điều kiện quyết định đến hiệu quả quản lý rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNT của ngân hàng. Với các văn bản pháp lý như luật, pháp lệnh, quyết định… Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cũng như các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, nhưng không phải bao giờ những chính sách này cũng phù hợp với quy luật của thị trường. Chính sách không phù hợp sẽ hạn chế hiệu quả quản lý rủi ro tỷ giá. Chẳng hạn, NHNN quy định tỷ giá giao dịch kỳ hạn bằng tỷ giá giao ngay cộng với một tỷ lệ % của tỷ giá giao ngay mà không tính đến lãi suất của hai đồng tiền trao đổi nên tỷ giá tăng mạnh không ngân hàng nào dám mạo hiểm cung cấp hợp đồng Forwards hay Options. Nhìn chung để tạo điều kiện cho các ngân hàng có thê áp dụng các nghiệp vụ KDNT và phòng ngừa rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả thì cần có một hành lang pháp lý phù hợp với trình độ phát triển của thị trường và mức độ phát triển của từng ngân hàng . CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LỶ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Hoà chung cùng xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng tốt cho nhu cầu vốn đối với toàn bộ nền kinh tế. Vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, Nhà nước chủ trương thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần cùng với các ngân hàng quốc doanh, sẽ là đòn bẩy tích cực góp phần vào công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với vai trò tập trung và phân phối vốn . Ngày 04/11/1994 ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội được thành lập và đi vào hoạt động theo quyết định 00374/GP-UB ngày 30 tháng 12 năm 1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và theo giấy phép số 0054/NH-GP do ngân hàng Nhà nước cấp. Với chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Định hướng phục vụ các doanh nghiệp quân đội sản xuất quốc phòng và làm kinh tế, với số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng do các cổ đông chủ yếu là các doanh nghiệp Quân đội và một số thể nhân đóng góp. Mục tiêu của ngân hàng Quân Đội là đạt được tốc độ phát triển ổn định, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của từng năm do Đại hội cổ đông thông qua, phấn đấu đạt là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần tốt nhất. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, ngân hàng Quân Đội đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và được ngân hàng Nhà nước Việt nam đánh giá là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam. ngân hàng Quân Đội phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân. Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của ngân hàng, những năm qua, ngân hàng Quân Đội luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển. Sự tăng trưởng về vốn và qui mô hoạt động của ngân hàng luôn ổn định và liên tục trong 12 năm hoạt động. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng liên tục tăng từ 20 tỷ đồng vào năm 1994 lên đến 560 tỷ đồng vào cuối năm 2005 và tính đến cuối năm 2006 đã đạt 1000 tỷ đồng. Tổng tài sản của Ngân hàng tăng tương ứng từ 32 tỷ đồng đến 19/12/2006 là 14.496 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế bình quân tăng 24 %/năm từ 4,8 tỷ đồng năm 1995 lên 148,7 tỷ đồng năm 2005 và lợi nhuận năm 2006 là 241,4 tỷ đồng ( tăng 27% so với kế hoạch năm 2006 ) và có mức tăng trưởng chung là hơn 60%. Tổng lợi nhuận luỹ kế tính đến 30/06/2006 là 786,75 tỷ điều này góp phần đưa ngân hàng Quân Đội trở thành một trong những ngân hàng có mức lợi nhuận trước thuế cao nhất trong hệ thống các ngân hàng TMCP trên địa bàn Hà Nội. Chính vì vậy tỷ lệ chia cổ tức hàng năm đạt 15-20%. Bên cạnh đó để khẳng định năng lực tài chính và đảm bảo vốn cho các kế hoạch trong năm 2007, ngày 29/12/2006 vừa qua ngân hàng Quân Đội đã chính thức tăng vốn điều lệ lên 1.045,2 tỷ đồng và trở thành một trong số ít các ngân hàng thương mại cổ phần có mức vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng tính đến thời điểm này. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, ngân hàng Quân Đội liên tục mở rộng mạng lưới hoạt động. Đến ngày 30/6/2006 ngân hàng Quân Đội đã có 33 chi nhánh và phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng và một số tỉnh thành phố khác. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh trong cả nước, ngân hàng cũng rất chú trọng đến việc mở rộng quan hệ hợp tác và mạng lưới giao dịch với các ngân hàng trên thế giới. Cho đến nay mạng lưới các ngân hàng đại lý của ngân hàng Quân Đội đã mở rộng tới hơn 350 ngân hàng trên 56 quốc gia, đảm bảo thanh toán và giao dịch với tất cả các châu lục. 2.1.2. Tổ chức bộ máy của ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội 2.1.2.1. Bộ máy tổ chức và hoạt động Phòng KHTH Và pháp chế Khối quản lý tín dụng Khối khách hàng cá nhân Khối Treasury Khối mạng lưới bán hàng Phòng đầu tư Công ty AMC Công ty chứng khoán Thăng long Phòng tài chính kế toán Phòng nhân sự hành chính Phòng công nghệ thông tin Sở giao dịch và Chi nhánh Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ Các uỷ ban cao cấp Đại hội cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Khối khách hàng DN 2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ từng bộ phận Phòng Công nghệ thông tin: Quản lý hệ thống công nghệ thông tin phục vụ hoạt động. Phòng hành chính: Tiếp nhận, xử lý, bảo quản, chuyển giao văn bản; đầu mối đăng ký và phân phối văn phòng phẩm; cung cấp các phương tiện, điều kiện vật chất cho hoạt động của ngân hàng, quản lý theo dõi, sữa chữa các phương tiện; văn thư lưu trữ quản lý con dấu; lễ tân, hậu cần, tổ xe, in ấn pho to tài liệu. Phòng kế hoạch tổng hợp và pháp chế: Phân tích đánh giá hoạt động của nền kinh tế, thị trường, đối thủ cạnh tranh, đề xuất các giải pháp, hướng dẫn đơn vị lập kế hoạch và báo cáo, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, xây dựng kế hoạch cho toàn hệ thống… Phòng kế toán: Thanh toán bù trừ, quản lý tài khoản của khách hàng. Phòng Marketing: Thực hiện quảng bá hình ảnh, sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, quản lý vấn đề quan hệ công chúng, xây dựng triển khai các chương trình chăm sóc khách hàng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, quản lý phát triển thương hiệu ngân hàng Quân Đội . Khối Treasury: Quản lý tài sản nợ có, quản lý nguồn vốn và kinh doanh ngoại tệ. Khối quản lý tín dụng: Tái thẩm định các hồ sơ vượt mức phán quyết, quản lý đăng lý giao dịch đảm bảo, soạn thảo các quy trình quy chế tín dụng… Phòng thanh toán quốc tế: Bảo lãnh chiết khấu chứng từ xuất khẩu, mở L/C. Phòng tín dụng doanh nghiệp: Cho vay doanh nghiệp. Phòng tín dụng cá nhân: Cho vay cá nhân Phòng tổ chức nhân sự: Soạn thảo hợp đồng lao động, quyết định bổ nhiệm, điều chuyển, đào tạo; quản lý hồ sơ và thông tin nhân viên… Trung tâm thẻ: Phát hành thẻ ATM. Phòng nghiên cứu phát triển và xây dựng chính sách: Nghiên cứu, đề xuất những định hướng, giải pháp, chính sách hoạt động của ngân hàng. 2.1.3. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng Tình hình kinh tế xã hội thế giới và trong nước năm 2006 có nhiều biến động nên đã tác động không nhỏ tới tình hình kinh tế xã hội Việt nam : FED tăng lãi suất, giá dầu thô tăng mạnh nhiều lần trong năm, giá vàng tăng giảm thất thường, điện, than đều tăng giá…đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh vực. Tuy vậy nền kinh tế Việt nam vẫn tăng trưởng mạnh (Tổng sản phẩm quốc nội đạt tốc độ 8,2%/năm, trong đó GDP của thủ đô Hà Nội đạt 12%/năm), cơ cấu đầu tư đang được điều chỉnh cho phù hợp với hội nhập kinh tế thế giới nên nhu cầu về vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng cao ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đối với hệ thống các NHTMCP trong nước, năm 2006 đã chứng kiến sự phát triển cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Cùng với chính sách quản lý điều hành kịp thời và hợp lý của ngân hàng Nhà nước, các NHTMCP đã có nhiều hoạt động tích cực để nâng cao hiệu quả hoạt động như tăng vốn điều lệ , mở rộng mạng lưới, ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động, tăng cường hợp tác với các đối tác chiến lược…Chính vì vậy, kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng năm 2006 đều khả quan, cổ phiếu của hầu hết các NHTMCP đều hấp dẫn nhà đầu tư với gía giao dịch trên thị trường OTC cao hơn rất nhiều so với mệnh giá ban đầu. Nhiều ngân hàng có quy mô tăng trưởng tài sản tới 50%-79% so với năm 2005. Với sự phát triển thuận lợi của nền kinh tế, cùng với những nỗ lực không ngừng của mình, bám sát chiến lược đổi mới đã được hội đồng quản trị thông qua cho giai đoạn phát triển 2004-2008, ngân hàng Quân Đội cũng đạt được thành công trên tất cả các lĩnh vực hoạt động trong năm 2006. Đây là năm ngân hàng Quân Đội hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch đề ra với mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Tổng tài sản của ngân hàng đạt khoảng 14.496 tỷ, lợi nhuận đạt 241,4 tỷ đồng. Với mức lợi nhuận này ngân hàng Quân Đội đã trở thành một trong những ngân hàng có mức lợi nhuận bình quân đầu người cao nhất trong khối các ngân hàng cổ phần. Kết quả hoạt động kinh doanh cụ thể như sau: 2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Bảng 2.1: CƠ CẤU HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHQĐ Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số dư Cơ cấu(%) Số dư Cơ cấu(%) Số dư Cơ cấu(%) Tổng nguồn vốn 4933 100 7046,68 100 11719 100 Nguồn nội tệ 3601,1 73% 5637,34 80% 9607,5 82% Nguồn ngoại tệ 1331,9 37% 1409,34 20% 2111,9 18% (Nguồn: báo cáo thường niên NHTMCP Quân Đội) Huy động vốn của ngân hàng Quân Đội liên tục tăng mạnh từ năm 2004-2006 được ngân hàng Nhà nước đánh giá cao trên thị trường liên Ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng năm 2005 đạt 7046,68 tăng 42,8% so với năm 2004 (4933 tỷ đồng), đạt 117,4% kế hoạch, tính đến ngày 19/12/2006 tổng nguồn vốn huy động là 11719,415 tỷ đồng, tăng 66,31% so với năm 2005. Việc không ngừng gia tăng khối lượng vốn huy động đã góp phần gia tăng tổng nguồn vốn của ngân hàng từ đó nâng cao vị thế và sức mạnh của ngân hàng trên thị trường tài chính. Cơ cấu huy động vốn của ngân hàng đang tiếp tục tăng trưởng theo chiều hướng tốt. Trong đó, tỷ lệ vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng ngày càng giảm, vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế ngày càng tăng.Đây là một kết quả có được từ những thành công của hai chương trình “ tiết kiệm dự thưởng” và “ tiết kiệm có thưởng” và rất nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng Quân Đội. Trong các năm 2005,2006 ngân hàng Quân Đội còn tham gia khá tích cực trên thị trường liên ngân hàng với mục đích kinh doanh để thu lợi nhuận và nâng cao được tính thanh khoản. Những kết quả đạt được của ngân hàng Quân Đội trên thị trường liên ngân hàng đã được ngân hàng Nhà nước đánh gía cao. 2.1.3.2. Hoạt động cho vay Bảng 2.2: DOANH SỐ CHO VAY CỦA NHQĐ Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Số tiền % tăng/giảm Số tiền % tăng/giảm Cho vay các TCKT và cá nhân 1.675 1.945 + 16,12% 2056 + 5,7% Cho vay các TCTD 2.246,3 2.525 + 12,4% 4.032 + 59,68% Tổng dư nợ 3.921,3 4.470 + 13,97% 6.088 + 27,63% (Nguồn: báo cáo thường niên NHTMCP Quân Đội) Biểu đồ 2.1: TỔNG DƯ NỢ Đơn vị: tỷ đồng Tổng dư nợ cho vay năm 2005 là 4470 tỷ đồng, tăng 13,97% so với cuối năm 2004. Đến cuối năm 2006 tổng dư nợ là 6088 tỷ đồng, tăng 27,63% so với năm 2005. Sự tăng trưởng này phù hợp với mục tiêu tập trung nâng cao chất lượng tín dụng kết hợp với tái cơ cấu các khoản nợ. ngân hàng Quân Đội đã làm đầu mối thành công cho nhiều dự án đồng tài trợ với các Nngân hàng khác, đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Và tăng nhanh tỷ trọng tín dụng bán lẻ. Cũng như tất cả các ngân hàng thương mại nước ta, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng Quân Đội , doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động này luôn chiếm tỷ lệ cao trên 80%. Từ chỗ chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp Quân đội với tổng dư nợ là 15 tỷ đồng (ngày 31/12/1994), đến nay, ngân hàng đã mở rộng cho vay mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là cho vay doanh ngiệp vừa và nhỏ, cho vay tư nhân. Đến ngày 19/12/2006 tổng dư nợ của ngân hàng là 6088 tỷ đồng tăng 406 lần so với năm 1994. Cơ cấu loại hình cho vay của ngân hàng cũng ngày càng đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống ngân hàng Quân Đội đã triển khai thành công một loạt các sản phẩm mới như: cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay mua Ô tô trả góp, cho vay du học, đi lao động nước ngoài, cho vay cổ phần hoá…Việc đa dạng đối tượng khách hàng và loại hình cho vay đã góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng và giảm thiểu rủi ro. Quan điểm về phát triển tín dụng của ngân hàng Quân đội là: “Mở rộng tín dụng trên cơ sở kiểm soát được rủi ro tín dụng”, vì vậy chất lượng hoạt động tín dụng luôn được chú trọng. Ngân hàng đã xây dựng hệ thống các quy trình, chính sách tín dụng cũng như các mẫu hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống. Việc phân loại, lựa chọn khách hàng được tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường, phân tích nghành nghề kinh doanh và định hướng của ngân hàng. Quy trình thẩm định được tiến hành chặt chẽ trước trong và sau khi cho vay. Từng bước hoàn thiện hệ thống kiểm soát rủi ro các công cụ quản lý, chấp hành nghiêm chỉnh các quy đinh hiện hành về phân loại nợ, trích lập dự phòng… Nhờ vậy ngân hàng đã hạn chế được rất nhiều khoản nợ quá hạn mới phát sinh, thu hồi được phần lớn số nợ đọng các năm trước và tỷ lệ trích lập dự phòng đạt trên 60% các khoản nợ quá hạn. Chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt, tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng qua các năm đều dưới 3%. ngân hàng Quân Đội đã triển khai thực hiện nghiêm chỉnh QĐ 493 về phân loại và trích lập dự phòng rủi ro của ngân hàng Nhà nước, tích cực thu hồi nợ đọng và kết quả đạt được rất khả quan. 2.1.3.3. Hoạt động phi tín dụng Hoạt động phi tín dụng trong năm 2006 có nhiều chuyển biến. Doanh thu từ hoạt động phi tín dụng liên tục tăng qua các năm. Kết quả của hoạt động phi tín dụng chủ yếu tập trung ở những mặt sau: 1. Hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng trong năm 2006 vẫn tiếp tục tăng trưởng và đạt được tốc độ cao, đóng góp nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Tổng số dư bảo lãnh đến ngày 31/12/2005 đạt 1330 tỷ đồng, tăng 13,4% so với năm 2004 (784,93 tỷ đồng). Đến năm 2006 số dư bảo lãnh lên tới khoảng 1529,5 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2005. Doanh số bảo lãnh tăng mạnh nhưng chất lượng bảo lãnh vẫn được đảm bảo. Kể từ khi cung cấp dịch vụ ngân hàng Quân Đội vẫn chưa phải thực hiện một nghĩa vụ bảo lãnh nào. Tổng phí bảo lãnh thu được đều tăng qua các năm, góp phần đưa ngân hàng Quân Đội trở thành ngân hàng có phí bảo lãnh thu được cao nhất trong hệ thống các NHTMCP. 2. Hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ Trong năm, với việc đưa khối quản lý vốn và kinh doanh ngoại tệ (Treasury) vào hoạt động, việc quản lý vốn và kinh doanh tiền tệ của ngân hàng Quân Đội đã có được những kết quả rất đáng ghi nhận. Nhìn chung, khối Treasury đã đảm trách khá tốt việc điều hoà vốn giữa các chi nhánh, quản lý chặt chẽ dự trữ bắt buộc, cơ cấu lại khoản Nostro và KDNT phục vụ khách hàng và để kiếm lời. Đồng thời ngân hàng Quân Đội đã tham gia tích cực vào hoạt động cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, tham gia thị trường mở, được ngân hàng Nhà nước đánh giá cao. Trong năm 2006 hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ đã mang lại cho ngân hàng Quân Đội lợi nhuận bằng 120% kế hoạch đề ra cho cả năm và tăng 11,1% so với năm 2005. Quan hệ giao dịch interbank của ngân hàng Quân Đội trong năm qua đã được triển khai tích cực thông qua việc ngân hàng Quân Đội mở rộng và tăng cường mối quan hệ với tất cả các định chế tài chính hoạt động hiệu quả tại Việt Nam và ngân hàng Quân Đội đã được các đối tác cấp tăng hạn mức giao dịch interbank tăng từ 2-5 lần so với năm 2005 Với những kết quả hoạt động về quản lý vốn và KDNT, ngân hàng Quân Đội đã được vinh dự là một trong số ít các ngân hàng thương mại Việt Nam được ngân hàng Nhà nước Trung ương - Vụ quản lý ngoại hối cho phép thử nghiệm cung cấp sản phẩm “Quyền lựa chọn bằng Đồng Việt Nam” với các khách hàng. 3. Hoạt động thanh toán quốc tế Tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu cả năm của ngân hàng Quân Đội đạt khoản gần 900 triệu USD. Tuy các L/C không có giá trị lớn như năm trước nhưng số lượng khách hàng và giao dịch lại tăng nhanh, vì vậy doanh thu tăng 65% so với cùng kỳ năm trước.Tất cả các giao dịch, thanh toán đều được thực hiện đúng hạn và tuân thủ đúng tập quán quốc tế. Hoạt động quan hệ quốc tế cũng có nhiều chuyển biến tích cực và ngày càng có uy tín. Hiện nay, ngân hàng Quân Đội đã thiết lập được quan hệ đại lý với 350 ngân hàng ở khắp các khu vực trên thế giới, để đảm bảo việc thanh toán nhanh chóng, an toàn, thuận lợi. Chính vì vậy lần thứ 3 liên tiếp ngân hàng Quân Đội được nhận giải thưởng “Dịch vụ thanh toán toàn cầu và Quản lý vốn “ do ngân hàng HSBC trao tặng, đồng thời được một số ngân hàng lớn nâng hạn mức tín dụng xác nhận L/C cao hơn nhiều lần so với năm 2005. 4. Hoạt động kinh doanh thẻ Năm 2004 là năm đầu tiên ngân hàng Quân Đội triển khai sản phẩm thẻ ATM Active Plus. Đây là kết quả của sự hợp tác giữa ngân hàng Quân Đội và ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cùng 11 ngân hàng thành viên khác. Sản phẩm thẻ ATM Active Plus của ngân hàng Quân Đội có những điểm vượt trội hơn các sản phẩm thẻ ATM khác, đó là khách hàng sử dụng sản phẩm thẻ sẽ được bảo hiểm cá nhân 24 giờ trong ngày tại công ty bảo hiểm Viễn Đông. Việc triển khai dịch vụ thẻ không chỉ tạo ra một sản phẩm, một kênh huy động vốn mới mà còn làm phong phú thêm hoạt động dịch vụ, góp phần quảng bá thêm hình ảnh ngân hàng Quân Đội tới mọi tầng lớp dân cư. Tính đến cuối năm 2005, sang năm 2006 hoạt động dịch vụ thẻ đang từng bước đi vào ổn định, doanh số thanh toán tăng đồng thời đã thu hút được một lượng tiền gửi đáng kể từ dân cư, đặc biệt thẻ Ngân hàng Quân Đội đã góp phần tăng thêm tiện ích thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng Quân Đội . Với mục tiêu đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm thẻ, ngân hàng Quân Đội đang tích cực hoàn thiện đề án, ổn định tổ chức, đầu tư thiết bị, công nghệ, bổ sung nhân lực, mở rộng quan hệ hợp tác để mở ra một thời kỳ phát triển đổi mới với hoạt động dịch vụ thẻ của ngân hàng Quân Đội bắt đầu từ cam kết giữa ngân hàng ngoại thương - Viettel – ngân hàng Quân Đội. 5. Hoạt động đầu tư Hoạt động góp vốn đầu tư mua cổ phần đảm bảo tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước, của ngân hàng và hầu hết các chương trình trong hạn mục đầu tư đã bắt đầu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng Quân Đội. Việc xây dựng cơ sở vật chất mở rộng kinh doanh đã được triển khai rất tích cực, đó là tập trung hoàn thiện toà nhà hội sở, nâng cấp chi nhánh Biên Phủ, đầu tư để khai trương các chi nhánh, phòng giao dịch mới, mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ cho mở rộng kinh doanh. Các dự án đầu tư tăng năng lực hoạt động kinh doanh ngân hàng Quân Đội đang được triển khai theo kế hoạch được phê duyệt. 2.1.3.4. Hoạt động của các công ty trực thuộc 1. Công ty chứng khoán Thăng Long Năm 2004 công ty chứng khoán Thăng Long bắt đầu đi vào hạch toán độc lập và đã có những tiến bộ hơn so với những năm trước Hoạt động của công ty chứng khoán Thăng Long từ năm 2004-2006 đã có nhiều cố gắng được ghi nhận, cụ thể là hoạt động môi giới, lưu ký, tự doanh. Tư vấn cổ phần hoá và đấu giá đều có mức tăng trưởng cao. Ngoài ra, công ty còn tích cực tham gia thị trường bảo lãnh phát hành trái phiếu, phát hành hơn 400 tỷ trái phiếu các loại. Lợi nhuận năm2004 là trên 3 tỷ đồng, đến năm 2005 đạt 7,617 tỷ đồng, vượt 52,5% kế hoạch đề ra. Đến năm 2006 lợi nhuận vào khoảng hơn 10 tỷ đồng tăng gần gấp đôi so với năm 2005. 2. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) Tuy còn nhiều khó khăn về mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và các hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh nhưng công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản đã thu nợ quá hạn đạt 124% kế hoạch, tập trung khai thác tốt các tài sản được bàn giao, quản lý triển khai tích cực một số dự án tăng nguồn lực kinh doanh cho ngân hàng. Các hoạt động liên quan đến dịch vụ du lịch hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Vì vậy đã góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính của hệ thống, đóng gớp tích cực vào thành công chung của ngân hàng. Với những kết quả đạt được trong nhiều năm hoạt động ngân hàng Quân Đội đã xây dựng được vị thế vứng chắc đối với các đối tác và khách hàng, mở ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ về dịch vụ của ngân hàng Quân Đội trong tương lai. 2.1.4. Giới thiệu khối quản lý vốn và kinh doanh ngoại tệ (Treasury) của ngân hàng Quân đội: Phòng nguồn vốn và KDNT của ngân hàng TMCP Quân đội được thành lập năm 1999 theo quyết định của Ban lãnh đạo ngân hàng. Sau 5 năm đi vào hoạt động, căn cứ vào đề án đổi mới hoạt động của ngân hàng, xét tình hình và nhu cầu thực tế ngày 24/12/2004 Ban lãnh đạo ngân hàng đã quyết định thành lập khối quản lý vốn và KDNT thuộc ngân hàng TMCP Quân đội theo quyết định số 1855/QĐ/NHQĐ-HS. Khối quản lý vốn và KDNT gọi tắt là Treasury 2.1.4.1. Cơ cấu tổ chức khối Treasury Khối Treasury gồm có: Trưởng khối, Bộ phận Treasury tại hội sở-Sở giao dịch, Bộ phận Treasury tại các chi nhánh cấp 1, và các cán bộ làm công tác nguồn vốn tại các chi nhánh cấp 2, Phòng giao dịch. Bộ phận Treasury tại Hội sở-Sở giao dịch gồm: Bộ phận giao dịch Treasury (gọi tắt là Treasury Front-Office) và Bộ phận hỗ trợ và giám sát rủi ro Treasury (gọi tắt là Treasury Back-Office) Khối Treasury chịu sự quản lý điều hành trực tiếp của Tổng giám đốc Ngân hàng. Trưởng khối Treasury là người chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ hoạt động của khối Treasury, đảm bảo tuân thủ các chức năng nhiệm vụ của khối. Khối Treasury tại Hội sở, Bộ phận Treasury tại các chi nhánh cấp 1, cán bộ làm công tác nguồn vốn tại các chi nhánh cấp 2, Phòng giao dịch chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của Trưởng khối Treasury; đồng thời chịu sự quản lý về mặt hành chính của Giám đốc Sở giao dịch/Chi nhánh, Trưởng phòng giao dịch. Chức năng, nhiệm vụ của khối Treasury Khối Treasury có những chức năng nhịêm vụ cơ bản sau: Thực hiện quản lý tập trung vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá và rủi ro thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng TMCP Quân đội. Thực hiện các chiến lược, chương trình quản lý tài sản Nợ - Tài sản có do Uỷ Ban ALCO đưa ra. Quản lý các mối quan hệ vay – cho vay vốn với các Ngân hàng và tổ chức khác để đảm bảo khả năng thanh khoản cho Ngân hàng. Giám sát trạng thái vốn của Ngân hàng. Đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của các đơn vị kinh doanh thông qua việc giảm thiểu các nguồn vốn không sinh lời của ngân hàng. Thực hiện cơ chế mua bán vốn nội bộ với các đơn vị kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội. Quản lý các tài khoản Nostro của Ngân hàng TMCP Quân đội. Bán các sản phẩm Treasury cho các khối khách hàng của ngân hàng Quân đội bao gồm: khối khách hàng doanh nghiệp và các định chế tài chính. Kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng đối với những sản phẩm Treasury được cho phép, với mục đích tối đa hoá lợi nhuận trong hạn mức rủi ro cho phép. Củng cố uy tín của ngân hàng TMCP Quân đội trên thị trường liên Ngân hàng. 2.1.4.3.Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ Spot: Thanh toán trong vòng 2 ngày kể từ ngày giao dịch Forward: Việt Nam quy định kỳ hạn tối đa 365 ngày Option: Option giữa các loại ngoại tệ là đương nhiên và giữa năm 2005 ngân hàng Quân đội đã được NHNN cho phép làm Option giữa VND và các loại ngoại tệ. FX sales: Đây là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cần được đẩy mạnh vì hiện nay hoạt động trading có nhiều rủi ro. Các loại ngoại tệ giao dịch: VND, USD, EUR, JPY, CHF, AUD, CAD và GBP. Thực trạng quản lý rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Quân đội 2.2.1. Cơ sở pháp lý về hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở Việt Nam * Môi trường pháp lý Giai đoạn từ năm 1994 đến nay: Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong hoạt động ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, tăng cường sự giám sát và quản lý ngoại hối của Nhà nước, ngày 17/8/1998, chính phủ đã ra nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối, thay thế nghị ._. ro tỷ giá mà còn thu được lợi nhuận cho ngân hàng thông qua sự biến động tương đối giữa các loại ngoại tệ với nhau. Trong cơ cấu tài sản có tài sản nợ của ngân hàng, đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu. Dựa vào đặc điểm này ngân hàng có thể giảm bớt rủi ro của các ngoại tệ khác khi ngoại tệ này có sự biến động tương đối so với USD thông qua các nghiệp vụ Acbitrage, phòng ngừa rủi ro, đầu cơ. Nghiệp vụ ac-bit (acbitrage) có thể được hiểu là sự mua, bán hoặc cho vay, đi vay đồng thời cả hai loại tài sản với mục đích kiếm lợi nhuận từ sự chênh lệch giá. Như vậy, ngân hàng có thể giảm bớt rủi ro tỷ giá và kiếm lợi nhuận từ việc mua vào, bán ra những loại ngoại tệ có mối quan hệ chặt chẽ thông qua điều chỉnh tài sản có, tài sản nợ từ trạng thái ngoại tệ của ngoại tệ đó. Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro (hedging) được hiểu là quá trình làm giảm biến động giá trị tài sản của một loại ngoại tệ trước sự biến động tỷ giá của nó. Do vậy nghiệp vụ này được thực hiện bằng cách mua thêm hay bán ra các tài sản hiện tại, tương lai với mục đích giảm sự biến động giá trị của tài sản ngoại tệ đó so với giá trị trước khi thực hiện các giao dịch NHTM ít chịu rủi ro tỷ giá từ hai hoạt động này vì đây là trạng thái ngoại tệ đóng – nghĩa là tại thời điểm nhất định thì giá trị của tài sản bằng ngoại tệ sẽ ít chịu sự tác động biến đổi tỷ giá của nó. Nghiệp vụ đầu cơ có thể hiểu là ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận trong tương lai thông qua dự đoán sự dịch chuyển tỷ giá hối đoái của các ngoại tệ. Đối với hoạt động này, ngân hàng sẽ được hay mất bởi sự biến đổi của tỷ giá vì hoạt động này lấy ra trạng thái ngoại tệ mở - nghĩa là giá trị của ngoại tệ sẽ thay đổi theo sự biến đổi của tỷ giá. 3.2.2.5. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh ngoại tệ Việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh cũng góp phần làm giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Nhìn chung, rủi ro tỷ giá của một danh mục ngoại tệ (bao gồm một số loại ngoại tệ) là nhỏ hơn tổng các rủi ro của từng loại ngoại tệ riêng lẻ. Bởi vì sự thay đổi tỷ giá giữa các đồng tiền này với nhau có mối tương quan nghịch, do đó lợi nhuận thu được từ việc duy trì trạng thái ngoại hối mở đối với đồng tiền này có thể bù đắp cho sự thua lỗ do việc duy trì trạng thái ngoại hối mở đối với một đồng tiền khác. Do đó ngân hàng có thể thu được lợi nhuận, giảm được rủi ro tỷ giá từ việc đa dạng hoá danh mục ngoại tệ bằng cách duy trì các trạng thái ngoại hối trường ròng và trường đoản đối với các loại ngoại tệ khác nhau. Ví dụ: có thể duy trì trạng thái trường ròng đối với USD và đoản ròng đối vơi JPY...Ưu điểm của chiến lược đa dạng hoá trạng thái ngoại hối này dựa trên sự biến động ngược chiều nhau của chính các tỷ giá, hay là dựa trên các hệ số tương qua nghịch giữa các tỷ giá của các ngoại tệ. 3.3. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước 3.3.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại liên ngân hàng Nhân tố tỷ giá đóng vai trò quyết định trong việc phát triển thị trường ngoại hối hoạt động hiểu quả. Tỷ giá là giá cả ngoại tệ được hình thành theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá được hình thành theo hai cấp, đó là tỷ giá bán buôn và tỷ giá bán lẻ.Tỷ giá bán buôn được hình thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, còn tỷ giá bán lẻ được hình thành trên cơ sở tỷ giá bán buôn cộng với phí bán lẻ của Ngân hàng. Đối với các nền kinh tế phát triển, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng hoạt động hiệu quả, doanh số giao dịch trên thị trường này chiếm tới 85%, do đó tỷ giá liên Ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Đối với Việt nam, do trình độ thị trường còn sơ khai, ngoài yếu tố tỷ giá còn bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ vào khoảng 15-20%; chính vì vậy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở Việt nam, ngoài yếu tố tỷ giá còn phải đề cập đến một số các nhân tố khác như: Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối; hiện tại do tỷ giá chưa thực sự làm được chức năng điều tiết cung cầu thì vai trò hướng dẫn điều tiết của NHTW cần được thể hiện thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối. Ngoài ra, NHNN cần tham gia và thực hiện các nghiệp vụ KDNT kỳ hạn, hoán đổi đúng như quy định trong quy chế nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối. Việc can thiệp của NHNN cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của NHNN ảnh hưởng lên thị trường ngoại hối lớn hơn nhiều so với quy mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của NHNN cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả. Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các Ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. Hiện nay, có 60 tổ chức được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế, điều này khiến cho thị trường hoạt động chầm lắng. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn. Ngoài những vấn đề cơ bản nêu trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hoá khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ ... cũng cần được xem xét thực hiện. Nghiên cứu hình thành Hiệp hội những nhà kinh doanh ngoại hối Việt nam. 3.3.2. Nâng cao vai trò của ngân hàng nhà nước trên thị trường ngoại hối Việt nam NHNN tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với tư cách vừa là thành viên vừa là người tổ chức, quản lý điều hành hoạt động của thị trường này. Do thị trường ngoại hối Việt nam còn sơ khai, có độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt và chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết cung cầu ngoại tệ, cho nên sự can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối đóng vai trò quan trọng việc điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn giúp cho thị trường ngoại hối hoạt động thông suốt hơn. Ngoài chức năng tổ chức và quản lý hoạt động thị trường, NHNN còn thực hiện chức năng người mua người bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế do dự trữ ngoại tệ của NHNN mỏng, không ổn định, lại qua nhiều tâng nấc quản lý, do đó, NHNN chưa thể làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xảy ra. Một thực tế là, các NHTM cổ phần thường trông chờ vào các NHTM Nhà nước, đến lượt mình các NHTM Nhà nước lại trông chờ vào NHNN tung ngoại tệ ra để can thiệp thị trường. Nhưng không phải mọi sự trông chờ đều trở thành hiện thực! Bên cạnh cơ chế tỷ giá cứng nhắc cùng với sự can thiệp của NHNN trên thị trường còn hạn chế, cho nên chưa khuyến khích được các NHTM đẩy nhanh tốc độ luân chuyển ngoại tệ, tạo tâm lý nắm giữ ngoại tệ đối với các NHTM cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Để NHNN thực hiện tốt vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cần có một số giải pháp sau: Hướng tới một tỷ giá thị trường cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ chủ yếu và hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo mức dự trữ cần thiết tối thiểu, nhằm tạo đủ nguồn để NHNN can thiệp kịp thời, đủ liều lượng thông qua các biện pháp thị trường, giúp cho hoạt động của thị trường ngoại hối được ổn định và thông suốt. Tập trung ngoại hối nhà nước về một đầu mối là NHNN. Hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự phối hợp nhịp nhàng với hoạt động của NHNN trên thị trường mở nhằm triệt tiêu hiệu ứng phụ nảy sinh. Cơ chế phối hợp giữa hai thị trường có thể mô tả như sau: Khi NHNN can thiệp trên thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ, nghĩa là đồng thời NHNN đã hút bớt một lượng nội tệ từ lưu thông; để tránh hiện tượng thiểu phát buộc NHNN phải sử dụng thêm một nghiệp vụ trên thị trường mở là mua chứng khoán vào để bơm thêm tiền vào lưu thông. Ngược lại, khi NHNN mua ngoại tệ, nghĩa là đồng thời NHNN đã bơm thêm nội tệ vào lưu thông. Để tránh hiện tượng lạm phát NHNN buộc phải sử dụng thêm một nghiệp vụ trên thị trường mở đó là bán chứng khoán ra để hút bớt tiền từ lưu thông. Tuy nhiên, do thị trường tiền tệ Việt nam còn kém phát triển đặc biệt là sự nghèo nàn về công cụ, do đó hoạt động của thị trường mở còn trầm lắng. Chính vì vậy, để can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối đạt hiệu quả thì cần có hệ thống giải pháp hoàn thiện thị trường tiền tệ, để NHNN có thể can thiệp khi cần bơm thêm hoặc hút bớt tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực lên lạm phát khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng. 3.3.3. Hoàn thiện chính sách quản lý trạng thái ngoại tệ Việc hoàn thiện chính sách quản lý trạng thái ngoại tệ nhằm mục đích giảm rủi ro tỷ giá cho các NHTM khi các Ngân hàng này có trạng thái ngoại tệ quá cao so với quy định. Thông qua việc quản lý trạng thái ngoại tệ NHNN cũng có thể quản lý được hoạt động KDNT của từng NHTM, kiểm soát các hoạt động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, góp phần làm lành mạnh thị trường ngoại hối, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch quốc tế. Hiện nay, việc quy định trạng thái ngoại tệ của NHNN nặng về tư tưởng phòng chống găm giữ, đầu cơ ngoại tệ là chính, mà chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu khách quan của NHTM cũng như doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tê nói chung. Vì vậy, NHNN cần xem xét thay đổi cách quy định trạng thái ngoại tệ theo hướng nới rộng giới hạn trạng thái ngoại tệ cho phù hợp với nhu cầu thực tế hoạt động của các NHTM, tạo điều kiện để thị trường ngoại hối hoạt động thông suốt và hiệu quả, nhằm bôi trơn và thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế phát triển. Do cung cầu về ngoại tệ thường diễn ra lệch pha nên việc nới rộng giới hạn trạng thái ngoại tệ còn có tác dụng như chiếc van hiều hoà cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Từ đó hạn chế được những áp lực đột biến lên tỷ giá. Cụ thể, khi cầu ngoại tệ lên cao thì NHTM có thể bán ra ngoại tệ được nhiều hơn, làm dịu nhu cầu ngoại tệ ngay lập tức, từ đó làm giảm áp lực tăng tỷ giá. Ngược lại, khi cung ngoại tệ lên cao, do NHTM đã có thể mua vào được nhiều hơn, nên có tác dụng làm giảm cung ngoại tệ, từ đó giảm áp lực tăng giá nội tệ. Trước mắt NHNN có thể xem xét quy định trạng thái ngoại tệ theo một trong các cách sau: Thứ nhất, tại Việt nam hầu hết các giao dịch thanh toán quốc tế đều bằng USD, vì vậy việc quy định trạng thái ngoại tệ đối với USD chỉ bằng 15% vốn tự có là bất cập so với thực tế bởi vì vốn tự có của các NHTM Việt nam còn rất nhỏ bé, do đó NHNN nên xem xét để tăng tỷ lệ này lên khoảng 25-30% . Thứ hai, NHNN đã quy định tổng trạng thái ngoại tệ, nghĩa là đã quản lý được trạng thái của tất cả các loại ngoại tệ bao gồm cả USD. Vì vậy, để tạo sự linh hoạt và chủ động hơn cho các NHTM trong hoạt động KDNT thì NHNN nên xem xét quy định trạng thái ngoại tệ tối đa ở mức cao hơn 30% như hiện nay và không quy định trạng thái ngoại tệ riêng biệt cho USD. Thứ ba, có thể căn cứ vào đặc điểm kinh doanh, quy mô hoạt động của từng NHTM để quy định trạng thái ngoại tệ cho phù hợp trong từng thời kỳ. Thứ tư, nghiên cứu việc quy định trạng thái ngoại tệ theo tỷ lệ % trên tài sản có ngoại tệ chung cho tất cả các TCTD. Tuy vậy đây cũng chỉ là biện pháp tình thế trong lúc vốn tự có của các NHTM còn nhỏ bé và hoạt động mang tính đặc thù. Về lâu dài phải từng bước tăng dần vốn tự có của các NHTM, trên cơ sở đó trạng thái ngoại tệ phải được quy định bằng tỷ lệ % trên vốn tự có của từng NHTM theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. 3.3.4. Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối bao gồm: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Về cơ sở pháp lý, ở Việt nam các NHTM được phép tiến hành 3 loại nghiệp vụ là giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi. Nhưng trên thực tế hoạt động của thị trường ngoại hối Việt nam mới chỉ tập trung vào loại nghiệp vụ giao ngay, còn các nghiệp vụ khác hoặc chưa có hoặc có thì cũng chỉ là tượng trưng. Việc mở rộng các nghiệp vụ KDNT sẽ tạo ra nhiều công cụ quản lý rủi ro hiệu quả hơn, làm cho thị trường ngoại hối hoạt động theo đúng nghĩa của nó. Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi Để thị trường ngoại hối nói chung và các nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi nói riêng có thể phát triển xa hơn thì cơ chế xác định tỷ giá và lãi suất đóng vai trò quyết định. Có thể thấy rằng mục đích chính sử dụng hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá. Bởi vì trong cơ chế thị trường tỷ giá là đại lượng nhạy cảm với nhiều biến số, do đó biến động khôn lường. Nói cách khác, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Rõ ràng là với chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi. Điều này cho thấy định hướng trong chính sách tỷ giá của NHNN cần phải tăng dần hàm lượng các biến số thị trường trong việc xác định tỷ giá. Có như vậy tỷ giá mới phản ánh đúng thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Để thúc đẩy nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi trước mắt nên cho phép các Ngân hàng thực hiện các hợp đồng với kỳ hạn linh hoạt mà không khống chế như quy định trong Quyết định số 1198/2001/QĐ-NHNN, ngày 18/9/2001 của thống đốc NHNN. Bên cạnh đó từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các Ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh làm cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Tuy nhiên về lâu dài thì biện pháp quy định tỷ lệ % gia tăng cho phép cũng cần được dỡ bỏ 2. Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ Để phù hợp với trình độ thị trường và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN có thể cho phép và hướng dẫn các NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Vì nghiệp vụ quyền chọn rất phức tạp về nội dung nghiệp vụ, vì vậy cần triển khai từng bước từ đơn giản đến phức tạp, cụ thể như sau: Trước tiên chỉ thực hiện nghiệp vụ quyền chọn giữa đồng Việt nam và USD. Sau khi thị trường đã quen thì có thể mở rộng nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và các ngoại tệ khác. Khi thị trường ngoại tệ Việt nam phát triển tới một trình độ nào đó thì mới tiền hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ/ngoại tệ. Bước đầu, nghiệp vụ quyền chọn chỉ nên tiến hành theo phương thức giao dịch qua quầy(OTC) vì phương thức giao dịch trên sở giao dịch chỉ khả thi khi thị trường phát triển ở một trình độ cao, hơn nữa nghiệp vụ quyền chọn thực hiện trên cơ sở giao dịch mang tính đầu cơ là chủ yếu. Chỉ nên áp dụng quyền chọn kiểu Châu Âu, nghĩa là việc thực hiện nghiệp vụ quyền chọn chỉ xảy ra tại thời điểm hợp đồng đáo hạn. Vì hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cho phép tíên hành thực hiện quyền chọn tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, do đó mang nặng tính đầu cơ nên chưa phù hợp với giai đoạn đầu mới phát triển. Tuy nhiên khi thị trường đã phát triển ở trình độ cao thì cũng nên triển khai nghiệp vụ này. Về thời hạn hợp đồng, để có thể kiểm soát được và tránh tâm lý đầu cơ, thì thời hạn hợp đồng nên quy định ngằn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã phát triển thì thời hạn hợp đồng do Ngân hàng và khách hàng tự thoả thuận. Ở các thị trường phát triển, hợp đồng quyền chọn nhằm hai mục đích đó là phòng ngừa rủi ro tỷ gía và thực hiện hành vi đầu cơ. Đối với Việt nam do tính thanh khoản của thị trường ngoại hối thấp nên việc mua bán ngay một lượng ngoại tệ nhất định không phải lúc nào cũng thực hiện được. Do đó ngoài mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá thì thông qua hợp đồng quyền chọn phảo đảm bảo cho khách hàng quyền được mua ngoại tệ. 3. Về nghiệp vụ tương lai Về ý nghĩa giao dịch tương lai thực chất chỉ là một trò chơi cá cược, kích thích sự đầu cơ. Do đó tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế, cho nên chưa mở rộng nghiệp vụ này ở Việt nam. 4. Về giao dịch kỳ hạn - kỳ hạn (Forwards – Forward Swaps) Vì nghiệp vụ này rất phức tạp hơn nữa nhu cầu thị trường về nghiệp vụ này hầu như chưa phát sinh, do đó cũng như giao dịch tương lai chúng ta chưa nên giới thiệu nghiệp vụ này vào trong cuộc sống. 3.3.5. Chuyển biện pháp kết hối sang công cụ tỷ giá thị trường Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt nam đều găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, làm cho cung cầu ngoại tệ bị sai lệch, cầu USD tăng lên một giả tạo. Trong khi nhiều doanh nghiệp có một lượng ngoại tệ lớn chưa dùng tới nhưng không muốn bán thì một số doanh nghiệp khác lại rất cần ngoại tệ nhưng không thể mua được. Để hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, khắc phục sự căng thẳng giả tạo trong quan hệ cung cầu ngoại tệ, ngày 12/9/1998, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức với tỷ lệ kết hối bắt buộc là 80%. Kết hối ngoại tệ là biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ phải bán ngay một phần cho các NHTM. Trong những thời điểm cụ thể, biện pháp này đã có tác dụng nhất định trong việc hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp hành chính, là giải pháp tình thế tạm thời để giảm bớt căng thẳng khi cung cầu ngoại tệ quá cao nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối. Việc áp dụng biện pháp này là đi ngược với xu thế giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp, tăng cường các biện pháp kinh tế trong điều hành quản lý thị trường ngoại hối. Với tinh thần đó cùng với việc giảm bớt một phận bất hợp lý cho doanh nghiệp về rủi ro tỷ giá khi buộc phải bán ngoại tệ với giá thấp và sau đó mua lại phải chịu giá cao, Chính phủ đã đưa ra Quyết định 180/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 điều chỉnh tỷ lệ kết hối từ 80% xuống còn 50%, 40% và hiện nay là 0%. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa đảm bảo được tính tự chủ của doanh nghiệp vừa khuyến khích họ sẵn sàng bán ngoại tệ cho NHTM? Để thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, chính sách quản lý ngoại hối phải được đổi mới theo hướng tự do hoá, giảm sự can thiệp trực tiếp, tăng việc sử dụng các biện pháp kinh tế trong điều hành chính sách quản lý ngoại hối, đặc biệt sử dụng công cụ tỷ giá...Do vậy biện pháp kết hối cần được xoá bỏ chứ không chỉ giảm xuống 0%, thay vào đó là sử dụng công cụ tỷ giá để điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. 3.3.6. Hình thành các công ty môi giới ngoại hối Các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Do thị trường ngoại hối Việt nam đang trong quá trình phát triển, các phương tiện giao dịch chưa hiện đại, thì vai trò của công ty môi giới ngoại tệ càng trở nên quan trọng và thiết thực. Trong thời gian qua, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng Việt nam hoạt động đôi khi bị gián đoạn ngoài các nguyên nhân về cơ chế tỷ giá, vài trò can thiệp của NHNN, tình trạng găm giữ ngoại tệ... thì thiếu vắng các công ty môi giới cũng là một nguyên nhân. Với tư cách là trung gian cho các ngân hàng, các công ty môi giới tạo điều kiện để các NHTM có nhu cầu bán gặp gỡ các NHTM có nhu cầu mua và ngược lại. Về nguyên tắc, các công ty môi giới không được phép kinh doanh cho chính mình, mà chỉ môi giới cho Ngân hàng và thu phí dịch vụ môi giới từ cả hai bên đối tác. Vì vậy các công ty môi giới sẽ duy trì thông tin liên lạc thường xuyên với các phòng KDNT của các ngân hàng. Giao dịch qua công ty môi giới có ưu điểm hơn so vơi giao dịch trực tiếp ở chố: Nhu cầu mua bán được truyền đi rộng khắp với tốc độ xử lý nhanh chóng. Ngân hàng có nhu cầu mua ngoại tệ không phải xưng danh, do đó đảm bảo được bí mật kinh doanh. Giá của nhà môi giới đưa ra bao giờ cũng là giá cạnh tranh nhất của thị trường. Có thể áp dụng cho cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn. Chính vì vậy, cần có chính sách để khuyến khích các công ty môi giới ngoại tệ hoạt động. Trước mắt, hệ thống các công ty môi giới chưa kịp hình thành, NHNN có thể cho phép một số NHTM có hoạt động KDNT lớn, uy tín và có kinh nghiệm trong kinh doanh ngoại hối thành lập công ty con với chức năng môi giới ngoại tệ. 3.3.7. Tăng cường các giải pháp hạn chế ĐOLA hoá Theo định nghĩa của ông Tyler Maroney, một chuyên gia người Mỹ: “Đôla hoá là quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng tiền nội tệ mà thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác có tính ổn định hơn làm phương tiện thanh toán hợp pháp”. Tuy khái niệm này được gắn với đôla Mỹ, nhưng việc chuyển đổi ra bất kỳ ngoại tệ có tính ổn định nào khác như Euro, Yên Nhật...đều được gọi chung là đôla hoá. Hiện nay, tổ chức quốc tế đánh giá tình trạng đôla hoá ở Việt nam vào mức trung bình trong số các nước đang phát triển. Nếu so với lịch sử việc giảm đôla hoá ở Việt nam chuyển biến khá nhanh. Ngoại tệ được thu hút vào ngân hàng chính là một biểu hiện của việc giảm đôla hoá trong nền kinh tế. Năm 1995 chỉ có khoảng 1,5 tỷ USD tiền gửi từ khu vực dân cư và tổ chức kinh tế, hiện nay con số này khoảng 10 tỷ USD. Việc người dân giữ ngoại tệ trong túi ít hơn thể hiện lòng tin đối với ngân hàng. Tuy nhiên, tình trạng đôla hoá vẫn còn nặng nề không thể coi thường được. Hiện tượng đôla hoá có ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế của một đất nước. Việc người dân nắm giữ nhiều ngoại tệ làm cho đồng bản tệ mất giá, dẫn đến tỷ giá tăng gây ảnh hưởng tới nhiều mặt của nền kinh tế như: nhập khẩu, lạm phát...Và như vậy, chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của mình, thậm chí có khi còn lấn lướt. Có nghĩa là quốc giá đó không đủ hiệu lực trong thực thi chính sách tiền tệ. Vì thế, phải tìm cách kiểm soát và loại trừ dần. Tuy nhiên, phải có chính sách, biện pháp một cách khôn ngoan, không thể dùng sự nhiệt tình được. Trong thực tế, việc hạn chế đôla hoá bằng những biện pháp kiểm soát hành chính, cấm đoán chỗ này, chỗ kia không mang lại hiệu quả cao. Chống “đô la hóa” phải là những biện pháp mang tính kinh tế. Một là, tỷ giá hối đoái tương đối ổn định - người dân sẽ ít lo sự mất giá của đồng tiền mà giữ đồng tiền nào có giá hơn. Ngoài ra, lãi suất phải hợp lý để tránh sự chuyển dịch từ đồng tiền này sang tiền kia. Trong đề án "nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục hiện tượng đôla hoá nền kinh tế" có đưa ra một số biện pháp cụ thể như sau: Việc chi trả kiều hối sẽ được điều chỉnh để các cá nhân tại Việt Nam sẽ nhận kiều hối bằng VND. Tỷ lệ này dự kiến năm 2008 là 10% và năm 2010 là 30%. Việc gửi tiền tiết kiệm ngoại tệ cũng sẽ bắt buộc rút ra bằng VND, NHNN sẽ áp dụng tỷ lệ thí điểm từ năm 2008 đến 2010. Hỗ trợ giải pháp này, tỷ giá sẽ được điều hành thoáng hơn, các công cụ tài chính phái sinh sẽ được đẩy mạnh để hỗ trợ và hạn chế rủi ro về tỷ giá, tạo lòng tin của dân chúng vào VND. Bù lại, Chính phủ Việt Nam sẽ tăng dần dự trữ ngoại hối Nhà nước. Mục tiêu là đến năm 2010, dự trữ ngoại hối Nhà nước sẽ tăng lên đến mức 18-20 tuần nhập khẩu. NHNN sẽ phối hợp với các bộ liên quan xây dựng đề án về các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối trình Chính phủ trong năm 2006. Những khoản vay nước ngoài của Chính phủ, kể cả các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và các khoản thu từ phát hành trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ chỉ được giải ngân cho đơn vị thụ hưởng hay cơ quan thực hiện dự án bằng VND. Đồng thời, NHNN cũng yêu cầu Bộ Công an phải tăng cường công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm, đặc biệt là các vi phạm về công tác quản lý ngoại hối như niêm yết giá, định giá, thanh toán, kinh doanh trái phép bằng ngoại tệ; tăng cường công tác chống buôn lậu và công tác quản lý ngoại hối ở khu vực biên giới ngay từ bây giờ. Để thực hiện được các mục tiêu vĩ mô đó, điều kiện bắt buộc với Việt Nam là phải nâng cao tính chuyển đổi của VND trong nước. Việc này sẽ được thực hiện trên cơ sở xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đến năm 2010, dự trữ ngoại hối phải đạt từ 18 - 20 tuần nhập khẩu (so với mức 10-11 tuần hiện nay), đảm bảo đáp ứng tối đa các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp. Theo NHNN, nâng cao khả năng chuyển đổi của VND và khắc phục đôla hoá là 2 mặt của quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện hội nhập. Đây cũng là quá trình tiến tới mục tiêu chỉ sử dụng VND trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, đây thực sự là một quá trình rất khó khăn vì nó liên quan đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều chính sách vĩ mô do nhiều bộ, ngành khác nhau quản lý. Việt Nam có thể phải thử nghiệm nhiều về chính sách và đánh đổi một vài mục tiêu khác. Nhưng, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là yếu tố quyết định. 3.3.8. Hướng thị trường ngoại hối Việt nam hội nhập với thế giới Bên cạnh việc hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ KDNT, áp dụng các phương tiện giao dịch hiện đại... thì việc định hướng để đưa thị trường ngoại hối Việt nam hội nhập thị trường ngoại hối thế giới là một điều cần thiết. Khi nói đến thị trường ngoại hối, người ta nghĩ ngay đến tính quốc tế của nó. Thị trường ngoại hối hoạt động 24/24 giờ và không đóng khung trong một phạm vi quốc gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán chuyển đổi các loại ngoại tệ khác nhau. Hiện nay, thị trường ngoại hối Việt nam về cơ bản mới chỉ hoạt động đóng khung trong phạm vi quốc gia. Việc tham gia hoạt động trên thị trường ngoại hối quốc tế của các NHTM Việt nam còn rất hạn chế. Vì vậy để bôi trơn nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt nam đang bước vào giai đoạn mở cửa hội nhập, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Với vai trò là một hoạt động kinh doanh tiềm năng trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính, hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng được chú trọng phát triển, góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên thị trường càng phát triển tỷ giá càng biến động khó lường, đem lại không ít rủi ro tỷ giá trong hoạt động KDNT ngoại tệ của Ngân hàng. Vì vậy ngân hàng Quân đội cũng như các ngân hàng khác muốn phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại được hiệu quả cao, cần phải có một sự quản lý hết sức chặt chẽ đối với rủi ro tỷ giá, có chính sách hoàn thiện phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Quân đội, chuyên đề đã đề cập đến những nội dung cơ bản sau: Cơ sở lý luận về hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại Phân tích thực trạng kinh doanh ngoại tệ và quản lý rủi ro tỷ giá tại Ngân hàng Quân đội , đưa ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở phân tích thực trạng và các yêu cầu thực tế, đưa ra những giải pháp hạn chế rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đồng thời đề xuất một số kiến nghị với ngân hàng Nhà nước để hoàn thiện môi trường kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng Quân đội nói riêng và hệ thống các ngân hàng nói chung. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và hiểu biết về lĩnh vực nghiên cứu, chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu xót, nhiều đánh giá còn mang tính chủ quan. Vì vậy rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè và cán bộ trong ngân hàng. Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Đặng Ngọc Đức, cùng các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính, trường ĐH Kinh tế Quốc dân, ban lãnh đạo và các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh ngoại tệ ngân hàng Quân đội đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: CƠ CẤU HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHQĐ Bảng 2.2: DOANH SỐ CHO VAY CỦA NHQĐ Bảng 2.3: DOANH SỐ MUA NGOẠI TỆ Bảng 2.4: DOANH SỐ BÁN NGOẠI TỆ Bảng2.5: TRẠNG THÁI NGOẠI HỐI NHQĐ Biểu đồ 2.1: TỔNG DƯ NỢ CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần NHQĐ: Ngân hàng quân đội KDNT: Kinh doanh ngoại tệ NHNN: Ngân hàng Nhà nước Tài liệu tham khảo TS. Nguyễn Văn Tiến, “ Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối ”. Frederics.Mishkin, “ Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính”. TS. Phan Thu Hà, “ Giáo trình Ngân hàng thương mại”. Phạm Bảo Khánh (2006), “ Hạn mức giá trị chịu rủi ro trong quản lý rủi ro tỷ giá của các Ngân hàng thương mai”, Thị trường Tài chính tiền tệ số 8 (206), Tr 25-26. Nguyễn Văn Tiến, “ Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”. Ngân hàng TMCP Quân đội, Báo cáo thường niên 2004-2005-2006. Đào Tuấn, “ Thị trường ngoại hối khởi sắc”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 5(179), Tr 16. Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ. PeterS.Rose, “ Quản trị Ngân hàng thương mai”. TS. Nguyễn Văn Tiến, “ Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở”. ThS. Nguyễn Thị Nhung, (2006)“ Thách thức đối với công tác quản lý ngoại hối trước thềm hội nhập kinh tế, Tạp chí Ngân hàng Số 24, Tr 7. ThS. Nghiêm Xuân Thành, (2006), “ Giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kính tế quốc tế”. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, “ Quản trị rủi ro tài chính”. PGS.TS. Lê Văn Tề, “ Kinh doanh ngoại hối và xác định tỷ giá”. PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, “ Tài chính quốc tế”. Các trang web của Bộ tài chính, NHNN, NHQĐ… ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31941.doc